THỨ NĂM 3/7/2008
ĐTC Biển Đức XVI “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương tôi và hiến mình cho tôi” Bài Giảng Khai Mạc Năm Thánh Phaolô trong Giờ Kinh Tối 28/6/2008 tại Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành Lê Ngọc Hồ AVE MARIA Cảm Nhận Thánh Mẫu Linh mục Bửu Dưỡng, O.P. Cuộc hành trình của đời tôi Cảm Nghiệm Thần Linh Chúa Giêsu với Nữ Tu Maria Chúa Ba Ngôi " Mỗi lần con đến với một trong những Chị Em của con, là con gặp lại Cha, là con lập lại việc Hiệp Lễ của con với Cha.""Di Sản Thiêng Liêng của Chị Maria Chúa Ba Ngôi"
ĐTC Biển Đức XVI
“Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương tôi và hiến mình cho tôi”
Bài Giảng Khai Mạc Năm Thánh Phaolô trong Giờ Kinh Tối 28/6/2008 tại Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành
(tiếp theo)
Trong Bức Thư gửi giáo đoàn Galata, ngài đã cống hiến cho chúng ta một bản tuyên xưng đức tin của bản thân ngài, trong đó ngài mở lòng mình ra cho độc giả ở mọi thời đại và cho thấy những gì là nguồn mạch sâu xa nhất của đời sống ngài: ‘Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương tôi và hiến mình cho tôi’. Tất cả những gì Thánh Phaolô làm đều được bắt đầu từ tâm điểm ấy. Đức tin của ngài là cảm nghiệm đưoơc Chúa Giêsu Kitô yêu thương một cách hoàn toàn riêng tư; nó là nhận thức về sự kiện Chúa Kitô đã chấp nhận chết đi không phải cho một cái gì đó vô danh mà là vì yêu thương ngài, yêu thương Thánh Phaolô, và sự kiện là, khi sông lại, Chúa Kitô vẫn yêu thương ngài, đã hiến mình cho ngài. Đức tin của ngài đã được tình yêu của Chúa Giêsu Kitô chiếm đoạt, một tình yêu chi phối bản thể sâu xa nhất của ngài và biến đổi ngài. Đức tin của ngài không phải là một thứ lý thuyết, một chọn lựa Thiên Chúa hay trần gian. Đức tin của ngài là âm vang của tình yêu Thiên Chúa nơi tâm can của ngài. Bởi vậy mà chính đức tin ấy là tình yêu thương Chúa Giêsu Kitô.
Đối với nhiều người thì Thánh Phaolô tỏ ra như là một con người hiếu chiến, biết cách sử dụng gươm giáo ngôn từ. Thật vậy, trên con đường làm tông đồ của ngài đã không thiếu những cuộc tranh cãi. Ngài đã không tìm kiếm một thứ hòa hợp hời hợt nông cạn. Trong bức thư thứ nhất của mình gửi cho giáo đoàn Thessalonica, chính ngài đã nói rằng: ‘Chúng tôi lấy can đảm trong Chúa để tuyên bố cùng anh chị em rằng Phúc Âm của Thiên Chúa đang gặp phải chống đối mạnh mẽ…. Vì chúng tôi chưa bao giờ dùng những lời lẽ xu nịnh, như anh chị em biết, hay che đậy lòng tham lam’. Đối với ngài sự thật này quá ư là cao cả để vì muốn được thành đạt bề ngoài mà sẵn sàng chấp nhận hy sinh nó đi. Sự thật này ngài đã cảm nghiệm được nơi việc ngài gặp gỡ với Đấng Phục Sinh xứng với những gì ngài phải đối chọi, bị bách hại và chịu khổ đau. Tuy nhiên, cái tác động ngài ở tận thâm cung con người của ngài đó là ngài được Chúa Giêsu Kitô yêu thương và ngài ước muốn truyền đạt tình yêu này cho người khác. Thánh Phaolô là một con người đã có thể yêu, và tất cả mọi hoạt động cùng khổ đau của ngài đều được sáng tỏ từ trung tâm điểm này.
Những quan điểm tiềm ẩn việc loan báo của ngài chỉ có thể hiểu khi căn cứ vào nền tảng đó. Chúng ta chỉ cần lấy một trong những lời chính yếu của ngài đó là tự do. Cái cảm nghiệm được Chúa Kitô yêu thương cho đến cùng đã làm cho mắt ngài mở ra về sự thật và con đường của việc con người hiện hữu; cái cảm nghiệm ấy đã bao hàm hết mọi sự. Thánh Phaolô sống tự do như là một con người được Thiên Chúa yêu thương, mà bởi Thiên Chúa, ngài đã có thể yêu thương cùng với Người. Tình yêu này giờ đây là ‘luật’ cho đời sống của ngài, và chính vì thế, đã là tự do cho đời sống của ngài. Ngài nói năng và tác hành, đều được tác động bởi trách nhiệm yêu thương; ngài được tự do, và vì ngài là con người yêu thương, ngài sống hoàn toàn theo trách nhiệm của tình yêu thương này và không lấy tự do để làm bình phong cho khoái lạc và cái tôi. Ai yêu mến Chúa Kitô như Thánh Phaolô đã mến yêu Người thì có thể thực sự làm được những gì họ muốn, vì tình yêu của họ được liên kết với ý muốn của Chúa Kitô, và vì thế, được liên kết với ý muốn của Thiên Chúa, vì ý muốn của họ được gắn chặt vào chân lý, và vì ý muốn của họ không chỉ là ý muốn của họ nữa, một thứ toàn quyền của cái tôi tự động của họ, mà được đồng nhất với tự do của Thiên Chúa, nhờ đó nó thấy được đường lối để theo.
(còn tiếp)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 30/6/2008 (những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)
Lê Ngọc Hồ AVE MARIA 25
Mẹ bà Chúa thiên nhiên Ngự giữa muôn hoa đẹp Là bà tiên dịu hiền Muôn loài chim khép nép
Nhưng rồi đến hát ca Để chào mừng mẫu hậu Cả ngàn cây tiến hoa Gió thông đàn nhạc tấu
Hòa âm tiếng suối reo Cùng tiếng sào lưng đèo Tiếng chim rừng cảm tạ Và bướm vàng bay theo
Mẹ là vua hoa lá Mẹ tươi hơn tất cả Mẹ là Mẹ Ngôi Hai Đất trời điều rất lạ
Triệu ngàn hoa dâng hương Lên Mẹ Chúa dễ thương Bướm nâng khăn dịu nhẹ Tung hô Nữ Trinh Vương
26
Trong xóm nhỏ cần lao Tối ngày Mẹ may cắt Mẹ siêng làm biết bao Nấu nướng công việc vặt
Mang bình ra giếng nước Bé Giêsu đòi theo Ê ! Con chưa vững bước Giếng sâu thật hiểm nghèo
Giuse thương nàng hiền Ra tay xin giúp đỡ Mẹ mỉm nụ cười tiên Hai tim cùng rộng mở
Chu toàn việc nội trợ Lo chăm sóc cửa nhà Mẹ lại hay giúp đỡ Tranh chấp Mẹ giảng hòa
Mẹ yêu thích việc làm Kim chỉ vá may ham Siêng lau chùi quét dọn Nhọc nhằn cũng không than
Linh mục Bửu Dưỡng, O.P.
Cuộc hành trình của đời tôi
Cảm Nghiệm Thần Linh
Tác giả của bài viết này là Giáo sư Triết học của Viện Đại Học Sài Gòn, Việt nam. Ngài là hậu duệ của các Vua Triều Minh Mạng, Tự Đức. Dưới những triều đại này, Giáo Hội Công giáo đã bị cấm cách và sát hại gắt gao vào khoảng thế kỷ 19. Hiện tại, Ngài là một Linh mục Dòng Đaminh. Ngài là Phó Giám tỉnh của Dòng và là Chủ tịch của Tổ chức các Dòng tu tại Việt nam. Bài này được viết trong chuyến du hành sang Pháp trên tàu André Lebon vào năm 1935, bảy năm sau ngày Ngài Rửa tội theo Giáo Hội Công giáo và năm năm trước ngày Ngài được phong chức Linh mục. Ngài sang Pháp du học và lãnh nhận Thánh chức Linh mục.
Tôi rời Huế vào ngày 24 tháng 10 năm 1935. Nơi đầu tiên tôi sẽ đến là Nha Trang để thăm cha tôi hiện đang làm tỉnh trưởng tại đây.
Thường thường chuyến xe lửa khởi hành từ Hà nội đến rất đúng giờ, nhưng hôm nay không hiểu vì sao nó lại trễ mất một giờ đồng hồ. Tôi đã đến ga thật sớm và vì thế phải chờ đợi. Nhà ga vào buổi sáng gió rất mạnh. Cái lạnh thấm vào da thịt tôi và những người cùng đi tiễn chân tôi. Cho đến hôm nay, khi ngồi nhớ lại cái giây phút chia ly đó, tôi cầu xin Chúa trả công bội hậu cho tất cả những ai đã vì lòng bác ái bảo bọc, nâng đỡ cho những người hiến thân cho Chúa trên đường tu hành.
Tôi vẫn thường có những cuộc hành trình tương tự lúc còn nhỏ, khi tôi chưa ý thức được sự việc chung quanh và chưa lo lắng về đời sống vật chất. Hôm nay, trong chuyến đi này, với một sự thanh thản cố hữu, tôi sẽ vượt qua các đồng bằng, những con đường ngoằn nghèo dốc núi. Theo đuổi những vô tư không phải vì không biết lo lắng, nhưng là vì muốn thực hành những nhân đức trong đời sống con người. Tôi yêu đời và tôi muốn sống hết cho tình yêu này, nhưng giờ đây, cũng với tình yêu ấy, tôi muốn nó được hòa nhịp với chân lý cao vời.
Như thế, với cùng một tuyến đường, với cùng những quang cảnh quen thuộc, những núi non, những sông ngòi, cũng nói chuyện dông dài với những người bên cạnh, tôi vẫn là tôi, vẫn là con người cũ. Vẫn là con người cũ nhưng bên trong đã có thật nhiều thay đổi. Cảm nhận được niềm hạnh phúc đang dâng lên, nghĩ tới những hạnh phúc sẽ đến. Tôi hối tiếc quá, hai mươi năm trời của đời sống đã qua trong đời mình với những lầm lỗi, thiếu sót và vô tâm. Làm sao tôi có thể được sống lại một lần nữa những ngày tháng đó? Rồi tôi tự hỏi không biết những người trẻ khác có lầm lỗi, thiếu sót và vô tâm như thế không? Và sau một thời gian dài hoang phí tuổi trẻ liệu họ có được một tiếng gọi thần linh nào đánh động không?
Tạ ơn Chúa vì Ngài đã thương đến con và tôi cầu nguyện cho những người khác.
Vô tình trong chuyến đi, tôi gặp S., anh là một người rất thông minh, đa năng, đa tài. Anh biết đánh đàn Tây-ban-cầm, anh biết đánh cờ, anh biết làm thơ và cả hội họa nữa (Một người có đủ tài Cầm, Kỳ, Thi, Họa). Anh cũng bỏ mất thời tuổi trẻ như thế. Tất cả những cố gắng trong suốt những năm học trường nhà Dòng với các Sư Huynh chỉ đưa đến một kết quả duy nhất là anh có được các cấp bằng cao hơn để tiến thân. Những khủng hoảng tinh thần đã xảy đến, nhưng niềm tin (hay niềm-không-tin) của anh đã không thay đổi, một niềm tin không có Chúa cũng chẳng có Phật.
Anh thật sự yêu mến và bênh vực Giáo Hội Công giáo. Anh nhớ hầu hết giáo lý đã học tại trường nhà Dòng. Anh cho đó là sự thật, nhưng điều lạ lùng là: Tại sao anh ta lại không có Đức Tin? Phải chăng vì anh ta chưa nhận được ơn Chúa? Hay là vì anh ta còn quyến luyến vật chất thế trần đến độ không nghe được tiếng gọi của Chúa? Hỏi, mà tôi không trả lời được một câu nào cả, nhưng đó là vấn đề của riêng anh ta với Thiên Chúa, chỉ có Chúa và anh ta có câu trả lời.
Theo nhận định của tôi, không có một hướng đi nào rõ ràng cho linh hồn của anh, Có thể nói anh là biểu tượng cho đại đa số tuổi trẻ Việt nam, nhưng anh đã giúp tôi trên cuộc hành trình tôi đã đi qua từ Phật đến Chúa, chắc anh ta sẽ ngạc nhiên nếu tôi cho anh biết rằng anh đã giúp tôi nhận ra Chúa. Nhưng thưa anh kính mến, tôi xin anh đừng hãnh diện vội và kết luận rằng anh đã đưa tôi đến với Chúa, anh hãy cảm tạ Chúa vì Ngài đã lưu tâm đến anh, hướng dẫn anh đạt được kết quả này qua những việc làm anh không ngờ, đã không nghĩ và lưu tâm tới.
Việc gặp gỡ anh S. trên chuyến xe lửa đó đã giúp tôi nhìn lại con đường thiêng liêng tôi đã đi qua.
Trước kia, tôi rất ghét Kitô giáo và như thế tôi không muốn có một liên hệ nào dù xa dù gần với các Linh mục hay người có đạo. Tôi không bao giờ đọc một sách báo nào dính dáng đến đạo Công giáo. Cái ấn tượng ghét đạo đã khiến tôi trở thành cực đoan một cách vô lý đến nỗi mỗi khi nhìn thấy chữ "Thiên Chúa" tôi cảm thấy khó chịu và nếu có thể, tôi sẽ sửa thành chữ "Trời". Trong lớp học dạy cho các trẻ em, tôi chống lại việc dùng chữ "Thiên Chúa". Lòng ác cảm đã khiến tôi trở thành điên rồ.
Lạy Chúa! Xin tha thứ cho con! Xin tha cho con mối ác cảm điên loạn ấy! Con biết rằng Chúa hiểu con, với một tâm hồn ngay thật con đã lạc lối, chạy theo những dự tưởng sai lầm và rồi quá trớn...
Trong suốt năm học cuối cùng sửa soạn cho việc thi tốt nghiệp trung học, anh S. đến trọ tại nhà chúng tôi. Chúng tôi học cùng năm nhưng khác trường, anh học tại trường nhà Dòng của các Sư huynh, còn tôi học tại trường công lập của Chính phủ. Chúng tôi nói chuyện với nhau rất hợp qua các đề tài học hành và giải trí, nhưng khi vô tình đề cập đến vấn đề tôn giáo hay đức tin, chúng tôi không tránh được việc cãi cọ. "Cãi cọ" có lẽ không đúng lắm, vì thường tôi đáp trả bằng những lời lẽ khá nặng nề và anh không chống cự vì anh đang ở trọ tại nhà tôi. Để đối lại với những tấn công nặng nề của tôi, anh chỉ đáp lại một cách cầm chừng và sau đó lại làm hoà với nhau. Anh không tự mình bênh vực, anh chỉ lập lại những chân lý đã nghe từ các Sư huynh trong trường.
Rất ít khi chúng tôi nói chuyện với nhau về tôn giáo. Cũng chẳng lạ gì vì môi trường chúng tôi sống là một môi trường ngoại giáo, những vấn đề như Đức tin hay tôn giáo chúng tôi nghĩ chỉ làm mất thì giờ mà chẳng có lợi ích gì.
Hiếm hoi bàn luận về tôn giáo như thế, thế mà trong thời gian này có một vài mẫu chuyện cũng đã khiến tôi phải suy nghĩ. Ngay đến lúc này, tôi còn nhứ như in một câu chuyện như sau:
Câu chuyện xảy ra vào một buổi tối, khi chúng tôi đang ngồi ngắm trăng trong bầu khí mát mẻ trước hiên nhà bên bờ sông. Chúng tôi nói đủ mọi thứ chuyện. Như những thanh thiếu niên nói chuyện trong lúc nhàn rỗi. Chúng tôi đề cập đến đủ mọi thứ đề tài, trừ đề tài tôn giáo và nhân đức. Rồi chẳng biết từ đâu, vấn đề tôn giáo chen vào, hình như bắt nguồn từ câu chuyện nói về những người coi tử vi và bói toán mà chúng tôi đã tìm gặp để nhờ xem về kết quả kỳ thi cuối năm. Có lẽ liên can đến việc này mà vấn đề tôn giáo và đức tin được đề cập đến.
Tôi mở đầu: "Mặc dù thuyết nhà Phật đã được quảng bá rất sâu rộng nhưng Đức Phật không phải là Đấng Sáng tạo. Chúng ta tin rằng Trời đã tạo nên và nuôi dưỡng chúng ta, nhưng chúng ta lại không thờ Trời. Chúng ta chỉ dâng lễ vật lên bàn thờ Phật và rồi sống theo ý riêng mình, chúng ta cũng kính thờ Khổng tử và tin tưởng vào tử vi và bói toán. Con người thật lạ lùng.".
Anh S. phản ứng ngay: "Người Kitô hữu không giống vậy. Họ tin Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng và là Đấng Sáng tạo. Họ không tin thờ Thiên Chúa một cách vô lý như chúng ta. Giống như người Do Thái, nhưng người Do Thái vì giải thích Cựu Ước theo ý riêng của họ, nên họ vẫn còn đang mong đợi Đấng Cứu Thế trong khi người Kitô hữu tin Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế đã đến.
Thật ra, nhiều thế kỷ trước khi Chúa Giêsu giáng sinh, các Tiên tri trong thời Cựu Ước đã loan báo về thời gian và nơi chốn Ngài sẽ được sinh ra, họ còn nói chi tiết hơn cả về đời sống khó nghèo, sự đau khổ và cái chết bi thảm của Ngài. Người Do Thái tin những lời tiên này, nhưng họ từ chối không tin vào con người Giêsu.
Những lời lẽ này khiến tôi suy nghĩ nhiều.
Những câu chuyện không đầu không cuối như thế từ bạn bè, gia đình, những người quen qua một vài lần gặp gỡ như Bác sĩ D., Kỹ sư C.. Họ không chủ ý, nhưng họ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa tôi trở lại đạo Công giáo. Có lẽ Chúa đã từ đó tỏ lộ cho tôi lòng quảng đại của Ngài, vì lòng oán ghét đạo của tôi, thay vì Chúa gởi đến những người có đạo để thuyết phục tôi, Ngài đã dùng những lương dân để đánh thức linh hồn tôi hướng về Ngài.
Những lần nói chuyện như thế, dù tôi đã phải suy nghĩ nhiều về nó, nhưng vẫn chưa đủ mạnh để phá vỡ cái hàng rào đang ngăn cách tôi với Kitô giáo. Chúa còn hướng dẫn tôi đến khám phá ra chân lý và sự kỳ diệu của tôn giáo qua sách vở, báo chí. Những lý lẽ của anh S. đã thật sự khiến tôi xiêu lòng, nhưng vì quá gần đến kỳ thi cuối năm, nên mọi việc đều phải gạt sang một bên, nhất là đó lại là vấn đề tôn giáo với tôi là một thiếu niên. Tôi vẫn sống với một tinh thần của một Phật tử và ác cảm với Kitô giáo.
Ngày loan báo kết quả tôi đậu kỳ thi cuối năm, tôi ra phố và ghé lại tiệm bán sách Đắc Lập để mua một vài cuốn sách. Tự cho mình đã trưởng thành đã mãn nguyện về chuyện học hành, tôi có thể mua đọc vài cuốn sách dành cho người lớn. Tuy nhiên, khi nhìn những cuốn sách này, tôi thấy xấu hổ và thay vào đó, tôi đã mua hai cuốn sách của Chanteaubriand và Pascal đó là cuốn Le Génie du Christianisme và Pensées. Tôi mua những cuốn sách này chỉ vì ưa lối viết văn của Chanteaubriand và Pascal hơn là mua để đọc, vì tôi có thể đoán được nội dung của nó ca tụng Giáo hội Kitô giáo. Tôi không phải là đọc giả của những loại sách này.
----- Original Message ----- From: Hy Vong Sent: Wednesday, June 11, 2008 1:20 PM Subject: Cuoc hanh trinh cua doi toi
Chúa Giêsu với Nữ Tu Maria Chúa Ba Ngôi
" Mỗi lần con đến với một trong những Chị Em của con, là con gặp lại Cha, là con lập lại việc Hiệp Lễ của con với Cha."
"Di Sản Thiêng Liêng của Chị Maria Chúa Ba Ngôi"
24-2-1942 Con ở đây (đan viện) là vì Cha, vì một mình Cha.
Cha ở trong Thánh Thể - Cha ở trong con cũng như ở trong các Chị Em con.
Mỗi lần con đến với một trong những Chị Em của con, là con gặp lại Cha, là con lập lại việc Hiệp Lễ của con với Cha.
Vậy thì con còn muốn gì hơn nữa...? (số 347)
Không phải chỉ có nguyên thuận lợi về thể chất mà thôi, cho dù nó có to lớn đến đâu, nó cũng không được lấn át đức ái, hay biện hộ cho những hành động phản lại đức ái.
Những không may về thể chất luôn luôn có thể được chữa lành, và chúng chỉ ảnh hưởng đến những thứ qua đi theo mệnh số của chúng mà thôi.
Hành động phản lại đức ái là một bất hạnh không thể nào ước lượng được, khó mà chữa lại vì những hậu qủa cứ còn mãi - nó dứt bỏ đi sự tôn kính Thiên Chúa là việc phải dâng lên cho Người, cho đến đời sau vô cùng - vì mỗi một tác động của đức ái đều tôn kính Thiên Chúa và làm cho Người được nhận biết và được mến yêu. (số 357)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch thành bộ sách "Tội Tràn Lan... Phúc Ngập Lụt"
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |