THỨ BẢY 28/6/2008
Khai Mạc Năm Thánh Phaolô
ĐTC Biển Đức XVI "Từ ban đầu, truyền thống Kitô Giáo đã coi Thánh Phêrô và Phaolô bất khả tách biệt, cho dù mỗi vị có một sứ vụ khác nhau cần phải hoàn thành. ” Bài Giảng cho Giờ Kinh Tối Thứ Năm 28/6/2007 tại Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành Lê Ngọc Hồ AVE MARIA Cảm Nhận Thánh Mẫu ĐTC GP II: Thông Điệp Giầu Lòng Xót Thương - Dives in Mesericordia Giáo Hội: Tuyên Xưng và Loan Truyền Tình Thương (13-15) Tháng Thánh Tâm Những Lời Thỏ Thẻ của Chúa Giêsu với một số linh hồn ưu tuyển " Mỗi lần con làm cho niềm tin tưởng và hiệp nhất hỗ tương giữa các con vững mạnh là con làm cho Nước Cha phát triển"Tháng Thánh Tâm
ĐTC Biển Đức XVI
"Từ ban đầu, truyền thống Kitô Giáo đã coi Thánh Phêrô và Phaolô bất khả tách biệt, cho dù mỗi vị có một sứ vụ khác nhau cần phải hoàn thành. ”
Bài Giảng cho Giờ Kinh Tối Thứ Năm 28/6/2007 tại Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành
Quí Hồng Y, Quí Huynh khả kính trong Hàng Giáo Phẩm và trong hàng Linh Mục, Anh Chị Em thân mến,
Ở Giờ Kinh Tối đầu cho Lễ Trọng Kính Thánh Phêrô và Phaolô này, chúng ta hãy tri ân tưởng nhớ tới hai vị Tông Đồ đã đổ máu mình ra, với máu của rất nhiều chứng nhân Phúc Âm khác, đã làm cho Giáo Hội Rôma sinh hoa kết trái.
(ĐTC ngỏ lời chào các thành phần đặc biệt ở 4 đoạn ngắn)
Đền thờ này, một đền thờ đã từng long trọng tổ chức những biến cố đại kết quan trọng, nhắc nhở chúng ta về việc quan trọng biết bao cùng nhau cầu nguyện để nài xin ơn hiệp nhất, một mối hiệp nhất đã được Thánh Phêrô và Phaolô hiến đời sống của mình cho đến độ hy sinh tận tuyệt bằng máu đào của mình.
Truyền thống rất xa xưa từ thời các vị tông đồ đã cho rằng cuộc gặp gỡ cuối cùng của các vị trước cuộc tử đạo của hai vị thực sự xẩy ra không xa nơi chốn này: hai vị được cho rằng đã ôm lấy nhau và chúc lành cho nhau. Ở cửa chính của Đền Thờ này, các vị có một bức họa chung, với những cảnh của cả hai cuộc tử đạo.
Như thế, từ ban đầu, truyền thống Kitô Giáo đã coi Thánh Phêrô và Phaolô bất khả tách biệt, cho dù mỗi vị có một sứ vụ khác nhau cần phải hoàn thành.
Thánh Phêrô đã tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Kitô trước; Thánh Phaolô được ban cho khả năng để đào sâu những sự phong phú của đức tin ấy. Thánh Phêrô đã thành lập cộng đồng tiên khởi của thành phần Kitô hữu xuất thân từ Dân Tuyển Chọn; Thánh Phaolô trở thành Vị Tông Đồ Dân Ngoại. Với những đoàn sủng khác nhau, các vị đều hoạt động cho cùng một lý tưởng, đó là xây dựng Giáo Hội của Chúa Kitô.
Trong Phần Các Bài Đọc, phụng vụ cống hiến cho việc suy niệm của chúng ta bản văn nổi tiếng của Thánh Âu Quốc Tinh: “Một ngày duy nhất được chỉ định để cử hành việc tử đạo của hai Vị Tông Đồ. Thế nhưng, hai vị này là một. Mặc dù cuộc tử đạo của hai vị xẩy ra vào những ngày khác nhau, các vị cũng là một. Thánh Phêrô trước, Thánh Phaolô sau. Chúng ta cử hành ngày lễ này là ngày được trở nên linh thánh đối với chúng ta nhờ máu của những vị Tông Đố ấy” (Sermon 295, 7, 8).
Và Thánh Lêô Cả đã nhận định như sau: “Về các công lênh và nhân đức của các vị, những gì vượt lên trên tất cả khả năng nói năng, chúng ta không được tách biệt chúng, vì các vị được chọn như nhau, khó nhọc như nhau, chết đi như nhau” (In natali apostol., 69, 7).
Ở Rôma, từ những thế kỷ đầu tiên, mối liên hệ nối kết Thánh Phêrô và Phaolô lại trong sứ vụ của các vị đã có một ý nghĩa rất đặc biệt. Như Romulus và Remus, hai người anh em thần thoại này được cho là hạ sinh ra Thánh Phố đây thế nào, thì Thánh Phêrô và Phaolô cũng được coi là những vị thành lập nên Giáo Hội ở Rôma như thế.
Nói về Thành Phố này liên quan tới đề tài ấy, Thánh Lêô Cả đã nói: “Các vị này là những Người Cha thánh thiện và là những mục tử thực sự của anh chị em, những vị đã cống hiến cho anh chị em những khai báo anh chị em được kể vào số những vương quốc thiên đình, và đã xây dựng anh chị em dưới sự che chở bao bọc tốt đẹp hơn và hạnh phúc hơn các vị, những vị có lòng nhiệt thành là nền tảng đầu tiên cho những bức tường thành của anh chị em” (Sermon 82, 7).
Tuy nhiên, về lãnh vực nhân loại, các vị có khác nhau, và cho dù có những căng thẳng nơi mối liên hệ của các vị, Thánh Phêrô và Phaolô vẫn là những sáng lập viên của Thánh Phố mới mẻ này, một biểu hiệu cho một đường lối mới mẻ và chân thực trong việc làm huynh đệ, một đường lối khả dĩ nhờ Phúc Âm Chúa Giêsu Kitô.
Vì thế, có thể nói rằng Giáo Hội ở Rôma đang cử hành ngày sinh nhật của mình hôm nay đây, vì chính hai vị Tông Đồ này đã đặt nền tảng cho nó vậy.
Hơn thế nữa, Rôma trong thời đại của chúng ta nhận thấy một cách ý thức hơn cả sứ vụ của mình lẫn sự cao cả của mình. Thánh Gioan Chrysostom đã viết: “Tầng trời không quá sáng ngời khi mặt trời tỏa ánh quang của nó, cho bằng Thành Phố Rôma khi tỏa hai ánh sáng này (Thánh Phêrô và Phaolô) tới tất cả mọi phần đất trên thế giới… Bởi vậy, tôi ca ngợi Thành Phố này… vì những cột trụ này của Giáo Hội” (Homily on St Paul's Epistle to the Romans, 32, 24).
Chúng ta sẽ tưởng niệm đặc biệt Thánh Phêrô ngày mai, cử hành Hy Tế Thần Linh ở Đền Thờ Vatican, đền thờ được xây ở địa điểm ngài tử đạo. Tối nay, chúng ta hướng về Thánh Phaolô, vị có hài cốt được gìn giữ hết sức cung kính ở Đền Thờ này.
Ở đầu Bức Thư gửi Giáo Đoàn Rôma, như chúng ta vừa nghe, Thánh Phaolô đã chào cộng đồng Rôma, tự giới thiệu mình là “một người tôi tớ của Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi trở thành một vị tông đồ” (1:1). Thánh Phaolô sử dụng từ ngữ “tôi tớ”, theo Tiếng Hy Lạp là doulos, để ám chỉ một mối liên hệ hoàn toàn trọn vẹn thuộc về Chúa Giêsu; ngoài ra, nó là từ ngữ được dịch từ tiếng ‘ebed’ của Do Thái, nhờ đó ám chỉ những người tôi tớ cao cả đã được Thiên Chúa chọn lựa và kêu gọi tới một sứ vụ quan trọng và đặc biệt.
Thánh Phaolô biết ngài “được kêu gọi để trở thành một vị tông đồ”, tức là, ngài đã không cho mình là một ứng viên, cũng không phải là một bổ nhiệm của loài người, mà hoàn toàn do lời kêu gọi và việc tuyển chọn thần linh.
Vị Tông Đồ cho Chư Dân này lập lại mấy lần ở các Bức Thư của mình rằng trọn cuộc sống của ngài là hoa trái của ân sủng nhân hậu nhưng không của Thiên Chúa (cf. I Cor 15: 9-10; II Cor 4: 1; Gal 1: 15). Ngài được tuyển chọn để loan báo “Phúc Âm của Thiên Chúa” (Rm 1:1), để gieo vãi tin mừng về Ân Huệ thần linh là việc hòa giải trong Chúa Kitô giữa con người với Thiên Chúa, với chính họ và với kẻ khác.
Căn cứ vào các Bức Thư của ngài, chúng ta biết rằng Thánh Phaolô không phải là một tay thuyết giảng giỏi giang; trái lại, ngài đã giống như Moisen và Giêrêmia thiếu khả năng ăn nói. Thành phần thù địch của ngài đã nói về ngài rằng: “Sự hiện diện về thể lý của ngài thì yếu đuối, và khả năng nói năng của ngài chẳng có gì đáng kể” (II Cor 10: 10).
Những thành quả tông đồ phi thường mà ngài đã có thể chiếm được, bởi thế, không thể qui về những pháp thuật ngôn từ nẩy lửa hay biện giải và truyền giáo tài ba.
Sự thành đạt nơi việc tông đồ của ngài trước hết lệ thuộc vào việc ngài dấn thân loan báo Phúc Âm hoàn toàn vì Chúa Kitô; một sự dấn thân không sợ hiểm nghèo, khó khăn hay bạch hại.
Ngài đã viết cho Kitô hữu Rôma rằng: “Dù chết hay sống, dù là các thiên thần hay các thế lực, dù là hiện tại hay tương lai, dù là các quyền năng, dù đỉnh cao hay vực thẳm, dù bất cứ sự gì khác nơi tất cả tạo vật, sẽ không thể nào phân rẽ tôi khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (8:38-39).
Từ điều này chúng ta có thể rút tỉa được một bài học đặc biệt quan trọng đối với hết mọi Kitô hữu. Hoạt động của Giáo Hội chỉ khả tín và hiệu nghiệm chỉ khi nào những ai thuộc về Giáo Hội sẵn sàng đích thân trả giá cho lòng trung thành của mình với Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh. Khi sự sẵn sàng này bị hụt hẫng thì lý lẽ chủ yếu về sự thật là những gì chính Giáo Hội phải tùy thuộc cũng bị thiếu vắng.
Năm Thánh Phaolô: Lý Do và Cử Hành
Anh chị em thân mến, như trong thời sơ khai, cả ngày nay nữa, Chúa Kitô cần đến những tông đồ sẵn sàng hy sinh bản thân mình. Người cần những chứng nhân và tử đạo như Thánh Phaolô. Thánh Phaolô, một tên bách hại Kitô hữu trước đó, khi bị ngã xuống đất trước ánh sáng thần linh chói lòa trên đường đi Damascus, đã không ngần ngại đứng sang bên của Đấng Tử Giá và theo Người cách dứt khoát. Ngài đã sống và làm việc cho Chúa Kitô, vì Người ngài đã chịu khổ và đã chết đi. Ngày nay gương sáng của ngài hợp thời biết bao!
Chính vì lý do này tôi hân hoan chính thức tuyên bố rằng chúng ta sẽ giành một Năm Mừng đặc biệt Thánh Tông Đồ Phaolô, từ ngày 28/6/2008 tới 29/6/2009, nhân dịp hai ngàn năm sinh nhật của ngài, ngày sinh nhật được các sử gia cho rằng ở vào giữa khoảng năm 7 và 10 sau Chúa Giáng Sinh.
Sẽ có thể cử hành “Năm Thánh Phaolô” này một cách đặc biệt ở Rôma là nơi quan tài bằng đá, một quan tài, theo ý kiến nhất trí của các chuyên gia và truyền thống không thể chối cãi, giữ hài tích của Tông Đồ Phaolô, đã được bảo trì ở bên dưới Bàn Thờ Giáo Tông nơi Đền Thờ này qua 20 thế kỷ.
Như thế sẽ có thể thực hiện một loạt những biến cố về phụng vụ, về văn hóa và đại kết ở Đền Thờ Giáo Tông này cũng như tại Đan Viện B iển Đức sát cạnh, cùng với những hoạt động khác nhau về mục vụ và xã hội, tất cả đều theo chiều hướng linh đạo của Thánh Phaolô.
Ngoài ra, phải đặc biệt chú trọng tới những cuộc hành hương thống hối được tổ chức tới viếng mộ vị Tông Đồ này để tìm thấy nơi ấy ích lợi thiêng liêng. Cũng phải cổ võ phát động những hội nghị học hỏi và những ấn hành đặc biệt để phổ biến rộng rãi hơn bao giờ hết kho tàng mênh mông chất chứa nơi giáo huấn này, một gia sản thật sự của nhân lolại được Chúa Kitô cứu chuộc.
Ngoài ra, ở các nơi trên thế giới, những sáng kiến tương tự sẽ được áp dụng ở các giáo phận, các đền thánh và những nơi thờ phượng, bởi thành phần Tu Sĩ và những tổ chức giáo dục cũng như những trung tâm trợ giúp xã hội mang tên Thánh Phaolô hay được ảnh hưởng bởi ngài và giáo huấn của ngài.
Sau hết, cần phải chú ý tới một khía cạnh đặc biệt trong thời gian cử hành những thời điểm khác nhau của việc mừng kỷ niệm 2000 năm Thánh Phaolô: tôi muốn nói tới chiều kích đại kết. Vị Tông Đồ Chư Dân này, vị đặc biệt đã dấn thân mang Tin Mừng cho tất cả mọi dân tộc, đã không ngừng hoạt động cho mối hiệp nhất và hòa hợp giữa tất cả mọi Kitô hữu.
Xin ngài thương hướng dẫn và bảo vệ chúng ta trong việc cử hành hai ngàn năm này, giúp chúng ta tiến bộ trong việc khiêm tốn và chân thành tìm kiếm mối hiệp nhất trọn vẹn của tất cả mọi phần tử thuộc Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
Lê Ngọc Hồ AVE MARIA 14
Mẹ là vì sao mai Sáng soi triệu dặm dài Soi đường đêm tăm tối Thấy hướng lúc lạc loài
Mẹ là vì sao đẹp Hơn tất cả muôn sao Gần mẹ con ước ao Được gần con khép nép
Mẹ thương người vượt biển Cứu họ cơn khốn nguy Mẹ yêu người hạ tiện An ủi họ nhiều khi
15
Mẹ hạt sương ban sớm Ban phát các loài hoa Mẹ bà Chúa muôn hoa Cho hương nồng xuân chớm
Nhưng là hơn tất cả Mẹ là Mẹ của con Tình Mẹ yêu rất lạ Làm con vui ngập hồn
Lạy Mẹ con dâng Mẹ Xác hồn và những gì Lớn hay dù rất bé Diệu ca hay tình thi
Trên sóng Mẹ bước đi Cứu đoàn con vượt biển Lượng hải hà thể hiện Giúp đỡ khi lâm nguy
16
Xưa vùng Galilê Hương hoa xuân đi về Trong một sớm mai nọ Có thiếu nữ vùng quê
Đẹp như giọt sương mai Hồng chân chẳng gót hài Miệng cười như hoa nở Màu son môi không phai
Thon thon ngón tay ngà Kim chỉ đẹp thêu hoa Siêng năng luôn hiền dịu Dâng Giavê bài ca
Nàng vui thật dễ thương Thuận thảo lại khiêm nhường Mẹ cha vui chữ hiếu Khắp gần xa bay hương
Rất nhẹ gót Thiên Thần Cất lời chào, đến gần Chào mừng nàng đầy phúc Chúa với nàng kết thân Nàng sinh Đấng Cứu Độ Cho nhà Israel Giê-su hãy đặt tên Cho bé ngày hoa nở
Nàng đáp lời bỡ ngỡ Không biết đến người nam Thiên thần vội bày tỏ Bởi phép Chúa Thánh Thần
Nàng trang trọng xin vâng Xin thành theo thánh ý Xôn xao cả Thiên Đàng Một kết thân tuyệt mỹ
ĐTC GP II: Thông Điệp Giầu Lòng Xót Thương - Dives in Mesericordia Giáo Hội: Tuyên Xưng và Loan Truyền Tình Thương (13-15) Tháng Thánh Tâm Như thế, tình thương trở nên một yếu tố không thể châm chước cho việc làm sắc bén hơn những mối liên hệ hỗ tương giữa người ta vớí nhau, trong một tinh thần hết sức tôn trọng đối với cái gì là nhân bản, cũng như trong một tinh thần huynh đệ tương giao. Không thể nào thiết lập mối giây liên kết người ta lại với nhau này, nếu họ muốn qui định những liên hệ hỗ tương giữa họ chỉ theo tầm mức của công lý mà thôi. Như thế có nghĩa là, trong mọi lãnh vực của những liên hệ nhân đới, công lý phải được 'hoàn chỉnh' đến một mức độ đáng kể bởi một thứ tình yêu mà thánh Phaolô công bố "là nhẫn nại và từ ái", hay nói cách khác, phải chiếm được những đặc tính của một tình yêu nhân hậu mang y hệt yếu tính của Phúc Âm và Kitô Giáo. Hơn nữa, chúng ta hãy nhớ rằng, tình yêu nhân hậu cũng có nghĩa là nỗi dịu dàng và cảm thông thân ái đã được đề cập đến một cách hết sức sống động trong dụ ngôn người con hoang đàng (x.Lc. 15:11-32), cũng như trong dụ ngôn con chiên lạc và đồng bạc cắc bị mất (x.Lc. 15:1-10)... Xã hội có thể trở nên 'càng nhân bản hơn bao giờ hết', chỉ khi nào chúng ta đem đến cho tất cả mọi liên hệ hỗ tương tạo nên lãnh vực luân lý của nó, một thời khắc của sự thứ tha, đúng như là yếu tính của Phúc Âm. Thứ tha thể hiện trên thế gian này sự hiện diện của một tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Thứ tha cũng là điều kiện căn bản cho việc hoà giải, chẳng những trong mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người, mà còn trong những mối liên hệ giữa con người với nhau. Một thế giới mà sự thứ tha bị loại bỏ sẽ chẳng còn là gì khác hơn là một thế giới của công lý lạnh lùng vô cảm, mà nhân danh nó, mỗi người sẽ bất chấp nhau để đòi hỏi lấy quyền lợi riêng tư của mình' hôn là một số những loại vị kỷ khác nhau vốn ẩn náu nơi con người sẽ biến cuộc sống và xã hội loài người thành một tổ chức của kẻ mạnh đàn áp kẻ yếu, hay thành một thao trường cho những phe nhóm mãi mãi đối chọi nhau... (Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, trích dịch từ http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_30111980_dives-in-misericordia_en.html)
Những Lời Thỏ Thẻ của Chúa Giêsu với một số linh hồn ưu tuyển
" Mỗi lần con làm cho niềm tin tưởng và hiệp nhất hỗ tương giữa các con vững mạnh là con làm cho Nước Cha phát triển"
Tháng Thánh Tâm 31-12-1941 Mỗi lần con làm cho niềm tin tưởng và hiệp nhất hỗ tương giữa các con vững mạnh là con làm cho Nước Cha phát triển.
Điều này phải là mục tiêu khơi động và kiên trì cho tất cả mọi hoạt động của con - tất cả mọi lợi lộc khác đều phải phụ thuộc vào mục tiêu này. (số 228)
Mỗi lần dùng lời nói hay việc làm theo lòng nhân ái mà khích lệ giữa các con với nhau một sự hiểu biết tốt lành - tương thân tương trợ nhau - là con góp phần vào sự hiệp nhất của Giáo Hội Cha: 'Để họ tất cả được nên một'.
Hãy cầu nguyện như thế bằng hành động. (số 232)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trong bộ sách "Tội Tràn Lan... Phúc Ngập Lụt"
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |