THỨ SÁU 4/7/2008
ĐTC Biển Đức XVI “Ta là Giêsu, Đấng đang bị ngươi bắt bớ’” Bài Giảng Khai Mạc Năm Thánh Phaolô trong Giờ Kinh Tối 28/6/2008 tại Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành Lê Ngọc Hồ AVE MARIA Cảm Nhận Thánh Mẫu Linh mục Bửu Dưỡng, O.P. Cuộc hành trình của đời tôi Cảm Nghiệm Thần Linh Chúa Giêsu với Nữ Tu Maria Chúa Ba Ngôi " Tránh đi giữa các con điều có thể làm cho tha nhân của các con bị đè bẹp""Di Sản Thiêng Liêng của Chị Maria Chúa Ba Ngôi"
ĐTC Biển Đức XVI
“Ta là Giêsu, Đấng đang bị ngươi bắt bớ’”
Bài Giảng Khai Mạc Năm Thánh Phaolô trong Giờ Kinh Tối 28/6/2008 tại Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành
(tiếp theo)
Trong việc tìm kiếm chân tướng nội tại của Thánh Phaolô, sau nữa, tôi muốn nhắc lại lời Chúa Kitô Phục Sinh đã nói với ngài trên đường đi Damasco. Trước đó Chúa đã hỏi ngài rằng: ‘Saulê, Saulê, tại sao ngươi lại bắt bớ Ta?’ Ngài đã trả lời rằng: ‘Lạy Chúa, Chúa là ai?’ Và ngài đã nhận được câu trả lời rằng: ‘Ta là Giêsu, Đấng đang bị ngươi bắt bớ’. Thánh Phaolô bấy giờ đang bắt bới chính Chúa Giêsu khi bắt bớ Giáo Hội. ‘Ngươi đang bắt bới Ta’.
Chúa Giêsu đồng hóa mình với Giáo Hội như là một chủ thể duy nhất. Trong câu than này của Đấng phục sinh – một câu làm biến đổi cuộc đời của Saulê – chất chứa toàn thhể giáo huấn về Giáo Hội là Thân Thể Chúa Kitô. Chúa Kitô đã không về Trời, bỏ lại một nhóm môn đồ trong việc thi hành lý tưởng của Người. Giáo Hội không phải là một hiệp hội muốn cổ võ một lý tưởng nào đó. Vấn đề ở đây không phải là lý tưởng. Vấn đề về con người Chúa Giêsu Kitô, Đấng Phục Sinh mà vẫn còn ‘xác thịt’. ‘Người có xương có thịt’. Đấng Phục Sinh đã khẳng định như thế trong Phúc Âm Thánh Luca, trước mặt các môn đệ bấy giờ cứ nghĩ Người là ma. Người có một thân thể. Ngài đích thân hiện diện nơi Giáo Hội. Thánh Âu Quốc Tinh nói: ‘Đầu và Thân’ làm nên một chủ thể duy nhất. Thánh Phaolô đã viết cho giáo doàn Côrintô rằng: ‘Anh chị em không biết rằng thân thể của anh chị em là những phần thể của Chúa Kitô hay sao?’ rồi ngài thêm ‘rằng người nam và người nữ trở nên một xác thịt theo Sách Khởi Nguyên hay sao?’
Vậy Chúa Kitô trở nên một tinh thần với những gì là của Người, một chủ thể duy nhất trong một thế giới mới của sự phục sinh. Tất cả những điều này cho thấy tỏ hiện mầu nhiệm Thánh Thể là mầu nhiệm Chúa Kitô liên lỉ hiến Thân Mình của Người và làm cho chúng ta nên một Thân Thể: ‘Không phải tấm bánh chúng ta bẻ ra là mối hiệp thông với thân thể của Chúa Kitô hay sao? Vì, dù nhiều người, chúng ta cũng chỉ có một tấm bánh duy nhất và một thân thể duy nhất, khi tất cả chúng ta cùng thông phần một tấm bánh’.
Ngài ngỏ cùng chúng ta những lời này, ở vào lúc này đây, không phải là Thánh Phaolô nói mà là chính Chúa nói: ‘Làm sao các con lại có thể làm rách nát Thân Thể của Thày?’ Trước dung nhan Chúa Kitô, câu hỏi này đồng thời cũng trở thành một lời kêu gọi khẩn trương, đó là từ tất cả mọi thứ phân chia của chúng ta hãy cùng nhau qui tụ lại. Hãy làm cho điều này trở thành thực tại một lần nữa hôm nay đây: đó là thực tại chỉ có một tấm bánh duy nhất; bởi thế, chúng ta, dù nhiều, cũng chỉ là một thân thể.
Đối với Thánh Phaolô thì tiếng Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Kitô không phải chỉ là một thứ suy loại. Nó vượt lên trên những gì là sánh ví nữa. ‘Tại sao người bắt bớ Ta?’
Chúa Kitô đang liên tục thu hút chúng ta đến với Thân Thể của Người, Người xây dựng Thân Thể của Người từ trung tâm điểm Thánh Thể, một trung tâm điểm mà đối với Thánh Phaolô là tâm điểm của việc Kitô giáo hiện hữu, nhờ đó, tất cả mọi người, cũng như từng người có thể cảm nghiệm được một cách hoàn toàn riêng tư rằng: ‘Người đã yêu thương tôi và hiến mình cho tôi’.
Tôi muốn kết thúc bằng một lời sau này của Thánh Phaolô, một lời huấn dụ cho Timôthêu từ trong ngục tù, trước khi chết. Vị tông đồ này đã nói với người môn đệ của mình rằng: ‘Con hãy cùng thày chịu đựng các khổ đau vì Phúc Âm’. Câu này, một câu nói ở cuối con đường được vị tông đồ này trải qua, như là một chứng từ, dẫn chúng ta trở về với thuở ban đầu của việc ngài truyền giáo. Trong lúc Thánh Phaolô bị mù lòa ở trong căn phòng của mình tại Damascô sau cuộc gặp gỡ Đấng Phục Sinh, thì Ananias được lệnh đi đến nơi đang ở của tay bách hại ghê sợ này mà đặt tay trên anh ta để anh ta được phục quang.
Trước lời chống đối của Ananias cho rằng tên Saulê là một tay bách hại Kitô hữu nguy hiểm thì ông đã được trả lời rằng: ‘Con người này cần phải mang danh của Ta đến cho các Dân Ngoại, cho các vua chúa và cho con cái Yến Duyên. Ta sẽ tỏ cho hắn biết tất cả những gì hắn sẽ phải chịu đựng vì danh Ta’.
Việc loan truyền và tiếng gọi khổ đau vì Chúa Kitô là những gì đi với nhau bất khả phân ly. Tiếng gọi là thày dạy Dân Ngoại đồng thời và tự bản chất cũng là tiếng gọi chịu khổ đau trong mối hiệp thông với Chúa Kitô, Đấng đã cưứ chuộc chúng ta bằng cuộc khổ nạn của Người. Trong một thế giới mà dối trá là một mãnh lực thì sự thật là giá cần phải trả bằng khổ đau. Ai muốn tránh né khổ đau, tránh cho xa đau khổ, sẽ đẩy lui chính sự sống và sự cao cả của nó; họ không thể trở thành một người tôi tớ của chân lý và bởi thế không phải là một người tôi tớ của đức tin. Không có tình yêu nào mà lại không có đau khổ, không có khổ đau của việc chối bỏ bản thân mình, của việc biến đổi và thanh tẩy cái ‘tôi’ để được sống tự do chân thực.
Ở đâu không có gì đáng phải chịu đựng khổ đau thì chính sự sống cũng mất đi cái giá trị của mình. Thánh Thể – trung tâm điểm của con người Kitô hữu chúng ta – được bắt nguồn từ hy tế của Chúa Giêsu vì chúng ta; Thánh Thể được xuất phát từ việc chịu đựng khổ đau của một tình yêu thương đạt đến tuyệt đỉnh của mình trên thập tự giá. Chúng ta sống bởi tình yêu tự hiến mình này. Tình yêu này cống hiến cho chúng ta lòng can đảm và sức mạnh để chịu đựng với Chúa Kitô và cho Người, nhờ đó thấy được rằng chính vì thế mà sự sống của chúng ta mới trở nên cao cả, chín mùi và chân thực.
Theo chiều hướng của tất cả những bức thư của Thánh Phaolô chúng ta thấy ngài đã hành trình ra sao với tư cách là một bậc thày dạy của Dân Ngoại, đã thấy lời tiên tri của Ananias được nên trọn vào thời điểm ngài được kêu gọi: ‘ Ta sẽ tỏ cho hắn biết tất cả những gì hắn sẽ phải chịu vì danh Ta’. Sự đau khổ của ngài làm cho ngài trở thành khả tín với tư cách là vị thày dạy chân lý, một vai trò không tìm kiếm lợi ích riêng, vinh quang riêng hay hay thỏa mãn cá nhân, mà là dấn thân cho Đấng đã yêu thương chúng ta và hiến mình vì tất cả chúng ta.
Ở vào lúc chúng ta cảm tạ Chúa vì Người đã kêu gọi Thánh Phaolô, làm cho ngài trở thành ánh sáng Dân Ngoại và là thày dạy của tất cả chúng ta đây, chúng ta hãy nguyện cầu xin ban cho cả chúng con hôm nay đây chứng từ Phục Sinh được tình yêu Chúa chạm tới, và hãy làm cho chúng con có thể chiếu tỏa ánh sáng Phúc Âm trong thời đại của chúng con. Hỡi Thánh Phaolô, xin cầu cho chúng tôi. Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 30/6/2008 (những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)
Lê Ngọc Hồ AVE MARIA 27
Nazareth cần lao Có một gia đình thánh Sống dồi dào đức hạnh Khiêm nhường và thanh tao
Hay giúp đỡ người nghèo Ai gặp nạn an ủi Thăm nom người buồn tủi Chia sẻ kẻ cheo leo
Thường sẻ cơm, nhường áo Gặp kẻ lỡ độ đường Chia sẻ mái nhà chung Hành khất tặng ít gạo
Vui với người lối xóm Gặp ai cũng nụ cười Nơi hội đường, chung nhóm Két thân tình con người
28
Có một nàng thôn nữ Đức hạnh thật dễ thương Sắc, tài cũng dư đủ Vui tươi lại khiêm nhường
Sống cuộc đời bình dị Kéo sợi, thêu, vá may Thánh vịnh ca thật hay Một sớm mai thánh chỉ
Thiên Thần Gabriel Cúi chào và thưa khen Nàng khiêm nhu đáp lại Tôi tớ Chúa phận hèn
Nhận lời Mẹ Cứu Chúa Xin vâng không chọn lựa Theo thánh ý Giavê Đã thương từ muôn thuở
Nàng trở nên Nữ Vương Thiên thần và tổng lãnh Và cũng là Nữ Vương Của nam nữ các Thánh Một Nữ Vương Thiên đàng Vương Mân Côi cao sang Là hòa bình mẫu hậu Và nữ hoàng không gian
Linh mục Bửu Dưỡng, O.P.
Cuộc hành trình của đời tôi
Cảm Nghiệm Thần Linh
(tiếp)
Những cuốn sách vô tội này đã phải chịu một số phận hẩm hiu trong một góc nhà không ai đụng tới cho mãi đến khi tôi thu dọn đồ đạc, sách vở đi Hà Nội để theo học Đại học tại đây. Khi đóng thùng những cuốn sách không cần thiết để bỏ lại nhà, vô tình tôi mở cuốn Pensées và đọc qua một vài hàng trong một trang nào đó. Tôi chú ý vì đoạn văn có nhiều ý nghĩa. Đồng thời, cùng lúc ấy có một sức mạnh lạ thường nào đó chen vào tâm hồn tôi, thế là tôi quyết định đem hai cuốn sách đó đi theo.
Có vài lần khi đọc vài đoạn văn trong đó, tôi cảm thấy bối rối. Thật ra nó chỉ tạo trong tôi một chút tình cảm hơn là nó đã lôi kéo được tôi. Tình cảm này đã khiến tôi tìm hiểu nhiều hơn về vấn đề.
Có những khoảng thời gian tôi cảm thấy bất an trong đời sống, dường như tôi đang trải qua những cơn khủng hoảng của đời sống, cái tâm trạng này kéo dài trong suốt ba năm liền.
Những loại tâm trạng tương tự như thế từ buổi thiếu thời khi còn học tại trung học lại trở lại trong trí tôi: Những lần tôi không giải trí chung với các bạn trong giờ giải trí, những đêm dài mất ngủ, những buổi chiều trống rỗng sau khi nghe vài bản nhạc buồn, sau khi vẽ một vài nét trên tấm vải mới căng cho bức tranh lạ. Tất cả những tâm trạng ấy đưa tôi đến việc tự hỏi: "Có phải Kitô giáo là một tôn giáo thật và tôi phải theo hay không?".
Tôi phải theo? Thật là một điều ngoài trí tưởng tượng! Không bao giờ! Không bao giờ! Dù nó đúng, nó thật, nó hay...nhưng "ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn". Thật ra sự bướng bỉnh đã làm tôi hóa ra ngu đần: Câu tục ngữ trên áp dụng vào vấn đề tôn giáo không đem lại một ý nghĩa nào cả.
Trong khi coi Kitô giáo như một tôn giáo của ngoại bang, tôi không để ý đến những vấn đề khác như Đức Phật của Phật giáo là người Ấn Độ, Đức Khổng Tử là người Trung Hoa và nhất là Chúa Giêsu mặc dù không phải là người Âu Châu nhưng Ngài được các quốc gia trong lục địa này tôn thờ. Họ tôn thờ không phải Ngài là người này hay người kia, nhưng chỉ vì họ tin Ngài là Chúa và họ tôn thờ Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Chúa của tất cả các quốc gia dân tộc, không dành riêng cho một quốc gia dân tộc riêng rẽ nào. Khi Ngài đến trần gian mặc lấy xác phàm, Ngài đã được sinh ra trong dân tộc Do Thái. Dân tộc Do Thái này vì thế đã được gọi là dân được tuyển chọn. Họ tôn thờ Thiên Chúa của họ, họ đã không bị chi phối bởi các nguồn đức tin khác từ Ấn Độ, từ Trung Hoa, từ Hy Lạp hay Rôma, mặc dù các quốc gia này đã có những nền văn minh tân tiến hơn so với họ.
Dân tộc Do Thái qua thời gian vẫn trung thành với Đấng Sáng tạo, dĩ nhiên cũng có những trường hợp riêng lẻ cá nhân chạy theo niềm tin này khác, nhưng cách chung họ coi việc thờ phượng Thiên Chúa như một điều bắt buộc trong đời sống. Có lẽ đây chính là lý do tại sao Thiên Chúa đã tuyển chọn dân tộc này làm dân riêng của Ngài. Còn biết bao nhiêu những điều bí ẩn khác tôi chưa hiểu thấu.
Chúa Kitô chính là Chúa của tất cả. Mọi người có nhiệm vụ phải tôn thờ Ngài, yêu mến Ngài, phục vụ Ngài, tuân giữ các giới răn của Ngài và vâng lời Ngài.
Còn đối với con người, bất cứ ai ở bất cứ đâu đều có thể đưa ra một triết thuyết nào đó rồi chỉ dạy, hướng dẫn người khác và tin rằng điều đó có ích lợi cho nhân loại. Những người như thế, họ hy vọng sẽ đưa đến hạnh phúc cho con người. Về phía chúng ta, chúng ta nên kính trọng họ, không nên nhìn vào họ trong khía cạnh con người với những lầm lỗi và yếu đuối, chấp nhận những điểm tốt, hữu ích, đừng theo những điểm xấu, sai lầm, tránh những cố chấp và bần tiện. Trí óc con người không phải là ơn mạc khải, cũng không phải là ánh sáng của giáo huấn của Giáo Hội, nó chỉ là một mớ kiến thức được suy đi luận lại, thế mà nó muốn diễn tả những bí nhiệm của vũ trụ, nó muốn giải quyết vấn đề sinh tử. Làm sao tránh được những sai lầm phải có?
Chúng ta không đề cập đến những người tự ái, ham danh vọng, cố chấp trong những sai lầm của họ để rồi khư khư nắm giữ những tà thuyết gây thiệt hại cho nhân loại. Chúng ta chỉ nói đến những vĩ nhân, những triết gia, những người khôn ngoan, những người đã sống trong những thời đại và vì hoàn cảnh chưa bao giờ họ được nghe nói tới một tôn giáo thật, họ không thể thay đổi để tiến đến một niềm tin thật. Đó không phải lỗi của họ. Họ là những anh hùng, đời sống đầy nhân đức có khả năng siêu phàm trong nhiều lãnh vực. Họ là những người đáng kính, nhưng chúng ta không thể đưa niềm kính trọng đó trở thành một nghi lễ thờ phượng, coi họ như thần thánh, đồng hóa họ với thần linh và Thiên Chúa đấng sáng tạo vũ trụ.
Chúng ta phải ý thức, phải nhìn vào trật tự của vũ trụ và nhân loại, chúng ta phải phân biệt Đấng Toàn năng và con người, Đấng Sáng tạo và loài thụ tạo.
Ngay cả những vĩ nhân danh tiếng như Socrates, Plato, Aristotle của Hy Lạp, Khổng Tử của Trung Hoa hay vị ẩn sư đã thành Phật tại Ấn Độ. Tất cả những Vị này đều cho biết rằng họ là con người đang đi tìm hiểu, học hỏi và sống những nhân đức để đạt đến cứu cánh của đời sống con người. Đức Khổng Tử đã nói: "Không phải ta sinh ra đã hiểu biết, nhưng như những người khôn ngoan và thánh thiện khác, ta đã bắt đầu học hỏi, nhận thức không ngừng, đó là tất cả những gì ta có thể nói với các con."...
Chính Đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Mouni) sau khi đã được kính trọng như Đức Phật, Ngài đã nói: "Tất cả mọi người đều có khả năng thành Phật". Như thế, tất cả chúng ta đều có thể thành Phật với điều kiện phải sống đời sống từ bỏ một cách thật sự những ước muốn riêng tư và tách mình ra khỏi thế gian tục lụy. Và một ngày nào đó, chúng ta sẽ đạt được trạng thái vô vi thoát tục. Nói một cách khác, sẽ được "giải thoát", có nghĩa là thành Phật. Phật, như thế chính là con người sau khi sống một đời sống nhân đức toàn vẹn đã được giải thoát. Họ không phải là thần linh.
Với những người này chúng ta phải tôn kính, sự thờ phượng chỉ dành cho một mình Thiên Chúa mà thôi, Đấng đã dựng nên và yêu thương chúng ta. Nếu chúng ta không biết Ngài, không biết giáo huấn của Ngài, chúng ta phải đi tìm, phải học hỏi đế biết Ngài. Nếu chúng ta thờ ơ, chúng ta sẽ giống như những đứa con rơi không biết cha mẹ mình là ai. Một cách sống thờ ơ như thế sẽ đưa đến tội lỗi và là dấu chỉ của sự vô ơn.
Những điều này dù sao tôi cũng chỉ mới nghĩ đến trong những năm gần đây. Trước kia, sự thù oán và những tư tưởng vô lý khiến tôi mù lòa không nhìn thấy, không chấp nhận Kitô giáo. Tệ hại hơn nữa, nó còn lấn át đi cả tiếng gọi nội tâm không ngừng kêu mời tôi đến học hỏi, tìm tòi về chân lý thật sự ấy.
Đọc lại những dòng tư tưởng trên, tôi mỉm cười tự hỏi sao một người đã là tôi lại có thể viết được những điều này...Thật vậy! Lạy Chúa! Ngài yêu con biết bao. Dù con đã ngỗ nghịch, Ngài vẫn âm thầm tiếp tục dìu dắt con trở lại với Ngài. Ước muốn duy nhất của Ngài nơi con đó là Ngài muốn con thoát khỏi án phạt đời đời và trao cho con một hạnh phúc bất diệt.
Càng ngày, tôi càng tin tưởng hơn vào chân lý nơi Giáo Hội Công giáo, nhưng tôi không nghĩ đến việc sẽ rửa tội. Mỗi lần ý nghĩ rửa tội xuất hiện là mỗi lần tôi vội xua đuổi nó ngay. Mỗi lần tôi nhìn những người Công giáo Việt nam, tôi có cảm tưởng họ đang theo một tôn giáo của ngoại bang, nó xa lạ và khác thường với phong tục tập quán dân tộc, nó có vẻ "Tây" quá. Nhìn vào cách ăn nói, các nghi lễ, hình dáng nhà thờ... nó có vẻ Âu tây hơn là một màu sắc quốc tế. Đối với tôi, yêu mến văn hóa Khổng Tử, kính trọng đời sống kham khổ của các tu sĩ Phật giáo là những ngăn trở khiến tôi khó đến với Công giáo. Đời sống tự do của người Công giáo và ngay cả các Linh mục khó cho tôi có thể nghĩ rằng họ là những người tin Chúa và là tôi tớ của Chúa.
Một ngày nọ, khi đến thăm ông nội tôi, tôi gặp một Tu sĩ Phật giáo đang ở nhà ông tôi. Vị tu sĩ không ngớt lời ca ngợi những Thày tu Dòng khổ hạnh truyền giáo (Cistercians) tại một ngôi nhà mới lập gần Huế. Đời sống của các Tu sĩ này đã ảnh hưởng tôi thật nhiều. Sự tìm hiểu của tôi về đời sống của họ đưa tôi đến sự khâm phục và cuối cùng dẫn tôi đến việc quyết định gia nhập Giáo hội Công giáo.
Tôi trình bày đời sống và niềm tin của tôi với Linh mục Bề trên nhà Dòng và chính Ngài đã Rửa tội cho tôi ngày 15 tháng Tám năm 1928./.
----- Original Message ----- From: Hy Vong Sent: Wednesday, June 11, 2008 1:20 PM Subject: Cuoc hanh trinh cua doi toi
Chúa Giêsu với Nữ Tu Maria Chúa Ba Ngôi
" Tránh đi giữa các con điều có thể làm cho tha nhân của các con bị đè bẹp"
"Di Sản Thiêng Liêng của Chị Maria Chúa Ba Ngôi"
24-2-1942 Chính tình yêu của Cha là yếu tố ngăn cản các con hiểu được cuộc Khổ Nạn của Cha - nếu các con hiểu được Cha đã chịu khổ đến đâu, các con sẽ bị tan tành.
Này hãy nhìn xem cách Cha tránh đi mọi sự có thể đè bẹp các con; khi Cha nghĩ đến cảnh con không thể nào chịu được, thì Cha dấu đi Thần Tính của Cha và Quyền Năng của Cha, để con mới dám nhìn Thiên Chúa của các con - để Cha mới có thể nâng các con lên cùng Cha.
Tại sao con không cố gắng cùng một cách thức như thế để tránh đi giữa các con điều có thể làm cho tha nhân của các con bị đè bẹp...? (số 358)
Có những linh hồn phủ nhận những lời của Cha, những linh hồn không tin vào thần tính của Cha, song lại là những linh hồn tác hành đối với tha nhân của mình như Cha đã làm.
Hỡi đứa con gái nhỏ của Cha, họ thuộc về gia đình của Cha; những linh hồn tác hành như Cha hành động này đều thuộc về Cha.
Có những linh hồn tin vào thần tính của Cha và tin vào tất cả các lời của Cha, những linh hồn tuyên húa phụng sự Cha, mà lại là những linh hồn không tác hành đối với tha nhân của mình như Cha đã làm.
Họ đã hiến cho Cha cuộc đời của họ, song họ không dâng cho Cha trái tim của họ. Trái tim của họ cứ đóng kín cho thú vui. Đó là lý do tại sao tình thương của Cha đôi khi ban cho họ những khổ đau để cứu họ khỏi những giới hạn hẹp hòi từ sự mãn nguyện của họ. (số 372)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch thành bộ sách "Tội Tràn Lan... Phúc Ngập Lụt"
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |