CHÚA NHẬT 29/6/2008
Tiến Vào Năm Thánh Phaolô
ĐTC Biển Đức XVI Ý nghĩa sâu xa nhất của Công Giáo tính Bài Giảng cho Thánh Lễ Trọng Kính Hai Thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô tại Đền Thờ Thánh Phêrô 29/5/2005 Lê Ngọc Hồ AVE MARIA Cảm Nhận Thánh Mẫu ĐTC GP II: Thông Điệp Giầu Lòng Xót Thương - Dives in Mesericordia Giáo Hội: Tuyên Xưng và Loan Truyền Tình Thương (13-15) Tháng Thánh Tâm Những Lời Thỏ Thẻ của Chúa Giêsu với một số linh hồn ưu tuyển " Để nhận lãnh tặng ân của Đức Tin, các con cần nhớ rằng các con là những tạo vật tùy thuộc vào nhau."Tháng Thánh Tâm
ĐTC Biển Đức XVI
Ý nghĩa sâu xa nhất của Công Giáo tính
Bài Giảng cho Thánh Lễ Trọng Kính Hai Thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô tại Đền Thờ Thánh Phêrô 29/5/2005
ĐTC BĐXVI đã chủ tế Thánh Lễ Trọng Kính Hai Thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô tại Đền Thờ Thánh Phêrô, và trong Thánh Lễ, ngài đã ban giây choàng tông phẩm cho ĐHY Angelo Sodano, trưởng hồng y đoàn và 32 vị tân Tổng Giám Mục thuộc 21 quốc gia mới được bổ nhiệm năm vừa qua. Theo truyền thống, Thánh Lễ này cũng có sự hiện diện của phái đoàn đại biểu thuộc Giáo Hội Chính Thống hoàn vũ ở Contantinople, năm nay với 3 vị dẫn đầu là Loannis (Zizioulas), TGP Pergamo, và hai vị nữa là Gennadios (Limouris), TGP Sassima, và đan viện trưởng Bartolome, phó bí thư Hội Đồng Thượng Phụ Hoàn Vũ. Sau đây là nguyên văn bài giảng của ĐTC trong Thánh Lễ về công giáo tính của Giáo Hội Chúa Kitô.
Lễ Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô vừa là một tưởng nhớ tri ân về những vị chứng nhân cao cả của Chúa Giêsu Kitô, vừa là một cuộc long trọng tuyên xưng về một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Trước hết, lễ này là một lễ của công giáo tính. Dấu hiệu của Ngày Lễ Hiện Xuống – một cộng đồng mới nói đủ mọi ngôn ngữ và hiệp nhất tất cả mọi dân tộc lại thành một dân duy nhất, thành một gia đình duy nhất của Thiên Chúa – đã trở thành thực tại.
Cộng đồng phụng vụ của chúng ta, một cộng đồng qui tụ các vị giám mục từ khắp nơi trên thế giới, qui tụ dân chúng thuộc nhiều văn hóa và quốc gia, là hình ảnh gia đình Giáo Hội lan tràn khắp thế giới. Kẻ xa lạ thành bạn hữu; chúng ta nhìn nhận nhau là anh em vượt mọi biên giới. Như thế, sứ vụ của Thánh Phaolô được hoàn thành, vị đã biết cách để “trở thành mộït thừa tác viên của Chúa Giêsu Kitô đối với Dân Ngoại…. Nhờ đó việc hiến dâng của Dân Ngoại được chấp nhận, được Thánh Thần thánh hóa” (Rm 15:16).
Mục đích của sứ vụ này là một nhân loại được trở thành vinh hiển sống động của Thiên Chúa, một cuộc tôn thờ chân thực Thiên Chúa mong muốn: Đó là ý nghĩa sâu xa nhất của công giáo tính – một công giáo tính đã được ban cho chúng ta và bởi thế chúng ta phải tiếp tục hướng mình đến chỗ đó. Công giáo tính không tỏ hiện theo chiều hoành kích mà thôi, chiều kích nhiều dân tộc qui tụ lại với nhau; nó còn thể hiện theo chiều tung kích nữa: chỉ cần hướng ánh mắt về Thiên Chúa, chỉ cần mở lòng ra cho Ngài chúng ta mới thực sự trở nên duy nhất.
Như Thánh Phaolô, Thánh Phêrô cũng đến Rôma, một thành phố đã trở thành nơi hội tụ của tất cả mọi dân tộc, và chính vì điều này đã trở thành một thể hiện hơn hết cái phổ quát tính của Phúc Âm. Khi thực hiện chuyến đi từ Giêrusalem đến Rôma, Thánh Phêrô chắc chắn cảm thấy mình được soi dẫn bởi tiếng nói của các vị tiên tri, bởi đức tin và bởi lời cầu nguyện của dân Do Thái.
Sứ vụ truyền giáo cho toàn thế giới thực sự cùng là một phần của việc loan báo Cựu Ước nữa: Dân Do Thái được ấn định trở thành ánh sáng cho các Dân Ngoại. Bài đại Thánh Vịnh Thương Khó, bài Thánh Vịnh 21, với câu đầu tiên là “Lạy Chúa Trời con, Lạy Thiên Chúa của con, nhân sao Chúa bỏ rơi con?” được Chúa Giêsu đã thốt lên trên cây thập tự giá, được chấm dứt bằng nhãn quan là “Tận cùng trái đất sẽ nhớ tới Chúa và trở về cùng Chúa; và tất cả mọi gia đình chư quốc sẽ tôn thờ trước tôn nhan Ngài” (Ps 21:28). Khi tông đồ Phêrô và Phaolô đến Rôma thì Chúa, Đấng đã sử dụng bài thánh vịnh này trên thập tự giá, đã sống lại; việc chiến thắng này của Thiên Chúa bấy giờ cần phải được loan báo cho tất cả mọi dân nước, nhờ đó hoàn tất lời hứa kết thúc bài thánh vịnh ấy.
Công giáo tính tức là phổ quát tính – thứ đa dạng tính trở nên hiệp nhất; một thứ hiệp nhất vẫn có tính cách đa dạng. Từ lời lẽ của Thánh Phaolô về phổ quát tính của Giáo Hội chúng ta thấy rằng một phần của mối hiệp nhất này là khả năng của các dân tộc trong việc thắng vượt bản thân mình, trong việc hướng về một Vị Thiên Chúa duy nhất.
Vị sáng lập thực sự thần học Công giáo là Thánh Irenaeus thành Lyon đã diễn tả mối liên hệ giữa công giáo tính và mối hiệp nhất này một cách thật là tuyệt vời: “Tín lý này và đức tin này được Giáo Hội, một Giáo Hội được truyền bá khắp thế giới, chuyên chăm gìn giữ, làm nên hầu như một gia đình duy nhất: cùng một đức tin với một linh hồn và một con tim duy nhất, với cùng một việc rao giảng, cùng một việc giảng dạy, cùng một truyền thống như thể chỉ có một tiếng nói duy nhất. Các Giáo Hội ở Đức quốc không có một đức tin hay truyền thống khác, những Giáo Hội ở Tây Ban Nha, ở Gaul, ở Ai Cập, ở Libya, ở Hướng Đông, ở trung tâm trái đất, như mặt trời thụ tạo của Thiên Chúa chỉ là một và đồng nhất trên khắp thế giới, để ánh sáng của việc rao giảng thực sự chiếu sáng mọi nơi và soi sáng tất cả mọi người muốn nhận biết chân lý” ("Adversus Haereses" I, 10,2).
Mối hiệp nhất của con người nơi đa dạng tính của họ có thể thực hiện vì Thiên Chúa, vị Thiên Chúa duy nhất của trời đất này, đã tỏ mình ra cho chúng ta; vì sự thật chính yếu của cuộc sống chúng ta, sự thật về việc chúng ta “từ đâu mà có?” và “sẽ đi về đâu?”, đã trở nên hữu hình khi Ngài tỏ mình cho chúng ta và nơi Chúa Giêsu Kitô Ngài đã cho chúng ta thấy dung nhan của Ngài, cho thấy chính Bản Thân của Ngài. Sự thật về yếu tính liên quan đến con người của chúng ta đây, đến việc chúng ta sống và việc chúng ta chết đây, sự thật nhờ Thiên Chúa đã trở thành hiện tỏ ấy, đã liên kết chúng ta và làm cho chúng ta trở nên anh em với nhau. Công giáo tính và hiệp nhất tính là những gì đồng hành với nhau. Và duy nhất tính có một nội dung đó là một đức tin đã được các vị tông đồ thay Chúa Kitô truyền đạt cho chúng ta.
Hôm qua, nhân dịp lễ Thánh Irenaeus và là áp lễ trọng kính Thánh Phêrô và Phaolô, tôi đã có thể cống hiến cho Giáo Hội một bản hướng dẫn mới để truyền đạt đức tin, bản hướng dẫn giúp chúng ta hiểu biết hơn nữa và sống tốt đẹp hơn nữa đức tin liên kết chúng ta, đó là cuốn Tổng Lược Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo. Những gì trong cuốn Giáo Lý lớn, với những chứng từ của các thánh thuộc mọi thế kỷ cùng với những suy tư thần học chín mùi được trình bày một cách chi tiết, đều được tóm gọn lại thành những gì thiết yếu trong cuốn tổng lược này, những điều sau đó được chuyển dịch thành ngôn ngữ của đời sống thường nhật và trở thành thực tiễn hơn.
Cuốn sách này được trình bày như một cuộc đối thoại với những câu vấn đáp; 14 bức hình liên quan tới các lãnh vực khác nhau của đức tin để mời gọi con người chiêm ngắm và suy niệm. Có thể nói rằng chúng tóm gọn một cách tượng hình những gì được lời lẽ diễn tả theo chi tiết. Mở đầu là một bức hình từ thế kỷ thứ sáu về Chúa Kitô, bức hình được thấy trên Núi Athos và tiêu biểu cho Chúa Kitô nơi phẩm vị là Chúa Tể Trái Đất của mình, thế nhưng cũng tiêu biểu cho Người như là vị rao giảng Phúc Âm Người cầm trong tay.
“Ta là Đấng Hiện Hữu” – tên gọi nhiệm mầu này được viết lên trong Cựu Ước – được nói đến trong cuốn sách này như là danh riêng của Ngài: bởi vì, hết mọi sự hiện hữu đều xuất phát từ Ngài; Ngài là nguồn mạch nguyên thủy của hết mọi hữu thể. Và vì Ngài là duy nhất mà Ngài bao giờ cũng hiện hữu, bao giờ cũng gần chúng ta song đồng thời đi trước chúng ta, như “Đấng ấn định” cho đường đi nước bước của đời chúng ta sống, Ngài tự mình thực sự là đường lối. Cuốn sách này không thể nào được đọc như là một cuốn tiểu thuyết. Nó phải được suy niệm một cách thâm trầm từng phần thì nội dung của nó, qua những hình ảnh, mới thấm vào tâm hồn được. Tôi hy vọng nó sẽ được đón nhận như thế và sẽ trở nên một bản hướng dẫn bổ ích trong việc truyền đạt đức tin.
Chúng ta đã nói rằng công giáo tính và hiệp nhất tính của Giáo Hội là những gì đi với nhau. Sự kiện là giữa hai tính chất này có những chiều kích được nói đến hữu hình đối với chúng ta nơi hình ảnh của các vị tông đồ đã cho chúng ta thấy đặc tính sau đó của Giáo Hội: một Giáo Hội tông truyền.
Điều này nghĩa là gì? Chúa đã thiết lập 12 Tông Đồ, để từ bấy giờ trở đi bao gồm tất cả mọi dân tộc, giống như 12 người con của Giacóp xưa, đối với Người là các chi tộc lãnh đạo Dân Chúa, một sự kiện bấy giờ đã trở thành phổ quát. Thánh Marcô đã nói cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu kêu gọi các vị tông đồ “đến ở với Người và sai các vị ra đi” (3:14). Điều này hầu như tương khắc nhau. Chúng ta có thể nói rằng: Một là các vị ở với Người hay là các vị được sai đi và lên đường.
Có một lời về các vị thiên thần được thánh Giáo Hoàng Gêgôriô Cả nói tới giúp chúng ta giải quyết được điều tương phản ấy. Ngài nói rằng các thiên thần bao giờ cũng được sai đi lại đồng thời lúc nào cũng ở trước nhan Thiên Chúa: “Bất cứ khi nào các vị được sai đi, bất cứ nơi nào các vị đến, bao giờ các vị cũng chuyển động trong cung lòng của Chúa Cha” (Homily 34,13). Mạc khải đã diễn tả các vị giám mục như là “các thiên thần” của Giáo Hội các vị, và bởi thế chúng ta áp dụng điều này như sau: các vị tông đồ cũng như các vị thừa kế các tông đồ lúc nào cũng phải ở với Chúa, và chỉ có như thế, bất cứ đi đâu, các vị cũng luôn hiệp thông với Ngài và sống cuộc hiệp thông này.
Giáo Hội tông
truyền vì Giáo Hội tuyên xưng đức tin của các vị tông đồ và tìm cách sống
đức tin ấy. Chính mối hiệp nhất làm nên đặc tính của 12 Vị được Chúa Kitô
kêu gọi, thế nhưng đồng thời cũng có một sự liên tục nơi sứ vụ tông đồ nữa.
Trong Bức Thư Thứ Nhất của mình, Thánh Phêrô đã diễn tả mình là “anh cả” đối
với những người anh được ngài gửi thư cho (5:1). Bằng lời lẽ ấy, ngài nói
lên nguyên tắc của việc thừa kế tông đồ: cùng một thừa tác vụ ngài đã lãnh
nhận từ Chúa giờ đây được tiếp tục trong Giáo Hội qua việc truyền chức tư
tế. Lời Chúa không những được viết ra mà còn là một lời sống động qua những
chứng từ được Chúa Kitô ở trong bí tích này đưa vào thừa tác vụ tông đồ.
Giây tông phẩm là một biểu hiệu cho sứ vụ tông đồ của chúng ta. Nó là biểu hiện cho mối hiệp thông của chúng ta, một mối hiệp thông có tính cách cao cả hữu hình của nó nơi thừa tác vụ Thánh Phêrô. Liên hệ với duy nhất tình cũng như với tông đồ tính là thừa tác vụ Thánh Phêrô, một thừa tác vụ qui tụ một cách hữu hình Giáo Hội của tất cả mọi phần thể cũng như của tất cả mọi thời đại, nhờ đó bênh vực mỗi một người trong chúng ta khỏi rơi vào tình trạng tự lập sai lầm là những gì quá dễ dàng bị biến thành những thứ riêng biệt hóa nội tại trong Giáo Hội và có thể làm tổn thương rất nhiều đến tình trạng độc lập nội tại của Giáo Hội. Ý thức như thế, chúng ta không muốn quên rằng ý nghĩa của tất cả mọi phận vụ và thừa tác vụ cuối cùng là “để tất cả chúng ta chiếm được mối hiệp nhất về đức tin và về việc nhận biết Con Thiên Chúa, chiếm được con người trưởng thành, chiếm được tầm vóc trọn vẹn của Chúa Kitô”, nhờ đó thân thể của Chúa Kitô được phát triển “và tự xây dựng trong yêu thương” (Eph 4:13,16).
Theo chiều hướng ấy, tôi thành thật và biết ơn gửi lời chào đến phái đoàn đại biểu của Giáo Hội Chính Thống Constantinople, một phái đoàn được Đức Thượng Phụ hoàn vũ Bartholomew I sai đến, vị thượng phụ tôi xin bày tỏ niềm tưởng mến. Phái đoàn này, được lãnh đạo bởi TGM loannis, đã đến mừng và tham dự cuộc lễ của chúng ta đây. Cho dù chúng ta vẫn chưa đồng ý với nhau về vấn đề cắt nghĩa và quyền bính của thừa tác vụ Thánh Phêrô, chúng ta vẫn cùng nhau được thừa hưởng việc thừa kế tông đồ, chúng ta liên kết chặt chẽ với nhau bằng thừa tác vụ giáo phẩm cũng như bằng bí tích linh mục, và chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin của các vị tông đồ như được ghi nhận trong Thánh Kinh cũng như theo những lời dẫn giải của các đại Công Đồng Chung.
Vào giờ khắc này của thế giới đầy những hoang mang và ngờ vực nhưng khắc khoải mong ước Thiên Chúa, chúng ta lại nhìn nhận sứ vụ chung của chúng ta trong việc cùng làm chứng cho Chúa Kitô, và, trên căn bản hiệp nhất ấy là những gì được ban cho chúng ta, chúng ta giúp cho thế giới có thể tin tưởng. Chúng ta khẩn xin Chúa bằng cả tấm lòng của mình hãy hướng dẫn chúng ta đạt tới mối hiệp nhất trọn vẹn, để ánh quang chân lý là những gì duy nhất có thể kiến tạo hiệp nhất một lần nữa lại trở nên hữu hình trước mắt thế giới.
Bài Phúc Âm hôm nay nói với chúng ta về lời tuyên xưng của Thánh Phêrô được Giáo Hội lấy đó là lúc khởi đầu của mình: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Hôm nay đây, khi nói về một Giáo Hội duy nhất, công giáo và tông truyền song chưa là Giáo Hội thánh thiện, chúng ta muốn nhắc lại vào lúc này đây một lời tuyên xưng khác của Thánh Phêrô nhân danh Mười Hai Vị vào giờ phút bị bỏ rơi nhất: “Chúng con đã tin tưởng và nhận biết rằng Thày là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Jn 6:69).
Điều này nghĩa là gì? Chúa Giêsu, trong lời nguyện tư tế cao cả, đã nói đến việc Người tự hiến cho các môn đệ, ám chỉ cuộc hy sinh tử giá của mình (Jn 17:19). Qua lời nói ấy Chúa Giêsu mặc nhiên diễn tả phận sự của Người là Vị Thượng Tế chân thật, Đấng làm hiện thực mầu nhiệm của “Ngày Hòa Giải”, không còn chỉ ở nơi các nghi lễ thay thế nữa mà là ở nơi cái cụ thể của mình máu Người. Lời “Đấng Thánh của Thiên Chúa” trong Cựu Ước ám chỉ Aaron là Thượng Tế, vị có nhiệm vụ hoàn tất việc thánh hóa dân Do Thái (Ps 105:16; x Sir 45:6). Việc Thánh Phêrô tuyên xưng vào Chúa Kitô, Đấng được ngài tuyên bố là Đấng Thánh của Thiên Chúa, lại ở trong bối cảnh của bài giảng về Thánh Thể, một bài giảng Chúa Giêsu loan báo Ngày đại Hòa Giải bằng việc hiến dâng chính mình làm lễ hy sinh: “Bánh Tôi sẽ ban để thế gian được sự sống đó là thịt của Tôi” (Jn 6:51).
Bởi thế, trong
bối cảnh của lời tuyên xưng này là mầu nhiệm tư tế của Chúa Giêsu, hiến tế
của Người cho tất cả chúng ta. Đúng hơn, hiến tế này luôn được tái thánh hóa
bằng tình yêu tinh tuyền của Chúa Kitô. Thiên Chúa không phải chỉ nói: Ngài
đã yêu thương chúng ta một cách rất thực hữu, đã yêu thương chúng ta cho đến
độ tử giá của Con Ngài. Chính từ đây mà chúng ta thấy được tất cả những gì
là cao cả của một mạc khải có vết thương in ấn trên trái tim của chính Thiên
Chúa. Giờ đây, mỗi một người trong chúng ta có thể tự mình nói với Thánh
Phaolô rằng: “Sự sống tôi hiện sống trong xác thịt này là tôi sống bởi niềm
tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và ban mình cho tôi” (Gal
2:20). Chúng ta hãy cầu nguyện cùng Chúa để sự thật của lời này được in ấn
một cách sâu xa trong tâm can của chúng ta với niềm hân hoan và trách nhiệm
của nó; chúng ta hãy cầu nguyện để được rạng ngời bởi Thánh Thể chân lý này
càng ngày càng trở nên mãnh liệt hơn trong việc hình thành cuôc sống của
chúng ta.
Lê Ngọc Hồ AVE MARIA 17
Đời sống một Thánh gia Đẹp như một bài ca Yêu thương và chia sẻ Ba trái tim đầy hoa
Giuse làm thợ mộc Mary siêng vá may Giêsu ngoan không khóc Loay hoay chơi con quay
Buổi tối trong gia đình Niềm vui ngập biển tình Cùng nhau đọc thánh vịnh Bổng trẩm giọng hát kinh
Giuse thật hiền lành Mary đẹp như tranh Giêsu càng khôn lớn Đạo đức siêng học hành
Nhà nghèo trong xóm nhỏ Nhưng cõi lòng rộng mở Luôn giúp kẻ khó khăn Tị nạn xa xứ sở Thanh đạm bữa cơm trưa Nhưng vui mấy cho vừa Bà nội trợ khéo nấu Ngon miệng mắm cùng dưa
Đong đầy ấp thương yêu Đêm khuya sáng trưa chiều Tình dâng đầy ánh mắt Niềm cảm thông thật nhiều
Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu. (Cv 1, 14)
18
Tình yêu Mẹ ngọc ngà Tình yêu Mẹ như hoa Tình yêu Mẹ tất cả Tình yêu Mẹ như ca
Đến bên Mẹ qùi gối Dâng kinh mai, kinh tối Cúi xin Mẹ nhận lời Đường ngay xin chỉ lối
Con ở chốn trần gian Nhiều khi thật hoang mang Mẹ là nguồn trông cậy Dẫn con nẻo Thiên đàng
Nhớ lời Mẹ hướng dẫn Cho con đến gần CHA Nhờ Mẹ con không xa Chúa Kitô kề cận
Mary con tung hô Con vẫn hằng đợi chờ Ngày khải hoàn của Mẹ Ngày chiến thắng con mơ Dưới mắt Mẹ nhân từ Lòng khoan dung luôn dư Tuyệt vời màu nhân hậu Cứu con không chối từ
Con dâng Mẹ tất cả Xác hồn và tâm tư Con dâng lời cảm tạ Mẹ ban cho tình dư
Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (Luca 1, 48)
ĐTC GP II: Thông Điệp Giầu Lòng Xót Thương - Dives in Mesericordia Giáo Hội: Tuyên Xưng và Loan Truyền Tình Thương (13-15) Tháng Thánh Tâm 15. Giáo Hội công bố sự thật về tình thương của Thiên Chúa được mạc khải nơi Chúa Kitô tử giá và phục sinh, và Giáo Hội tuyên xưng sự thật này bằng những đường lối khác nhau. Hơn thế nữa, Giáo Hội tìm cách thực thi tình thương đối với con người qua con người, và Giáo Hội thấy rằng trong việc thực thi tình thương này một điều kiện không thể châm chước trong việc lo cho một thế giới được tốt đẹp hơn và 'nhân bản hơn', hôm nay cũng như mai ngày. Tuy nhiên, không có thời nào và không có một giai đoạn lịch sử nào, đặc biệt vào lúc khẩn trương như thời của chúng ta đây, Giáo Hội lại có thể quên đi cầu nguyện đó là một tiếng kêu cứu đến tình thương của Thiên Chúa giữa nhiều hình thức sự dữ đang đè nặng trên nhân loại và đang đe dọa nhân loại. Đúng vậy, đây là quyền lợi và nhiệm vụ của Giáo Hội trong Chúa Giêsu Kitô, quyền lợi và nhiệm vụ của Giáo Hội đối với Thiên Chúa cũng như đối với nhân loại. Lương tâm nhân loại càng nhường bước cho việc tục hoá, mất đi cảm quan của mình về ý nghiã thật sự của từ ngữ 'tình thương', xa lià Thiên Chúa và tách khỏi mầu nhiệm của tình thương, thì Giáo Hội càng có quyền lợi và nhiệm vụ "lớn tiếng" (DT 5:7) kêu xin Thiên Chúa tình thương. Những "tiếng kêu lớn" này phải là đánh dấu của Giáo Hội trong thời đại chúng ta, những tiếng kêu thốt lên với Thiên Chúa để van xin tình thương của Ngài, một biểu dương thực sự mà Giáo Hội tuyên xưng và công bố như đã thể hiện nơi Chúa Giêsu tử giá và phục sinh, tức nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua. Chính mầu nhiệm này mang trong mình mạc khải hoàn toàn nhất của tình thương, đó là, của tình yêu mạnh hơn sự chết, mạnh hơn tội lỗi và mọi sự dữ, tình yêu nâng con người lên khi họ rơi vào vực thẳm và giải thoát họ khỏi những đe dọa trầm trọng nhất. (Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, trích dịch từ http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_30111980_dives-in-misericordia_en.html)
Những Lời Thỏ Thẻ của Chúa Giêsu với một số linh hồn ưu tuyển
" Để nhận lãnh tặng ân của Đức Tin, các con cần nhớ rằng các con là những tạo vật tùy thuộc vào nhau."
Tháng Thánh Tâm 31-12-1941 Để nhận lãnh tặng ân của Đức Tin, các con cần nhớ rằng các con là những tạo vật tùy thuộc vào nhau.
Như sự sống thể xác lệ thuộc vào sự giúp đỡ của anh em các con thế nào, sự sống thiêng liêng của các con cũng thế.
Tâm trí các con cần cởi mở để đối thoại với họ, cũng như để nhận lấy những lời tôi tớ của Cha, nhất là tất cả các lời của những vị linh mục, những vị truyền lại giáo thuyết của Cha, những vị nói năng như là "những bản thân khác của Cha'.
Tự do độc lập, một cách vô thức, sẽ tự mình chống lại ân sủng của Cha. Trong khi đó, tự nguyện lụy phục trong tư tưởng cũng như linh hồn lại mãnh liệt lôi kéo ơn Cha.
Thánh Linh thổi đâu Người muốn. Khi các con suy nghĩ để kéo ghì Người lại hay trói buộc Người lại bằng những giới hạn của tầm thức các con, thì Người vuột khỏi các con. Thế nhưng, Người không bao giờ chối từ ban Mình Người cho những ai tiếp nhận Người.
Cha không cố chống lại ý muốn thong dong của các con đâu; Cha lặng lẽ hiến Bản Thân Mình, bằng Thánh Giá long lanh máu me, và bằng các Phúc Đức của Cha.
Nếu Cha bị phản kháng, Cha chờ đợi cho đến khi Cha thực sự được đón nhận mới thôi - và Cha gửi các tôi tớ của Cha đến để kêu gọi thực hiện ý định của Cha. A, Cha cần đến sự hợp tác loài người của các con biết là chừng nào!
Việc Các Thánh Thông Công, thân hữu, huynh đệ tương trợ lẫn nhau là những tặng ân của Thiên Chúa. Những phương tiện loài người được ban cho các con, hãy sử dụng chúng.
Thay vì phát triển những tài năng của mình, các con hãy tìm kiếm để đón nhận những tặng ân của Thiên Chúa thì hay hơn, tất cả mọi tặng ân của Người: linh hồn của các con sẽ được chồng chất những của cải giầu có không bao giờ hư nát. (số 248)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trong bộ sách "Tội Tràn Lan... Phúc Ngập Lụt"
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |