“Chứng từ cho Niềm Tin vào V Thiên Chúa Duy Nht,

vào vic đối thoi và hòa bình”

 

Đức Thánh Cha Bin Đức XVI – Tông Du Cyprus 4-6/6/2010

 

Đaminh Maria Cao Tn Tĩnh, BVL, tng hp và chuyn dch

Theo mng đin toán toàn cu ca Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/travels/2010/index_cipro_en.htm

 

  

Suốt từ ngày Do Thái được chính thức hình thành vào ngày 14/5/1948, tức mới hơn 62 năm trước đây, Thánh Địa liên tục trở thành một điểm nóng trên thế giới, liên quan tới cuộc tranh chấp giữa riêng người Palestine và Do Thái cũng như giữa chung Khối Ả Rập Hồi Giáo bao gồm nhiều quốc gia ở Trung Đông lẫn Tiểu Á và Do Thái. Tình hình chính trị cho thấy đã có rất nhiều nỗ lực được cộng đồng quốc tế thực hiện để giải quyết cuộc xung khắc hầu như bất khả hòa giải ở đây lẫn xung đột đầy máu lệ trường kỳ ở đó. Về phương diện tôn giáo, để tích cực góp phần vào nền hòa bình cho chung các dân tộc ở đây cũng như cho riêng mối đại kết của thành phần Kitô hữu ở vùng đất tam đạo Thiên Chúa giáo là Do Thái giáo, Hồi giáo và Kitô giáo này, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã có ý định triệu tập một cuộc Thượng Nghị Giám Mục Trung Đông vào Tháng 10 năm 2010 tới đây. Và để bắt đầu cho biến cố hết sức quan trọng liên quan tới riêng số phận của các dân tộc ở vùng này và chung lịch sử thế giới, Ngài đã thực hiện chuyến tông du tới Cyprus, với mục đích chính yếu trên hết đó là để trao gửi bản Văn Kiện sửa soạn cho Cuộc Thượng Nghị Giám Mục Trung Đông. Tuy biến cố này vừa qua đi, nhưng âm vang của nó vẫn còn cần phải vang vọng chẳng những nơi riêng thành phần Kitô hữu ở riêng Cyprus và Thánh Địa, cũng như nơi chung Kitô hữu khắp nơi trên thế giới thực sự quan tâm tới Giáo Hội. Vậy, trong tinh thần hiệp thông với Giáo Hội, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại nội dung của Chuyến Tông Du Cyprus của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI.

 

Bi cnh và lch s Giáo Hi Cyprus

 

1.      Bi cnh (theo thống kê của Tòa Thánh ngày 31/12/2008)

 

Công giáo: 3.15% hay 25.000 trong tổng dân số 794.000

Cơ cấu: 1 giáo phận và 13 giáo xứ và một trung tâm mục vụ

Nhân lực: 2 giám mục, 30 linh mục, 60 tu sĩ và một đại chủng sinh

Mục vụ: 22 trung tâm giáo dục phục vụ 6.347 học sinh và sinh viên từ mẫu giáo tới đại học, 2 bệnh viện, 3 y viện, một nhà cho người già và tật nguyền và 6 cô nhi viện và nhà giữ trẻ.

 

2.      Lch s

 

Trong bài khai từ cho chuyến tông du ở Phi Trường Quốc Tế Paphos Thứ Sáu 4/6/2010, Đức Thánh Cha nhận định về chung nước Cộng Hòa Cyprus như sau:

 

“Cyprus ở giao điểm của các nền văn hóa và tôn giáo, của những lịch sử vừa hãnh diện vừa cổ kính nhưng vẫn tác dụng mạnh mẽ và hữu hình trên đời sống của xứ sở anh chị em. Mới được gia nhập Khối Hiệp Nhất Âu Châu, Cộng Hóa Cyprus đang bắt đầu làm chứng cho thiện ích của những thắt kết chặt chẽ hơn về kinh tế và chính trị với các quốc gia Âu Châu khác. Vai trò được làm phần tử của khối này đã cống hiến cho anh chị em khả năng gia nhập các thị trường, kỹ thuật và phương thức. Thật là hy vọng khi thấy vai trò làm phần tử này sẽ dẫn đến tình trạng thịnh vượng ở quốc nội và về phần những người Âu Châu khác sẽ được phong phú bởi gia sản thiêng liêng và văn hóa của anh chị em là những gì phản ảnh vai trò lịch sử của anh chị em ở giữa Âu Châu, Á Châu và Phi Châu”.

 

Trong bài diễn từ ngỏ cùng thành phần đại kết Kitô giáo thuộc Archeological area of the church of Agia Kiriaki Chrysopolitissa - Paphos Thứ Sáu 4/6/2010, Đức Thánh Cha nhận định về riêng Giáo Hội ở Cyprus như thế này:

 

“Được Thánh Linh chọn riêng, Thánh Phaolô, đồng hành với Thánh Barnabas, một người quê ở Cyprus, và Marcô, một vị thánh ký tương lai, đầu tiên tới Salamis là nơi các vị bắt đầu rao giảng lời Chúa ở trong các hội đường. Xuyên qua hải đảo này, các vị tiến đến Paphos là nơi, gần ngay chốn này, các vị đã rao giảng trước sự hiện diện của lãnh sự Rôma chuyên nghiệp là Sergius Paulus. Bởi thế, chính ở nơi chốn này đây sứ điệp Phúc Âm đã bắt đầu được lan truyền khắp Đế Quốc, và Giáo Hội, được bắt nguồn từ việc rao giảng tông đồ, đã có thể ăn sâu vào vùng thế giới được biết đến vào lúc bấy giờ.

 

“Giáo Hội ở Cyprus có lý để hãnh diện về những liên hệ trực tiếp với giáo huấn của các vị Thánh Phaolô, Barnabas và Marcô, và mối hiệp thông của mình nơi đức tin tông truyền, một mối hiệp thông liên kết Giáo Hội này với tất cả mọi Giáo Hội khác là những Giáo Hội bảo trì cùng một qui luật đức tin. Đây là mối hiệp thông, dụ thực sự nhưng bất toàn, một mối hiệp thông liên kết chúng ta, và là mối hiệp thông thôi thúc chúng ta thắng vượt những chia rẽ của mình và nỗ lực phục hồi mối hiệp nhất hữu hình trọn vẹn như Chúa muốn nơi tất cả mọi thành phần môn đệ của Người. Vì, theo lời Thánh Phaolô, ‘chỉ có một thân thể và một tâm thần, như anh chị em được kêu gọi đến cùng một niềm hy vọng duy nhất, một Chúa duy nhất, một đức tin duy nhất, một phép rửa duy nhất’ (Eph 4:4-5)”.

 

Trong buổi trao gửi bản Văn Kiện Instrumantum Laboris sửa soạn cho Thượng Nghị Giám Mục Trung Đông tại Eleftheria Sports Centre  Elefteria - Nicosia Chúa Nhật 6/6/2010:

 

“Trung Đông giữ một vị thế đặc việt trong tâm can của tất  cả mọi Kitô hữu, vì chính ở nơi đó Thiên Chúa trước hết đã tỏ mình ra cho các vị tổ phụ về đức tin của chúng ta. Từ thời điểm Abraham bắt đầu nghe theo tiếng gọi của Thiên Chúa rời bỏ đất Ur của người Chaldean, cho đến cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu, công cuộc cứu độ của Thiên Chúa được hoàn thành qua các nhân vật và dân tộc đặc biệt ở những mảnh đất quê hương của anh chị em. Thế rồi từ đó, sứ điệp Phúc Âm đã lan truyền khắp thế giới, thế nhưng Kitô hữu khắp nơi vẫn tiếp tục trân trọng hướng về Trung Đông, vì các vị tiên tri và tổ phục, các vị tông đồ và tử đạo là những người chúng ta mang ơn rất nhiều, những con người nam nữ đã lắng nghe lời Chúa, làm chứng cho lời Chúa, và truyền đạt lời Chúa cho chúng ta, thành phần thuộc về đại gia đình của Giáo Hội”.

 

 

Mc đích chuyến Tông Du ca Đức Thánh Cha

 

1.      Sa Son cho Thượng Ngh Giám Mc Trung Đông

 

Trong bài khai từ cho chuyến tông du ở Phi Trường Quốc Tế Paphos Thứ Sáu 4/6/2010, Đức Thánh Cha nhận định rằng:

 

“Trong thời gian tôi ở với anh chị em, tôi cũng sẽ giao phó bản văn kiện sửa soạn – Instrumentum Laboris liên quan tới Thượng Nghị Giám Mục Đặc Biệt Cho Trung Đông được diễn ra vào cuối năm nay ở Rôma. Thượng Nghị này sẽ xem xét nhiều khía cạnh của việc Giáo Hội hiện diện ở miền đất này cùng với những thách đố đối với người Công giáo, đôi khi trong những hoàn cảnh thử thách, sống ngoài mối hiệp thông của mình trong Giáo Hội Công giáo và cống hiến chứng từ của mình nơi việc phục vụ xã hội và thế giới. Bởi thế Cyprus là một nơi thích hợp để phổ biến vấn đề phản tỉnh của Giáo Hội về một chốn thuộc cộng đồng Công giáo qua bao thế kỷ cổ kính ở Trung Đông, về tình đoàn kết của chúng ta với tất cả mọi Kitô hữu trong vùng, cũng như về niềm xác tín của chúng ta đối với vai trò bất khả thay thế của họ trong việc thực hiện cho hòa bình và hòa giải giữa các thành phần dân trong vùng”.

 

Trong buổi trao gửi bản Văn Kiện Instrumantum Laboris sửa soạn cho Thượng Nghị Giám Mục Trung Đông tại Eleftheria Sports Centre  Elefteria - Nicosia Chúa Nhật 6/6/2010:

 

“Tôi cầu xin để công việc của Thượng Nghị Giám Mục này sẽ giúp tập trung chú ý của cộng đồng quốc tế vào tình trạng khốn khổ của thành phần Kitô hữu ở Trung Đông đang chịu đựng vì niềm tin của mình, nhờ đó tìm ra những giải pháp chính đáng và bền bỉ cho những thứ xung khắc đang gây thật nhiều khó khăn. Về vấn đề trầm trọng này, tôi lập lại lời kêu gọi của riêng tôi trong việc thực hiện nỗ lực khẩn trương và hòa hợp quốc tế để giải quyết những căng thẳng đang diễn ra ở Trung Đông, nhất là ở Thánh Địa, trước những cuộc xung đột gây ra nhiều đổ máu hơn nữa.

 

“Với những cảm thức ấy, giờ đây tôi trao cho anh chị em bản Văn Kiện Instrumantum Laboris sửa soạn cho Thượng Nghị Giám Mục Trung Đông. Xin Chúa chúc lành cho hoạt động của anh chị em được dồi dào phong phú! Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả mọi dân tộc ở Trung Đông!” 

Trong buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 9/6/2010:

“Đề tài cho Thượng Nghị Giám Mục Trung Đông, một thượng nghị sẽ diễn tiến ở Rôma vào Tháng 10 này, nói về mối hiệp thông và hướng về niếm hy vọng: ‘Giáo Hội Công Giáo ở Trung Đông: Mối Hiệp Thông và Chứng Từ’”…

 

2.      Cng c đức tin cho Giáo Hi Cyprus

 

Trong bài diễn từ ngỏ cùng thành phần đại kết Kitô giáo thuộc Archeological area of the church of Agia Kiriaki Chrysopolitissa - Paphos Thứ Sáu 4/6/2010, Đức Thánh Cha nhận định rằng:

 

“Giáo Hội ở Cyprus, một Giáo Hội phục vụ như là một chiếc cầu nối giữa Đông và Tây, đã góp phần nhiều cho tiến trình hòa giải. Con đường dẫn đến đích điểm của mối hiệp thông trọn vẹn chắc chắn sẽ không thiếu khó khăn của mình, tuy nhiên Giáo Hội Công giáo và Giáo Hội Chính thống của Cyprus đã dấn thân thăng tiến theo đường lối đối thoại và hợp tác huynh đệ. Xin Thánh Linh soi sáng tâm trí của chúng ta và kiên cường quyết tâm của chúng ta, nhờ đó, cùng nhau, chúng ta có thể mang sứ điệp cứu độ đến cho con người nam nữ của thời đại chúng ta, thành phần khao khát chân lý là những gì mang lại tự do thực sự cà ơn cứu độ (cf Jn 8:32), một sự thật có tên gọi là Giêsu Kitô!

 

“Anh chị em thân mến, tôi không thể nào kết thúc mà không nhớ tới các vị thánh đã điểm tô cho Giáo Hội ở Cyprus, đặc biệt là Thánh Epiphanius, Giám Mục ở Salamis. Thánh đức là dấu hiệu của tầm vóc viên trọn của đời sống Kitô giáo, một sự dễ dạy nội tâm sâu xa đối với Thánh Linh là Đấng kêu gọi chúng ta liên lỉ hoán cải và canh tân đổi mới khi chúng ta nỗ lực mỗi ngày một hơn nên giống Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế của chúng ta. Việc hhoán cải và thánh đức cũng là những phương tiện đặc biệt, nhờ đó chúng ta mở lòng trí của chúng tar a cho ý muốn của Chúa về mối hiệp nhất của Giáo Hội Người… “

 

Trong bài giảng Thánh Lễ với các linh mục, tu sĩ nam nữ, phó tế, giáo lý viên và đại diện các phong trào tại Nhà Thờ Thánh Giá ở Nicosia Thứ Bảy 5/6/2010:

 

“Với ý thức và nguyện cầu của mình, tôi đặc biệt nghĩ đến nhiều linh mục và tu sĩ ở Trung Đông, những con người đang cảm thấy một tiếng gọi đặc biệt tuân hợp đời sống của mình với mầu nhiệm Thập Giá Chúa Kitô. Vì những khó khăn gây ra cho các cộng đồng của mình gây ra bởi các cuộc xung đột và căng thẳng ở vùng này mà nhiều gia đình đang có ý định ra đi, và điều này cũng có thể là khuynh hướng cho cả các vị mục tử của họ nữa. Cho dù có ở trong hoàn cảnh này, linh mục, cộng đồng tu trì, giáo xứ nào vẫn kiên trì và tiếp tục làm chứng cho Chúa Kitô đều là một bày tỏ hùng hồn về một Phúc Âm an bình, một quyết tâm của Vị Mục Tử Nhân Lành muốn chăm sóc cho tất cả đàn chiên, một cuộc dấn thân không ngừng trong việc đối thoại, hòa giải và yêu thương chấp nhận nhau. Bằng việc ôm lấy Thánh Giá được trao cho mình, các linh mục và tu sĩ ở Trung Đông thực sự có thể chiếu tỏa niềm hy vọng ở tâm điểm của mầu nhiệm chúng ta đang cử hành trong phụng vụ hôm nay đây”.   

Trong bài tạ từ ở International Airport of Larnaca Chúa Nhật 6/6/2010 

“Cùng với mục tiêu chung ấy, Cyprus có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc cổ võ đối thoại và hợp tác. Bằng cách nhẫn nại nỗ lực cho hòa bình của việc bênh vực tôn giáo mình cũng như cho sự thịnh vượng của thành phần sống kế cận mình, anh chị em mới có thể nghe biết và hiểu được hết mọi khía cạnh của nhiều vấn đề phức tạp, và giúp cho các dân tộc được hiểu biết nhau hơn….  

“Qua các đêm vừa rồi ở Tòa Khâm Sứ, một địa điểm ở ngay vùng của Liên Hiệp Quốc, tôi đã đích thân thấy được một cái gì về tình trạng chia rẽ buồn thảm của hải quốc này, cũng như biết được cái mất mát của một phần quan trọng nơi một gia sản văn hóa thuộc về toàn thể nhân loại. Tôi cũng đã nghe thấy nhân dân Cyprus ở miền bắc muốn yên ổn trở về nhà của mình cũng như các nơi chốn thờ phượng của họ, và tôi cảm thấy rất cảm xúc trước những lời van nài của họ. Thật sự chân lý và hòa giải, cùng với việc tôn trọng, là nền tảng vững chắc nhất cho một tương lai liên kết và an bình của hải quốc đây, cũng như cho sự bền vững cùng thịnh vượng. Về vấn đề này, nhiều điều tốt đẹp đã đạt được nhờ việc đối thoại chính yếu trong những năm gần đây, mặc dù vẫn còn nhiều điều cần phải thực hiện để thắng vượt những thứ chia rẽ.…" 

Trong buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 9/6/2010:

“Tự mình chuyến tông du này đã tạo nên một biến cố lịch sử; thật thế, chưa bao giờ có một Vị Giám Mục Rôma đến với mảnh đất được chúc phúc này, một địa điểm hoạt động tông đồ của Thánh Phaolô và Thánh Barnabas, một mảnh đất theo truyền thống được coi như thuộc về Thánh Địa. Theo chân của Vị Tông Đồ Dân Ngoại, tôi đã đích thân là một người hành hương của Phúc Âm, trước hết là để kiên cường đức tin của các cộng đồng Công Giáo, một cộng đồng bé nhỏ nhưng là một thiểu số sinh động ở đảo quốc này, phấn khích họ tiếp tục con đường tiến tới mối hiệp nhất trọn vẹn Kitô giáo, nhất là với anh chị em Chính Thống của chúng ta. Đồng thời tôi cũng muốn ôm ấp tất cả mọi dân tộc thuộc vùng Trung Đông, và chúc lành cho họ nhân danh Chúa, nài xin Chúa ban cho họ tặng ân hòa bình…."

 

 

Trong Thánh lễ cho các linh mục, tu sĩ nam nữ, phó tế, giáo lý viên và đại diện các phong trào công giáo tiến hành ở Nhà Thờ Thánh Giá Nicosia Cyprus Thứ Bảy 5/6/2010

 

Điểm tập trung của việc chúng ta cử hành hôm nay đó là Thập Giá của Chúa Kitô. Nhiều người có thể đi đến chỗ đặt vấn đề là tại sao Kitô hữu chúng ta lại ca ngợi một dụng cụ của việc hành hình, một dấu hiệu của khổ đau, một thứ thua bại và thất bại. Thập Giá quả thực là những gì thể hiện tất cả những sự ấy. Tuy nhiên, Đấng đã bị treo trên cây Thập Giá này vì phần rỗi của chúng ta mà nó cũng tiêu biểu cho sự vĩnh viễn chiến thắng của tình yêu Thiên Chúa trên tất cả mọi sự dữ ở thế giới này.

 

Theo một truyền thống cổ thì gỗ của cây Thập Giá được làm bằng một cây do người con tên Seth của Adong trồng ở nơi chôn táng Adong. Ở chính địa điểm ấy, được cho rằng đó là Đồi Golgotha, nghĩa là sọ trường, Seth đã gieo một hạt giống từ cây biết lành biết dữ, cây ở giữa Vườn Địa Đường. Theo sự quan phòng của Thiên Chúa, công việc của Tên Gian Ác bị biến thành khí giới chống lại hắn.

 

Bị con rắn đánh lừa, Adong đã không còn lòng tin tưởng con thảo nơi Thiên Chúa nữa và đã phạm tội bằng việc cắn trái của thứ cây bị cấm trong vườn này. Hậu quả của tội lỗi này đó là thế giới phải chịu khổ đau và chết chóc. Những tác dụng thảm thương của tội lỗi là đau khổ và sự chết tất cả đều quá hiển nhiên trong lịch sử của giòng dõi Adong. Chúng ta thấy được điều này trong bài đọc thứ nhất hôm nay, với âm vang của việc Sa Ngã này cùng với bóng dáng của việc Chúa Kitô cứu chuộc. 

 

Như một hình phạt vì tội lỗi của mình, dân Yến Duyên (Israel), kiệt quệ trong sa mạc, bị những con rắn cắn và chỉ có thể được thoát chết nhờ nhìn lên cái biểu tượng được Moisen treo lên, ám chỉ Thập Giá là những gì sẽ kết liễu tội lỗi và sự chết một lần vĩnh viễn. Chúng ta rõ ràng thấy được rằng con người không thể tự cứu được mình khỏi các hậu quả của tội lỗi mình. Họ không thể tự cứu mình khỏi sự chết. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể giải cứu họ khỏi tình trạng làm nô lệ về luân lý và thể lý của họ mà thôi. Và vì Ngài yêu thương thế giới đến nỗi Ngài đã sai Người Con duy nhất của mình, không phải để luận phát thế gian – theo công lý đòi hỏi – mà là để nhờ Người thế gian được cứu độ. Người Con duy nhất này của Thiên Chúa đã phải đưa lên cao như Moisen đã treo con rắn lên trong sa mạc, nhờ đó tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Người có được sự sống.

 

Gỗ của Cây Thập Giá đã trở nên phương tiện cho việc cứu chuộc của chúng ta, như cái cây đã trở thành dịp Sa Ngã cho nhị vị nguyên phụ mẫu của chúng ta. Đau khổ và chết chóc, những gì đã là hậu quả của tội lỗi, đã trở nên chính phương tiện khống chế tội lỗi. Con Chiên vô tội đã bị sát tế trên bàn thờ Thập Giá, nhưng nhờ việc hiến tế của tế vật này đã phát sinh sự sống mới, ở chỗ, quyền lực của sự dữ bị hủy diệt bởi quyền năng của tình yêu tự hy hiến.

 

Thế nên Thập Giá là một cái gì đó cao cả hơn và mầu nhiệm hơn là những gì Thập Giá thoạt thấy. Thập Giá thật sự là một dụng cụ hành xích, khổ đau và thảm bại, nhưng đồng thời Thập Giá cho thấy một cuộc hoàn toàn biến đổi, một cuộc hoàn toàn đảo ngược những thứ sự dữ ấy: đó là những gì làm cho Thập Giá trở thành một biểu hiệu sống động nhất của niềm hy vọng thế giới vẫn hằng thấy được.  Thập Giá nói với tất cả những ai khổ đau – thành phần bị đàn áp, bệnh hoạn, nghèo khổ, bị ruồng bỏ, những nạn nhận của bạo lực – và Thập Giá mang lại cho họ niềm hy vọng rằng Thiên Chúa có thể biến đổi nỗi khổ đau của họ thành niềm vui, tình trạng lẻ loi cô quạnh của họ thành hiệp thông, cái chết của họ thành sự sống. Thập Giá cống hiến niềm hy vọng bất tận cho thế giới sa đọa của chúng ta.

 

Đó là lý do tại sao thế giới này cần đến Thập Giá. Thập Giá không phải chỉ là một biểu hiệu tôn sùng riêng tư, Thập Giá không phải là một phù hiệu về vai trò phần tử của một nhóm nào đó trong xã hội, và nơi ý nghĩa sâu xa nhất của mình, Thập Giá không liên quan gì tới áp đặt niềm tin hay triết lý bằng võ lực. Thập Giá nói về niềm hy vọng, Thập Giá nói về tình yêu thương, Thập Giá nói về việc chiến thắng của việc phi bạo lực trên thứ áp đảo đè nén, Thập Giá nói về việc Thiên Chúa nâng kẻ thấp hèn lên, tăng sức cho kẻ yếu kém, thắng vượt sự chia rẽ, và chế ngự hận thù bằng yêu thương. Một thế giới không có Thập Giá sẽ là một thế giới vô vọng, một thế giới xẩy ra tình trạng bất khả kiềm chế những hành xích và hung bạo, thành phần yếu kém sẽ bị khai thác và lòng tham lam sẽ thống trị. Tình trang vô nhân đạo của con người đối với con người sẽ được bộc lộ bằng những cách thức kinh hoàng hơn bao giờ hết, và cơn lốc bạo lực sẽ không bao giờ chấm dứt. Chỉ Thập Giá mới chấm dứt được nó. Trong khi không có một quyền lực trần thế nào có thể cứu được chúng ta khỏi các hậu quả của tội lỗi chúng ta, và không có một quyền lực nào trên đời này có thể đánh bại bất công là nguồn mạch của nó, thì việc can thiệp cứu độ của Vị Thiên Chúa yêu thương đã biến đổi thực tại tội lỗi và sự chết thành những gì phản lại thực tại này. Đó là những gì chúng ta cử hành khi chúng ta tôn vinh Thánh Giá của Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Thánh Anrê Crete đã có lý diễn tả Thánh Giá như là những gì “cao sang hơn, quí báu hơn mọi sự trên trái đất này […] vì nơi Thánh Giá, nhờ Thánh Giá và cho Thánh Giá mà tất cả mọi sự phong phú của phần rỗi chúng ta đã được cất giữ và phục hồi cho chúng ta” (Oratio X; PG 97, 1018-1019).

 

 

3.      Đại Kết Kitô Giáo

 

Trong bài diễn từ ngỏ cùng thành phần đại kết Kitô giáo thuộc Archeological area of the church of Agia Kiriaki Chrysopolitissa - Paphos Thứ Sáu 4/6/2010, Đức Thánh Cha nhận định rằng:

 

“Mối hiệp thông của Giáo Hội theo đức tin tông truyền vừa là một tặng ân vừa là một hiệu triệu truyền giáo. Trong đoạn Sách Tông Vụ chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy một hình ảnh về mối hiệp nhất của Giáo Hội trong nguyện cầu, và việc cởi mở của Giáo Hội trước những tác động của Thần Linh sứ vụ. Như Thánh Phaolô và Barnabas, hết mọi Kitô hữu, bởi Phép Rửa, được giành riêng để làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh cũng như cho Phúc Âm của Người về việc hòa giải, tình thương và hòa bình. Theo chiều hướng ấy, Thượng Nghị Giám Mục Cho Trung Đông, họp tại Rôma Tháng Mười tới đây, sẽ suy nghĩ về vai trò quan trọng của Kitô hữu ở vùng này, phấn khích họ làm chứng cho Phúc Âm, và giúp vào việc nuôi dưỡng vấn đề đối thoại và hợp tác hơn nữa giữa Kitô hữu khắp vùng này. Thật là ý nghĩa khi những lao nhọc công khó của Thượng Nghị ấy được phong phú hóa bởi sự hiện diện của các đại biểu huynh đệ từ các Giáo Hội khác và các cộng đồng Kitô hữu trong vùng, như là một dấu hiệu của việc chúng ta dấn thân chung cho việc phục vụ lời Chúa và việc chúng ta cởi mở trước quyền năng của ơn Ngài hòa giải.

 

Mối hiệp nhất của tất cả mọi thành phần môn đệ của Chúa Kitô là một tặng ân cần phải nài xin Cha ban cho trong niềm hy vọng rằng nó sẽ kiên cường việc làm chứng từ cho Phúc Âm trong thế giới ngày nay. Chúa Kitô đã cầu nguyện cho sự thánh thiện và mối hiệp nhất của thành phần môn đệ của Người chính là để cho thế gian nhờ đó tin tưởng (cf Jn 17:21). Một trăm năm trước, ở Hội Nghị Truyền Giáo Edinburgh, ý sức sâu đậm là những chia rẽ giữa thành phần Kitô hữu là một trở ngại cho việc loan truyền Phúc Âm là những gì làm phát sinh phong trào đại kết tân thời. Ngày nay, chúng ta có thể cảm tạ Chúa là Đấng nhờ Thần Linh của mình đã dẫn chúng ta, nhất là trong các thập niên qua, tái nhận thức được cái gia sản tông đồ phong phú chung giữa Đông và Tây, và bằng việc nhẫn nại cùng chân thành đối thoại tìm thấy những cách thức tiến đến gần nhau hơn, thắng vượt những tranh cãi quá khứ và hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn.

 

Trong cuộc phỏng vấn của phóng viên báo chí trên chuyến máy bay sang Cyprus Thứ Sáu 4/6/2010:

 

Để trả lời cho vấn đề “Đức Thánh Cha thẩm định ra sao về vấn đề đối thoại (giữa Chính Thống và Công Giáo), nhất là về quan điểm thần học?”, ngài đã cho biết như sau:

 

“Tôi muốn bắt đầu bằng việc vạch ra những nét đậm được chúng ta thực hiện trong chứng từ chung cho các thứ giá trị của Kitô giáo trong một thế giới thế tục. Đó không phải chỉ là một thứ liên minh – về luân lý, chính trị, nhưng thực sự là một cái gì đó sâu xa chân thực, vì các thứ giá trị sâu xa này được chúng ta theo đó mà sống trong thế giới phàm tục đây không phải là chủ nghĩa thuần luân lý, nhưng là khía cạnh nồng cốt của đức tin Kitô giáo. Một khi chúng ta có thể làm chứng cho tất cả những thứ giá trị ấy, có thể tham gia vào vấn đề đối thoại, việc bàn luận về thế giới này, bằng việc làm chứng sống những thứ giá trị ấy, là chúng ta đã làm chứng cho mối hiệp nhất nền tảng của chính niềm tin sâu xa. Dĩ nhiên là có nhiều vấn đề về thần học, thế nhưng cho dù là vấn đề thần học chăng nữa, các yếu tố về hiệp nhất vẫn là những gì mạnh mẽ. Tôi muốn nói tới 3 yếu tố thắt kết chúng ta, những yếu tố chúng ta đang gần gũi nhau hơn, đang gần gũi nhau hơn. Yếu tố thứ nhất đó là Thánh Kinh, Thánh Kinh không phải là một cuốn sách từ trời rớt xuống, và mọi người đến cầm lấy mà đọc, nhưng đã phát triển thành một cuốn sách… Thánh Kinh không bị cô lập mà liên hệ với truyền thống và Giáo Hội. Ý thức này là những gì thiết yếu và thuộc về nền tảng của Chính Thống giáo và Công giáo, và cống hiến cho chúng ta một đường lối chung. Yếu tố thứ hai là truyền thống, những gì giải thích Thánh Kinh, mở cửa cho Thánh Kinh, đồng thời cũng có một thể thức về cơ cấu, có tính cách linh thánh, tính cách bí tích theo ý muốn của Chúa Kitô, một thể thức mà hàng giáo phẩm, một thể thức riêng, là giám mục đoàn với những chứng từ và sự hiện diện của truyền thống ấy. Và yếu tố thứ ba được gọi là regula fedei. Đó là việc tuyên xưng đức tin được phác họa nơi các công đồng xưa là tổng hợp những gì trong Thánh Kinh và mở ‘cửa’ cho việc dẫn giải Thánh Kinh. Rồi tới các yếu tố khác như phụng vụ, hay cùng kính mến Đức Mẹ là những gì liên kết chúng ta càng sâu xa hơn và đồng thời cho thấy rõ chúng ta là những nền tảng của đời sống Kitô giáo. Chúng ta cần phải ý thức hơn nữa và cũng cần phải sâu xa hơn nữa, thêánhưng, đối với tôi, mặc dù có những thứ văn hóa khác nhau, những hoàn cảnh khác nhau đã gia tăng những hiểu lầm và khó khăn, chúng ta vẫn phát triển về ý thức đối với những gì thiết yếu và mối hiệp nhất thiết yếu. Tất nhiên tôi cần phải thêm rằng việc tranh luận về thần học là một chiều kích quan trọng nhưng tự nó không tạo nên mối hiệp nhất, tuy nhiên toàn thể đời sống Kitô hữu, ở chỗ cảm nghiệm được tình huynh đệ, biết được tình huynh đệ này bất kể cảm nghiệm đã qua, là những tiến trình đòi nhiều nhẫn nại. Thế nhưng, tôi nghĩ, như việc chúng ta học nhẫn nại, cũng như học yêu thương, cùng với tất cả mọi chiều kích đối thoại thần học đang tiến triển, chúng ta hãy phó mặc thời điểm hiệp nhất trọn vẹn cho Chúa tùy Ngài ban cho chúng ta lúc nào Ngài muốn”.

 

Trong cuộc gặp gỡ cộng đồng Công Giáo Cyprus ở Sports field of St. Maron primary school – Nicosia Thứ Bảy 5/6/2010

 

“Anh chị em thân mến, trước hoàn cảnh chuyên biệt của anh chị em, tôi cũng muốn anh chị em chú trọng tới một phần thiết yếu trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội chúng ta, đó là việc tìm kiếm sống hiệp nhất hơn nữa trong bác ái yêu thương với những Kitô hữu khác và đối thoại với những ai không phải là Kitô hữu. Đặc biệt từ Công Đồng Chung Vaticanô II, Giáo Hội đã dấn thân tiến bước trên con đường thông cảm nhiều hơn đối với anh chị em đồng đạo Kitô hữu của chúng ta theo chiều hướng của những liên hệ mạnh mẽ yêu thương và thân tình hơn bao giờ hết giữa tất cả mọi thành phần lãnh nhận phép rửa. Với hoàn cảnh của mình, anh chị em có thể góp phần riêng của mình vào mục đích hiệp nhất Kitô giáo hơn nữa trong đời sống thường nhật của mình…”

 

Trong cuộc gặp gỡ Đức Chrysostomos II, Tổng Giám Mục Cyprus tại Tòa Tổng Giám Mục Chính Thống ở  Nicosia Thứ Bảy 5/6/2010:

 

“Theo truyền thống thì Cyprus được coi là một phần của Thánh Địa, và tình trạng liên tục xung đột ở Trung Đông cần phải là nguồn quan tâm cho tất cả mọi người môn đệ của Chúa Kitô. Không ai có thể tỏ ra dửng dưng lạnh lùng với nhu cầu nâng đỡ bao nhiêu có thể các Kitô hữu sống trong vùng đất rắc rối này, nhờ đó các Giáo Hội cổ có thể sống trong an bình và phát triển. Các cộng đồng Kitô hữu Cyprus có thể tìm thấy được một lãnh vực đầy hoa trái đối với việc hợp tác đại kết bằng lời cầu nguyện và cùng nhau hoạt động cho hòa bình, hòa giải và ổn định ở những mảnh đất bởi sự hiện diện trần thế của Đức Vua Bình An”.

 

4.      Hòa Bình Trung Đông

 

Trong cuộc phỏng vấn của phóng viên báo chí trên chuyến máy bay sang Cyprus Thứ Sáu 4/6/2010

 

Vấn đề thứ 2 trong 5 vấn đề được đặt ra trong cuộc phỏng vấn trên máy bay, đó là vấn đề liên quan tới chính trị như thế này: “Cyprus là một mảnh đất bị phân rẽ, Tâu Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha sẽ không đến miền bắc là phần đất người Thổ Nhĩ Kỳ chiếm cứ. Giáo Hội có muốn nói gì với các dân cư sống ở miền đó hay chăng? Đức Thánh Cha nghĩ thế nào về chuyến đi của mình trong việc giúp giải quyết khoảng cách giữa người Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ để có thể tiến tới một quyết tâm chung sống an bình, tôn trọng tự do tôn giáo, gia sản thiêng liêng và văn hóa của các cộng đồng khác nhau”.

 

Đức Thánh Cha đã trả lời như sau: “Chuyến đi tới Cyprus này, nơi nhiều cách thức của mình, là một tiếp nối cuộc hành trình Thánh Địa năm ngoái và Malta năm nay. Cuộc hành trình tới Thánh Địa có 3 phần bao gồm các lãnh địa của Jordan, Israel và Palestine. Đối với cả 3 thì đó là một cuộc viếng thăm về mục vụ, một cuộc hành trình về tôn giáo hay chính trị chứ không phải là một cuộc du lịch. Đề tài căn bản là bình an của Chúa Kitô, một thứ bình an cần phải là bình an phổ quát trên thế giới. Bởi vậy chủ đề trước hết là việc loan truyền đức tin của chúng ta, làm chứng cho đức tin, cuộc hành trình tới những nơi ấy là những gì làm chứng cho Chúa Kitô và đồng thời cũng làm chứng cho toàn thể lịch sử linh thánh là trách nhiệm chung của tất cả những ai tin tưởng nơi một vị Thiên Chúa Tào Thành trời đất, một vị Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Ngài…. Bởi vậy mà các đề tài đó là việc làm chứng cho đức tin của chúng ta về Vị Thiên Chúa duy nhất, là đối thoại và hòa bình…. Đừng đến với một sứ điệp chính trị mà là sứ điệp tôn giáo, một sứ điệp cần phải sửa soạn cho nhiều tâm hồn hơn nữa trong việc tìm kiếm cửa ngõ cho hòa bình. Đó không phải là những gì xẩy ra đùng một cái, nhưng là những gì rất quan trọng không phải chỉ ở chỗ thực hiện những bước tiến cần thiết về chính trị mà nhất là sửa soạn cho tâm hồn có thể thực hiện những bước tiến chính trị cần thiết trong việc tạo nên sự cởi mở cho thứ bình an nội tâm, một bình an nội tâm thực sự xuất phát từ niềm tin tưởng vào vị Thiên Chúa và niềm tin tất cả chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa và là anh chị em giữa chúng ta với nhau”.

 

Tiếp theo chiều hướng này, để trả lời cho vấn đề thứ ba được đặt ra cũng liên quan tới chính trị, đó là “Đức Thánh Cha nghĩ sao về việc Tòa Thánh, việc Vatican có thể giúp thắng vượt giây phút khó khăn này (biệt chú của người dịch: liên quan tới vụ Do Thái tấn công ở Gaza đụng tới người Thổ gây gia tăng căng thẳng) đối với Trung Đông?”, Đức Thánh Cha đã trả lời rằng: “Chúng tôi chính yếu đóng góp về tôn giáo. Chúng tôi cũng có thể giúp khuyến dụ về chính sách và chính trị, thế nhưng công việc thiết yếu của Vatican bao giờ cũng là tôn giáo là những gì tác động cõi lòng. Qua tất cả những tai biến xẩy ra này bao giờ cũng bao gồm một thứ nguy hiểm đó là vấn đề làm cho các bạn mất nhẫn nại, tức là ‘đủ rồi’ và không còn muốn tìm kiếm hòa bình nữa. Ở đây, trong Năm Linh Mục, tôi muốn nhắc đến một câu truyện hay của một vị linh mục cao cả ở A. Có những người nói với ngài rằng thật là vô ích nếu tôi giờ đây đi xưng tội và lãnh ơn tha thứ, vì mai kia tôi dám chắc rằng tôi sẽ lại sa ngã cùng một tội, thì Cha Sở Họ A đã trả lời rằng: đừng làm gì hết, vị Chúa đã cố ý tha thứ cho những gì bạn mai kia có phạm cùng một tội, Ngài hôm nay đã hoàn toàn tha thứ cho bạn, sẽ nhẫn nại và sẽ tiếp tục giúp đỡ, sẽ đến với bạn. Bởi thế chúng tôi đã hầu như bắt chước Thiên Chúa, bắt chước gương nhẫn nại của Ngài. Sau khi xẩy ra tất cả những thứ bạo động, đừng bất nhẫn, đừng chán nản, hãy nhẫn nại bắt đầu lại và trang bị những sự ấy trong tâm hồn để bắt đầu lại, tin tưởng rằng chúng ta có thể tiến lên, chúng ta có thể đạt tới hòa bình, Bạo Động không phải là cách giải quyết, chỉ nhẫn nại mới tốt. Việc trang bị như thế đối với tôi là công việc chính được Vatican và các cơ cấu của mình và Giáo Hoàng có thể thực hiện”.

 

Trong bui gp g các v thm quyn dân s và các phái đoàn ngoi giao ti dinh Tng Thng Nicosia Th By 5/6/2010

 

“Theo quan đim tôn giáo thì chúng ta đều là nhng phn t ca mt gia đình nhân loi duy nht được Thiên Chúa dng nên và chúng ta được kêu gi để duy trì mi hip nht và xây dng mt thế gii công chính và huynh đệ hơn được căn c vào các th giá tr bn vng. Bao lâu chúng ta hoàn tt nhim v ca mình, phc v người khác và gn bó vi nhng gì là chân chính, thì tâm trí ca chúng ta tr nên ci m hơn vi nhng s tht sâu xa hơn và t do ca chúng ta gia tăng mnh m ch nó gn bó vi nhng gì là thin ho. V Giáo Hoàng tin nhim Gioan Phaolô II đã tng viết rng không được coi trách nhim luân lý như là mt th lut t mình là nhng g áp đặt t bên ngoài và buc phi tuân phc, nhưng là mt th hin s khôn ngoan ca Thiên Chúa là nhng gì t do ca con người phi sn sàng thun phc (cf. Veritatis Splendor, 41). Là con người, chúng ta tìm thy tm vóc viên trn ti hu ca mình liên quan ti Thc Ti Tuyt Đối là thc ti thường được thy phn nh nơi lương tâm ca chúng ta như mi li mi gi thôi thúc phc v chân lý, công lý và yêu thương…

 

“Thế nhưng, trên thc tế, vic tôn trng và c động s tht luân lý có nghĩa gì trong thế gii chính tr và ngoi giao tm vóc quc gia và quc tế? Làm sao vic theo đui s tht có th mang li tình trng hòa hp hơn na cho nhng vùng đất rc ri này trên thế gii? Tôi nghĩ nó có th được thc hin bng ba cách thc:

 

Trước hết, vic c võ s tht v luân lý nghĩa là tác hành mt cách hu trách theo kiến thc có d kin. Là thành phn ngoi giao, theo kinh nghim, anh ch em biết kiến thc như vy giúp anh ch em thy được nhng gì là bt công và bt bình, nh đó t ra bình thn xem xét nhng mi quan tâm ca tt c nhng ai trong cuc tranh cãi…. Nhng ai được kêu gi gii quyết nhng cuc tranh cãi như thế có th thc hin nhng quyết định chính đáng và phát động vic hòa gii thc s khi h nm được và công nhn tt c s tht v mt vn đề đặc bit. 

Cách thứ hai để cổ võ sự thật về luân lý là ở chỗ phá hủy đi những ý hệ chính trị là những gì chiếm chỗ của chân lý. Các kinh nghiệm thê thảm của thế kỷ 20 đã lột trần những gì là bất nhân xuất phát từ việc đàn áp chân lý và phẩm giá con người. Trong thời điểm của chúng ta đây, chúng ta đang chứng kiến những nỗ lực phát động những giá trị được đề ra dưới chiêu bài hòa bình, việc phát triển và các thứ nhân quyền. Theo chiều hướng ấy, khi nói với Tổng Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, tôi đã kêu gọi chú trọng tới những nỗ lực ở một số lãnh vực trong việc tái giải thích Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền bằng cách thỏa đáng những ích lợi riêng gây tác hại tới mối hiệp nhất nội tại của Bản Tuyên Ngôn này và tách ra khỏi chủ ý ban đầu của nó” (cf. Address to the United Nations General Assembly, 18 April 2008).  

Thứ ba, việc vổ võ sự thật về luân lý nơi đời sống quần chúng đòi phải liên tục nỗ lực đặt lề luật xác thực trên các nguyên tắc đạo lý của lề luật tự nhiên…. Những cá nhân, cộng đồng và quốc gia, thiếu hướng dẫn của các sự thật luân lý khách quan, sẽ trở thành vị kỷ và thiếu đạo đức, và thế giới càng trở thành một nơi nguy hiểm để sống… Khi các chính sách chúng ta ủng hộ được ban hành hợp với luật tự nhiên xứng với nhân tính chung của chúng ta, bấy giờ các hành động của chúng ta mới trở nên lành mạnh hơn và có lợi cho một môi trường thông cảm, công lý và hòa bình. 

Trong buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 9/6/2010:

“Trong cuộc gặp gỡ các vị thẩm quyền dân sự và phái đoàn ngoại giao, tôi đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của luật xác thực trên các nguyên tắc luân lý đạo đức của luật tự nhiên, để phát động sự thật về luân lý trong đời sống quần chúng. Nó là một gọi mời lý trí, một mời gọi căn cứ vào các nguyên tắc về đạo lý và mang trọng trách áp dụng cấp bách cho xã hội ngày nay, một xã hội thường không con nhìn nhận truyền thống văn hóa nó được hình thành…"

 

Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh là Đấng được toàn quyền trên trời dưới đất.

Chúa thật sự là Lời Hóa Thành Nhục Thể theo huyết nhục Do Thái,

tại chính nơi mảnh đất đã được Cha trên trời hứa ban

cho thành phần dân tuyển chọn này qua các vị tổ phụ của họ,

một mảnh đất giờ đây vẫn còn một vết thương hết sức nhức nhối

trên 60 năm cho lịch sử cuối thể kỷ 20 và đầu thiên kỷ thứ ba của nhân loại.

Xin Chúa hãy biến chuyến tông tu Cyprus của vị đại diện Chúa trên trần gian

là Đức Thánh Cha Biển Đức XVI vừa qua trở thành

vui mừng và hy vọng cho chung vùng đất Trung Đông và riêng Thánh Địa đầy linh thiêng.

Amen.