THỨ BẢY 12/7/2008
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL Ngày Giới Trẻ Thế Giới: Địa Điểm, Thời Điểm và Thánh Giá Hướng về NGÀY GIỚI TRẺ THẾ GIỚI XXIII - 12-21/7/2008 Lê Ngọc Hồ AVE MARIA Cảm Nhận Thánh Mẫu Bác sĩ Chang Shu-wen KHÁM PHÁ MỚI Cảm Nghiệm Thần Linh Chúa Giêsu với Nữ Tu Maria Chúa Ba Ngôi "Con hãy cận kề với Thiên Chúa của con - rồi con sẽ biết cách yêu thương tha nhân của mình... " "Di Sản Thiêng Liêng của Chị Maria Chúa Ba Ngôi"
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Ngày Giới Trẻ Thế Giới: Địa Điểm, Thời Điểm và Biểu Tượng
Hướng về NGÀY GIỚI TRẺ THẾ GIỚI XXIII - 12-21/7/2008
(tiếp theo)
Tại sao Ngày Giới Trẻ Thế Giới (World Youth Day) không được tổ chức tại một địa điểm duy nhất cố định?
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 10, 14-1-1995, tại Manila, Phi Luật Tân, đã tuyên bố như sau:
· Tin Mừng là để cho mọi người. Đó là lý do Ngày Giới Trẻ Thế Giới được tổ chức ở các nơi khác nhau.
(The Pope Speaks Vol.40, No.3, 5-6/1995).
Thêm vào đó, trong bài giảng cho Thánh Lễ cử hành Ngày Giới Trẻ lần thứ 11 tại Giáo Đô Rôma, vào Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua, 26-11-1995, Đức Thánh Cha còn cho phong trào tổ chức Ngày Giới Trẻ Thế Giới là một cuộc hành trình hay lữ hành chung cho giới trẻ, và cho những dịp tổ chức Ngày Giới Trẻ Thế Giới là những chặng dừng chân của giới trẻ tại mỗi giáo phận địa phương cũng như tại giáo đô Rôma. sau đây là lời của ngài:
· Cuộc lữ hành khởi sự là như thế, một cuộc lữ hành băng qua các Giáo Phận trên khắp thế giới, để rồi, cứ mỗi hai năm, lại cùng nhau hợp lại thành một cuộc đại hội quốc tế (a great international meeting), xây lên những chiếc cầu huynh đệ và hy vọng, nối liền các đại lục, các dân nước cũng như các nền văn hóa. Nó là một cuộc hành trình luôn luôn chuyển vận, giống như sự sống. Giống như tuổi trẻ.
Năm nay - có thể nói là đang ở khoảng lưng chừng đường giữa lần dừng chân không thể quên được tại Manila và lần dự tính tại Balê vào tháng 8 năm 1997 - cuộc hành trình 'của thành phần trẻ' một lần nữa lại tạm nghỉ tại các Giáo Hội địa phương, một cuộc hành trình cũng làm bổ ích như kinh nghiệm của cuộc hành hương Âu Châu đến Ngôi Nhà Thánh ở Lôretô.
(Tuần san L'Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, phát hành ngày 4/3/1996).
ại sao Ngày Chúa Nhật Lễ Lá lại được chọn làm ngày cử hành Ngày Giới Trẻ Thế Giới hằng năm, mà không phải là một ngày vui nào khác?
ĐTC Gioan-Phaolô II, qua bài giảng trong Thánh Lể cử hành Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 11 tại Giáo Đô Rôma, Chúa Nhật Lễ Lá, 31-3-1996, đã cho biết lý do như sau:
· 11 năm qua, Ngày Giới Trẻ Thế Giới đã được cử hành vào Chúa Nhật Lễ Lá. Theo một ý nghĩa nào đó, có thể nói rằng 'ngày giới trẻ' bắt đầu như thế ngay từ đầu, từ ngày chúng ta đang tưởng nhớ hôm nay đây, khi thành phần trẻ ở Gia-Liêm tiến lên để gặp gỡ Đức Kitô khi Người tiến vào thành, hiền lành và khiêm nhượng, cưỡi trên một con lừa, theo lời tiên tri Zacaria (x.9:9). Họ đến để chào mừng và tiếp đón Người bằng những lời thánh vịnh: 'Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến...' (Ps.117/118:26)...
Đó là lý do tại sao giới trẻ hằng năm trở lại với cuộc hội họp này, cuộc hội họp bắt nguồn từ lòng nhiệt thành không thể đè nén của mình đối với Chúa Giêsu cũng như với Phúc Âm của Người.
Trong phụng vụ của Chúa Nhật Lễ Lá, giới trẻ lãnh nhận một vai trò chủ động, như 'các con trẻ ở Gia-Liêm', thành phần 'chào đón Đức Kitô Vua. Họ cầm những cành lá Olive và lớn tiếng chúc tụng Chúa: Chúc tụng trên nơi cao thẳm' (ca xướng khi rước lá)"
(Tuần san L'Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, phát hành ngày 4/3/1996)
ại sao Thánh Giá lại được chọn để giới trẻ trao chuyền cho nhau trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới, được cử hành vào năm chẳn tại Rôma, để giới trẻ sửa soạn cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới được củ hành vào năm lẻ sau đó tại một quốc gia?
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, cũng qua bài giảng trong Thánh Lể cử hành Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 11 tại Giáo Đô Rôma, Chúa Nhật Lễ Lá, 31-3-1996, đã nói lên ý nghĩa của tác động này như sau:
· Ôm nhận lấy Thánh Giá trong ngày này, chuyền tay nhau Thánh Giá, là một cử chỉ rất hào hùng. Nó như thể nói lên rằng: Lạy Chúa, chúng con không muốn chỉ ở với Chúa vào lúc vang lên những lời tung hô 'Vạn Tuế', mà còn muốn, với ơn Chúa giúp, như Mẹ Maria, Mẹ của Chúa cũng là Mẹ của chúng con, và như Tông Đồ Gioan, theo Chúa trên con đường Thánh Giá. Ôi Chúa, đúng thế, vì 'Chúa có những lời của sự sống đời đời' (Jn.6:68), và chúng con tin rằng, Thánh Giá của Chúa đích thực là lời sự sống, sự sống đời đờí!
(Tuần san L'Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, phát hành ngày 4/3/1996)
Lê Ngọc Hồ AVE MARIA
39
Có nàng thôn nữ xinh Đức hạnh và hy sinh Vui tươi và giản dị Tâm hồn đầy Thánh Linh
Khi nàng nơi vườn nhỏ Đàn bướm lại nghiêng mình Mùa đông hoa vội nở Vì hoa muốn dâng tình
Gót nhỏ đi hài trăng Đẹp xinh như cung hằng Chim lạy chào vội hót Nàng vui chim hót tăng
Tà áo trắng thanh thanh Buông nhẹ giải khăn xanh Tóc hoa cài lan tím Da môi hồng nắng hanh
Nàng bước nhẹ bên hoa Gót êm ru như ca Chim hoa đều nín thở Kính mừng Maria
40
Bé cám ơn Mẹ xinh Mẹ cho mùa Giáng Sinh Bé rất nhiều hy vọng Bé hứa ngoan thiệt tình
Bé đến quì hang đá Bé nhìn thấy tất cả Mẹ bên Thánh Giuse Chúa bé thơ rất lạ
Chúa nằm trên ổ rơm Mong manh tấm khăn bọc Mùi da thịt Chúa thơm Bé chưa thấy Chúa khóc
Bé vui được nhiều quá Chắc là của mẹ ba Qua tay Santa Claus Nhớ ơn Mẹ Maria
Bé nghe ba má kể Xin cám ơn Đức Mẹ Đã cho gia đình ta Có tiền vui mừng lễ
Bác sĩ Chang Shu-wen
KHÁM PHÁ MỚI
Cảm Nghiệm Thần Linh
Bác sĩ Chang Shu-wen sinh trưởng Vùng Bắc Trung Hoa, theo học ngành Y Khoa tại Bắc Kinh và Nam Kinh. Hiện tại, ông đang hành nghề y sĩ tại Taipei, Đài Loan.
Tôi là Chang Shu-wen, 62 tuổi sinh trưởng tại vùng thôn quê đẹp đẽ Fong-cheng Hsien, thành phố Antung, lục địa Trung Hoa.
Xuất thân từ một gia đình theo Khổng giáo, chúng tôi thừa hưởng một truyền thống lâu đời trong dòng họ, đó là thờ Trời, tôn kính tổ tiên và sùng bái Đức Khổng Phu Tử. Cha mẹ tôi không phải là những Phật tử, mặc dù ông bà vẫn ăn chay những ngày mồng một và ngày rằm mỗi tháng theo âm lịch. Qua cách sống như thế, suốt thời thơ ấu, tôi không có một liên hệ nào với Phật giáo.
Vào khoảng thời gian chấm dứt chương trình Trung học, tôi và các bạn cùng lớp tổ chức một buổi du ngoạn thăm các thắng cảnh vùng đồi núi Chie-shan. Vùng này có rất nhiều chùa chiền của các tôn giáo Phật giáo và Lão giáo. Ở một ngôi chùa Phật giáo nọ, chúng tôi đã lưu lại trong bốn ngày. Trong thời gian bốn ngày, tôi đã có dịp nhìn xem tận mắt cách trang trí, các lễ phục, các tượng ảnh và tham dự các buổi cầu nguyện của những Phật tử. Tôi đã tham dự những buổi cầu nguyện này một cách nghiêm trang chăm chú. Qua những giây phút này, so sánh với những đơn sơ của đạo giáo, trong tâm hồn tôi bỗng nhiên bộc phát một nhận thức sâu xa về sự xa hoa hào nhoáng của thế gian và vật chất thế tục. Một nỗi buồn xuất hiện xâm chiếm tâm hồn tôi.
Tôi đến gặp, nói chuyện với một nhà sư và tìm hiểu lý do tại sao các tu sĩ lại từ bỏ mọi sự thế gian và ngay cả gia đình để sống trong các nhà chùa như vậy. Tôi được trả lời rằng những người này đã tìm hiểu về Phật Pháp và sau đó bị lôi cuốn sống đời sống tu hành để thực tập các nhân đức với hy vọng sẽ đạt được một đời sống tâm linh giải thoát khỏi sự áp chế của nhục dục.
Trong thực tế có hai bậc tu hành:
* Bậc thứ nhất có tầm học cao hiểu rộng, giảng đạo cho các thiện nam tín nữ. * Bậc thứ hai thấp hơn, dù sống trong nhà chùa nhưng vẫn còn liên hệ đến thế tục về phương diện vật chất, những người này lưu lại trong chùa vì hoàn cảnh nghèo khó, thiếu ăn thiếu mặc ngoài đời.
Lại cũng có những người tội phạm, bị chính quyền truy nã, tìm đến cửa Phật để náu thân. Vì trong thời gian đó, pháp luật không được áp dụng cho những người đã xuống tóc qui y trong các nhà chùa. Dù tội lỗi của họ có nặng nề đến đâu đi nữa, pháp luật coi như họ đã tách ra khỏi thế giới con người và coi như đã chết.
Hầu hết các nhà tu hành thuộc bậc thứ hai vì họ đã chán cảnh đời thế gian, đã thất bại trên chính trường, đã thua lỗ trong việc làm ăn buôn bán hoặc tình duyên bị gãy đổ. Với sự khổ hạnh trong đời tu hành, họ nhận diện được sự dối trá, phù du của thế gian và quyết định nương nhờ cửa từ bi tìm bình an cho tâm hồn.
Các nhà tu hành ở bậc thứ hai có thể tiến lên bậc thứ nhất nếu qua thời gian, họ tìm hiểu, học hỏi, tiến triển trong việc sống đời sống nhân đức theo Phật pháp.
Theo Phật pháp, tất cả mọi người đều bình đẳng. Bất cứ ai cũng có thể thành Phật, nếu người ấy sống nhân đức:
Vị Giáo chủ thứ Sáu trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa không biết đọc biết viết nên ông không hiểu gì hết những lời giảng huấn của Vị tiền nhiệm Thứ Năm. Nhưng khi được linh ứng, ông có thể quảng diễn tất cả mọi điều giống như Vị Giáo chủ trước đã giải thích và giảng dạy. Chính vì thế ông được chọn làm vị thừa kế.
Đó là những kiến thức đầu tiên của tôi về Phật Giáo.
Sau khi tốt nghiệp Trung học, tôi được gửi đi Bắc Kinh để học Đại Học. Những vấn đề liên hệ đến ý nghĩa, cứu cánh của đời sống con người luôn luôn xâm chiếm tôi. Mỗi lần như thế, tôi lại nghĩ đến Phật pháp: Sự bình đẳng trong sự sống của tất cả các loại sinh vật theo Phật pháp khiến tôi suy nghĩ nhiều. Tôi khâm phục và tán thưởng những châm ngôn, những kinh kệ và các bài luận giảng về vấn đề này.
Bắc kinh là nơi qui tụ các vị chân tu và các tu sĩ học giả. Tôi có dịp liên lạc với nhà sư Tai-hsu, một người được toàn quốc biết đến qua việc chú giải bộ sách "Bốn mươi hai chương". Tôi đã được nghe ông giảng những bài giảng rất có ý nghĩa. Có những bài giảng với những câu tôi vẫn còn nhớ rõ:
... "Sự liên hệ giữa người đàn ông với vợ mình và gia đình còn nặng nề hơn nhà tù đối với ngừơi tù. Như hạn tù không bao giờ chấm dứt, người đàn ông sẽ không bao giờ được phép từ bỏ gia đình...".
Tôi cũng có lần được nghe nhà sư Chang-hsing giảng giải về sách của Đức Phật qua cái nhìn Triết học. Sau đó mặc dù tôi kết luận rằng mỗi người đều phải có một tôn giáo, nhưng tôi vẫn chưa tìm được một tôn giáo cho chính mình.
Một ngày nọ, tôi có dịp đến thăm một Thánh đường đạo Công giáo, tôi hỏi mượn một số sách về đọc, nhưng người giữ thư viện cho biết rằng sách chỉ dành cho những người nào muốn tìm hiểu về đạo Công giáo mượn thôi. Từ hôm đó, tôi có ý định tìm hiểu về đạo Công giáo.
Tôi theo học tại trường Quân Y. Viện trưởng của trường là một người theo đạo Thệ phản (Protestant). Vào ngày thứ bảy chúng tôi không có lớp. Ông Viện trưởng thường mời một Mục sư đến giảng đạo và hướng dẫn các sinh viên học hỏi về Kinh Thánh. Tôi chẳng hiểu nhiều về những điều giảng dạy đó, chính vì thế, tôi thờ ơ với Kitô giáo.
Sau thời gian theo học tại Bắc Kinh, tôi được gửi đi Nam Kinh. Ở Nam Kinh, tôi cũng thường tham dự những buổi thuyết trình về Phật pháp do một giảng viên của Đại học Chin-Linh diễn giảng: Giáo sư Mei-Kwan-hsi. Ông dùng những danh từ khoa học khi nói chuyện khiến những thính giả như tôi hiểu dễ dàng hơn. Thời gian sau đó, tôi lại thường đến một nhà thờ Thệ phản với mục đích tìm kiếm sự an bình cho tâm hồn vì nhiều lúc tôi cảm thấy băn khoăn trong vấn đề tôn giáo. Nhưng không nơi nào tôi tìm được sự an bình cả.
Cuối cùng tôi trở lại với Phật giáo với ý nghĩ rằng đây chính là tôn giáo tôi đang tìm kiếm và sự băn khoăn trong tâm hồn tôi sẽ được giải thoát. Trong giai đoạn này tôi tìm hiểu về Phật pháp rất nhiều.
Bên cạnh những sách vở Y khoa phải học và đọc, tôi coi như mình có bổn phận phải đọc thêm sách Phật rồi dần dà tôi có thói quen đọc những sách này ngay cả những khi giải trí. Tôi không liên lạc với gia đình nhiều, vì tôi thiết nghĩ theo sách nhà Phật, đối với người đàn ông: gia đình, vợ con là những phiền toái bên ngoài, giống như tiền bạc, danh vọng. Tất cả là những quyến rũ khiến cho người ta không tập trung được để đạt tới giải thoát. Những điều này phải được từ bỏ.
Chiến tranh Hoa-Nhật bùng nổ, chính cuộc chiến này và lòng yêu nước trong tôi đã khơi dậy một vấn đề khiến tôi phải suy nghĩ về niềm tin của mình vào Phật giáo. Vì khi kẻ thù xâm lăng quốc gia mình, nếu muốn bảo vệ quốc gia, một người ái quốc phải hy sinh mọi sự để chống lại quân thù. Giáo thuyết "cấm sát sinh" chính là tự trói tay nộp mình cho kẻ xâm lăng. Và giáo thuyết cho rằng mọi sự của trần gian đều là giả trá phù vân, vậy tinh thần ái quốc và lòng yêu nước cũng là giả trá phù vân sao? Có lẽ chính giáo thuyết này đã đưa các quốc gia vùng Á Châu (hầu hết theo Phật giáo) trở thành thuộc địa của Tây Phương hay sống dưới một chiêu bài độc lập giả hiệu. Trung Hoa phải cẩn thận trong bài học này.
Những tư tưởng như thế khiến tôi nhận thấy sự khiếm khuyết của Phật giáo. Có thể gom tóm những khiếm khuyết này như sau:
----- Original Message ----- From: Hy Vong Sent: Monday, May 26, 2008 5:20 AM Subject: Thi kien moi.
Chúa Giêsu với Nữ Tu Maria Chúa Ba Ngôi
"Con hãy cận kề với Thiên Chúa của con - rồi con sẽ biết cách yêu thương tha nhân của mình... "
"Di Sản Thiêng Liêng của Chị Maria Chúa Ba Ngôi"
23-4-1942
Phải, Cha vô cùng hạnh phúc.
Cha thích hiến mình Cha khi Hiệp Lễ - thông ban Mình Cha cho các linh hồn.
Cha hết sức thiết tha ước mong thông ban sự sống của Cha cho các con!
Các con thấy chăng, để có thể làm việc nơi các con hơn, Cha biến Bản Thân Cha nên nhỏ, thật là nhỏ, chẳng đáng là gì cả...
Để có thể thông ban Thần Linh của Cha hơn cho những người ở chung quanh con, con có muốn biến mình con nên nhỏ bé, hoàn toàn nhỏ bé nơi cuộc sống bề ngoài của con, một cuộc sống chỉ là một cái không chẳng có lợi ích gì, như là một con người vô danh tiểu tốt không? (số 490)
Trong Thiên Chúa, con không thấy hối hận về quá khứ; tất cả đều được bao phủ trong hiện tại - lúc mà tình yêu của Người thiêu hủy tất cả mọi đắng cay và biến đổi khổ đau cứu rỗi thành niềm vui.
Con hãy cận kề với Thiên Chúa của con - rồi con sẽ biết cách yêu thương tha nhân của mình... (số 491)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch thành bộ sách "Tội Tràn Lan... Phúc Ngập Lụt"
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|||
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |