“Theo Vết Chân của Đức Gioan Phaolô II,

Một Nhân Chứng Đức Tin”

 

Giáo Hoàng Biến Đức XVI: Chuyến Tông Du Mục Vụ Balan 25-28/5/2006

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

chuyển dịch theo mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/travels/2006/index_polonia_en.htm

 

Lịch Trình về Chuyến Tông Du ở Balan

“Hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em”;

 Ngày nay Giáo Hội ở Balan đang gặp phải những thách đố cả thể về mục vụ,

ở chỗ làm sao để có thể chăm sóc cho thành phần tín hữu rời bỏ quê hương xứ sở;

Chúng ta nhận thấy có nhiều tiến bộ nơi lãnh vực đại kết,

song chúng ta vẫn luôn mong đợi hơn thế nữa”;

Đức tin không phải chỉ là việc chấp nhận một số các chân lý trừu tượng ...

Đức tin là ở chỗ sống liên hệ thân mật với Chúa Kitô”;

Chúng ta cần phải hết sức chú trọng tới việc phát triển đức tin của chúng ta,

để đức tin được thực sự thấm đậm tất cả mọi

thái độ, tâm tưởng, hành động và ý hướng của chúng ta”;

“Ngài mời gọi chúng ta hãy tái kiên cường ơn đức tin,

hãy canh tân đổi mới trong Thần Linh và hãy ‘mặc lấy con người mới’…”;

 

Theo bước chân của Đức Gioan Phaolô II, một nhân chứng đức tin

“Xin anh chị em hãy nguyện cầu cho tôi cũng như cho toàn thể Giáo Hội”;

“Là những người mang dấu tích đau thương nơi thân xác hay tâm hồn,

quí bạn được liên kết mật thiết nhất với Thập Tự Giá của Chúa Kitô,

và đồng thời quí bạn cũng là những chứng nhân sống động nhất của tình thương Thiên Chúa”;

“Một đức tin không sợ những nghịch thường

vì nó được cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô làm kiên vững”;

“Anh chị em cần phải mạnh mẽ bằng mãnh lực xuất phát từ đức tin.

Anh chị em cần phải mãnh liệt bằng sức mạnh của đức tin”;

“Ở tại Auschwitz-Birkenau, nhân loại đã bước đi qua ‘thung lũng tối’...

Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi,

cây roi và cái trượng của Ngài, đó là điều an ủi lòng tôi”;

“Xin Người Mẹ của Đấng Cứu Chuộc hướng dẫn anh chị em sống đức tin của anh chị em”;

Tôi xin anh chị em hãy mãi là những người trung thành quản thủ kho tàng Kitô Giáo

và truyền đạt nó cho các thế hệ mai hậu

“Hôm nay, tôi muốn ôn lại với anh chị em những đoạn đường của chuyến tông du

tôi mới thực hiện ở Balan trong mấy ngày gần đây”

“Anh chị em hãy đứng vững trong đức tin”

 

 

 

Lịch Trình về Chuyến Tông Du ở Balan

 

 

Giữa ngày 25-28/5/2006, ngài theo thứ tự viếng thăm những địa điểm sau đây: Warsaw, Czestochowa, Krakow, Wadowice, Kalwaria Zebrzydowska, và Auschwitz.

 

Thứ Năm ngày 25/5, ngài rời Rôma tại Phi Trường Fiumicino vào lúc 8 giờ 40 sáng đến Warsaw vào lúc 11 giờ sáng. Sau nghi thức nghênh đón, ngài  họp với hàng giáo sĩ ở nhà thờ chính tòa Thánh Gioan. Vào lúc 5 giờ 45 ngài viếng thăm đáp lễ tổng thống Balan ở dinh tổng thống, trước khi tham dự một cuộc họp đại kết ở nhà thờ Luthêrô Chúa Ba Ngôi.

 

Vào Thứ Sáu 26/5, ngài cử hành Lễ ở Quảng Trường Pilsudski Warsaw. Buổi chiều, ngài đi trực thăng tới Czestochowa để viếng thăm Đền Trinh Nữ Jasna Gora và gặp gở thành phần tu sĩ, chủng sinh và đại diện các phong trào Công Giáo và các tu hội tận hiến, và về Krakow nghỉ đêm ở tòa tổng giám mục.

 

Thứ Bảy, ngài cử hành lễ riêng ở tòa TGM Krakow trước khi đi xe tới Wadowice, nơi ngài thăm đền thờ Vô Nhiễm và nhà hạ sinh của Đức Gioan Phaolô II, tiếp theo ngài gặp gỡ dân chúng địa phương ở Quảng Trường Rynek. Buổi trưa ngài viếng thăm đền thánh Trinh Nữ Kalwaria Zebrzydowska. Trên đường trở về Krakow, ngài thăm đền thờ Chúa Tình Thương và Vương Cung Thánh Đường Wawel, và vào lúc 7 giờ tối ngày gặp giới trẻ ở Công Viên Blonie.

 

Chúa Nhật, 28/5, vào lúc 9 giờ 45, ngài cử hành Thánh Lễ ở Công Viên Blonie, và nguyện kinh Regina Coeli. Sau bữa trưa, ngài đi xe từ tòa TGM ở Krakow đến Auschwitz. Kế tiếp, ngài tham dự một cuộc hội ngộ nguyện cầu để tưởng nhớ tới các nạn nhân ở trại tập trung Birkenau. Vào lúc 6 giờ 30, ngài đi thẳng từ Birkenau đến phi trường Balice ở Krakow. Sau nghi thức tiễn biệt, máy bay đưa ngài trở về cất cánh lúc 8 giờ tối và hạ cánh ở Rôma vào lúc 9 giờ 15 đêm.

 

Theo Niên Giám Giáo Hội mới nhất với các con số thống kê tính tới ngày 31/12/2004 thì Balan có 38.2 triệu dân, trong đó có 36.6 triệu là Công Giáo (tức 95.8%). Có 45 giáo phận, 10.114 giáo xứ và 800 trung tâm mục vụ đủ loại, hiện có 133 vị giám mục, 26.546 linh mục, 24.826 tu sĩ, 1.081 giáo dân thuộc các tu hội đời và 14.418 giáo lý viên. Có 1.803 tiểu chủng sinh và 6.427 đại chủng sinh. Có 1.726 trung tâm giáo dục từ tiểu tới đại học, 33 bệnh viện, 244 bệnh xá, 267 nhà chăm sóc cho người già hay khuyết tật, và 1.462 trung tâm giáo dục và phục hồi xã hội.

 

Cả bài về lịch trình này được dựa theo VIS ngày 25-26/4/2006

 

 TOP

 

 

“Hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em”

 

Khai Từ tại Phi Trường Okecie ở Warszaw Thứ Năm 25

 

 

(Trong bài khai từ được chia ra làm 4 phần này, chúng ta chỉ cần đọc phần đầu và phần cuối mà thôi, vì phần thứ hai liên quan tới việc chào hỏi đủ mọi giới chức đạo đời, và phần ba là phần tổng quan về lịch trình chuyến tông du này. Sau đây là phần 1 và 4).

 

“Tôi lấy làm vui mừng được đứng giữa anh chị em hôm nay đây trên mảnh đất của Cộng Hòa Balan. Tôi rất muốn thực hiện chuyến viếng thăm này đến mảnh đất và nhân dân bản xứ đối với vị Tiền Nhiệm yêu dấu của tôi là Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II. Tôi đến để theo bước chân cuộc sống của ngài, từ thuở thiếu thời của ngài cho tới khi ngài ra đi tham dự mật nghị đáng ghi nhờ năm 1978. Theo cuộc hành trình này, tôi muốn gặp gỡ và hiểu biết các thế hệ của thành phần tín hữu đã cống hiến ngài cho việc phục vụ Thiên Chúa và Giáo Hội, cũng như gặp gỡ và hiểu biết những ai được sinh ra và trưởng thành cho Chúa Kitô theo sự hướng dẫn mục vụ của ngài với tư cách là linh mục, Giám Mục và Giáo Hoàng. Việc cùng nhau hành trình này sẽ được tác động bởi câu khẩu hiệu: ‘Hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em’. Tôi đề cập tới điều này ngay từ đầu để nhấn mạnh rằng đầy không phải chỉ là một cuộc hành trình theo tình cảm, mặc dù bao gồm cả vấn đề này nữa, mà là một cuộc hành trình đức tin, một phần của sứ vụ do Chúa Kitô ký thác cho tôi nơi con người của Tông Đồ Phêrô, vị đã được kêu gọi để củng cố anh chị em mình trong đức tin (x Lk 22:32). Tôi cũng muốn rút ra từ mạch suối dồi dào đức tin của anh chị em, một đức tin liên lỉ chảy cả hơn một ngàn năm………….

 

"‘Hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em’ – đây là câu tâm niệm cho chuyến Tông Du của tôi. Tôi hy vọng rằng những ngày của chuyến tông du này sẽ giúp vào việc làm kiên cường đức tin của tất cả mọi người chúng ta – các phần tử thuộc Giáo Hội ở Balan và cả chính tôi nữa. Chớ gì chuyến viếng thăm của tôi sẽ trở thành một thời gian của tình huynh đệ, thiện ích và hy vọng cho cả những ai chưa được ơn đức tin song lòng của họ tràn đầy thiện chí nữa. Chớ gì những giá trị bền bỉ này của nhân loại trở thành nền tảng vững chắc cho việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, một thế giới mà trong đó mọi người được hoan hưởng cả về sự giầu thịnh về vật chất lẫn niềm vui thiêng liêng. Đó là ý nguyện của tôi cho toàn thể nhân dân Balan. Một lần nữa tôi xin cám ơn Ngài Tổng Thống cùng các Vị Giám Mục Balan đã ngở mời tôi. Tôi thân ái gắn bó với nhân dân Balan ở khắp mọi nơi và tôi xin họ hãy hỗ trợ cuộc hành trình đức tin này của tôi bằng lời nguyện cầu".

 

 

  TOP

 

 

Ngày nay Giáo Hội ở Balan đang gặp phải những thách đố cả thể về mục vụ,

ở chỗ làm sao để có thể chăm sóc cho thành phần tín hữu rời bỏ quê hương xứ sở

 

Huấn Từ với Hàng Giáo Sĩ Balan tại Vương Cung Thánh Đường Warszawa Thứ Năm 25

 

 

‘Trước hết, nhờ Đức Giêsu Kitô tôi tạ ơn Chúa cho tất cả anh em… Vì tôi mong được gặp gỡ anh em để tôi có thể trao tặng cho anh em những tặng ân thiêng liêng để làm cho anh em thêm kiên cường, tức là, để chúng ta có thể phấn khích đức tin của nhau, cả của tôi cũng như của anh em’ (Rm 1:8-12).

 

Quí vị linh mục thân mến, tôi ngỏ cùng anh em những lời này của Thánh Phaolô, vì chúng hoàn toàn phản ảnh tâm tưởng của tôi hôm nay, phản ảnh các ước muốn cùng những nguyện cầu của tôi. Tôi đặc biệt chào Đức Hồng Y Joséf Glemp, Tổng Giám Mục Warsaw và là Vị Giáo Chủ của Balan, vị tôi xin gửi lời chúc mừng thân ái nhất của tôi nhân dịp 50 thụ phong linh mục vào chính ngày hôm nay đây. Tôi đến Balan, quê hương yêu dấu đối với vị Đại Tiền Nhiệm Giáo Hoàng Gioan Phaolô II của tôi, để hít thở, như ngài vẫn thường làm, bầu khí đức tin anh em đang sống, cũng như để ‘chuyển đến cho anh em tặng ân thiêng liêng để nó có thể làm cho anh em nên kiên cường’. Tôi tin rằng chuyến hành hương của tôi trong những ngày này sẽ là những gì ‘phấn khích niềm tin chung của chúng ta, của anh em và của tôi’.

 

Hôm nay tôi đang gặp gỡ anh em ở Vương Cung Thánh Đường Warsaw, nơi mà từng viên đá đều nói lên cái lịch sử tang thương về thủ đô của anh em cũng như về quê hương của anh em. Anh em đã chịu biết bao nhiêu là thử thách trong quá khứ vừa qua! Chúng ta nhớ lại những chứng nhân anh hùng làm chứng cho đức tin, thành phần đã bỏ mạng sống mình cho Chúa cũng như cho đồng loại của mình, kể cả các vị thánh đã được tuyên phong cũng như dân thường, những người đã kiên trì sống cương trực, chuyên chính và thiện hảo, không bao giờ tỏ ra thất vọng. Nơi Vương Cung Thánh Đường này, tôi đặc biệt nhớ đến Người Tôi Tớ Chúa là Đức Hồng Y Stefan Wyszynski, vị tôi gọi là ‘Giáo Chủ của Ngàn Năm’. Phó mình cho Chúa Kitô và Mẹ của Người, ngài đã biết trung thành phục vụ Giáo Hội, bất chấp những thử thách thảm thương và dai dẳng xẩy ra quanh ngài. Chúng ta hãy tri ân cảm tạ nhớ tới những ai không để mình bị quyền lực tối tăm lấn át, và chúng ta hãy học từ các vị lòng can đảm kiên trì liên lỉ gắn bó với Phúc Âm Chúa Kitô.

 

Hôm nay tôi đang gặp gỡ anh em, những vị linh mục được Chúa Kitô kêu gọi để phục vụ Người trong ngàn năm mới. Anh em đã được chọn trong dân, được chỉ định để tác hành liên quan với Thiên Chúa, để hiến dâng những lễ vật và hy sinh đền bù tội lỗi. Hãy tin tưởng vào quyền năng thiên chức linh mục của anh em! Bởi bí tích này, anh em đã lãnh nhận tất cả những gì anh em có. Khi anh em thốt lên những lời ‘Ta’ và ‘của Ta’ (‘Ta tha tội cho con… Này là mình của Ta…’), là anh em làm điều này không phải nhân danh anh em mà là nhân danh Chúa Kitô, ‘in persona Christi’, Đấng muốn sử dụng môi miệng và bàn tay của anh em, tinh thần hy sinh của anh em và tài năng của anh em. Vào lúc anh em được thụ phong, qua dấu hiệu đặt tay theo phụng vụ, Chúa Kitô đã đến để bênh vực anh em; anh em đã được bàn tay của Người và Trái Tim của Người bao bọc chở che. Hãy dìm mình vào tình yêu thương của Người, và hãy dâng cho Người tình yêu của anh em! Khi bàn tay của anh em được xức dầu, một dấu hiệu Thánh Linh, là chúng được giành để phục vụ Chúa như bàn tay riêng của Người trong thế giới hôm nay. Chúng không còn phục vụ những mục đích vị kỷ nữa, mà phải tiếp tục làm chứng cho tình yêu của Người trên thế giới.

 

Sự cao cả nơi thiên chức linh mục của Chúa Kitô khiến chúng ta cảm thấy rùng mình. Chúng ta có thể bị thôi thúc mà kêu lên như Thánh Phêrô rằng: ‘Lạy Chúa, xin xa con ra, vì con là một kẻ tội lỗi’ (Lk 5:8), vì chúng ta thấy khó có thể tin được rằng Chúa Kitô đã đặc biệt kêu gọi chúng ta. Người chẳng lẽ không chọn được một người khác có khả năng hơn tôi, thánh thiện hơn tôi hay sao? Thế nhưng Chúa Giêsu đã âu yếm nhìn đến mỗi một người trong chúng ta, để rồi chúng ta cảm thấy tin tưởng trước ánh mắt này của Người. Chúng ta đừng bị vội vã cuốn hút, như thể thời giờ giành cho Chúa Kitô trong thinh lặng nguyện cầu là thời gian lãng phí. Trái lại, chính vào lúc bấy giờ mà những hoa trái tuyệt vời nhất của việc mục vụ mới phát sinh. Không nên chán nản vì sự kiện cần phải cố gắng mới thực hiện được việc nguyện cầu, hay vì cảm giác Chúa Giêsu vẫn cứ lặng thinh. Người thực sự là thinh lặng, thế nhưng Người cũng đang hành động. Về vấn đề này tôi cảm thấy vui nhắc lại cảm nghiệm của tôi năm ngoái ở Cologne. Tôi bấy giờ đã chứng kiến thấy một sự thinh lặng sâu xa không thể nào quên được của một triệu con người trẻ vào lúc Chầu Thánh Thể! Cái thinh lặng nguyện cầu ấy liên kết chúng ta, cống hiến cho chúng ta niềm an ủi lớn lao. Trong một thế giới đầy những ồn ào náo động, đầy những hoang mang bối rối, cần phải thực hiện việc thinh lặng chầu Chúa Giêsu ẩn mình trong Bánh Thánh. Hãy siêng năng thực hiện việc nguyện chầu ấy và dạy cho giáo dân biết làm việc này. Nó là mạch nguồn của niềm ủi an và ánh sáng đặc biệt cho những ai đang cảm thấy khổ đau.

 

Người tín hữu mong đợi chỉ một điều duy nhất nơi các vị linh mục, đó là các vị trở thành những chuyên viên cổ động việc hội ngộ giữa con người với Thiên Chúa. Vị linh mục không được yêu cầu hãy trở thành chuyên viên về kinh tế, kiến trúc hay chính trị. Ngài cần phải trở thành chuyên viên về đời sống thiêng liêng. Để nhắm tới mục đích này, trong những bước đầu, vị linh mục trẻ cần phải làm cho có thể tham vấn với một bậc thày đầy kinh nghiệm có thể giúp họ không bị lạc đường giữa đầy những tâm tưởng được nền văn hóa thời đại tung ra. Trước những khuynh hướng của chủ nghĩa tương đối hay của xã hội yếm thế, vị linh mục thực sự không cần phải biết được tất cả những gì là cập nhật hóa nhất, việc thay đổi các trào lưu tư tưởng; cái tín hữu mong đợi nơi ngài đó là việc ngài trở thành một nhân chứng cho đức khôn ngoan hằng hữu được chất chứa nơi lời mạc khải. Mối quan tâm đến phẩm chất của việc nguyện cầu riêng tư cũng như đến việc trao luyện tốt đẹp về thần học là những gì sinh hoa kết trái trong đời sống. Sống dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa chuyên chế độc đoán có thể gây ra một khuynh hương vô thức trong việc nấp sau chiếc mặt nạ, do đó trở thành một cái gì đó giả hình. Dĩ nhiên là điều này không làm gia tăng những mối liên hệ huynh đệ chân chính và có thể sẽ dẫn tới chỗ quá tập trung vào bản thân mình. Thực sự chúng ta tăng trưởng một cách chín chắn về tình cảm nếu lòng chúng ta gắn bó với Thiên Chúa. Chúa Kitô cần đến những vị linh mục trưởng thành, cứng cát, có thể vun trồng tính cách thân phụ thiêng liêng chân thực. Để thực hiện điều ấy, các vị linh mục cần phải tỏ ra chân thành, cởi mở với vị linh hướng và tin tưởng vào tình thương thần linh.

 

Nhân dịp Đại Năm Thánh, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thường huấn dụ Kitô hữu hãy thực hiện việc thống hối về những bất trung bội tín trong quá khứ. Chúng ta tin rằng Giáo Hội là thánh, nhưng lại có các tội nhân nơi thành phần chi thể của Giáo Hội. Chúng ta cần loại trừ ước muốn chỉ đồng hóa mình với những ai vô tội. Làm sao Giáo Hội có thể loại trừ tội nhân ra khỏi hàng ngũ của mình được chứ? Chính vì phần rỗi của họ mà Chúa Giêsu đã mặc lấy xác thịt, đã chết và phục sinh. Bởi thế chúng ta cần phải biết thực hiện việc thành tâm thống hối theo Kitô giáo. Nhờ thực hành việc này, chúng ta hiệp với những người khác xưng thú các tội lỗi riêng tư, trước mặt họ và trước nhan Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta phải canh chừng yêu sách ngông cuồng cho mình có quyền phán xét các thế hệ trước kia, thành phần sống ở những thời điểm khác và trong hoàn cảnh khác. Cần phải chân thành khiêm tốn để chẳng những không phủ nhận tội lỗi trong quá khứ, đồng thời cũng không chiều theo những cáo buộc dễ dàng khi thiếu những bằng cớ thực sự hay chẳng lưu ý gì tới những tiền kiến khác ở thời bấy giờ. Ngoài ra, việc xưng thú lỗi lầm - confessio peccati, như Thánh Âu Quốc Tinh diễn tả, bao giờ cũng cần phải được kèm theo bằng việc xưng thú chúc tụng - confession laudis. Khi chúng ta xin lỗi về lỗi lầm đã làm trong quá khứ, chúng ta cũng cần phải nhớ đến sự thiện kèm theo nữa, nhờ ơn Chúa ban, sự thiện cho dù được chứa đựng trong những bình sành sinh hoa kết trái thường tuyệt vời.

 

Ngày nay Giáo Hội ở Balan đang gặp phải những thách đố cả thể về mục vụ, ở chỗ làm sao để có thể chăm sóc cho thành phần tín hữu rời bỏ quê hương xứ sở. Nạn thất nghiệp bắt buộc nhiều người phải xuất ngoại. Đó là một hiện tượng tràn lan và có tầm mức rộng lớn. Khi các gia đình bị phân chia như thế, khi những liên hệ về xã hội bị đổ vỡ, Giáo Hội làm thế nào có thể dửng dưng cho được. Những ai lìa bỏ như thế cần phải được các vị linh mục chăm sóc, những vị linh mục, cộng tác với Giáo Hội địa phương, thực hiện thừa tác mục vụ nơi thành phần di dân. Giáo Hội ở Balan đã có được nhiều linh mục và nữ tu để chẳng những phục vụ thành phần Balan tha hương, mà còn phục vụ cả những địa điểm truyền giáo đôi khi trong những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn ở Phi Châu, Á Châu, Mỹ Châu latinh cùng các miền khác. Xin đừng quên những nhà truyền giáo này, hỡi các vị linh mục yêu dấu của tôi. Tặng ân có được nhiều ơn gọi do Chúa ban cho Giáo Hội của anh em cần phải được lãnh nhận bằng một quan điểm thật sự là Công Giáo. Hỡi các vị linh mục Balan, xin đừng sợ xa lìa vùng thế giới an ninh và quen thuộc của mình, để lên đường phục vụ ở những nơi thiếu thốn linh mục và ở những nơi lòng quảng đại của anh em sinh hoa kết trái.

 

Hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em! Tôi cũng trao phó câu tâm niệm cho cuộc hành trình này của tôi nơi anh em nữa. Hãy sống chân chính đích thực trong cuộc đời của anh em cũng như nơi thừa tác vụ của anh em. Gắn mắt nhìn lên Chúa Kitô, anh em hãy sống một đời khiêm tốn, đoàn kết với tín hữu là thành phần anh em được gửi tới với họ. Hãy phục vụ mọi người; hãy trở thành thuận lợi trong các giáo xứ cũng như nơi những tòa giải tội, hãy hỗ trợ các phong trào và hội đoàn mới, hãy nâng đỡ các gia đình, đừng quên mối liên hệ với giới trẻ, hãy lưu ý tới thành phần nghèo khổ và bị bỏ rơi. Nếu anh em sống bởi đức tin thì Thánh Thần sẽ tỏ cho anh em biết những gì anh em cần phải nói năng và cách thức anh em cần phải phục vụ. Anh em bao giờ cũng có thể tin tưởng vào sự trợ giúp của Mẹ Maria là Đấng đi trước Giáo Hội trong đức tin. Tôi khuyên anh em hãy luôn kêu cầu Mẹ bằng những lời anh em quá quen thuộc, đó là: ‘Chúng con gắn bó với Mẹ, chúng con tưởng nhớ đến Mẹ, chúng con dõi theo Mẹ’.

 

Tôi ban phép lành cho tất cả anh em!

 

 

  TOP

 

 

Chúng ta nhận thấy có nhiều tiến bộ nơi lãnh vực đại kết,

song chúng ta vẫn luôn mong đợi hơn thế nữa”

 

Diễn Từ với Thành Phần Đại Kết Balan tại Nhà Thờ Ba Ngôi Chí Thánh Warsaw Tối Thứ Năm 25

 

 

Anh Chị Em thân mến trong Chúa Kitô, 

 

‘Xin ân sủng và bình an cho anh chị em từ Đấng đang có và là Đấng đã có cùng là Đấng đang đến, cũng như từ bảy thần linh trước ngai của Ngài, và từ Chúa Giêsu Kitô là chứng nhân trung thực, là trưởng tử của kẻ chết và là vị cai trị các vua chúa trên trái đất này’ (Rev 1:4-5). Với những lời ấy của Thánh Gioan trong Sách Khải Huyền chào bảy Giáo Hội ở Á Châu, tôi xin ngỏ lời chào nồng nàn đến tất cả quí vị đang hiện diện nơi đây, nhất là các vị đại diện Chư Giáo Hội cùng Chư Cộng Đồng Giáo Hội thuộc thành phần của Hội Đồng Balan Về Đại Kết. Tôi xin cám ơn Đức Tổng Giám Mục Jeremiasz thuộc Giáo Hội Chính Thống Biệt Lập, Chủ Tịch của Hội Đồng này, về những lời chào mừng và những lời lẽ liên kết thiêng liêng vừa ngỏ cùng tôi. Và tôi xin chào Đức Tổng Giám Mục Alfons Nossol, Chủ Tịch Hội Đồng Về Đại kết thuộc Hội Đồng Giám Mục Balan.

 

Cái nối kết chúng ta lại với nhau hôm nay ở nơi này đó là lòng chúng ta ước mong được gặp gỡ nhau, và trong việc cầu nguyện chung, chúng ta dâng lời tôn vinh cùng tôn kính Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta: ‘là Đấng yêu thương chúng ta và đã giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi của chúng ta bằng máu của Người và làm cho chúng ta trở thành một vương quốc, thành những vị linh mục cho Thiên Chúa là Cha của Người’ (Rev 1:5-6). Chúng ta dâng lời cảm tạ Chúa vì Người đã tập trung chúng ta lại với nhau, Người ban cho chúng ta Thần Linh của Người và Người làm cho chúng ta có thể – vượt trên và ở trên những gì vẫn còn phân rẽ chúng ta – kêu lên ‘Abba, Lạy Cha’. Chúng ta tin tưởng rằng chính Người đã không ngừng chuyển cầu cho chúng ta, nài xin cho chúng ta: ‘Chớ gì họ được hoàn toàn nên một, để thế gian biết rằng Cha đã sai Con và Cha đã yêu thương họ như Cha đã mến yêu Con’ (Jn 17:23). Cùng với anh chị em, tôi xin dâng lời tạ ơn về tặng ân có được một cuộc hội ngộ nguyện cầu chung này. Tôi thấy đó như là một giai đoạn thực hiện mục đích cương quyết được tôi đề ra ngay từ đầu Giáo Triều của mình, trong việc lấy làm ưu tiên nơi thừa tác vụ của mình việc trọn vẹn phục hồi mối hiệp nhất hữu hình nơi Kitô hữu. Vị Tiền Nhiệm yêu dấu của tôi là Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II đã tuyên bố rõ ràng khi Người đến thăm viếng Nhà Thờ Chúa Ba Ngôi Chí Thánh này vào năm 1991: “Cho dù chúng ta có dấn thân thế nào đi nữa cho công cuộc hiệp nhất thì nó bao giờ cũng vẫn là tặng ân của Thánh Thần. Chúng ta tỏ ra sẵn sàng chấp nhận tặng ân này là ở chỗ chúng ta mở lòng trí của mình ra cho Ngài qua đời sống Kitô hữu nhất là qua việc nguyện cầu’. Thật vậy, chúng ta không thể nào ‘thực hiện’ mối hiệp nhất bằng quyền năng riêng của mình được. Tôi đã nhắc nhở trong cuộc hội ngộ đại kết năm ngoái ở Cologne thế này: ‘Chúng ta chỉ có thể chiếm được mối hiệp nhất như là một tặng ân của Thánh Thần mà thôi’. Đó là lý do những ước vọng đại kết của chúng ta cần phải được sâu xa thấm đẫm lời nguyện cầu, việc tha thứ cho nhau và sự thánh thiện của đời sống mỗi người chúng ta. Tôi cảm thấy vui trước sự kiện là ở Balan này Hội Đồng Balan Về Đại Kết và Giáo Hội Công Giáo Rôma đã phát động nhiều sáng kiến về lãnh vực này.

 

‘Kìa, Người đang đến trên đám mây và mọi con mắt sẽ được trông thấy Người’ (Rev 1:7). Những lời này của Sách Khải Huyền nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đang hành trình tiến đến cuộc hội ngộ tối hậu với Chúa Kitô, khi Người tỏ mình ra trước mắt chúng ta cái ý nghĩa của lịch sử con người, một lịch sử có tâm điểm là Thập Tự Giá của hy tế cứu độ. Là cộng đồng môn đệ, chúng ta được hướng dẫn tới cuộc hội ngộ ấy, một cuộc hội ngộ đối với chúng ta là ngày cứu độ tràn đầy hy vọng và tin tưởng, ngày mà tất cả mọi niềm khát vọng của chúng ta được nên trọn, nhờ việc chúng ta sẵn sàng để mình được hướng dẫn bởi một đức ái hỗ tương là những gì do Thần Linh gợi lên trong chúng ta. Chúng ta hãy xây dựng niềm tin tưởng này không phải bằng công lênh của mình mà bằng việc nguyện cầu là việc Chúa Kitô nhờ đó tỏ cho thấy ý nghĩa về việc Người đến trên thế gian và về cái chết cứu độ của Người: ‘Lạy Cha, con muốn rằng cả họ nữa, thành phần Cha đã ban cho Con, cũng được ở với Con để chiêm ngưỡng vinh hiển Cha đã ban cho Con vì yêu Con trước khi tạo thành thế gian’ (Jn 17:24). Trong cuộc hành trình của chúng ta tiến tới cuộc hội ngộ với Chúa Kitô là Đấng ‘đang đến trên đám mây’, bằng đời sống của mình, chúng ta loan truyền việc Người chịu chết, chúng ta tuyên xưng việc Người sống lại, khi chúng ta đang đợi chờ Người lại đến. Chúng ta cảm thấy gánh nặng của trách nhiệm được tất cả những sự ấy bao gồm; thật vậy, sứ điệp của Chúa Kitô cần phải loan tới hết mọi người trên trái đất này, nhờ việc dấn thân của những ai tin vào Người và những ai được kêu gọi làm chứng rằng Người thực sự là Đấng được Cha sai (x Jn 17:23). Bởi thế, khi chúng ta loan báo Phúc Âm, chúng ta cần phải được tác động bởi ước vọng muốn vun trồng những mối liên hệ hỗ tương của đức ái chân tình, nhờ đó, căn cứ vào đấy, tất cả sẽ nhận biết rằng Cha đã sai Con và Ngài yêu thương Giáo Hội cũng như mỗi người chúng ta như Ngài đã yêu Con (x Jn 17:23). Công việc của thành phần môn đệ Chúa Kitô, công việc của mỗi người chúng ta, do đó, là hướng về mối hiệp nhất, bằng cách Kitô hữu chúng ta trở nên dấu hiệu hữu hình cho sứ điệp cứu độ của Người muốn ngỏ cùng hết mọi con người.

 

Xin cho tôi được nhắc lại một lần nữa về việc gặp gỡ đại kết đã xẩy ra tại nhà thờ này với sự tham dự của nhân vật đại đồng hương Gioan Phaolô II của anh chị em, cũng như về bài diễn từ của ngài, trong đó, ngài đã phác tả như sau nhãn quan của ngài về các nỗ lực nhắm đến mối hiệp nhất trọn vẹn của Kitô hữu: ‘Cái thách đố chúng ta đang phải đối đầu đó là việc thắng vượt những trở ngại từng bước một…. và là việc cùng nhau lớn lên trong mối hiệp nhất duy nhất ấy của Chúa Kitô, một mối hiệp nhất Người đã trang điểm cho Giáo Hội từ ban đầu. Tính cách hệ trọng của công việc này không cho phép tất cả những gì là hấp tấp hay bất nhẫn, nhưng nhiệm vụ cần phải đáp ứng ý muốn của Chúa Kitô đòi hỏi chúng ta cứ vững mạnh trên con đường tiến đến bình an và hiệp nhất giữa tất cả mọi Kitô hữu. Chúng ta quá rõ là không phải chúng ta là người sẽ chữa lành những vết thương chia rẽ và tái thiết hiệp nhất; chúng ta chỉ là những dụng cụ tầm thường được Thiên Chúa sử dụng. Mối hiệp nhất giữa Kitô hữu sẽ là một tặng ân Chúa ban, vào thời điểm hồng ân của Ngài. Chúng ta hãy khiêm nhượng hướng về ngày ấy, bằng việc lớn lên trong tình yêu thương, trong việc thứ tha cho nhau và trong niềm tin tưởng lẫn nhau’.

 

Từ cuộc hội ngộ này đã có nhiều sự đổi thay. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta thực hiện nhiều tiến bộ đối với vấn đề hiểu biết nhau và thân thiện với nhau. Xin cho tôi được nhắc lại một số biến cố đại kết đã xẩy ra trên thế giới trong thời gian ấy, đó là việc ban hành Thông Điệp Để Họ Được Hiệp Nhất Nên Một – Ut Unum Sint; những đồng ý về Kitô Học với các Giáo Hội tiền Chalcedonia; việc ký kết ở Augsburg bản ‘Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa’; việc gặp gỡ nhân dịp Đại năm Thánh 2000 và việc tưởng niệm đại kết các nhân chứng đức tin của thế kỷ 20; việc tái thiết cuộc đối thoại giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo ở cấp hoàn cầu, lễ an táng Giáo Hoàng Gioan Phaolô II với sự tham dự của hầu hết tất cả các Giáo Hội cùng các Cộng Đồng Giáo Hội. Tôi cũng nhận thấy sự kiện là cả ở Balan đây nữa, khát vọng của tình huynh đệ hướng về mối hiệp nhất có thể hãnh diện với những thành đạt cụ thể. Tôi xin nhắc lại nhân dịp này đó là việc ký kết vào năm 2000 tại chính ngôi nhà thờ này đây, giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma và Chư Giáo Hội thuộc Hội Đồng Balan Về Đại Kết, bản tuyên ngôn cùng công nhận tính cách hiệu thành của Bí Tích Rửa Tội; việc thiết lập Ủy Ban Về Đối Thoại của Hội Đồng Giám Mục Balan và của Hội Đồng Balan Về Đại Kết, một ủy ban bao gồm các Vị Giám Mục Công Giáo và các vị lãnh đạo Chư Giáo Hội khác; việc thiết lập các ủy ban đa phương cho cuộc đối thoại thần học giữa các tín hữu Công Giáo, Chính Thống, Lutherô, Giáo Hội Quốc Gia Balan, Mariavites và Adventists; việc phát hành bản dịch đại kết bộ Sách Tân Ước và Sách Thánh Vịnh; sáng kiến ‘Cứu Trợ Trẻ Em  Dịp Lễ Giáng Sinh’ do các tổ chức bác ái thuộc các Giáo Hội Công Giáo, Chính Thống và Tin Lành cùng nhau thực hiện.

 

Chúng ta nhận thấy có nhiều tiến bộ nơi lãnh vực đại kết, song chúng ta vẫn luôn mong đợi hơn thế nữa. Hôm nay xin cho tôi được lưu ý tới hai vấn đề hơi dài dòng. Vấn đề thứ nhất liên quan tới việc phục vụ bác ái của các Giáo Hội. Có nhiều anh chị em mong đợi nơi chúng ta tặng ân của tình yêu thương, của niềm tin tưởng, của việc chứng từ, của hoạt động trợ giúp thiêng liêng và trợ giúp cụ thể về vật chất. Tôi đã đề cập tới vấn đề này trong bức Thông Điệp ‘Thiên Chúa là Tình Yêu’ đầu tay của tôi, trong đó, tôi đã viết rằng: ‘Tình yêu thương tha nhân, xuất phát từ tình yêu Thiên Chúa, trước hết và trên hết là trách nhiệm đối với mỗi một tín hữu, thế nhưng nó cũng là trách nhiệm của toàn thể cộng đồng Giáo Hội ở mọi tầng cấp: từ cộng đồng địa phương đến Giáo Hội riêng cũng như tới toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Là cộng đồng, Giáo Hội cần phải thực thi yêu thương’ (đoạn 20). Chúng ta không thể bỏ qua ý tưởng thiết yếu này là từ ban đầu nền tảng rất vững chắc về mối hiệp nhất của thành phần môn đệ đã được thiết lập rồi: ‘trong cộng đồng tín hữu không bao giờ có vấn đề nghèo khổ chối từ bất cứ ai những gì cần thiết để có được một đời sống xứng đáng’ (ibid.). Ý nghĩ này là những gì luôn hiện hành, ngay cả trong tiến trình của các thế kỷ đổi thay về các hình thức trợ giúp huynh đệ; việc chấp nhận những thách đố về bác ái đương thời lệ thuộc phần lớn vào việc chúng ta cùng hoạt động với nhau. Tôi cảm thấy vui khi vấn đề này có một tiếng vang rộng lớn trên thế giới nơi hình thức của nhiều hoạt động đại kết. Tôi tri ân nhận thấy rằng trong cộng đồng Giáo Hội Công Giáo cũng như nơi Các Giáo Hội khác và Các Cộng Đồng Giáo Hội, có những hình thức mới khác nhau của hoạt động bác ái đã được phổ biến và những hình thức cũ cũng đã tài diễn với một nhiệt tình mới. Chúng là những hình thức thường bao gồm việc truyền bá phúc âm hóa và các hoạt động bác ái (x ibid 30b). Bất chấp tất cả mọi khác biệt cần phải thắng vượt nơi lãnh vực đối thoại liên giáo phái, vấn đề dường như vẫn thích hợp để qui việc tham gia bác ái cho cộng đồng đại kết của thành phần môn đệ Chúa Kitô trong việc họ tìm kiếm mối hiệp nhất trọn vẹn. Tất cả chúng ta có thể thực hiện việc đồng hoạt động cho thành phần thiếu thốn, khai thác đường lối liên hệ hỗ tương này, hoa trái của việc đối thoại giữa chúng ta với việc hoạt động chung. Theo tinh thần giới luật của Phúc Âm, chúng ta cần phải có được mối quan tâm nhiệt tình này đối với những ai nghèo khổ, dù là bất cứ ai. Về vấn đề này, tôi đã viết trong bức Thông Điệp của tôi là: ‘việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn đòi Kitô hữu phải đồng thanh lên tiếng trong việc ghi tâm khắc cốt vấn đề tôn trọng quyền lợi và nhu cầu của hết mọi người, nhất là người nghèo khổ, người hèn kém và người bất khả tự vệ’ (đoạn 30b). Tôi xin bày tỏ cùng tất cả những ai đang tham dự cuộc họp của chúng ta hôm nay đây là việc thực hành đức bác ái huynh đệ sẽ mang chúng ta lại gần nhau hơn và sẽ làm cho chứng từ của chúng ta về Chúa Kitô trước thế giới có tính cách khả tín hơn.

 

Vấn đề thứ hai tôi muốn đề cập tới liên quan đến đời sống hôn nhân và đời sống gia đình. Chúng ta biết rằng trong các cộng đồng Kitô hữu, các cộng đồng được kêu gọi để làm chứng cho tình yêu thương, thì gia đình chiếm một vị thế đặc biệt. Nơi thế giới ngày nay, một thế giới mà các mối tương quan liên quốc  gia và liên văn hóa là những gì đang phát triển, thì càng ngày càng xẩy ra là giới trẻ thuộc các truyền thống khác nhau, các tôn giáo khác nhau, hay các Kitô giáo phái khác nhau, quyết định thành lập gia đình. Đối với chính giới trẻ cũng như đối với những ai thân thương của họ, thì thường là một quyết định khó khăn bao gồm những nguy hiểm khác nhau liên quan tới cả vấn đề kiên trì với đức tin lẫn cơ cấu tương lai của gia đình, đến việc kiến tạo nên một bầu khí hiệp nhất trong gia đình lẫn những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển đời sống tâm linh nơi con cái. Tuy nhiên, nhờ việc lan rộng của vấn đề đối thoại đại kết ở tầm mức đại thể, mà quyết định ấy có thể dẫn tới việc hình thành một phòng thí nghiệm thực tiễn về mối hiệp nhất. Để vấn đề này được thực hiện cần phải có một thiện chí hỗ tương, việc hiểu biết và trưởng thành về đức tin của cả đôi bên, cũng như của các cộng đồng họ thuộc về. Tôi xin bày tỏ lòng cảm nhận của tôi đối với Ủy Ban Song Phương Hội Đồng Về Các Vấn Đề Đại Kết của Hội Đồng Giám Mục Balan và của Hội Đồng Ba Lan Về Đại Kết, một ủy ban đã bắt đầu soạn thảo một văn bản trình bày giáo huấn chung của Kitô Giáo về hôn nhân và đời sống gia đình, và nêu lên những nguyên tắc khả chấp đối với tất cả các cuộc hôn nhân kết ước liên giáo phái, ấn định chương trình chung về việc chăm sóc mục vụ cho cuộc hôn nhân như thế. Tôi muốn bày tỏ cùng tất cả anh chị em ước muốn thấy việc tin tưởng lẫn nhau và hợp tác với nhau giữa các Giáo Hội được gia tăng nơi lãnh vực tinh tế này, hoàn toàn tôn trọng các quyền lợi và trách nhiệm của thành phần phối ngẫu đối với việc huấn luyện đức tin của gia đình họ cũng như của việc họ giáo dục con cái mình.

 

‘Con đã tỏ cho họ biết danh Cha, và Con sẽ làm cho danh Cha được nhận biết, để tình Cha yêu Con cũng ở nơi họ, và Con ở trong họ’ (Jn 17:26). Anh Chị Em thân mến, đặt tất cả lòng tin tưởng của chúng ta nơi Chúa Kitô, Đấng làm cho chúng ta nhận biết danh của Người, chúng ta hằng ngày hãy tiến bước đến chỗ hoàn toàn hòa giải tình huynh đệ. Chớ gì lời nguyện cầu của Người làm cho cộng đồng của thành phần môn đệ Người trên trần gian này, trở thành một cộng đồng yêu thương hơn bao giờ hết, nơi mầu nhiệm của mình cũng như nơi mối hiệp nhất hữu hình của mình, phản ảnh mối hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần.

 

 

  TOP

 

 

Đức tin không phải chỉ là việc chấp nhận một số các chân lý trừu tượng ...

Đức tin là ở chỗ sống liên hệ thân mật với Chúa Kitô

 

Bài Giảng cho Thánh Lễ ở Quảng Trường Pilsudzki tại Warsaw Sáng Thứ Sáu 26

 

 

Chúc tụng Chúa Giêsu Kitô!

 

Anh Chị Em thân mến trong Chúa Kitô, Chúa chúng ta, ‘cùng với anh chị em tôi muốn hát bài thánh ca chúc tụng Đấng Quan Phòng thần linh đã cho tôi được đến đây như một người hành hương’. Hai mươi bảy năm trước đây, vị tiền nhiệm yêu dấu của tôi là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã mở đầu bài giảng của ngài ở Warsaw bằng những lời lẽ ấy. Tôi cũng xin mượn những lời ấy và tạ ơn Chúa là Đấng đã cho tôi có thể đến đây hôm nay tạo Quảng Trường lịch sử này. Ở nơi đây, vào ngày áp Lễ Hiện Xuống, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thốt lên những lời nguyện cầu quan trọng ‘Xin sai Thần Linh Chúa xuống và xin canh tân bộ mặt trái đất’. Rồi ngài thêm: ‘Bộ mặt của mảnh đất này’. Chính nơi này đây đã chứng kiến việc long trọng cử hành lễ an táng cho một vị đại Giáo Chủ Balan là Đức Hồng Y Stefan Wyszynski mà trong những ngày này cử hành 25 năm kỷ niệm biến cố ấy.

 

Thiên Chúa đã liên kết hai con người này lại với nhau chẳng những bằng cùng một đức tin, đức cậy và đức mến, mà còn bằng cùng những thăng trầm về nhân loại giống nhau nữa, những thăng trầm thắt kết mỗi người trong họ rất mãnh liệt với lịch sử của nhân dân này cũng như với lịch sử của một Giáo Hội ở giữa thành phần dân ấy. Vào đầu Giáo Triều của mình, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết cho Đức Hồng Y Wyszynski như thế này: ‘Vị Giáo Hoàng Balan này hôm nay đây sẽ không ngồi trên Ngai Tòa Thánh Phêrô, mở màn cho một tân Giáo Triều với đầy lòng kính sợ Thiên Chúa song cũng đầy lòng tin tưởng, nếu không có đức tin của ngài, một đức tin không chịu khuất phục trước cảnh tù ngục và khổ đau, không có đức cậy anh hùng của ngài, việc ngài tin tưởng cho đến cùng nơi Người Mẹ Giáo Hội; nếu không có Jasna Góra cùng tất cả giai đoạn lịch sử này của Giáo Hội ở quê hương chúng ta liên quan tới việc ngài phục vụ với tư cách là một vị Giám Mục và là Giáo Chủ’ (Letter of Pope John Paul II to the Polish People, 23 October 1978). Hôm nay đây làm sao chúng ta không tạ ơn Thiên Chúa về tất cả những gì đã được hoàn thành nơi xứ sở của anh chị em cũng như trên toàn thế giới trong Giáo Triều của Đức Gioan Phaolô II chứ? Trước mắt của chúng ta là những thay đổi đã xẩy ra nơi toàn thể guồng máy chính trị, kinh tế và xã hội. Dân chúng ở các quốc gia khác nhau đã phục hồi lại được tự do và cảm quan về phẩm giá. ‘Chúng ta chớ há quên các việc kỳ công của Thiên Chúa’ (x Ps 78:7). Tôi cám ơn cả việc hiện diện của anh chị em cùng việc cầu nguyện của anh chị em nữa. Tôi cám ơn Đức Hồng Y Giáo Chủ về những lời lẽ ngài đã ngỏ cùng tôi. Tôi xin chào tất cả các vị Giám Mục đang hiện diện nơi đây. Tôi hân hạnh thấy Tổng Thống và các vị Thẩm Quyền quốc gia và địa phương đã đến đây. Tôi ấp ủ trong lòng mình tất cả nhân dân Balan cả ở quốc nội cũng như hải ngoại.

 

‘Hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em’! Chúng ta vừa nghe những lời của Chúa Giêsu: ‘Nếu các con yêu mến Thày, các con sẽ tuân giữ các giới huấn của Thày. Và Thày sẽ cầu xin cùng Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng An Ủi khác để mãi ở với các con, đó là Thần Chân Lý’ (Jn 14:15-17a). Với những lời ấy, Chúa Giêsu mạc khải mối liên hệ sâu xa giữa đức tin và việc tuyên xưng Chân Lý Thần Linh, giữa đức tin và việc dấn thân cho Chúa Giêsu trong yêu thương, giữa đức tin với việc thực hành một đời sống được tác động bởi những huấn giới. Tất cả 3 chiều kích đức tin là hoa trái của tác động Thánh Linh. Tác động này được bộc phát như một quyền lực nội tại làm hòa hợp tâm can của thành phần môn đệ với Con Tim của Chúa Kitô và làm cho họ có thể yêu thương như Người đã yêu thương họ. Bởi vậy mà đức tin là một tặng ân, đồng thời cũng là một công tác.

 

‘Ngài sẽ ban cho các con một Đấng An Ủi khác – là Thần Chân Lý’. Đức tin, một kiến thức và là việc tuyên xưng chân lý về Thiên Chúa và về con người, ‘được xuất phát từ những gì đã nghe, và những gì nghe thấy được xuất phát từ việc rao giảng về Chúa Kitô’ (Rm 10:17). Qua giòng lịch sử của Giáo Hội, các Vị Tông Đồ đã rao giảng lời của Chúa Kitô, cẩn thận truyền đạt lời của Người một cách nguyên tuyền cho những ai thừa kế các ngài, rồi những vị thừa kế này lại có phận sự truyền đạt lời Người cho các thế hệ sau đó cho tới thời của chúng ta đây. Nhiều nhà truyền giảng Phúc Âm đã phải bỏ mạng sống mình một cách đặc biệt vì trung thành với sự thật của lời Chúa Kitô. Và vì thế mà việc quan tâm tới chân lý đã làm phát sinh ra Truyền Thống của Giáo Hội. Như trong các thế kỷ trước đã xẩy ra thế nào, ngày nay cũng thế, dân chúng và các phái nhóm cũng đang làm lu mờ đi cái Truyền Thống của nhiều thế kỷ này, khi họ tìm cách làm sai lệnh đi Lời của Chúa Kitô và loại bỏ khỏi Phúc Âm các chân lý mà theo họ khiến cho con người tân tiến quá nhức nhối khó chịu. Họ cố gắng gây ấn tượng là hết mọi sự đều là những gì tương đối thôi: cho dù đó là các chân lý của đức tin cũng phải lệ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử và vào việc thẩm định của loài người. Tuy nhiên, Giáo Hội không thể bịt miệng Thần Chân Lý. Thành phần Thừa Kế Chư Tông Đồ, cùng với Vị Giáo Hoàng, đều có trách nhiệm với sự thật của Phúc Âm, và tất cả mọi Kitô hữu đều được kêu gọi để thông phần vào trách nhiệm này, bằng việc chấp nhận những ấn định theo thẩm quyền của các vị. Mọi Kitô hữu buộc phải liên tục đối chiếu các niềm xác tín riêng tư của mình với những giáo huấn của Phúc Âm cũng như Truyền Thống của Giáo Hội để nỗ lực tiếp tục trung thành với lời Chúa Kitô, cho dù lời của Người có gắt gao đòi hỏi, và có khó hiểu về phương diện con người trần gian chăng nữa. Chúng ta không được chiều theo khuynh hướng của tương đối chủ nghĩa hay của một thứ chủ quan và của việc dẫn giải Thánh Kinh tùy nghi. Chỉ có chân lý toàn vẹn mới hướng chúng ta về việc gắn bó với Chúa Kitô là Đấng đã chết và sống lại vì phần rỗi của chúng ta mà thôi.

 

Chúa Kitô nói: ‘Nếu các con yêu mến Thày…’. Đức tin không phải chỉ là việc chấp nhận một số các chân lý trừu tượng liên quan tới những mầu nhiệm về Thiên Chúa, về con người, về sự sống và về sự chết, về các thực tại tương lai. Đức tin là ở chỗ sống liên hệ thân mật với Chúa Kitô, một liên hệ được xuất phát từ lòng mến yêu Đấng đã yêu thương chúng ta trước (x 1Jn 4:11), thậm chí cho đến chỗ hoàn toàn hiến trọn bản thân mình. ‘Thiên Chúa chứng tỏ tình Ngài yêu thương chúng ta ở chỗ trong khi chúng ta còn là những tội nhân thì Chúa Kitô đã chết vì chúng ta’ (Rm 5:8). Còn đáp ứng nào chúng ta có thể tỏ ra cho một tình yêu thật cao cả như thế nếu không phải là đáp ứng của một con tim cởi mở và tỏ ra sẵn sàng yêu thương hay sao? Thế nhưng, việc yêu mến Chúa Kitô đây nghĩa là gì? Nghĩa là tỏ ra tin tưởng nơi Người cho dù trong những con thử thách, trung thành theo Người cho dù trên Đường Thập Giá Via Crucis, hy vọng rằng chẳng bao lâu sẽ xuất hiện bình minh Phục Sinh. Khi ký thác bản thân mình cho Chúa Kitô, chúng ta chẳng mất mất một sự gì hết, trái lại, chúng ta còn chiếm được mọi sự. Nơi bàn tay của Người cuộc sống của chúng ta đạt được ý nghĩa thực sự của nó. Tình yêu giành cho Chúa Kitô là ở chỗ tỏ ra hòa hợp đời sống của mình với những tư tưởng và cảm thức của Trái Tim Người. Điều này được đạt tới bằng mối hiệp nhất nội tâm nhờ ân sủng của các Bí Tích, được củng cố bằng việc liên lỉ nguyện cầu, chúc tụng, tạ ơn và thống hối. Chúng ta cần phải chuyên chú lắng nghe những tác động Người gợi lên qua Lời của Người, qua thành phần chúng ta gặp gỡ, qua những hoàn cảnh của cuộc sống thường nhật của mình. Yêu mến Người là tiếp tục đối thoại trao đổi với Người, để biết được ý Người muốn và thực hiện ý muốn ấy một cách mau chóng hiệu nghiệm.

 

Tuy nhiên, việc sống niềm tin tưởng riêng tư như mối liên hệ yêu thương với Chúa Kitô như thế cũng còn có nghĩa là sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì gây ra việc chối từ tình yêu của Người nữa. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với các Tông Đồ rằng: ‘Nếu các con yêu mến Thày, các con sẽ tuân giữ các huấn lệnh của Thày’. Thế nhưng, các huấn lệnh của Chúa Kitô đây là gì? Khi Chúa Giêsu giảng dạy đoàn lũ quần chúng Người vẫn không quên xác nhận lề luật được Đấng Hóa Công in ấn vào lòng con người và phác họa trên các tấm Thập Điều. ‘Đừng nghĩ rằng Thày đến để hủy bỏ lề luật và các tiên tri; Thày đến không phải để hủy bỏ những điều ấy mà là làm cho chúng được nên trọn. Thật vậy, Thày nói cho các con hay, cho đến khi trời đất qua đi thì một chấm một phết cũng sẽ không qua đi nơi lề luật cho tới khi mọi sự được hoàn thành’ (Mt 5:17-18). Thế nhưng, Chúa Giêsu đã tỏ ra cho chúng ta thấy một cách sáng tỏ hơn cái tâm điểm chính yếu của lề luật thần linh được ban bố ở Núi Sinai, đó là tình yêu Thiên Chúa và tình lòng thương tha nhân: ‘Việc kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn và hết sức, cùng mến thương tha nhân như bản thân mình, là những gì quí hóa hơn tất cả mọi của lễ hiến dâng và hy tế’ (Mk 12:33). Thật vậy, nơi đời sống của mình cũng như nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua của mình, Chúa Giêsu đã làm hoàn thành tất cả lề luật. Liên kết mình với chúng ta bằng tặng ân Thánh Linh, Người gánh vác với chúng ta và trong chúng ta ‘cái ách’ của lề luật là những gì trở thành ‘gánh nhẹ nhàng’ (Mt 11:30). Theo tinh thần này, Chúa Giêsu đã hình thành bản liệt kê về các phẩm tính nội tâm của những ai tìm cách sống niềm tin của mình một cách sâu xa, đó là phúc cho thành phần nghèo khó trong tinh thần, những ai khóc lóc, những ai hiền lành, những ai đói khát công chính, những ai xót thương, những ai có tấm lòng tinh khiết, những ai xây dựng hòa bình, những ai bị bắt bớ vì lẽ công chính… (x Mt 5:3-12).

 

Anh chị em thân mến, niềm tin như là việc gắn bó với Chúa Kitô được tỏ hiện như tình yêu thúc đẩy chúng ta cổ võ sự thiện được Đấng Hóa Công in ấn nơi bản tính của mọi con người nam nữ chúng ta, nơi nhân cách của hết mọi con người khác cũng như nơi hết mọi sự hiện hữu trên thế giới này. Bất cứ ai tin tưởng và yêu như thế đều trở thành một nhà xây dựng ‘nền văn minh yêu thương’ đích thực, một nền văn minh có Chúa Kitô là tâm điểm. Hai mươi bảy năm trước đây, ở địa điểm này đây, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: ‘Ngày nay Balan đã trở nên một mảnh đất của một thứ chứng từ đặc biệt hữu trách’ (Warsaw, 2/6/1979). Giờ đây tôi xin anh chị em hãy vun xới gia sản đức tin phong phú này là những gì đã được truyền đạt cho anh chị em bởi các thế hệ trước đây, cái gia sản về tư tưởng và việc phục vụ của một đại nhân Balan là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hãy đứng vững trong đức tin, hãy truyền đạt đức tin ấy cho con cái của anh chị em, hãy làm chứng cho ân sủng anh chị em đã cảm nghiệm hết sức dồi dào nhờ Thánh Linh qua giòng lịch sử. Chớ gì Mẹ Maria, Nữ Vương Balan, tỏ cho anh chị em thấy đường dẫn đến với Con của Mẹ, và chớ gì Mẹ đồng hành với anh chị em trong cuộc hành trình của anh chị em tiến tới một tương lai hạnh phúc đầy an bình. Chớ gì lòng trí anh chị em không bao giờ thiếu thốn tình yêu mến Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Amen!

 

 

  TOP

 

 

Chúng ta cần phải hết sức chú trọng tới việc phát triển đức tin của chúng ta,

để đức tin được thực sự thấm đậm tất cả mọi

thái độ, tâm tưởng, hành động và ý hướng của chúng ta

 

Huấn Dụ Thành Phần Tu Sĩ, Chủng Sinh và Đại Diện Các Phong Trào, ở Czestochowa Thứ Sáu 26

 

 

Quí Tu Sĩ Nam Nữ, thành phần sống đời tận hiến, những người đã được lời Chúa Giêsu tác động vì mến yêu mà theo Người!

Quí Chủng Sinh, những người đang dọn mình làm linh mục thừa tác!

Quí đại diện các phong trào công giáo tiến hành, thành phần mang quyền năng của Phúc Âm đến cho các gia đình, đến hãng xưởng, đến đại học đường, đến thế giới truyền thông và văn hóa, đến giáo xứ họ đạo của mình!

 

Như các Vị Tồng Đồ đã cùng với Mẹ Maria ‘lên căn thượng lầu’ và ở đó ‘đồng tâm nhất trí nguyện cầu’ (Acts 1:12,14), cả chúng ta nữa, cũng qui tụ lại hôm nay đây ở Jasna Góra, một nơi, đối với chúng ta trong giây phút này đây, là ‘căn thượng lầu’, nơi Mẹ Maria, Mẹ Chúa Kitô, hiện diện giữa chúng ta. Hôm nay đây, chính Mẹ là vị hướng dẫn việc suy niệm của chúng ta; Mẹ dạy chúng ta cách thức nguyện cầu. Mẹ Maria tỏ cho chúng ta thấy làm thế nào để chúng ta có thể mở lòng trì mình ra trước quyền năng của Thánh Linh, Đấng đến với chúng ta để được mang đến cho toàn thế giới. Chúng ta cần một giây phút thinh lặng và suy tưởng trong việc ngồi vào học đường của Mẹ, nhờ đó Mẹ mới dạy cho chúng ta làm thế nào để sống bởi đức tin, làm thế nào để có thể lớn lên trong đức tin, làm thế nào để giữ được mối giao tiếp với mầu nhiệm của Thiên Chúa nơi các biến cố tự nhiên thường nhật trong cuộc sống của chúng ta. Với tính chất tế nhị của nữ giới và bằng ‘khả năng hòa hợp cái trực giác sâu xa với ngôn từ lời lẽ đỡ nâng và phấn khích’ (Đức Gioan Phaolô II, Thông Điệp Mẹ Đấng Cứu Chuộc, đoạn 46), Mẹ Maria đã bảo trì đức tin của Thánh Phêrô và của các Vị Tông Đồ ở Căn Thượng Lầu, và hôm nay đây Mẹ bảo trì đức tin của tôi cũng như của anh chị em.

 

‘Đức tin là mối giao hệ với mầu nhiệm của Thiên Chúa’ (cùng nguồn vừa dẫn, đoạn 17), vì ‘tin tưởng tức là phó mình cho sự thật nơi lời của Thiên Chúa hằng sống, nhận biết và khiêm tốn nhìn nhận phán quyết của Ngài là những gì khôn dò và đường lối của Ngài thì khôn thấu’ (cùng nguồn, 14). Đức tin là một tặng ân, được ban cho chúng ta nơi Phép Rửa, một Phép Rửa làm hiện thực việc chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng ẩn thân trong mầu nhiệm; nghĩ rằng hiểu được Ngài có nghĩa là muốn giam nhốt Ngài vào ý nghĩ và kiến thức của chúng ta, bởi thế sẽ mất Ngài ngay tức khắc. Tuy nhiên, với đức tin, chúng ta có thể thấy được trước mặt một con đường xuyên qua các quan niệm, thậm chí là những quan niệm về thần học, và có thể ‘đụng chạm’ tới Vị Thiên Chúa hằng sống. Và Thiên Chúa, một khi được chạm tới, liền ban cho chúng ta quyền lực của Ngài. Khi chúng ta phó mình cho Vị Thiên Chúa hằng sống này, khi chúng ta chạy đến với Ngài bằng tấm lòng khiêm tốn, thì một thứ suối nguồn của sự sống thần linh thầm kín tuôn tràn ra trong chúng ta. Quan trọng biết bao việc tin tưởng vào quyền năng của đức tin, vào khả năng của đức tin trong việc tạo nên một mối liên hệ chặt chẽ với Vị Thiên Chúa hằng sống! Chúng ta cần phải hết sức chú trọng tới việc phát triển đức tin của chúng ta, để đức tin được thực sự thấm đậm tất cả mọi thái độ, tâm tưởng, hành động và ý hướng của chúng ta. Đức tin có một chỗ đứng, chẳng những trong tình trạng của linh hồn và nơi các cảm nghiệm về đạo nghĩa, nhất là trong tâm tưởng và hành động, trong công việc làm hằng ngày, trong cuộc chiến đấu với bản thân mình, trong đời sống cộng đồng cũng như trong việc tông đồ, vì đức tin là những gì bảo đảm cho việc đời sống của chúng ta được thấm đẫm quyền năng của chính Thiên Chúa. Đức tin bao giờ cũng có thể mang chúng ta về với Thiên Chúa thậm chí cả những lúc tội lỗi dẫn chúng ta đi vào con đường sai trật lệch lạc chăng nữa.

 

Ở Căn Thượng Lầu ấy, các Vị Tông Đồ không biết được những gì đang đợi chờ các vị. Các vị bấy giờ đang sợ hãi và lo âu về tương lai của các vị. Các vị tiếp tục ngẫm nghĩ về cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu và đang đau buồn cảm thấy bị bỏ mặc sau khi Người thăng thiên về Trời. Mẹ Maria, ‘Vị đã tin rằng lời Chúa phán sẽ được thực hiện’ (x Lk 1:45), thiết tha nguyện cầu cùng với các Vị Tông Đồ, đã dạy sống kiên trì trong đức tin. Qua thái độ của mình, Mẹ đã chinh phục được các vị là Thánh Thần, theo đức khôn ngoan của Ngài, biết rõ đường lối Ngài dẫn dắt họ bước đi, do đó, các vị có thể tin tưởng nơi Thiên Chúa, dứt khoát hiến mình cho Ngài, cùng với tài năng của các vị, những hạn hữu của các vị và tương lai của các vị.

 

Nhiều người trong anh em hiện diện nơi đây đã cảm nghiệm thấy tiếng gọi thầm kín này của Thánh Thần và đã đáp lại bằng một tấm lòng hoàn toàn quảng đại. Tình yêu của Chúa Giêsu ‘được tuôn đổ vào lòng anh chị em nhờ Thánh Thần là Đấng được ban cho anh chị em’ (x Rm 5:5) là những gì cho anh chị em thấy con đường sống đời tận hiến. Không phải là anh chị em tìm kiếm tình yêu này. Chính Chúa Giêsu là Đấng đã kêu gọi anh chị em, mời gọi anh chị em đến với cuộc hiệp nhất sâu xa với Người. Nơi bí tích Thánh Tẩy, anh chị em đã từ bỏ Satan cùng với những việc làm của hắn, và đã lãnh nhận những ơn cần thiết cho đời sống Kitô hữu và cho việc nên thánh. Từ lúc ấy, ơn đức tin đã nở ra trong anh chị em, và giúp cho anh chị em có thể hiệp nhất với Thiên Chúa. Ở vào giây phút anh chị em tuyên lời khấn dòng, đức tin đã dẫn anh chị em tới chỗ hoàn toàn gắn bó với mầu nhiệm của Trái Tim Chúa Giêsu là kho tàng anh chị em đã khám phá thấy. Nên anh chị em đã từ bỏ những thứ tốt lành như việc tự do định đoạt cuộc đời mình, việc có được một gia đình, việc sở hữu sản vật, để anh chị em được tự do thanh thoát hiến mình cho Chúa Kitô và cho Vương Quốc của Người. Anh chị em chẳng lẽ không nhớ đến lòng nhiệt tình của mình khi anh chị em bắt đầu cuộc hành trình sống đời tận hiến, tin tưởng vào ân sủng của Thiên Chúa hay sao? Anh chị em đừng để mất đi cái nhiệt tình ban đầu ấy, và hãy để cho Mẹ Maria dẫn anh chị em tới chỗ gắn bó trọn vẹn hơn. Quí tu sĩ nam nữ thân mến, quí tâm hồn sống đời tận hiến thân mến! Bất cứ những gì cho anh chị em được sứ vụ này ủy thác cho, bất cứ những gì anh chị em đang tham phần vào công cuộc đan tu hay tông đồ, xin anh chị em hãy bảo tồn trong lòng mình cái ưu tiên của cuộc đời tận hiến. Chớ gì cuộc đời tận hiến canh tân đức tin của anh chị em. Đời sống tận hiến, một cuộc sống theo đức tin, là cuộc sống liên kết anh chị em chặt chẽ với Thiên Chúa, là cuộc sống có sức thu hút và làm cho việc phục vụ của anh chị em trổ sinh hoa trái một cách đặc biệt. 

 

Quí dự sinh linh mục thân mến! Rất nhiều điều có thể học được ở việc suy niệm về cách thức Mẹ Maria đã học biết nơi Chúa Giêsu! Từ Mẹ, tiếng ‘xin vâng’ ngay từ đầu của Mẹ, qua những tháng năm dài bình thường của cuộc sống ẩn dật, khi Mẹ nuôi lớn Chúa Giêsu, hay khi Mẹ xin Người làm dấu lạ đầu tay ở Cana xứ Galiêa, hoặt khi Mẹ đứng bên Cậy Thập Tự Giá nhìn lên Chúa Giêsu trên Đồi Canvê, Mẹ đã ‘học biết’ Người từng lúc một. Trước hết, nơi đức tin của Mẹ rồi mới tới nơi cung lòng của Mẹ, Mẹ đã lãnh nhận Thân Thể Chúa Giêsu và hạ sinh Người vào trần gian. Ngày ngày Mẹ ngất ngây tôn thờ Người. Mẹ đã ưu ái quan tâm phục vụ Người, hát lên bài ca vịnh Ngợi Khen trong lòng Mẹ. Trong cuộc hành trình dọn mình của quí bạn, cũng như trong thừa tác vụ linh mục của mình, quí bạn hãy để cho Mẹ Maria hướng dẫn quí bạn khi quí bạn ‘học biết’ Chúa Giêsu. Hãy gắn mắt vào Người. Hãy để Người hình thành quí bạn, nhờ đó, nơi thừa tác vụ của mình, quí bạn mới có thể tỏ Người ra cho tất cả những ai tiến đến với quí bạn. Khi quí bạn cầm trong tay mình Thánh Thể Chúa Giêsu để dưỡng nuôi Dân Người, cũng như khi quí bạn lãnh trách nhiệm đối với phần Nhiệm Thể sẽ được ủy thác cho quí bạn ấy, quí bạn hãy nhớ đến thái độ chiêm ngắm và tôn thờ là những gì làm nên đặc tính đức tin của Mẹ Maria. Như Mẹ, bằng một tình yêu ân cần từ mẫu đối với Chúa Giêsu, Mẹ đã bảo trì tình yêu trinh nguyên tràn đầy chiêm ngắm của Mẹ thế nào, quí bạn cũng hãy bảo trì trong tâm hồn mình khả năng chiêm ngắm và tôn thờ như vậy. Quí bạn hãy biết làm sao để nhìn nhận nơi Dân Chúa được úy thác cho quí bạn những dấu hiệu hiện diện của Chúa Kitô. Hãy chuyên chú tới những dấu hiệu thánh đức được Thiên Chúa tỏ cho quí bạn thấy nơi thành phần tín hữu. Đừng sợ những nhiệm vụ mai này hay những gì chưa được biết tới! Đừng sợ là những lời nói của quí bạn sẽ làm cho quí bạn thất bại hay làm cho quí bạn bị loại trừ! Thế giới và Giáo Hội cần những vị linh mục, những vị linh mục thánh hảo.

 

Quí đại diện các Phong Trào mới trong Giáo Hội, tính cách sinh động của các cộng đồng quí bạn là dấu hiệu cho thấy việc hiện diện sống động của Chúa Thánh Thần! Sứ vụ của quí bạn đã xuất phát từ chính đức tin của Giáo Hội cũng như từ các hoa trái phong phú của Thánh Linh. Tôi cầu xin để quí bạn được gia tăng con số hơn nhờ đó phục vụ cho Vương Quốc của Thiên Chúa trong thế giới ngày nay. Quí bạn hãy tin vào ân sủng của Thiên Chúa là những gì hỗ trợ quí bạn và làm cho sứ vụ của quí bạn được ăn khớp với tấm vải sống động Giáo Hội, nhất là ở những nơi vượt ngoài tầm tay của linh mục và tu sĩ. Các phong trào của quí bạn thì nhiều. Quí bạn được dưỡng nuôi bởi nhiều trường phái tu đức được Giáo Hội công nhận. Hãy rút tỉa lấy đức khôn ngoan của các vị thánh, hãy sử dụng gia sản được các vị để lại cho chúng ta. Hãy hình thành tâm tưởng của quí bạn theo các công việc của những bậc đại sư và đại chứng nhân đức tin, với ý thức rằng các trường phái tu đức không phải là một kho tàng bị khóa chặt lại ở trong các viện tu hay các thư viện. Sự khôn ngoan của Phúc Âm, một sự khôn ngoan đã được chất chứa nơi các bút tích của những vị đại thánh và đã được chứng thực qua đời sống của các vị, cần phải được mang tới, một cách chín chắn, chứ không phải một cách ngây ngô hay bừa bãi, cho thế giới văn hóa và hoạt động, cho thế giới truyền thông và chính trị, cho thế giới gia đình và đời sống xã hội. Tính cách chân chính nơi đức tin và sứ vụ của quí bạn, một tính chất không chú trọng tới chính mình mà là thực sự chiếu tỏa đức tin và đức mến, là những gì có thể thử nghiệm xem sao bằng việc căn cứ vào đức tin của Mẹ Maria. Hãy soi mình trong trái tim Mẹ. Hãy ở lại với học đường của Mẹ!

 

Khi các Vị Tông Đồ, được đầy Thánh Linh, ra mặt với toàn thể thế giới để loan truyền Phúc Âm, thì một người trong họ là Thánh Gioan, Vị Tông Đồ của tình yêu, đã đón Mẹ về nhà của ngài (x Jn 19:27). Chính vì mối liên kết chặt chẽ sâu xa giữa ngài với Chúa Giêsu và Mẹ Maria mà ngài có thể nhấn mạnh một cách hết sức chính xác về sự thật ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Jn 4:8,16). Đó là những lời tôi đã mở đầu cho bức Thông Điệp mở tay cho Giáo Triều của mình: Deus caritas est! Đó là những gì quan trọng nhất, là sự thật chính yếu nhất về Thiên Chúa. Tôi muốn lập lại một lần nữa hôm nay đây với tất cả những ai khó lòng tin vào Thiên Chúa rằng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’. Quí bạn thân mến, quí bạn hãy trở thành những nhân chứng cho sự thật này. Quí bạn sẽ chắc chắn làm được điều ấy nếu quí bạn tham dự học đường của Mẹ Maria. Ở bên Mẹ, quí bạn sẽ tự cảm nghiệm thấy được rằng Thiên Chúa là tình yêu, và quí bạn sẽ truyền đạt sứ điệp này cho thế giới một cách dồi dào và đa dạng mà chỉ có Thánh Linh mới biết làm thế nào để khơi động lên thôi.

 

Chúc tụng Chúa Giêsu Kitô.

 

 

  TOP

 

 

“Ngài mời gọi chúng ta hãy tái kiên cường ơn đức tin,

hãy canh tân đổi mới trong Thần Linh và hãy ‘mặc lấy con người mới’…”

 

Với giới trẻ từ Tòa Tổng Giám Mục Krakow, Thứ Sáu 26

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Theo việc thực hành xuất phát từ những cuộc viếng thăm Krakow của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, anh chị em đã qui tụ lại trước Tòa Tổng Giám Mục đây để chào mừng Giáo Hoàng. Cám ơn anh chị em về việc hiện diện ở nơi đây và nồng hậu đón mừng.

 

Tôi biết rằng, trong ngày thứ hai mỗi tháng, vào giờ chết của Vị Tiền Nhiệm tôi yêu dấu, anh chị em cùng nhau đến đây để tưởng nhớ đến ngài và cầu nguyện cho việc ngài được tôn vinh trên bàn thờ. Việc cầu nguyện này là những gì hỗ trợ cho những ai đang làm việc về Án Phong Thánh của ngài, và làm cho lòng của anh chị em tràn đầy mọi ân phúc. Trong cuộc viếng thăm Balan lần cuối cùng của mình, Đức Gioan Phaolô II đã nói cùng anh chị em liên quan tới việc thời gian qua đi như sau: ‘Chúng ta không thể cứu chữa được thời gian. Chỉ có một cứu chữa duy nhất. Đó là Chúa Giêsu. Thày là sự sống lại và là sự sống nghĩa là – bất kể tuổi tác, bất chấp sự chết – tính cách trẻ trung là ở nơi Thiên Chúa. Đó là điều tôi mong muốn cho anh chị em, cho tất cả mọi người trẻ ở Krakow, ở Balan, và trên thế giới’ (17/8/2002). Đó là niềm tin của ngài, niềm xác tin mãnh liệt của ngài, chứng từ của ngài. Và hôm nay đây, bất chấp sự chết, ngài – trẻ trung trong Thiên Chúa – đang ở giữa chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta hãy tái kiên cường ơn đức tin, hãy canh tân đổi mới trong Thần Linh và hãy ‘mặc lấy con người mới được dựng nên tương tự như Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện chân thực’ (Eph 4:24).

 

Một lần nữa cám ơn anh chị em đã muốn ở với tôi tối hôm nay. Xin chuyển lời chào và phép lành của tôi tới các phần tử thuộc gia đình anh chị em và bạn bè của anh chị em. Cám ơn anh chị em!

 

(Phép lành bằng tiếng Latinh).

 

 

  TOP

 

 

Theo bước chân của Đức Gioan Phaolô II, một nhân chứng đức tin

 

Huấn Dụ Thành Phần Dân Chúng ở Wadowice, Rynek Square  Thứ Bảy 27

 

Anh Chị Em thân ái,

 

Tôi cảm thấy đầy xúc động ở nơi sinh trưởng này của Vị Đại Tiền Nhiệm tôi là Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II, nơi tỉnh mà ngài đã trải qua thời thơ ấu và thanh niên. Thật vậy, tôi không thể nào không tới Wadowice khi tôi hành hương đến Balan theo bước chân của ngài. Tôi muốn dừng lại chính địa điểm này, nơi ngài đã bắt đầu sống đức tin và trưởng thành đức tin, để cùng với tất cả anh chị em nguyện cầu cho ngài sớm được tôn vinh trên bàn thờ. Johann Wolfgang von Goethe, một đại thi hào người Đức, đã nói: ‘Ai muốn hiểu được một nhà thơ thì cần phải đến viếng thăm quê hương của nhà thơ ấy. Điều này cũng đúng với những ai muốn hiểu được đời sống và thừa tác vụ của Đức Gioan Phaolô II; cần phải đến thành phố sinh trưởng của ngài đây. Chính ngài đã thú nhận rằng, ở nơi đây, ở Wadowice này, ‘mọi sự đã được bắt đầu: đời sống, học hành, khấu trường và linh mục’ (Wadowice, 16/6/1999).

 

Đức Gioan Phaolô II, khi quay về với những thuở ban đầu của mình, thường đề cập tới một dấu hiệu, đó là dấu hiệu bể rửa tội, là dấu hiệu được chính ngài đặc biệt tôn kính nơi Giáo Hội ở Wadowice. Vào năm 1979, trong chuyến hành hương đầu tiên của ngài về Balan, ngài đã nói rằng: ‘Nơi bể rửa tội này đây, vào ngày 20/6/1920, tôi đã lãnh nhận ơn được làm con Thiên Chúa, cùng với đức tin vào Đấng Cứu Chuộc của tôi, và tôi đã được đón nhận vào cộng đồng Giáo Hội. Tôi đã trịnh trọng hôn bể rửa tội này vào năm mừng kỷ niệm đệ nhất thiên niên Balan được lãnh nhận Phép Rửa, vào lúc tôi làm Tổng Giám Mục Kraków hồi ấy. Tôi đã hôn bể rửa tội này một lần nữa vào dịp kỷ niệm 50 năm tôi được lãnh nhận bí tích thanh tẩy, lúc tôi làm Hồng Y, và hôm nay đây tôi hôn bể rửa tội này lần thứ ba, khi tôi từ Rôma trở về như Vị Thừa kế Thánh Phêrô’ (Wadowice, 7/6/1979). Dường như nơi những lời này của Đức Gioan Phaolô II có chất chứa cái then chốt để hiểu được tính cách nhất trí nơi đức tin của ngài, tính cách sâu xa nơi đời sống Kitô hữu của ngài, và ước vọng nên thánh được ngài liên tục bộc lộ. Ở đây, với ý thức sâu xa về ân sủng thần linh, về tình yêu vô tư của Thiên Chúa đối với loài người, mà thành phần Dự Tòng, nhờ nước và Thánh Linh được thuộc vào số muôn vàn con cái của Ngài, thành phần được Máu Chúa Kitô cứu chuộc. Đường lối của đời sống Kitô hữu chân chính là những gì tương đương với lòng trung thành thực hiện các lời hứa quyết của Phép Rửa thánh. Câu khẩu hiệu cho chuyến hành hương này là ‘Hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em’ ở nơi đây có một chiều kích cụ thể có thể được diễn đạt bằng lời huấn dụ như thế này: ‘Hãy cương quyết tuân giữ các lời hứa quyết của phép rửa’. Một chứng nhân của chính  đức tin này là Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II, vị được nơi chốn này nói tới một cách rất đặc biệt.

 

Vị đại Tiền Nhiệm của tôi đã xác nhận là Đền Thờ Wadowice, giáo xứ quê quán của ngài, là một địa điểm đặc biệt quan hệ tới việc phát triển đời sống thiêng liêng của ngài cũng như tới ơn gọi linh mục của ngài là ơn gọi tỏ hiện nơi ngài. Có lần ngài đã nói rằng: ‘Nơi nhà thờ này, tôi đã Xưng Tội lần đầu và đã Rước Lễ lần đầu. Ở nơi đây tôi đã là một chú giúp lễ. Ở nơi đây tôi tạ ơn Chúa về tặng ân linh mục, và là Tổng Giám Mục Kraków, tôi đã cử hành 25 năm lãnh nhận thiên chức linh mục. Chỉ có một mình Thiên Chúa, Đấng ban phát mọi ơn lành, mới biết được những gì là thiện hảo và đầy những ân huệ tôi đã nhận được nơi nhà thờ này cũng như nơi cộng đồng giáo xứ này. Hôm nay tôi xin tôn vinh Ngài, Vị Thiên Chúa Ba Ngôi, ở ngưỡng cửa của ngôi nhà thờ đây’ (Wadowice, 16/6/1979). Nhà thờ là dấu hiệu của mối hiệp thông của tín hữu được liên kết nhờ sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng ngự giữa họ. Cộng động này là Giáo Hội được Giáo Hoàng Gioan Phaolô II yêu dấu. Tình ngài mến yêu Giáo Hội được xuất phát từ giáo xứ Wadowice đây. Nơi ngôi nhà thờ này, ngài đã cảm nghiệm được đời sống bí tích, được việc truyền bá phúc âm hóa và việc hình thành một đức tin chín chắn trưởng thành. Đó là lý do, là một linh mục, là một giám mục và là một Giáo Hoàng, ngài đã hết sức chăm sóc cho các cộng đồng giáo xứ. Theo tinh thần của mối quan tâm ấy, trong cuộc viếng thăm ngũ niên Tòa Thánh, tôi đã xin các Vị Giám Mục Balan hãy làm tất cả những gì có thể để bảo đảm rằng giáo xứ Balan thực sự là một ‘cộng đồng giáo hội’ và là một ‘gia đình Giáo Hội’.

 

Để kết luận, tôi muốn nhắc lại lần nữa một đặc tính về đức tin và về linh đạo của Đức Gioan Phaolô II, một đặc tính có liên hệ với nơi chốn này. Chính ngài đã nhớ đến nhiều lần việc dân sự ở Wadowice sâu xa gắn bó với tấm ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở địa phương này và thói lệ đọc kinh hằng ngày trước tượng Mẹ của các em học sinh. Việc hồi niệm ấy giúp chúng ta tiến tới nguồn mạch của niềm xác tín đã nuôi dưỡng Đức Gioan Phaolô II – niềm xác tín liên quan tới địa vị ngoại hạng của Người Mẹ Thiên Chúa trong cuộc đời của ngài, một niềm xác tín mà chính ngài, đầy lòng sùng mộ, đã bày tỏ qua khẩu hiệu ‘Totus tuus’. Cho đến giây phút cuối cùng trong cuộc hành trình trần thế của mình, ngài vẫn trung thành với việc hiến dâng này.

 

Theo tinh thần của việc hiến dâng ấy, trước tấm ảnh này đây, tôi xin dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về Giáo Triều của Đức Gioan Phaolô II, và, cũng như ngài, tôi xin Đức Mẹ hãy trông coi Giáo Hội đã được Chúa muốn trao phó cho tôi hướng dẫn. Tôi cũng xin tất cả anh chị em, anh chị em thân mến, hãy nguyện cầu cho tôi như anh chị em đã nguyện cầu cho vị đồng hương cao cả ấy của anh chị em vậy. Tận đáy lòng của mình, tôi cúc lành cho tất cả anh chị em hiện diện nơi đây hôm nay cũng như cho tất cả những ai đến Wadowice để kín múc từ cái bể tinh thần đức tin của Đức Gioan Phaolô II.

 

 

  TOP

 

 

“Xin anh chị em hãy nguyện cầu cho tôi cũng như cho toàn thể Giáo Hội”

 

Mấy lời ngỏ tại Kalwaria Zebrzydowska Thứ Bảy 27

 

Các Cha (Dòng Phanxicô) thân mến,

Anh Chị Em thân mến,

 

Trong chuyến tông du đầu tiên về Balan, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm ngôi Đền Thờ này và đã đọc bài diễn từ về đề tài cầu nguyện. Ở phần kết ngài đã nói rằng: ‘Tôi xin anh chị em hãy nguyện cầu cho tôi ở nơi đây trong khi tôi còn sống cũng như sau khi tôi qua đời’. Hôm nay đây tôi muốn dừng lại một chút ở Nguyện Đường Đức Trinh Nữ Maria đây, và với lòng tri ân, tôi cầu nguyện cho ngài như lời ngài yêu cầu. Theo gương của Đức Gioan Phaolô II, tôi cũng hướng về anh chị em, tha thiết xin anh chị em hãy nguyện cầu cho tôi cũng như cho toàn thể Giáo Hội.

 

(Phép lành bằng tiếng Latinh)

 

 

 TOP

 

 

“Là những người mang dấu tích đau thương nơi thân xác hay tâm hồn,

quí bạn được liên kết mật thiết nhất với Thập Tự Giá của Chúa Kitô,

và đồng thời quí bạn cũng là những chứng nhân sống động nhất của tình thương Thiên Chúa

 

Huấn Dụ Thành Phần Bệnh Nhân ở Krakow - Tagiewniki Thứ Bảy 27

 

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Tôi rất vui mừng được gặp gỡ anh chị em trong cuộc tôi viếng thăm Đền Thờ Lòng Thương Xót Chúa đây. Tôi xin gửi lời chào thân ái tới tất cả anh chị em: thành phần bệnh nhân, những người chăm sóc cho họ, các vị linh mục thực hiện thừa tác mục vụ ở Đền Thờ này, các Nữ Tu Đức Mẹ Thương Xót, các phần tử thuộc tổ chức ‘Faustinum’ và tất cả những ai hiện diện.

 

Nhân cơ hội này, chúng ta đối diện với hai mầu nhiệm: mầu nhiệm về khổ đau của nhân loại và mầu nhiệm về Lòng Thương Xót Chúa. Mới thoạt nhìn thì hai mầu nhiệm này dường như tương phản với nhau. Thế nhưng, khi chúng ta nghiên cứu chúng một cách sâu xa theo ánh sáng đức tin chúng ta thấy rằng chúng hòa hợp với nhau nơi mầu nhiệm Thập Giá Chúa Kitô. Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói ở nơi đây rằng: ‘Thập Giá là việc Thần Tính cúi mình sâu thẳm nhất xuống tới con người…. Thập Giá như một ngọn đuốc của tình yêu hằng hữu tỏa trên những thương tích đau thương nhất nơi cuộc sống trần gian của con người’ (17/8/2002).

 

Quí bạn bệnh nhân thân mến, những người mang dấu tích đau thương nơi thân xác hay tâm hồn, quí bạn được liên kết mật thiết nhất với Thập Tự Giá của Chúa Kitô, và đồng thời quí bạn cũng là những chứng nhân sống động nhất của tình thương Thiên Chúa. Qua quí bạn cũng như nhờ những khổ đau của quí bạn, Người đang ưu ái cúi mình xuống trên nhân loại. Quí bạn nào âm thầm thốt lên rằng: ‘Giêsu ơi, con tin nơi Chúa’ là người dạy cho chúng ta rằng không có niềm tin nào sâu xa hơn, không có hy vọng nào sống động hơn, và không có tình yêu nào nồng nhiệt hơn đức tin, đức cậy và đức mến của một con người giữa khổ đau biết an bình phó mình vào bàn tay của Thiên Chúa. Chớ gì bàn tay nhân loại của những ai chăm sóc cho quí bạn nhân danh tình thương trở thành cánh tay nối dài rộng mở của Thiên Chúa.

 

Bởi vậy tôi muốn ôm ấp từng người trong anh chị em. Thế nhưng không thể nào được, nên tôi kéo anh chị em vào lòng tôi cách thiêng liêng, để ban Phép Lành cho anh chị em nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

 

 

  TOP

 

 

“Một đức tin không sợ những nghịch thường

vì nó được cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô làm kiên vững”

 

Huấn Dụ Thành Phần Giới Trẻ, ở Krakow-Błonie, Th By  27

 

 

Các Bạn Trẻ thân mến,

 

Tôi xin gửi đến các bạn lời chào mừng nồng hậu nhất của tôi! Việc hiện diện của các bạn làm cho tôi cảm thấy sung sướng. Tôi cám ơn Chúa về cuộc gặp gỡ thân tình này. Chúng ta biết rằng ‘ở đâu cho hai hay ba người qui tụ lại vì danh Chúa Giêsu thì Người ở giữa họ’ (x Mt 18:20). Hôm nay đây, các bạn còn thật là nhiều hơn như thế nữa! Bởi thế, Chúa Giêsu đang ở với chúng ta nơi đây. Người đang ở giữa giới trẻ Balan, đang nói với họ về một ngôi nhà sẽ không bao giờ bị sụp đổ vì nó được xây trên đá. Đó là bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe (x Mt 7:24-27).

 

Hỡi các bạn, ở trong lòng hết mọi người đều có một ước vọng về một ngôi nhà. Thậm chí còn hơn thế nữa nơi tâm hồn của con người trẻ có một khát vọng cả thể về một ngôi nhà thích đáng, một ngôi nhà vững chắc, một ngôi nhà họ chẳng nhưng không thể nào không hân hoan vui sướng trở về mà còn là nơi khách khứa có tới cũng được hân hoan đón tiếp nữa. Đó là một khát vọng về một ngôi nhà có lương thực hằng ngày là yêu thương, thứ tha và thông cảm. Nó là một nơi chân lý là nguồn mạch làm phát sinh niềm bình an nội tâm. Đó là một khát vọng về một ngôi nhà các bạn có thể lấy làm hãnh diện, nơi các bạn không bị  thẹn thuồng và là nơi các bạn không hề lo sợ nó bị mất đi. Những niềm khát mong này chỉ là ước vọng về một đời sống trọn vẹn, hạnh phúc và thành đạt. Đừng sợ có nỗi ước mong ấy! Đừng xa lánh niềm mong ước này. Đừng tỏ ra thất đảm khi thấy những căn nhà bị đổ nát, những ước vọng bị bất thành và những ngóng trông bị tàn phai. Thiên Chúa Hóa Công, Đấng tác động nơi tâm hồn giới trẻ một khát vọng mãnh liệt muốn được hoan hưởng hạnh phúc, sẽ không bỏ rơi các bạn trong việc khó khăn để xây dựng ngôi nhà được gọi là đời sống ấy.

 

Hỡi các bạn, điều ấy đưa đến vấn đề là: ‘Làm thế nào để xây dựng ngôi nhà này đây?’ Chắc chắn đây là vấn đề các bạn đã từng đối diện nhiều lần và các bạn sẽ phải trực diện nhiều lần hơn nữa. Hằng ngày các bạn cần phải nhìn vào nội tâm của mình mà tự vấn: ‘Tôi làm sao để có thể xây dựng ngôi nhà được gọi là đời sống ấy đây?’ Chúa Giêsu, Đấng các bạn vừa nghe những lời của Người trong đoạn Phúc Âm của Thánh Mathêu, đã khuyến khích chúng ta hãy xây nhà trên đá. Thật thế, chỉ có cách đó ngôi nhà mới không bị tàn rụi mà thôi. Thế nhưng, xây nhà trên đá nghĩa là gì? Trước hết, xây nhà trên đá tức là xây nhà trên Chúa Kitô và với Chúa Kitô. Chúa Giêsu nói: ‘Vậy ai nghe những lời này của Thày mà làm theo sẽ giống như một người khôn ngoan xây nhà mình trên đá’ (7:24). Đó không phải là những lời nói chơi chơi của một con người nào đó, mà là những lời của Chúa Giêsu. Chúng ta không lắng nghe bất cứ một con người nào mà là Chúa Giêsu. Chúng ta không được kêu gọi để chỉ làm một điều gì đó mà là dấn thân thực hiện những lời của Chúa Giêsu.

 

Việc dựng nhà trên Chúa Giêsu và với Chúa Giêsu đây nghĩa là dựng nhà trên một nền tảng được gọi là ‘tình yêu tử giá’. Nghĩa là dựng nhà với Một Vị, biết chúng ta hơn cả chính chúng ta biết mình, nói với chúng ta rằng: ‘Các con là những gì quí hóa trước nhan Ta và là những gì được trân trọng, Ta yêu thương các con’ (Is 43:4). Nghĩa là dựng nhà với Một Vị luôn trung tín, cho dù chúng ta có thiếu niềm tin tưởng, bởi ngài không thể chối bỏ chính mình Ngài (x 2Tim 2:13). Nghĩa là dựng nhà với Một Vị luôn nhìn tới tấm lòng thương tích của con người mà nói: ‘Ta không kết tội con đâu, hãy đi và đừng phạm tội nữa’ (x Jn 8:11). Nghĩa là dựng nhà với Một Vị, từ Cây Thập Tự Giá, vươn cánh tay của mình ra để muôn đời lập lại rằng: ‘Ôi con người, Ta hiến sự sống của Ta cho các con vì Ta yêu thương các con’. Tóm lại, dựng nhà trên Chúa Kitô tức là hướng tất cả mọi ước muốn của các bạn, khát vọng của các bạn, mơ ước của các bạn, tham vọng của các bạn và dự án của các bạn theo ý muốn của Ngài. Nghĩa là nói với chính bản thân mình, với gia đình mình, với bạn hữu mình, với toàn thế giới, và nhất là với Chúa Kitô rằng: ‘Lạy Chúa, trong cuộc sống con không muốn làm bất cứ một điều gì phạm đến Chúa, vì Chúa biết những gì tốt nhất cho con. Chỉ duy có một mình Chúa có những lời ban sự sống đời đời’ (x Jn 6:68). Hỡi các bạn, đừng sợ việc nương dựa vào Chúa Kitô! Hãy mong mỏi Người, như nền tảng cho đời sống của các bạn! Hãy khơi động lên trong các bạn ước muốn xây dựng cuộc sống của mình trên Người và cho Người! Vì không ai lệ thuộc vào tình yêu tử giá của Lời Nhập Thể lại có thể bị lạc mất cả.

 

Việc xây nhà trên đá nghĩa là việc dựng nhà trên Chúa Kitô và với Chúa Kitô. Trong Thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô, khi nói về cuộc hành trình của thành phần dân tuyển chọn băng qua sa mạc, Thánh Phaolô đã giải thích rằng tất cả ‘đã được uống tử tảng đá siêu nhiên đã theo đuổi họ và tảng đá đó là Chúa Kitô’ (1Cor 10:4). Các vị cha ông của thành phần Dân Tuyển Chọn này chắc chắn là không hề biết gì tới chuyện tảng đá thiêng liêng ấy là Chúa Kitô. Họ không ý thức được việc họ được đồng hành bởi Người là Đấng vào lúc thời gian viên trọn đã nhập thể và mặc lấy một thân thể loài người. Họ không cần hiểu rằng cơn khát của họ được thỏa mãn bởi chính Nguồn Mạch sự sống, là một mạch nguồn có thể ban nước sự sống làm giãn cơn khát của mọi tâm can. Tuy nhiên, họ đã uống từ tảng đá thiêng liêng là Chúa Kitô này, vì họ khát vọng thứ nước hằng sống ấy và cần đến thứ nước hằng sống này. Trên con đường cuộc đời đôi khi chúng ta không ý thức được sự hiện diện của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, chính sự hiện diện này, sự hiện diện sống động và chân thực, đã xẩy ra nơi công cuộc tạo dựng, nơi Lời Chúa và nơi Thánh Thể, nơi cộng đồng các tín hữu và nơi mọi con người được Máu châu báu Chúa Kitô cứu chuộc, một mạch nguồn khôn tận cho sức mạnh của con người. Chúa Giêsu Nazarét, Vị Thiên Chúa làm Người, ở bên chúng ta trong những lúc may lành cũng như trong những lúc chẳng may, và Người khao khát mối liên hệ ấy, một mối liên hệ thực sự là nền tảng của một nhân loại chân thực. Chúng ta đọc thấy trong Sách Khải Huyền những lời quan trọng này: ‘Này, Ta đứng trước cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng của Ta mà mở cửa thì Ta sẽ đến với họ và ăn uống với họ để họ được ở với Ta’ (3:20).

 

Hỡi các bạn, việc xây nhà trên đá nghĩa là gì? Xây nhà trên đá cvũng có nghĩa là dựn g nhà trên Một Vị đã bị loại trừ. Thánh Phêrô nói với thành phần tín hữu của Chúa Kitô như là ‘một viên đá bị con người loại bỏ song trước nhan Thiên Chúa lại là viên đá được chọn lọc và quí giá’ (1Pet 2:4). Một sự kiện không thể chối cãi về việc Thiên Chúa tuyển chọn Chúa Giêsu không che dấu mầu nhiệm sự dữ, bởi thế con người có thể loại trừ Người là Đấng đã yêu thương cho tới cùng. Việc Chúa Giêsu bị con người loại trừ như Thánh Phêrô đề cập tới trải dài suốt lịch sử nhân loại, thậm chí cho tới cả thời của chúng ta đây. Người ta không cần phải có một trí khôn sắc xảo đặc biệt để thấy được nhiều đường lối loại trừ Chúa Kitô, ngay cả trước ngưỡng cửa của chúng ta đây. Thường Chúa Giêsu bị coi thường bỏ qua, bị chế giễu và được tuyên xưng là vị vua của quá khứ, chứ không phải cho ngày nay và chắc chắn không phải cho tương lai. Người bị bỏ vào kho chức của những vấn đề và những con người mà người ta không dám công khai lớn tiếng đả động tới. Nếu trong tiến trình dựng nhà cuộc sống của các bạn có gặp phải những ai coi thường khinh bỉ cái nền tảng mà các bạn đang xây lên thì đừng thất đảm! Một đức tin mạnh mẽ cần phải chịu đựng các thứ thách đố. Một đức tin sống động bao giờ cũng cần phải tăng trưởng. Đức tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô, để được như thế, cần phải đối diện đương đầu với thường xuyên với tình trạng thiếu đức tin của những người khác.

 

Các bạn thân mến, việc xây nhà trên đá nghĩa là gì? Việc xây nhà trên đá nghĩa là ý thức rằng sẽ xẩy ra những bất trắc. Chúa Kitô nói rằng: ‘Mừa trút xuống và lụt xẩy ra, gió thổi tới làm rung chuyển ngôi nhà…’ (Mt 7:25). Những hiện tượng thiên nhiên này chẳng những là hình ảnhcủa nhiều những bất trắc nơi thân phận của con người, chúng còn cho thấy rắng những bất trắc ấy là những gì bình thường cần phải chấp nhận. Chúa Kitô không hứa rằng sẽ không bao giờ xẩy ra một trận mưa như trút gây lụt lội ngôi nhà đang được xây cất, Người không hứa rằng sẽ không bao giờ xẩy ra một cơn sóng tàn phá cuốn trôi đi những gì thân thương nhất của chúng ta, Người không hứa rằng sẽ không bao giờ xẩy ra những trận cuồng phong thổi bay đi những gì chúng ta đang xây dựng, đôi khi chúng ta phải trả bằng một giá hy sinh kinh khủng. Chúa Kitô chẳng những hiểu được ước muốn của con người về một ngôi nhà vững bền, Người còn hoàn toàn biết được tất cả những gì có thể phá hoại hạnh phúc của con người nữa. Bởi thế, các bạn đừng lấy làm lạ trước những bất trắc rủi ro, cho dù chúng là gì đi chăng nữa! Đừng vì chúng mà bị thất đảm! Một dinh thự được xây trên đá không giống như một dinh thự bị biến đi bởi những lực thiên nhiên, những lực được in dấu vết nơi mầu nhiệm của con người. Việc xây nhà trên đá tức là việc có thể sử dụng một thứ kiến thức ở vào những lúc khó khăn trở thành một mãnh lực đáng các bạn tin tưởng.

 

Hỡi các bạn, xin cho tôi được đặt vấn đề một lần nữa: việc xây nhà trên đá nghĩa là gì? Nghĩa là x6ay nhà một cách khôn ngoan. Không phải là vô lý Chúa Giêsu đã so sánh những ai nghe lời của Người mà đem ra thực hành với một con người khôn ngoan xây nhà của họ trên đá. Thật vậy, đúng là ngu xuẩn khi xây nhà trên cát, trong khi các bạn có thể xây trên đá và vì thế có được một ngôi nhà có thể bất chấp mọi phong ba bão tố. Thật là ngu xuẩn khi xây nhà trên mảnh đất không bảo đảm việc vững chắc trong những lúc khó khăn nhất. Có thể là dễ dàng hơn để xây nhà cuộc đời mình trên cát lún theo quan điểm riêng của họ, xây dựng một tương lai xa cách lời của Chúa Giêsu và thậm chí đôi khi phản nghịch lại với lời của Người. Hãy tin chắc rằng ai xây nhà theo kiểu ấy đều là những người bất khôn, vì họ muốn thuyết phục chính mình và người khác rằng trong cuộc đời của họ không có bão tố cuồng phong và không có vấn đề sóng gió tấn công ngôi nhà của họ. Thái độ khôn ngoan đó là biết rằng việc vững chắc của một ngôi nhà là những gì lệ thuộc vào việc quyết định của cái nền tảng. Đừng sợ sống khôn ngoan; tức là đừng sợ xây nhà trên đá!

 

Hỡi các bạn, một lần nữa: xây nhà trên đá nghĩa là gì? Xây nhà trên đá còn có nghĩa là xây trên Phêrô và với Phêrô. Thật vậy, Chúa Kitô đã nói với ngài rằng: ‘Con là Đá, và trên đá này Thày sẽ xây Giáo Hội của Thày, và quyền lực sứ chết sẽ không thắng nổi nó’ (Mt 16:18). Nếu Chúa Kitô là Tảng Đá, là viên đá xống động và quí giá, gọi vị Tông Đồ này của Người là ‘đá’, nghĩa là Người muốn Phêrô, và cùng với Phêrô là toàn thể Giáo Hội, trở thành một dấu hiệu hữu hình của Đấng Cứu Độ và là Chúa duy nhất. Ở Krakow đây, thành phố yêu dấu của Đức Gioan Phaolô II, vị Tiền Nhiệm của tôi, không ai cảm thấy bàng hoàng trước những lời ‘xây nhà với Phêrô và Phêrô’. Đó là lý do tôi nói cùng anh chị em là đừng sợ xây đời mình trên Giáo Hội và với Giáo Hội. Tất cả anh chị em đều hãnh diện về lòng yêu mến anh chị em giành cho Vị Phêrô và cho Giáo Hội được úy thác cho ngài. Đừng để bị lừa đảo bởi những ai muốn Chúa Kitô và Giáo Hội đối đầu với nhau. Chỉ có một nền tảng duy nhất đáng để xây nhà mà thôi. Nền tảng đó là Chúa Kitô. Chỉ có một tảng đá duy nhất đáng làm nền tảng cho hết mọi sự. Tảng đá này là tảng đá được Chúa Kitô nói: ‘Con là Đá, và trên đá này Thày sẽ xây Giáo Hội của Thành’ (Mt 16:18). Hỡi giới trẻ, các bạn quá rõ Tảng Đá này trong thời đại của chúng ta đây. Bởi thế, đừng quên Vị Phêrô đang canh chừng cuộc tu họp của chúng ta đây từ cửa sổ của Thiên Chúa Cha, hay Vị Phêrô này giờ đây đang đứng trước các bạn đây, hoặc bất cứ một Vị Phêrô thừa kế nào sẽ tỏ ra chống lại các bạn hay chống lại việc xây nhà trên đá. Thật vậy, ngài sẽ cống hiến trái tim của ngài và đôi tay của ngài để giúp các bạn xây dựng một cuộc sống trên Chúa Kitô và với Chúa Kitô.

 

Quí bạn thân mến, suy niệm về những lời của Chúa Kitô diễn tả tảng đá là nền tảng thích đáng cho một ngôi nhà, chúng ta không thể nào không chú ý tới lời cuối cùng là một lời hy vọng. Chúa Giêsu nói rằng, bất chấp tình trạng cay nghiệt của các yếu tố thiên nhiên thì ngôi nhà ấy vẫn không bị hủy hoại, bởi nó được xây trên tảng đá. Lời của Người chất chưa một niềm cậy trông đặc biệt nơi cái vững chắc của nền tảng này, một đức tin không sợ những thứ nghịch thường, vì đức tin này được củng cố kiên cường bởi cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô. Đó là đức tin mà những năm sau đó Thánh Phêrô đã tuyên xưng trong bức thư của ngài: ‘Này Ta đặt ở Sion một viên đá, một viên đá gốc được chọn lọc và quí giá, và ai tin vào Người sẽ không bị hổ thẹn’ (1Pet 2:6). Chắc chắn là ‘họ sẽ không bị hổ thẹn’. Các bạn trẻ thân mến, nỗi sợ hãi bị thất bại có những lúc làm lung lạc ngay cả những giấc mộng tuyệt vời nhất. Nó có thể làm tê liệt ý muốn, làm cho con người không thể tin rằng thực sự là có thể xây nhà trên đá. Nó có thể thuyết phục con người là nỗi khát vọng về một ngôi nhà như thế chỉ là một thứ vọng tưởng trẻ con chứ không phải là một dự án cho cuộc sống. Cùng với Chúa Giêsu, các bạn hãy nói với nỗi hãi sợ này rằng: ‘Một ngôi nhà xây trên đá không thể nào bị đổ nát được !’. Cùng với Thánh Phêrô, các bạn hãy nói cùng khuynh hướng ngờ vực rằng: ‘Ai tin vào Chúa Kitô sẽ không bị bẽ bàng hổ thẹn!’ Tất cả các bạn đều là chứng nhân cho niềm hy vọng, cho niềm hy vọng không sợ xây nhà của cuộc sống của mình, vì tin tưởng rằng niềm hy vọng ấy có thể đặt trên nền tảng không bao giờ bị tàn rụi là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

 

 

  TOP

 

 

“Anh chị em cần phải mạnh mẽ bằng mãnh lực xuất phát từ đức tin.

Anh chị em cần phải mãnh liệt bằng sức mạnh của đức tin

 

Bài Giảng ở Krakow cho Thánh Lễ Bế Mạc Chúa Nhật 28

 

 

‘Hỡi những người Galilê, sao các người lại đứng nhìn lên trời như thế?’ (Acts 1:11)

 

Anh Chị Em thân mến, hôm nay, tại Công Viên Blonie ở Krakow này, một lần nữa, chúng ta nghe thấy câu hỏi này từ Sách Tông Vụ. Lần này câu hỏi ấy nhắm đến tất cả chúng ta đây: ‘Tại sao anh chị em lại đứng nhìn lên trời như thế?’ Câu trả lời cho vấn nạn này bao gồm một sự thật nền tảng cốt yếu về đời sống cũng như về định mệnh của con người nam nữ.

 

Câu hỏi cần thiết đối với thái độ của chúng ta đây liên quan tới hai thực tại căn bản là những thực tại làm nên tất cả mọi cuộc sống của con người, đó là đất và trời. Trước hết là trái đất: ‘Tại sao anh chị em đứng đó?’ – Tại sao chúng ta sống ở trên thế gian này? Câu trả lời của chúng ta là chúng tôi đang sống trên thế gian này bởi vì Đấng Tạo Dựng của chúng tôi đã đặt chúng tôi ở nơi đây như tuyệt đỉnh của việc Ngài tạo dựng. Thiên Chúa Toàn Năng, theo dự án yêu thương bất khả phai nhòa của Ngài, đã tạo dựng nên vũ trụ, làm cho nó hiện hữu từ hư không. Thế rồi, khi hoàn tất công việc ấy, Ngài đã ban sự sống trên thành phần con người nam nữ, dựng nên họ theo hình ảnh Ngài và tương tự như Ngài (x Gen 1:26-27). Ngài đã ban cho họ phẩm vị được làm con cái của Thiên Chúa cùng với tặng ân bất tử. Chúng tôi biết rằng con người đã đi sai đường lạc hướng, đã lạm dụng tặng ân tự do và đã ‘bất chấp’ Thiên Chúa, nên đời sống của con người đã bị ghi dấu vết sự dữ, tội lỗi, khổ đau và chết chóc. Thế nhưng, chúng tôi cũng biết rằng Thiên Chúa không bỏ cuộc trước trạng huống ấy của con người, mà đã đích thân tiến vào lịch sử của nhân loại, một lịch sử nhờ đó đã trở thành một lịch sử cứu độ. ‘Chúng tôi đứng’ trên thế gian này, chúng tôi xuất phát từ trái đất này và chúng tôi lớn lên từ trái đất đây. Ở trên đời đây chúng tôi hành thiện trong nhiều lãnh vực của cuộc sống hằng ngày, thuộc cả lãnh giới vật chất lẫn thiêng liêng, nơi các mối liên hệ giữa chúng tôi với người khác, nơi những gì chúng tôi nỗ lực xây dựng cộng đồng nhân loại và nơi văn hóa. Trên đời này, chúng tôi cũng cảm thấy cả tâm trạng buồn chán của những ai tiến về một mục đích theo những con đường dài lộng gió, giữa những ưu tư lưỡng lự, những căng thẳng, những bất định, bằng một niềm xác tín rằng cuộc hành trình ấy một ngày kia rồi cũng đi tới chỗ kết thúc thôi. Đó là lúc câu hỏi sau đây xuất hiện: Phải chăng đó là tất cả mọi sự? Phải chăng trái đất ‘chúng tôi đang đứng’ đây là đích điểm cuối cùng của chúng tôi?

 

Bởi thế chúng ta cần hướng đến phần thứ hai của vấn nạn thánh kinh: ‘Tại sao anh chị em lại đứng nhìn lên trời như thế?’ Chúng ta đã đọc thấy rằng, vừa lúc các vị Tông Đồ đã hỏi Chúa Kitô Phục Sinh về việc dân Yến Duyên phục hồi của vương quốc trần gian, thì ‘Người được nhắc lên và có một đám mây vây phủ Người làm cho Người khuất khỏi mắt các vị’ (x Acts 1:9-10). Các vị đứng nhìn lên trời vì các vị nhìn lên Chúa Giêsu Kitô, Đấng Tử Giá và Phục Sinh, Đấng được nâng lên cao. Chúng ta không biết chính xác lúc nào các vị nhận thấy hiện lên trước mắt các vị một chân trời rạng ngời bất tận: đích điểm tối hậu cho cuộc hành trình trần gian của chúng ta. Có lẽ các vị chỉ nhận ra điều này vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, trong ánh sáng của Thánh Linh. Thế nhưng, đối với chúng ta, cách cả hai ngàn năm, thì ý nghĩa của biến côáđó lại quá rõ ràng. Trên trái đất này, chúng ta được kêu gọi để nhìn lên trời, để hướng tâm trí của chúng ta về mầu nhiệm khôn tả của Thiên Chúa. Chúng ta được kêu gọi để hướng tới thực tại thần linh này, một thực tại thần linh mà chúng ta đã từng nhắm tới từ cuộc tạo thành của chúng ta. Vì ở nơi đó chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa tối hậu của cuộc sống.

 

Anh Chị Em thân mến, tôi rất cảm động khi có thể cử hành Thánh Thể hôm nay tại Công Viên Blonie ở Krakow, nơi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thường cử hành Thánh Lễ trong những chuyến Tông Du Mục Vụ của ngài nơi quê hương đất nước của mình. Qua những cuộc cử hành phụng vụ của mình, ngài đã gặp Dân Chúa ở hầu hết các nơi trên thế giới, song việc ngài cử hành Thánh Lễ tại Công Viên Blonie ở Krokow chắc chắn bao giờ cũng là một cái gì đặc biệt. Ở nơi đây tâm trí ngài trở về với cội gốc của mình, với nguồn mạch đức tin của ngài cùng việc phục vụ Giáo Hội của ngài. Từ nơi đây, ngài có thể thấy được Krwkow và toàn quốc Balan. Trong cuộc tông dù đầu tiên về Balan ngày 19/6/1979, ở cuối bài giảng của mình nơi công viên đây, ngài đã nói một cách nhung nhớ như sau: ‘Xin cho tôi, trước khi lìa xa anh chị em, một lần nữa nhìn lại Krakow, một Krakow rất thân thương với tôi từng hòn đá cục gạch. Và từ đây nhìn lại Balan một lần nữa’. Trong Thánh Lễ cuối cùng ngài cử hành ở nơi đây, ngày 18/8/2002, ngài đã nói trong bài giảng của mình rằng: ‘Tôi cám ơn về việc mời tôi tới thăm Krakow của tôi và về lòng hiếu khách anh chị em đã giành cho tôi’ (đoạn 2). Kraków, thành phố của Karol Wojtyla và của Gioan Phaolô II, cũng là Krakow của tôi nữa, chiếm được một chỗ đứng đặc biệt nơi tâm can của vô vàn Kitô hữu khắp thế giới, thành phần biết rằng Gioan Phaolô II xuất hiện ở Đồi Vatican từ thành phố này, từ Đồi Wawel, ‘từ một xứ sở xa xôi’, một xứ sở nhờ đó đã trở thành thân thương với tất cả mọi người.

 

Mở màn năm thứ hai cho Giáo Triều của mình, tôi đã cảm thấy rất cần phải đếnviếng thăm Balan và Krakow như là một con người hành hương theo bước chân của vị tiền nhiệm tôi. Tôi muốn hít thở không khí của quê hương đây. Tôi muốn thấy mảnh đất ngài đã được sinh ra, nơi ngài đã lớn lên và đã nhiệt tình dấn thân phục vụ Chúa Kitô và Giáo Hội hoàn vũ. Tôi đặc biệt muốn gặp gỡ những con người nam nữ sống động của đất nước ngài, muốn cảm nghiệm thấy đức tin của anh chị em, một đức tin đã cống hiến cho ngài sự sống và sinh lực, và muốn biết rằng anh chị em tiếp tục vững mạnh trong niềm tin ấy. Ở nơi đây, tôi muốn xin Thiên Chúa hãy bảo trì cái di sản đức tin, đức cậy và đức mến được Đức Gioan Phaolô II cống hiến cho thế giới, đặc biệt là cho anh chị em.

 

Tôi thân ái chào tất cả những ai qui tụ lại Công Viên Blonie, vì mắt tôi có thể nhìn thấy những người đứng xa thật xa, cho dù xa hơn thế nữa. Tôi ước gì có thể gặp được từng người trong anh chị em một cách riêng tư. Tôi ôm ấp tất cả những ai đang tham dự Thánh Lễ của chúng ta đây qua truyền thanh và truyền hình. Tôi chào toàn thể Balan! Tôi chào trẻ em và giới trẻ, cá nhân và gia đình, thành phần bệnh nhân và những ai khổ đau nơi thân xác hoặc tinh thần, những ai bị hụt hang niềm vui của cuộc sống. Tôi chào tất cả những ai ngày ngày cực nhọc giúp cho xứ sở này được phát triển thịnh vượng. Tôi chào nhân dân Balan hải ngoại, ở khắp nơi trên thế giới. Tôi cám ơn Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz, Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Krakow, về những lời lẽ đón mừng nồng hậu của ngài. Tôi chào Đức Hồng Y Franciszek Macharski cùng toàn thể các vị Hồng Y, Giám Mục, linh mục và tu sĩ nam nữ, cũng như những vị khách đến từ các nơi, nhất là từ các nước láng giềng. Tôi chào Tổng Thống Cộng Hòa và Thủ Tướng cùng các vị đại diện Thẩm Quyền quốc gia, khu vực và địa phương.

 

Anh chị em thân mến, tôi đã chọn làm câu châm ngôn cho chuyến hành hương Balan của tôi theo bước chân Đức Gioan Phaolô II những lời là: ‘Anh chị em hãy đứng vững trong đức tin của mình!’ Lời kêu gọi này được trực tiếp ngỏ cùng tất cả chúng ta là phần tử thuộc cộng đồng môn đệ Chúa Kitô, cùng mỗi người và mọi người trong chúng ta. Đức tin là một tác động nhân loại riêng tư sâu xa, một tác động có hai khía cạnh. Tin tưởng nghĩa là trước hết chấp nhận như thật những gì trí khôn chúng ta không thể thấu triệt. Chúng ta phải chấp nhận những gì Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta về chính mình Ngài, về chúng ta, về mọi sự chung quanh chúng ta, bao gồm cả những gì vô hình, khôn tả và ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Tác động chấp nhận sự thật được mạc khải là những gì nới rộng chân trời kiến thức của chúng ta và kéo chúng ta tới mầu nhiệm bao trùm chúng ta. Để trí khôn của chúng ta bị giới hạn như thế không phải là một chuyện dễ làm. Đến đây chúng ta thấy khía cạnh thứ hai của đức tin, đó là khía cạnh niềm tin tưởng nơi một con người, không phải là một con người bình thường, mà là chính Chúa Giêsu Kitô. Những gì chúng ta tin tưởng đều quan trọng, nhưng còn quan trọng hơn thế nữa đó là Đấng chúng ta tin tưởng.

 

Thánh Phaolô đã nói về điều này trong đoạn Thư gửi Giáo Đoàn Êphêsô mà chúng ta nghe thấy hôm nay đây. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một thần trí khôn ngoan và ‘đã sáng soi cặp mắt tâm hồn của chúng ta, để chúng ta biết những gì là niềm hy vọng được Ngài kêu gọi chúng ta hướng tới, những gì là phong phú thuộc gia sản hiển vinh của Ngài nơi các thánh nhân, và những gì là cao cả khôn lường của quyền lực Ngài nơi chúng ta là những kẻ tin tưởng, theo việc làm quyền năng vĩ đại của Ngài nơi Chúa Kitô’ (x Eph 1:17-20). Tin tưởng nghĩa là phó mình của chúng ta cho Thiên Chúa và trao phó định mệnh của chúng ta cho Ngài. Tin tưởng nghĩa là sống liên hệ thân tình với Đấng Hóa Công và Cứu Chuộc của chúng ta trong quyền nặng của Thánh Thần và làm cho mối liên hệ này thành nền tảng cho cả cuộc đời của chúng ta.

 

Hôm nay chúng ta đã nghe thấy những lời của Chúa Giêsu: ‘Các con sẽ lãnh nhận quyền năng khi Thánh Thần xuống trên các con; và các con sẽ là những chứng nhân của Thày ở Giêrusalem cũng như ở khắp Giuđêa và Samaria, và cho tới tận cùng trái đất’ (Acts 1:8). Nhiều thế kỷ trước đây những lời ấy đã tiến đến Balan. Chúng đã thách đố và tiếp tục thách đố tất cả những ai nói rằng mình thuộc về Chúa Kitô, những người coi lời của Người ấy là một lý tưởng cao cả nhất. Chúng ta cần trở thành những chứng nhân của Chúa Giêsu, Đấng đang sống trong Giáo Hội và trong lòng người. Người đã trao cho chúng ta một sứ vụ. Vào ngày Người lên trời, Người đã nói cùng các Tông Đồ rằng: ‘Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật… Và các vị đã ra đi rao giảng khắp nơi, Chúa Kitô đồng thời làm việc với các vị và củng cố sứ điệp các vị rao giảng bằng các dấu hiệu kèm theo’ (Mk 16:15,20). Anh chị em thân mến! Khi Đức Karol Wojtyla được bầu lên Ngài Tòa Thánh Phêrô để phục vụ Giáo Hội hoàn vũ thì đất nước của anh chị em đã trở thành một địa điểm của chứng từ đặc biệt về niềm tin tưởng vào Chúa Giêsu Kitô. Anh chị em đã được kêu gọi để cống hiến chứng từ này trước toàn thế giới. Ơn gọi này của anh chị em là những gì luôn cần thiết, và có lẽ còn khẩn trương hơn bao giờ hết khi mà Người Tôi Tớ Chúa đây đã qua khỏi đời này. Anh chị em đừng làm cho thế giới bị hụt hẫng mất chứng từ này nhé!

 

Trước khi tôi trở về Rôma để tiếp tục thừa tác vụ của mình, tôi kêu gọi tất cả mọi anh chị em bằng những lời được Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói lên ở nơi đây vào năm 1979, đó là ‘Anh chị em thân mến, anh chị em cần phải vững mạnh. Anh chị em cần phải vững mạnh bằng sức mạnh xuất phát từ đức tin. Anh chị em cần phải vững mạnh bằng sức mạnh của đức tin. Anh chị em cần phải trung thành. Ngày nay, hơn bất cứ một thời đại nào khác, anh chị em cần đến sức mạnh này. Anh chị em cần phải mạnh mẽ bằng sức mạnh của đức cậy, một đức cậy mang lại niềm vui trọn vẹn cho cuộc sống và là niềm hy vọng làm cho chúng ta tránh được việc làm phiền lòng Thánh Linh! Anh chị em cần phải mạnh mẽ bằng đức ái, một đức ái mạnh hơn sự chết… Anh chị em cần phải vững mạnh bằng sức mạnh của đức tin, đức cậy và đức mến, một đức mến ý thức, trưởng thành và hữu trách, và là một đức mến có thể giúp chúng ta trong lúc này đây nơi lịch sử của chúng ta thực hiện việc đối thoại trao đổi đại thể với con người và thế giới, một cuộc đối thoại được bắt nguồn từ cuộc đối thoại với chính Thiên Chúa, với Chúa Cha, nhờ Chúa Con trong Thánh Thần, một cuộc đối thoại cứu độ’ (Bài Giảng 10/6/1979, đoạn 4).

 

Cả tôi nữa, Biển Đức XVI, Vị Thừa Kế Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, cũng đang xin anh chị em hãy từ đất nhìn lên trời, hãy hướng mắt về Đấng được các thế hệ liên tục nhau trông chờ cả hai ngàn năm, và là Đấng họ khám phá thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Được kiên cường bởi niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, anh chị em hãy nhiệt thành với việc củng cố Vương Quốc của Người trên thế gian này, một Vương Quốc của thiện hảo, công lý, đoàn kết và tình thương. Tôi xin anh chị em hãy can đảm làm chứng cho Phúc Âm trước thế giới ngày nay, mang hy vọng tới cho người nghèo, cho người khổ đau, cho thành phần lầm lạc và bị bỏ rơi, thành phần thất vọng và những ai trông mong tự do, chân lý và an bình. Bằng việc làm lành cho tha nhân của mình và tỏ ra quan tâm đối với công ích, anh chị em làm chứng rằng Thiên Chúa là tình yêu.

 

Sau hết, tôi xin anh chị em hãy chia sẻ với các dân tộc khác ở Âu Châu cũng như với thế giới kho tàng đức tin của anh chị em, ít là như cách thức để kính nhớ tới con người đồng hương của anh chị em, vị, với tư cách là Thừa Kế Thánh Phêrô, đã thực hiện điều ấy một cách đặc biệt mãnh liệt và hiệu năng. Và xin hãy nhớ đến tôi trong lời nguyện cầu và hy sinh của anh chị em, thậm chí như anh chị em nhớ đến vị đại Tiền Nhiệm của tôi, để tôi có thể thi hành sứ vụ Chúa Kitô đã trao phó cho tôi. Tôi xin anh chị em hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em! Hãy đứng vững trong đức cậy của anh chị em! Hãy đứng vững trong đức ái của anh chị em! Amen!

 

 

  TOP

 

 

“Ở tại Auschwitz-Birkenau, nhân loại đã bước đi qua ‘thung lũng tối’...

bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi,

cây roi và cái trượng của Ngài, đó là điều an ủi lòng tôi

 

Diễn Từ ở Trại Tử Thần Auschwitz, Auschwitz-Birkenau, Chúa Nhật 28

 

 

Không thể nào nói được bất cứ điều gì ở nơi kinh hoàng này đây, ở nơi đã xẩy ra vô vàn tội ác chưa từng có phạm đến Thiên Chúa và con người, nhất là lại nói bởi một Kitô hữu, bởi một vị Giáo Hoàng xuất thân từ Đức. Ở một chốn như thế này thì lời nói đành câm nín; để rồi chỉ còn duy nỗi lặng thinh kinh hãi – một thứ lặng thinh tự mình là một lời kêu gào chân tình lên Thiên Chúa: Lạy Chúa, tại sao Chúa lại cứ thinh lặng chứ? Làm sao Chúa lại có thể chịu đựng được tất cả những thứ này? Bởi vậy, trong thinh lặng, chúng ta cúi đầu trước vô tận những ai đã chịu khổ cực và bị sát hại ở nơi đây; tuy nhiên việc thinh lặng của chúng ta lại trở thành một lời van xin tha thứ và hòa giải, một lời van nài Vị Thiên Chúa hằng sống đừng bao giờ để điều này tái diễn nữa.

 

Hai mươi bảy năm trước đây, vào ngày 7/6/1979, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đứng ở nơi này. Ngài đã nói rằng: ‘Hôm nay tôi đến đây như một người hành hương. Như anh chị em biết, tôi đã đến đây nhiều lần rồi. Rất nhiều lần rồi! Và nhiều lần tôi đã đi xuống tới ngục thất tử thần của Maximilian Kolbe, dừng lại trước bức tường hành quyết, và bước đi giữa những đổ nát hoang tàn của các lò thiêu Birkenau. Tôi không thể nào không tới đây như một vị Giáo Hoàng’. Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tới đây như là một người con của một dân tộc, cùng với dân Do Thái, đã chịu khổ nhất ở nơi chốn này, nói chung suốt cả cuộc chiến. ‘Sáu triệu người Balan đã bị mất mạng trong Thế Chiến Thứ II, tức 1/5 dân số của quốc gia này, ngài đã nhắc nhở chúng ta như thế. Cũng ở nơi đây, ngài đã trang trọng kêu gọi tôn trọng các thứ nhân quyền và quốc quyền, như các vị tiền nhiệm của ngài là Gioan XXIII và Phaolô VI đã làm trước ngài, và thêm rằng: ‘Con người đang nói những lời lẽ này đây là … người con của một quốc gia theo lịch sử của mình đã bị khổ đau rất nhiều bởi kẻ khác. Ngài nói điều này, không phải là để cáo tối mà là để tưởng nhớ. Ngài nói nhân danh tất cả những quốc gia có quyền lợi bị vi phạm và bị gạt bỏ ra ngoài…’

 

Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến đây như là một người con của nhân dân Balan. Tôi đến đây hôm nay như là một người con của nhân dân Đức quốc. Chính vì lý do ấy mà tôi có thể làm vang vọng và cần phải làm âm vang những lời của ngài, đó là tôi không thể nào không tới đây. Tôi cần phải tới nơi đây. Đó là một nhiệm vụ trước sự thật và công lý đối với tất cả những ai đã phải chịu khổ ở nơi đây, một nhiệm vụ trước Thiên Chúa, mà đối với tôi cần phải đến đây như là vị thừa kế của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và là một người con dân Đức quốc – một người con thuộc dân tộc bị một nhóm những tay tội ác nổi lên nắm quyền hành bằng những hứa hẹn liên quan tới cái cao cả mai hậu cùng với việc phục hồi vinh dự, nổi nang và thịnh vượng cho dân tộc , nhưng qua việc khủng bố và đe dọa, hậu quả dân tộc chúng tôi đã phải hứng chịu đó là bị sử dụng và làm dụng như công cụ cho khát vọng hủy diệt và quyền bính của họ. Phải, tôi đã không thể nào không tới nơi đây. Vào ngày 7/6/1979, tôi đã đến đây với tư cách là một vị Tổng Giám Mục ở Munich-Freising, cùng với các vị Giám Mục khác đi hộ tống Đức Giáo Hoàng này, lắng nghe những lời ngài nói và liên kết với việc nguyện cầu của ngài. Vào năm 1980, tôi đã trở lại với nơi chốn rùng rợn này với một phái đoàn đại biểu những vị Giám Mục Đức quốc, những vị cảm thấy kinh hoàng trước sự dữ xẩy ra cho nó, nhưng lại lấy làm biết ơn trước sự kiện xuất hiện một vì tinh tú hòa giải ở bên trên các tầng mây mù vây phủ nó. Đó cũng chính là lý do tại sao hôm nay tôi đã đến đây để xin ơn hòa giải thứ tha – trước hết từ Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể mở lòng chúng ta và thanh tẩy tâm can của chúng ta, từ những con người nam nữ đã chịu khổ đau ở nơi đây, và sau cùng nguyện xin ơn hòa giải cho tất cả những ai, vào chính giây phút lịch sử này đây đang chịu khổ đau một cách mới mẻ bởi quyền lực của hận thù và bởi bạo lực do thù hận gây ra.

 

Biết bao nhiêu là vấn đề được xuất phát ở nơi chốn này! Vấn đề liên lỉ hiện lên đó là Thiên Chúa ở đâu trong những ngày ấy? Tại sao Ngài lại thinh lặng chứ? Làm sao Ngài lại có thể để xẩy ra cuộc tàn sát khôn cùng này chứ, cuộc chiến thắng của sự dữ ấy chứ? Những lời của bài Thánh Vịnh 44 đã hiện lên trong tâm trí, đó là lời than vãn của dân Yến Duyên về các kẻ thù địch của họ: ‘Ngài đã vùi dập chúng tôi trong hang động chó rừng, và phủ chụp tăm tối kín mít lên chúng tôi… vì Ngài chúng tôi đá bị sát hại suốt ngày, và đã bị coi như con chiên mang đi làm thịt. Xin Ngài hãy ra tay! Ôi Chúa, tại sao Ngài lại ngủ chứ? Xin hãy tỉnh giấc, đừng mãi mãi bỏ mặc chúng tôi! Tại sao Ngài lại cứ ẩn mặt đi? Tại sao Ngài lại chẳng lưu ý gì tới nỗi đau thương và tình trạng bị đàn áp của chúng tôi chứ? Vì chúng tôi bị dìm xuống cát bụi; thân thể chúng tôi dính liền với mắt đất. Xin hãy vùng lên và ra tay cứu giúp chúng tôi! Xin hãy cứu chúng tôi vì tình yêu trung kiên của Ngài!’ (19,22-26). Tiếng kêu thống khổ này, tiếng kêu được dân Yến Duyên dâng lên Thiên Chúa trong cảnh khổ đau của họ, trong giây phút hết sức sầu thương của họ, cũng là tiếng kêu cứu giúp của tất cả những ai thuộc mọi thời đại – hôm qua, hôm nay và ngày mai – chịu khổ vì tình yêu Thiên Chúa, vì lòng yêu chuộng chân lý và sự thiện hảo. Họ nhiều biết bao, thậm chí ở cả thời đại của chúng ta đây!

 

Chúng ta không thể nào nhìn thấu được dự án huyền nhiệm của Thiên Chúa – chúng ta chỉ thấy được một phần nào, và chúng ta có thể sai lầm một khi cho mình là những kẻ thẩm phán của Thiên Chúa và lịch sử. Bấy giờ chúng ta không phải là kẻ đang bênh vực con người mà chỉ góp phần vào việc sụp đổ của con người mà thôi. Không – một khi tất cả những gì đã nói và đã làm, chúng ta cần phải tiếp tục khiêm nhượng song cương quyết kêu lên cùng Thiên Chúa rằng: Xin hãy đứng lên! Đừng quên nhân loại là tạo vật của Ngài! Và lời chúng ta kêu lên Thiên Chúa cũng phải là một tiếng kêu xuyên thấu chính tâm can của chúng ta, một tiếng kêu đánh động trong chúng ta sự hiện diện âm thầm của Thiên Chúa – nhờ đó, quyền năng của Ngài, một quyền năng Ngài đã cấy trồng nơi tâm can của chúng ta, sẽ không bị chôn vùi hay chết nghẹt trong chúng ta bởi bùn lầy của lòng vị kỷ, của tính nhu nhược, của thái độ lạnh lùng hay của chủ trương thời cơ. Chúng ta hãy kêu lên Thiên Chúa bằng tất cả tâm can của mình, vào giờ khác hiện tại này đây, khi đang đổ xuống trên chúng ta những bất hạnh mới, khi tất cả mọi mãnh lực của tối tăm dường như đang xuất phát một cách mới mẻ từ tâm can nhân loại của chúng ta: một là việc lạm dụng danh Thiên Chúa như phương tiện để biện minh cho việc bạo động vô nghĩa phạm tới những con người vô tội, hai là tỏ ra chủ trương yếm thế chối bỏ việc nhận biết Thiên Chúa và nhạo cười niềm tin tưởng vào Ngài. Chúng ta hãy kêu lên Thiên Chúa, để Ngài làm cho con người nam nữ biết hoán cải và giúp họ thấy được rằng bạo động không phải là những gì mang lại hòa bình song chỉ gây thêm bạo loạn mà thôi – gây ra một cuộc sa lầy tàn hại mà cuối cùng tất cả moị người đều là những kẻ thua cuộc. Vị Thiên Chúa mà chúng ta tin tưởng là một Thiên Chúa của lý trí – một lý trí chắc chắn không phải là một thứ toán học lạnh lùng về vũ trụ này mà là một lý trí biết yêu thương và thiện hảo. Chúng ta hãy dâng lời nguyện cầu lên Thiên Chúa và chúng ta kêu gọi nhân loại, để lý trí này, tức lý lẽ của yêu thương và việc nhìn nhận quyền lực hòa giải và bình an, được thắng vượt những thứ đe dọa xuất phát từ khuynh hướng vô tri hay từ một thứ lý trí sai lạc và phi thần linh.

 

Địa điểm chúng ta đang đứng đây là một nơi thuộc ký ức, nó là nơi chốn của biến cố Shoah. Quá khứ không bao giờ chỉ thuần túy là quá khứ. Nó bao giờ cũng là một cái gì đó muốn nói với chúng ta; nó nói với chúng ta về những đường lối cần phải theo và những đường lối đừng tiến vào. Như Đức Gioan Phaolô II, tôi đã bước dọc theo những tấm bảng ghi khắc được viết bằng các ngôn ngữ khác nhau để tưởng nhớ những người đã chết ở nơi đây, những tấm bảng ghi khắc bằng tiếng Belarusian, Czech, German, French, Greek, Hebrew, Croatian, Italian, Yiddish, Hungarian, Dutch, Norwegian, Polish, Russian, Romani, Romanian, Slovak, Serbian, Ukrainian, Judaeo-Spanish và English. Tất cả các tấm bảng ghi khắc này đều nói về nỗi sầu đau của nhân loại, chúng cống hiến cho chúng ta một cái thoáng nhìn về tính cách cay độc của một thứ chế độ đối xử với con người nam nữ như là những đối tượng về thể chất, và không nhìn thấy nơi những con người ấy là hiện thân hình ảnh của Thiên Chúa. Một số tấm bảng ghi khắc có tính cách nhắc nhở. Có một tấm bảng ghi khắc bằng tiếng Do Thái. Những tay cầm quyền của Third Reich muốn giầy xéo toàn thể nhân dân Do Thái, muốn xóa bỏ họ khỏi sổ sách các dân tộc trên thế giới. Bởi thế mà những lời của bài Thánh Vịnh ấy đã được nên trọn một cách kinh hoàng: ‘Chúng tôi bị tàn sát, bị coi là con chiên bị đem đi làm thịt’. Tận thâm tâm thì những kẻ ác phạm ghê tởm ấy muốn sát hại Thiên Chúa, bằng việc loại trừ dân của Ngài, Đấng đã kêu gọi Abraham, Đấng đã phán trên núi Sinai và đã đặt ra các nguyên tắc để giúp hướng dẫn loài người, những nguyên tắc muôn đời vẫn có hiệu lực. Nếu dân tộc này, bằng chính việc hiện hữu của mình, là chứng từ cho Vị Thiên Chúa nói với nhân loại và mang chúng ta lại với Ngài, thì Vị Thiên Chúa ấy cuối cùng cần phải chết đi và quyền năng cần phải thuộc về một mình con người mà thôi – thuộc về những con người nghĩ rằng họ làm chủ thế giới này bằng võ lực. Bằng việc huy diệt dân Yến Duyên, bằng biến cố Shoah, tự kỳ chung họ muốn nhổ tận gốc rễ đức tin Kitô giáo và thay thế vào đó một đức tin theo sáng chế riêng của họ, đó là đức tin vào việc lãnh đạo của con người, vào việc cai trị của thành phần quyền lực.

 

Rồi cũng có tấm ghi khắc bằng tiếng Balan nữa. Trước hết và trên hết họ muốn loại trừ thành phần ưu tú về văn hóa, nhờ đó xóa bỏ nhân dân Balan như là một chủ thể lịch sử biệt lập và biến nó thành nô lệ nếu nó tiếp tục tồn tại. Một tấm ghi khắc khác có tính cách nhắc nhở đó là tấm được viết bằng tiếng của dân Sinti và Rôma. Cả ở nơi tấm ghi khắc này nữa, dự định đó là tẩy diệt cả một dân tộc đang sống lưu vong giữa các dân tộc. Dân tộc này được coi như là thành phần bị lịch sử thế giới chối bỏ, theo một thứ ý hệ chỉ coi trọng những gì là hữu dụng theo kinh nghiệm; còn mọi sự khác, theo quan điểm này, đều được coi như là lebensunwertes Leben – tức một sự sống không đáng sống. Cũng có tấm bảng ghi khắc bằng tiếng Nga, tấm bảng tưởng niệm việc các người lính Nga chiến đấu chống lại việc cai trị kinh khủng của Nazi bị mất mát sự sống một cách hãi hùng; thế nhưng tấm ghi khắc này cũng nhắc nhở chúng ta rằng sứ vụ của họ đã có một hậu quả lưỡng diện thảm thương, đó là họ đã giải phóng các dân tộc khỏi một chính sách độc tài, song các dân tộc ấy bởi đó lại bị qụi lụy vào một chính sách khác, chính sách của Stalin và của chế độ Cộng Sản.

 

Những tấm ghi khắc khác, được viết bằng nhiều ngôn ngữ Âu Châu, cũng nói với chúng ta về các nỗi khổ đau của những con người nam nữ ở khắp châu lục này. Chúng mạnh mẽ khuấy động tâm can của chúng ta nếu chúng ta chỉ tưởng nhớ đến các nạn nhân một cách chung chung vậy thôi, nhưng còn cần phải thấy được cả các bộ mặt của những con người cá biệt đã kết thúc cuộc đời tại vực thẳm kinh hoàng ở nơi đây nữa.

 

Tôi cảm thấy được mạnh mẽ dừng chân lại một cách đặc biệt trước tấm bảng ghi khắc bằng tiếng Đức. Nó cho thấy dung nhan của Edith Stein, Theresia Benedicta a Cruce: một nữ nhân Do Thái và Đức Quốc, vị đã biến mất cùng với chị em của mình trong đêm đen ở trại tập trung Nazi Đức quốc; là một Kitô hữu và là người Do Thái, chị đã chấp nhận cái chết với nhân dân của chị và cho nhân dân của chị. Những người Đức bị mang đến Auschwitz-Birkenau và bị chết ở đây đều được coi là thành phần Abschaum der Nation – tức thành phần bị quốc gia khước từ. Hôm nay, chúng ta tri ân nghiêng mình trước họ như là thành phần nhân chứng của chân lý và của sự thiện mà ngay trong thành phần nhân dân của chúng tôi vẫn không bị lu mờ. Chúng ta ghi ơn họ, vì họ không qụi lụy quyền lực của sự dữ, và giờ đây họ hiện lên trước mắt chúng ta như ánh sáng chiếu soi trong đêm tối. Bởi vậy, với tấm lòng trọng kính và ghi ơn, chúng ta hãy cúi đầu trước tất cả những ai, giống như 3 người trẻ ở Babylon trước cái chết trong hỏa lò, vẫn có thể đáp lại rằng: ‘Chỉ có một mình Thiên Chúa của chúng tôi mới có thể cứu được chúng tôi. Thế nhưng cho dù Ngài có không cứu chúng tôi đi chăng nữa, thì xin Vua hãy biết cho rằng chúng tôi sẽ không phụng sự các thần linh của vua đâu, và chúng tôi sẽ không tôn thờ tượng vàng được vua dựng lên đâu’ (x Dan 3:17ff).

 

Đúng thế, đằng sau những tấm ghi khắc ấy là số mệnh của vô vàn con người. Chúng làm ký ức của chúng ta bị chấn động, chúng tác động tâm can của chúng ta. Chúng không có ý muốn tiêm nhiễm vào chúng ta mối hận thù, trái lại, chúng cho chúng ta thấy hậu quả kinh khiếp của hận thù. Chúng muốn giúp cho trí khôn của chúng ta thấy được sự dữ là sự dữ và loại trừ nó; chúng muốn khơi lên trong chúng ta lòng can đảm hành thiện và chống dữ. Chúng muốn làm cho chúng ta cảm thấy những cảm thức được bày tỏ qua những lời Sophocles đặt vào miệng lưỡi của Antigone, khi bà chiêm ngắm thấy cảnh tượng kinh hoàng xẩy ra chung quanh bà: bản tính của tôi không liên kết với hận thù mà là trong yêu thương.

 

Nhờ ơn Chúa, cùng với việc thanh tẩy ký ức cần phải có bởi chốn kinh hoàng này, đã bừng lên một số khởi xướng nhằm áp đặt giới hạn trên sự dữ và củng cố sự thiện hảo. Tôi vừa được dịp làm phép Trung Tâm Về Đối Thoại Và Nguyện Cầu. Ở khu vực liền ngay đây là các nữ đan sĩ sống đời ẩn thân, biết rằng họ liên kết một cách đặc biệt với mầu nhiệm Thập Giá của Chúa Kitô và nhắc nhở chúng ta về đức tin của người Kitô hữu, một đức tin tuyên xưng rằng Thiên Chúa đã đích thân xuống tận ngục của khổ đau và của thành phần đau khổ với chúng ta. Ở Oswiecim có Trung Tâm Thánh Maximilian Kolbe, và Trung Tâm Quốc Tế Giáo Dục về Auschwitz cũng như về Cuộc Tế Thần. Cũng có cả những Nhà Quốc Tế Cho Các Cuộc Họp Giới Trẻ. Gần một trong những Nhà Cầu Nguyện cũ có Trung Tâm Do Thái. Sau cùng Học Viện Về Nhân Quyền cũng đang được xây dựng. Bởi vậy hy vọng rằng nơi này dần dần sẽ trở thành một chốn có những tâm tưởng xây dựng, và việc tưởng nhớ sẽ nung nấu cuộc chống lại sự dữ cho tình yêu thắng cuộc.

 

Ở tại Auschwitz-Birkenau, nhân loại đã bước đi qua ‘thung lũng tối’. Bởi vậy, ở nơi đây, tôi muốn kết thúc bằng một lời nguyện cầu của lòng tin tưởng – bằng một trong những lời Thánh Vịnh của dân Do Thái cũng là một lời nguyện của Kitô hữu, đó là: ‘Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng còn thiếu thốn chi. Nơi đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ; tới nguồn nước chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi Người lo bồi dưỡng. Vì uy danh Người, Người dẫn tôi theo đường ngay nẻo chính. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi, cây roi và cái trượng của Ngài, đó là điều an ủi lòng tôi… Tôi sẽ cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi’

 

 

  TOP

 

 

“Xin Người Mẹ của Đấng Cứu Chuộc hướng dẫn anh chị em sống đức tin của anh chị em”

 

Huấn Từ Lạy Nữ Vương Chúa Nhật 28 cuối Thánh Lễ  Bế Mạc

 

Trước khi kết thúc việc long trọng cử hành phụng vụ này bằng việc hát Kinh Lạy Nữ Vương và ban phép lành, tôi một lần nữa chào dân chúng ở Krakow cùng nhiều người khách từ khắp Balan đến tham dự Thánh Lễ này. Tôi xin trao phó tất cả anh chị em cho Người Mẹ của Đấng Cứu Chuộc, và xin Mẹ hướng dẫn anh chị em sống đức tin của anh chị em. Tôi xin cám ơn việc anh chị em hiện diện nơi đây cũng như việc anh chị em làm chứng cho đức tin của anh chị em.

 

Tôi đặc biệt ngỏ lời cùng giới trẻ, những người hôm qua đã bày tỏ việc họ gắn bó với Chúa Kitô và với Giáo Hội. Hôm qua quí bạn đã tặng tôi món quà là cuốn sách chứng từ của quí bạn: ‘Con không sử dụng chúng, con không nghiện hút’. Giờ đây, với tư cách là cha của quí bạn, tôi xin quí bạn: Hãy trung thành với lời hứa này. Nó là một vấn đề về đời sống của quí bạn và tự do của quí bạn.

 

Quí bạn đừng để mình trở thành nạn nhân với những ảo ảnh của thế giới này…

 

(Ba đoạn rất ngắn sau cùng ĐTC chào quí chức đạo đời và cám ơn mọi người).

 

 

  TOP

 

 

Tôi xin anh chị em hãy mãi là những người trung thành quản thủ kho tàng Kitô Giáo

và truyền đạt nó cho các thế hệ mai hậu

 

Tạ Từ tại Phi Trường Okecie ở Warszaw Chúa Nhật 28/5/2006

 

 

Ngài Tổng Thống Cộng Hòa Balan

Huynh Khả Kính Hồng Y Tổng Giám Mục Krakow

Anh Chị Em thân mến!

 

Đã đến lúc tôi phải lên tiếng nói lời tạ từ Balan rồi. Bốn ngày vừa rồi, tôi đã đi qua xứ sở của anh chị em như một người hành hương, viếng thăm các nơi đặc biệt quan trọng đối với căn tính lịch sử và thiêng liêng của anh chị em. Warsaw, Jasna Góra, Kraków, Wadowice, Kalwaria Zebrzydowska, Lagiewniki, Óswiecim – Những địa danh này đã gợi lên biết bao nhiêu là nhung nhớ! Chúng chất chứa biết bao nhiêu là ý nghĩa đối với nhân dân Balan!

 

Khi giã biệt quê hương của mình lần cuối cùng 4 năm trước đây, vị tiền nhiệm yêu dấu của tôi là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khuyên nhủ quốc gia Balan hãy luôn theo đuổi những cảm thức xót thương, tình đoàn kết huynh đệ, và việc dấn thân cho công ích, và ngài bày tỏ niềm xác tín vững chắc rằng nhờ đó nước này mới chẳng những tìm thấy chỗ đứng thích hợp của mình trong một Âu Châu Hiệp Nhất, mà còn làm phong phú châu lục này cùng toàn thể thế giới bằng truyền thống của mình. Hôm nay đây, với sự hiện diện của anh chị em trong gia đình các Quốc Gia Âu Châu đang được liên tục củng cố, tôi muốn thật tình lập lại những lời lẽ hy vọng ấy. Tôi xin anh chị em hãy mãi là những người trung thành quản thủ kho tàng Kitô Giáo và truyền đạt nó cho các thế hệ mai hậu.

 

Hỡi nhân dân Balan thân mến! Tôi muốn ký thác cho anh chị em cuộc hành hương này, một cuộc hành hương tôi đã viếng thăm các địa điểm đặc biệt thân thương của Đức Gioan Phaolô II, nó đã thậm chí làm cho tôi gần gũi với anh chị em hơn, với đồng hương của anh chị em hơn. Tôi xin cám ơn về lời cầu nguyện anh chị em đã giành cho tôi từ ngày tôi được tuyển chọn. Trong các cuộc gặp gỡ với anh chị em, tại các cuộc triều kiến ở Vatican, tôi thường cảm thấy một mối liên kết gắn bó nguyện cầu và của lòng tự nhiên cảm mến. Tôi xin anh chị em tiếp tục nhớ đến tôi trong lời nguyện cầu của anh chị em, xin Chúa thêm sức mạnh cho tôi trong việc phục vụ Giáo Hội hoàn vũ.

 

Tôi cám ơn Tổng Thống Cộng Hòa Balan và Hội Đồng Giám Mục Balan đã ngở lời mới tôi đến viếng thăm. Tôi cám ơn vị Thủ Tướng về việc hợp tác tốt đẹp của Chính Quyền với những đại diện của Giáo Hội trong việc sửa soạn cho chuyến viếng thăm này. Tôi xin tri ân Thẩm Quyền các cấp về công việc khó nhọc, cả trước và trong cuộc viếng thăm của tôi. Tôi cám ơn các vị đại diện truyền thông xã hội về những nỗ lực họ đã thực hiện để quảng bá cuộc hành hương này. Tôi cũng xin tri ân cảm tạ về việc giữ trật tự, tri ân cảm tạ lực lượng quân đội, cảnh sát, đội binh chữa lửa, các nhóm chăm sóc sức khỏe cùng tất cả những ai giúp vào việc thành đạt cho cuộc gặp gỡ của vị Giáo Hoàng này với Ba Lan và dân cư Ba Lan.

 

Tôi xin kết thúc chuyến viếng thăm của tôi bằng những lời của Thánh Tông Đồ Phaolô đã đồng hành với cuộc hành hương của tôi ở lãnh thổ Ba Lan, đó là: ‘Hãy tỉnh thức đề phòng, hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em, hãy can trường, hãy mạnh bạo. Chớ gì tất cả những gì anh chị em làm đều được thực hiện trong yêu thương’ (1Cor 16:13-14). Tôi ban phép lành cho tất cả anh chị em!

 

 

  TOP

 

 

“Hôm nay, tôi muốn ôn lại với anh chị em những đoạn đường của chuyến tông du

tôi mới thực hiện ở Balan trong mấy ngày gần đây”

 

Chia sẻ Cảm Nghiệm Tông Du Mục Vụ trong Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 31/5/2006

 

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Hôm nay, tôi muốn ôn lại với anh chị em những đoạn đường của chuyến tông du tôi mới thực hiện ở Balan trong mấy ngày gần đây. Tôi xin cám ơn hội đồng giám mục Balan, cách riêng các vị tổng giám mục các tổng giáo phận Warsaw và Krakow, về nhiệt tình và lo lắng để sửa soạn cho chuyến viếng thăm này. Một lần nữa tôi xin cảm tạ vị tổng thống của nước cộng hòa này cũng như các vị thẩm quyền khác nhau của đất nước ấy, cùng tất cả những ai giúp vào việc thành đạt của chuyến viếng thăm này.

 

Trên hết, thâm tâm tôi muốn cám ơn những người Công Giáo cùng toàn thể nhân dân Balan, vì tôi đã cảm thấy được việc thiết tha gắn bó đầy nồng nàn về nhân bản cũng như về thiêng liêng của họ. Nhiều người trong anh chị em đã nhìn thấy điều ấy qua truyền hình. Nó thực sự là một biểu hiện của công giáo tính, của lòng mến yêu Giáo Hội, một lòng mến yêu được bày tỏ nơi lòng yêu mến Vị Thừa Kế Thánh Phêrô.

 

Sau khi đến phi trường Warsaw, nơi hẹn hò đầu tiên của tôi được giành cho các vị linh mục đó là vương cung thánh đường của thành phố quan trọng ấy vào ngày đang mừng kỷ niệm 50 năm thụ phong linh mục của Đức Hồng Y Jozef Glemp, vị mục tử của Tổng Giáo Phận này. Bởi thế, cuộc hành trình của tôi đã mở màn bằng dấu hiệu của thiên chức linh mục và sau đó cuộc hành trình đã được tiếp tục với mối quan tâm về đại kết tại Nhà Thờ Luthêrô Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.

 

Trong dịp này, cùng với thành phần đại diện các giáo hội khác nhau và các cộng đồng giáo hội ở Balan, tôi đã khẳng định quyết định mạnh mẽ trong việc coi vấn đề dấn thân để tái thiết mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình nơi thành phần Kitô hữu như là một ưu tiên thực sự nơi thừa tác vụ của tôi.

 

Sau đó là cuộc long trọng cử hành Thánh Thể ở Quảng Trường Pilsudski, đông đảo dân chúng, tại trung tâm Warsaw. Nơi này, nơi chúng tôi long trọng cử hành Thánh Thể một cách hân hoan, đã có một giá trị tiêu biểu, như nó đã đóng vai trò chủ yếu trong các biến cố lịch sử như các Thánh Lễ được Đức Gioan Phaolô II cử hành và lễ an táng của Đức Hồng Y Giáo Chủ Stefan Wyszynski, cùng một số các cử hành lớn để cầu hồn cho vị tiền nhiệm đáng kính của tôi vào những ngày sau khi ngài băng hà.

 

Chương trình của chuyến tông du này cũng không thể nào không bao gồm cả việc viếng thăm các đền thờ ghi dấu vết đời sống của Đức Karol Wojtyla khi còn là linh mục và giám mục, nhất là 3 đền thờ, đền thờ Czestochowa, đền thờ Kalwaria Zebrzidowska và đền thờ Lòng Thương Xót Chúa. Tôi không thể quên được cuộc viếng thăm đền Thánh Mẫu Jasna Gora nổi tiếng. Trên Ngọn Núi Sáng Tỏ đó, tâm điểm của nước Balan, nó giống như một căn nhà tiệc ly, rất nhiều tín hữu, nhất là thành phần tu sĩ nam nữ, chủng sinh và đại diện các phong trào trong giáo hội, qui tụ lại quanh Vị Thừa Kế Thánh Phêrô để cùng với tôi lắng nghe Mẹ Maria.

 

Được tác động bởi những suy niệm tuyệt vời về Thánh Mẫu, những suy niệm Đức Gioan Phaolô II đã cống hiến cho Giáo Hội trong bức thông điệp ‘Mẹ Đấng Cứu Chuộc’, tôi muốn phác họa một lần nữa đức tin là một thái độ nồng cốt của tinh thần, một tinh thần không phải chỉ là những gì thuần túy về tri thức hay tình cảm. Đức tin chân chính là những gì bao gồm toàn thể con người: các tư tưởng, cảm tình, ý hướng, liên hệ, bản tính thể lý, hoạt động và việc làm hằng ngày của họ.

 

Sau đó, đến thăm đền thờ tuyệt vời Kalwaria Zebrzydowska, gần Krakow, tôi đã cầu xin Đức Mẹ Sầu Bi hãy nâng dỡ đức tin của cộng đồng giáo hội vào những lúc khó khăn và thử thách; chặng viếng thăm tiếp theo đó là ở Đền Thờ Lòng Thương Xót Chúa ở Lagiewniki, là nơi cho tôi được dịp nhấn mạnh rằng chỉ có Lòng Thương Xót Chúa mới làm sáng tỏ mầu nhiệm con người. Ở một nữ tu viện gần đền thờ này, khi chiêm ngắm những thương tích rạng ngời của Chúa Kitô phục sinh, Nữ Tu Faustina Kowalska đã lãnh nhận một sứ điệp về niềm tin tưởng gửi cho nhân loại, sứ điệp của Lòng Thương Xót Chúa, một sứ điệp đã được vang vọng bởi Đức Gioan Phaolô II, vị đã trở thành dẫn giải viên cho sứ điệp ấy. Nó thực sự là sứ điệp chính yếu cho thời đại của chúng ta: Tình Thương là mãnh lực của Thiên Chúa, là giới hạn thần linh đối với sự dữ trên thế giới này.

 

Tôi đã muốn đến viếng thăm cả ‘các đền thánh’ tiêu biểu khác nữa: Tôi đang nói tới Wadowice, một địa phương đã trở thành nổi tiếng vì Đức Karol Wojtyla đã được vào đời và lãnh nhận phép rửa ở đó. Chuyến viếng thăm này đã cho tôi có cơ hội để cảm tạ Chúa về tặng ân người tôi tớ Phúc Âm không biết mệt mỏi này. Cái căn gốc của những gì ngài mạnh mẽ tin tưởng, của bản tính rất nhậy cảm và cởi mở nơi ngài, của việc ngài yêu thích sự mỹ và sự thật, của việc ngài tôn sùng Mẹ Maria, của việc ngài mến yêu Giáo Hội và nhất là của ơn gọi nên thánh của ngài đều ở nơi thành phố nhỏ này, nơi ngài đã được giáo dục và đào luyện từ những năm đầu đời. Một địa điểm khác cũng được Đức Gioan Phaolô II yêu thích đó là Vương Cung Thánh Đường Wawel ở Krakow, một nơi tiêu biểu cho quốc gia Balan: Đức Karol Wojtyla đã cử hành Thánh Lễ đầu tay tại hầm mộ của ngôi vương cung thánh đường ấy.

 

Một cảm nghiệm rất đẹp khác nữa là cuộc gặp gỡ giới trẻ diễn ra ở Krakow tại khu Công Viên Blonie rộng lớn. Tôi đã trao một cách tượng trưng cho nhiều người trẻ ‘Ngọn Lửa Tình Thương’ để họ trở thành thành phần rao giảng Tình Yêu và Lòng Thương Xót Chúa trên thế giới. Cùng với họ, tôi đã suy niệm về đoạn Phúc Âm xây nhà trên đá (x Mt 7:24-27) là đoạn Phúc Âm cũng được đọc vào đầu cuộc triều kiến chung hôm nay. 

 

Tôi đã dừng lại để suy niệm về Lời Chúa cho sáng Chúa Nhật, lễ trọng Thăng Thiên, trong cuộc cử hành kết thúc cuộc viếng thăm của tôi. Đó là một cuộc gặp gỡ theo phụng vụ đầy sinh động trước sự tham dự ngoại thường của thành phần tín hữu tại cùng một khu công viên mà đêm hôm trước đã diễn ra cuộc gặp gỡ giới trẻ.

 

Tôi đã lợi dụng dịp này để lập lại trước nhân dân Balan việc sự thật Kitô Giáo công bố một cách tuyệt vời về con người là thành phần được dựng nên và được cứu chuộc nơi Đức Kitô; một sự thật đã được Đức Gioan Phaolô II mạnh mẽ rao giảng vào rất nhiều dịp để phấn khích tất cả mọi người hãy vững mạnh trong đức tin, đức cậy và đức mến. ‘Hãy đứng vững trong đức tin’. Đó là lời hướng dẫn được ngài để lại cho con cái thuộc quê hương Balan yêu dấu của ngài, khuyến khích họ hãy kiên trì trung thành với Chúa Kitô cũng như với Giáo Hội, nhờ đó, Âu Châu và thế giới sẽ không bao giờ thiếu hụt việc đóng góp chứng từ phúc âm của đất nước này. Tất cả mọi Kitô hữu cần cảm thấy họ  dấn thân để cống hiến chứng từ ấy, để nhân loại thuộc ngàn năm thứ ba có thể tránh được việc nếm mùi những điều ghê tởm mới giống như những điều kinh hoàng được gợi lên cho thấy một cách thê thảm nơi trại tử thần Auschwitz-Birkenau.

 

Thật thế, trước khi về lại Rôma, tôi đã muốn dừng chân lại ở địa điểm bất hạnh nổi tiếng khắp thế giới này. Ở trại Auschwitz-Birkenau, cũng như ở các trại tương tự khác, Hitler đã tiêu diệt 6 triệu người Do Thái. Ở Auschwitz-Birkenau, có khoảng 150 ngàn người Balan và cả chục ngàn con người nam nữ thuộc các quốc tịch khác cũng bị sát hại.

 

Trước cảnh kinh hoàng của trại tử thần Auschwitz không còn câu trả lời nào khác ngoài thập giá Chúa Kitô, ở chỗ, Tình Yêu đã xuống tới tận vực thẳm của sự dữ để cứu độ con người nơi thâm cung của họ là nơi tự do có thể nổi lên chống lại Thiên Chúa. Chớ gì nhân loại ngày nay đừng quên Auschwitz cùng các ‘xưởng tử thần’ khác là những nơi chế độ Nazi đã cố gắng loại trừ Thiên Chúa ra để chiếm lấy chỗ của Ngài! Chớ gì con người tái nhận biết rằng Thiên Chúa là Cha của tất cả và Ngài kêu gọi tất cả chúng ta trong Chúa Kitô để cùng nhau xây dựng một thế giới công chính, chân thực và an bình! Chúng ta muốn xin Chúa ban cho điều này nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, vì mà hôm nay, vào ngày kết thúc tháng Năm, chúng ta chiêm ngắm việc Mẹ ân cần và yêu thương viếng thăm người họ hàng luống tuổi Isave của Mẹ.

 

Riêng bài chia sẻ này được chuyển dịch theo Zenit ngày 31/5/2006

 

 

 TOP

 

 

“Anh chị em hãy đứng vững trong đức tin”

 (Lược tóm theo chủ đề)

 

Vị Giáo Hoàng đương kim Biển Đức XVI của chúng ta đã thực hiện một chuyến tông du mục vụ lần thứ hai trong giáo triều mới được 13 tháng 1 tuần của ngài, vào cuối Tháng Hoa Đức Mẹ từ Thứ Năm 25 đến hết Chúa Nhật 28 năm 2006. Nếu chuyến tông du mục vụ đầu tiên là chuyến ngài đến với Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX là biến cố đã được tiền định bởi Đấng Quan Phòng Thần Linh cho diễn ra tại chính quê hương Đức Quốc của ngài, thì chuyến tông du mục vụ lần thứ hai của ngài, được ngài quyết định, là chuyến tông du mục vụ ở Balan, quê hương của đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị tiền nhiệm rất quí yêu của ngài, một nước Balan đã bị nước Đức của ngài xâm chiếm vào Thế Chiến Thứ II. Trong chuyến tông du mục vụ lần hai này, ngoại trừ 2 bài ở phi trường để khai từ và tạ từ, và 2 bài huấn từ ngắn với giới trẻ hai lần, một tại Tòa Tổng Giám Mục Krakow và một lần trước khi nguyện Kinh Lạy Nữ Vương cuối Thánh Lễ Chúa Nhật, ngài đã nói tất cả là 10 bài chính, và đối tượng của 10 bài nói chính này bao gồm cả nhân vật lẫn cảnh vật. Thành phần nhân vật được coi là đối tượng của các bài huấn từ của ngài, theo thứ tự thời gian, thứ nhất là hàng giáo sĩ, thứ hai là thành phần đại kết, thứ ba là thành phần tu sĩ, chủng sinh và tông đồ giáo dân, thứ bốn là bệnh nhân, thứ năm là giới trẻ, và thứ sáu là chung cộng đồng Dân Chúa. Còn cảnh vật là đối tượng của những bài diễn từ của ngài là ngôi Thánh Đường Wadowice, nơi sinh trưởng của Đức Gioan Phaolô II, và Trại Tử Thần Đức Quốc Xã Auschwitz, nơi diệt chủng Do Thái trong Thế Chiến Thứ Hai. Tuy nhiên, chủ đề chính của tất cả các bài nói, tổng cộng là 14 bài dài ngắn, đó là câu châm ngôn cho chuyến tông du mục vụ lần hai này. Câu đó là: “Anh chị em hãy đứng vững trong đức tin”. Sau đây là lược tóm những câu nói trực tiếp liên quan khít khao với chủ đề của chuyến tông du mục vụ thứ hai này của ngài.

                                                        

·        Khai Từ tại Phi Trường Okecie ở Warszaw ngày Thứ Năm 25

 

‘Hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em’. Tôi đề cập tới điều này ngay từ đầu để nhấn mạnh rằng đầy không phải chỉ là một cuộc hành trình theo tình cảm, mặc dù bao gồm cả vấn đề này nữa, mà là một cuộc hành trình đức tin, một phần của sứ vụ do Chúa Kitô ký thác cho tôi nơi con người của Tông Đồ Phêrô, vị đã được kêu gọi để củng cố anh chị em mình trong đức tin (x Lk 22:32). Tôi cũng muốn rút ra từ mạch suối dồi dào đức tin của anh chị em, một đức tin liên lỉ chảy cả hơn một ngàn năm. 

……………..

Hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em’ – đây là câu tâm niệm cho chuyến Tông Du của tôi. Tôi hy vọng rằng những ngày của chuyến tông du này sẽ giúp vào việc làm kiên cường đức tin của tất cả mọi người chúng ta – các phần tử thuộc Giáo Hội ở Balan và cả chính tôi nữa. Chớ gì chuyến viếng thăm của tôi sẽ trở thành một thời gian của tình huynh đệ, thiện ích và hy vọng cho cả những ai chưa được ơn đức tin song lòng của họ tràn đầy thiện chí nữa. Chớ gì những giá trị bền bỉ này của nhân loại trở thành nền tảng vững chắc cho việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, một thế giới mà trong đó mọi người được hoan hưởng cả về sự giầu thịnh về vật chất lẫn niềm vui thiêng liêng. Đó là ý nguyện của tôi cho toàn thể nhân dân Balan. Một lần nữa tôi xin cám ơn Ngài Tổng Thống cùng các Vị Giám Mục Balan đã ngở mời tôi. Tôi thân ái gắn bó với nhân dân Balan ở khắp mọi nơi và tôi xin họ hãy hỗ trợ cuộc hành trình đức tin này của tôi bằng lời nguyện cầu.

 

·        Huấn Từ với Hàng Giáo Sĩ Balan tại Vương Cung Thánh Đường Warszawa Thứ Năm 25

 

Hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em! Tôi cũng trao phó câu tâm niệm cho cuộc hành trình này của tôi nơi anh em nữa. Hãy sống chân chính đích thực trong cuộc đời của anh em cũng như nơi thừa tác vụ của anh em. Gắn mắt nhìn lên Chúa Kitô, anh em hãy sống một đời khiêm tốn, đoàn kết với tín hữu là thành phần anh em được gửi tới với họ. Hãy phục vụ mọi người; hãy trở thành thuận lợi trong các giáo xứ cũng như nơi những tòa giải tội, hãy hỗ trợ các phong trào và hội đoàn mới, hãy nâng đỡ các gia đình, đừng quên mối liên hệ với giới trẻ, hãy lưu ý tới thành phần nghèo khổ và bị bỏ rơi. Nếu anh em sống bởi đức tin thì Thánh Thần sẽ tỏ cho anh em biết những gì anh em cần phải nói năng và cách thức anh em cần phải phục vụ. Anh em bao giờ cũng có thể tin tưởng vào sự trợ giúp của Mẹ Maria là Đấng đi trước Giáo Hội trong đức tin. Tôi khuyên anh em hãy luôn kêu cầu Mẹ bằng những lời anh em quá quen thuộc, đó là: ‘Chúng con gắn bó với Mẹ, chúng con tưởng nhớ đến Mẹ, chúng con dõi theo Mẹ’.

 

·        Diễn Từ với Thành Phần Đại Kết Balan tại Nhà Thờ Ba Ngôi Chí Thánh Warsaw Tối Thứ Năm 25

 

‘Kìa, Người đang đến trên đám mây và mọi con mắt sẽ được trông thấy Người’ (Rev 1:7). Những lời này của Sách Khải Huyền nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đang hành trình tiến đến cuộc hội ngộ tối hậu với Chúa Kitô, khi Người tỏ mình ra trước mắt chúng ta cái ý nghĩa của lịch sử con người, một lịch sử có tâm điểm là Thập Tự Giá của hy tế cứu độ. Là cộng đồng môn đệ, chúng ta được hướng dẫn tới cuộc hội ngộ ấy, một cuộc hội ngộ đối với chúng ta là ngày cứu độ tràn đầy hy vọng và tin tưởng, ngày mà tất cả mọi niềm khát vọng của chúng ta được nên trọn, nhờ việc chúng ta sẵn sàng để mình được hướng dẫn bởi một đức ái hỗ tương là những gì do Thần Linh gợi lên trong chúng ta. Chúng ta hãy xây dựng niềm tin tưởng này không phải bằng công lênh của mình mà bằng việc nguyện cầu là việc Chúa Kitô nhờ đó tỏ cho thấy ý nghĩa về việc Người đến trên thế gian và về cái chết cứu độ của Người: ‘Lạy Cha, con muốn rằng cả họ nữa, thành phần Cha đã ban cho Con, cũng được ở với Con để chiêm ngưỡng vinh hiển Cha đã ban cho Con vì yêu Con trước khi tạo thành thế gian’ (Jn 17:24).

 

·        Bài Giảng cho chung Cộng Đồng Dân Chúa trong Thánh Lễ ở Quảng Trường Pilsudzki Sáng Thứ Sáu 26 tại Warsaw

 

‘Hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em’! Chúng ta vừa nghe những lời của Chúa Giêsu: ‘Nếu các con yêu mến Thày, các con sẽ tuân giữ các giới huấn của Thày. Và Thày sẽ cầu xin cùng Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng An Ủi khác để mãi ở với các con, đó là Thần Chân Lý’ (Jn 14:15-17a). Với những lời ấy, Chúa Giêsu mạc khải mối liên hệ sâu xa giữa đức tin và việc tuyên xưng Chân Lý Thần Linh, giữa đức tin và việc dấn thân cho Chúa Giêsu trong yêu thương, giữa đức tin với việc thực hành một đời sống được tác động bởi những huấn giới. Tất cả 3 chiều kích đức tin là hoa trái của tác động Thánh Linh. Tác động này được bộc phát như một quyền lực nội tại làm hòa hợp tâm can của thành phần môn đệ với Con Tim của Chúa Kitô và làm cho họ có thể yêu thương như Người đã yêu thương họ. Bởi vậy mà đức tin là một tặng ân, đồng thời cũng là một công tác.

 

·        Huấn Dụ Thành Phần Tu Sĩ, Chủng Sinh và Đại Diện Các Phong Trào, ở Czestochowa Thứ Sáu 26

 

‘Đức tin là mối giao hệ với mầu nhiệm của Thiên Chúa’ (cùng nguồn vừa dẫn, đoạn 17), vì ‘tin tưởng tức là phó mình cho sự thật nơi lời của Thiên Chúa hằng sống, nhận biết và khiêm tốn nhìn nhận phán quyết của Ngài là những gì khôn dò và đường lối của Ngài thì khôn thấu’ (cùng nguồn, 14). Đức tin là một tặng ân, được ban cho chúng ta nơi Phép Rửa, một Phép Rửa làm hiện thực việc chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng ẩn thân trong mầu nhiệm; nghĩ rằng hiểu được Ngài có nghĩa là muốn giam nhốt Ngài vào ý nghĩ và kiến thức của chúng ta, bởi thế sẽ mất Ngài ngay tức khắc. Tuy nhiên, với đức tin, chúng ta có thể thấy được trước mặt một con đường xuyên qua các quan niệm, thậm chí là những quan niệm về thần học, và có thể ‘đụng chạm’ tới Vị Thiên Chúa hằng sống. Và Thiên Chúa, một khi được chạm tới, liền ban cho chúng ta quyền lực của Ngài. Khi chúng ta phó mình cho Vị Thiên Chúa hằng sống này, khi chúng ta chạy đến với Ngài bằng tấm lòng khiêm tốn, thì một thứ suối nguồn của sự sống thần linh thầm kín tuôn tràn ra trong chúng ta. Quan trọng biết bao việc tin tưởng vào quyền năng của đức tin, vào khả năng của đức tin trong việc tạo nên một mối liên hệ chặt chẽ với Vị Thiên Chúa hằng sống! Chúng ta cần phải hết sức chú trọng tới việc phát triển đức tin của chúng ta, để đức tin được thực sự thấm đậm tất cả mọi thái độ, tâm tưởng, hành động và ý hướng của chúng ta. Đức tin có một chỗ đứng, chẳng những trong tình trạng của linh hồn và nơi các cảm nghiệm về đạo nghĩa, nhất là trong tâm tưởng và hành động, trong công việc làm hằng ngày, trong cuộc chiến đấu với bản thân mình, trong đời sống cộng đồng cũng như trong việc tông đồ, vì đức tin là những gì bảo đảm cho việc đời sống của chúng ta được thấm đẫm quyền năng của chính Thiên Chúa. Đức tin bao giờ cũng có thể mang chúng ta về với Thiên Chúa thậm chí cả những lúc tội lỗi dẫn chúng ta đi vào con đường sai trật lệch lạc chăng nữa.

 

·        Huấn Dụ Thành Phần Dân Chúng ở Wadowice, Rynek Square Thứ Bảy 27

 

Đức Gioan Phaolô II, khi quay về với những thuở ban đầu của mình, thường đề cập tới một dấu hiệu, đó là dấu hiệu bể rửa tội, là dấu hiệu được chính ngài đặc biệt tôn kính nơi Giáo Hội ở Wadowice. Vào năm 1979, trong chuyến hành hương đầu tiên của ngài về Balan, ngài đã nói rằng: ‘Nơi bể rửa tội này đây, vào ngày 20/6/1920, tôi đã lãnh nhận ơn được làm con Thiên Chúa, cùng với đức tin vào Đấng Cứu Chuộc của tôi, và tôi đã được đón nhận vào cộng đồng Giáo Hội. Tôi đã trịnh trọng hôn bể rửa tội này vào năm mừng kỷ niệm đệ nhất thiên niên Balan được lãnh nhận Phép Rửa, vào lúc tôi làm Tổng Giám Mục Kraków hồi ấy. Tôi đã hôn bể rửa tội này một lần nữa vào dịp kỷ niệm 50 năm tôi được lãnh nhận bí tích thanh tẩy, lúc tôi làm Hồng Y, và hôm nay đây tôi hôn bể rửa tội này lần thứ ba, khi tôi từ Rôma trở về như Vị Thừa kế Thánh Phêrô’ (Wadowice, 7/6/1979). Dường như nơi những lời này của Đức Gioan Phaolô II có chất chứa cái then chốt để hiểu được tính cách nhất trí nơi đức tin của ngài, tính cách sâu xa nơi đời sống Kitô hữu của ngài, và ước vọng nên thánh được ngài liên tục bộc lộ. Ở đây, với ý thức sâu xa về ân sủng thần linh, về tình yêu vô tư của Thiên Chúa đối với loài người, mà thành phần Dự Tòng, nhờ nước và Thánh Linh được thuộc vào số muôn vàn con cái của Ngài, thành phần được Máu Chúa Kitô cứu chuộc. Đường lối của đời sống Kitô hữu chân chính là những gì tương đương với lòng trung thành thực hiện các lời hứa quyết của Phép Rửa thánh. Câu khẩu hiệu cho chuyến hành hương này là ‘Hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em’ ở nơi đây có một chiều kích cụ thể có thể được diễn đạt bằng lời huấn dụ như thế này: ‘Hãy cương quyết tuân giữ các lời hứa quyết của phép rửa’. Một chứng nhân của chính  đức tin này là Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II, vị được nơi chốn này nói tới một cách rất đặc biệt.

 

·        Huấn Dụ Thành Phần Bệnh Nhân ở Krakow - Tagiewniki Thứ Bảy 27

 

Quí bạn bệnh nhân thân mến, những người mang dấu tích đau thương nơi thân xác hay tâm hồn, quí bạn được liên kết mật thiết nhất với Thập Tự Giá của Chúa Kitô, và đồng thời quí bạn cũng là những chứng nhân sống động nhất của tình thương Thiên Chúa. Qua quí bạn cũng như nhờ những khổ đau của quí bạn, Người đang ưu ái cúi mình xuống trên nhân loại. Quí bạn nào âm thầm thốt lên rằng: ‘Giêsu ơi, con tin nơi Chúa’ là người dạy cho chúng ta rằng không có niềm tin nào sâu xa hơn, không có hy vọng nào sống động hơn, và không có tình yêu nào nồng nhiệt hơn đức tin, đức cậy và đức mến của một con người giữa khổ đau biết an bình phó mình vào bàn tay của Thiên Chúa. Chớ gì bàn tay nhân loại của những ai chăm sóc cho quí bạn nhân danh tình thương trở thành cánh tay nối dài rộng mở của Thiên Chúa.

 

·        Huấn Dụ Thành Phần Giới Trẻ, ở Krakĩw-Błonie, Thứ Bảy 27

 

Quí bạn thân mến, suy niệm về những lời của Chúa Kitô diễn tả tảng đá là nền tảng thích đáng cho một ngôi nhà, chúng ta không thể nào không chú ý tới lời cuối cùng là một lời hy vọng. Chúa Giêsu nói rằng, bất chấp tình trạng cay nghiệt của các yếu tố thiên nhiên thì ngôi nhà ấy vẫn không bị hủy hoại, bởi nó được xây trên tảng đá. Lời của Người chất chưa một niềm cậy trông đặc biệt nơi cái vững chắc của nền tảng này, một đức tin không sợ những thứ nghịch thường, vì đức tin này được củng cố kiên cường bởi cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô. Đó là đức tin mà những năm sau đó Thánh Phêrô đã tuyên xưng trong bức thư của ngài: ‘Này Ta đặt ở Sion một viên đá, một viên đá gốc được chọn lọc và quí giá, và ai tin vào Người sẽ không bị hổ thẹn’ (1Pet 2:6).

 

·        Bài Giảng cho chung Cộng Đồng Dân Chúa ở Krakow trong Thánh Lễ Chúa Nhật 28

 

Anh chị em thân mến, tôi đã chọn làm câu châm ngôn cho chuyến hành hương Balan của tôi theo bước chân Đức Gioan Phaolô II những lời là: ‘Anh chị em hãy đứng vững trong đức tin của mình!’ Lời kêu gọi này được trực tiếp ngỏ cùng tất cả chúng ta là phần tử thuộc cộng đồng môn đệ Chúa Kitô, cùng mỗi người và mọi người trong chúng ta. Đức tin là một tác động nhân loại riêng tư sâu xa, một tác động có hai khía cạnh. Tin tưởng nghĩa là trước hết chấp nhận như thật những gì trí khôn chúng ta không thể thấu triệt. Chúng ta phải chấp nhận những gì Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta về chính mình Ngài, về chúng ta, về mọi sự chung quanh chúng ta, bao gồm cả những gì vô hình, khôn tả và ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Tác động chấp nhận sự thật được mạc khải là những gì nới rộng chân trời kiến thức của chúng ta và kéo chúng ta tới mầu nhiệm bao trùm chúng ta. Để trí khôn của chúng ta bị giới hạn như thế không phải là một chuyện dễ làm. Đến đây chúng ta thấy khía cạnh thứ hai của đức tin, đó là khía cạnh niềm tin tưởng nơi một con người, không phải là một con người bình thường, mà là chính Chúa Giêsu Kitô. Những gì chúng ta tin tưởng đều quan trọng, nhưng còn quan trọng hơn thế nữa đó là Đấng chúng ta tin tưởng.

 

·        Diễn Từ ở Trại Tử Thần Auschwitz, Auschwitz-Birkenau, Chúa Nhật 28

 

Không thể nào nói được bất cứ điều gì ở nơi kinh hoàng này đây, ở nơi đã xẩy ra vô vàn tội ác chưa từng có phạm đến Thiên Chúa và con người, nhất là lại nói bởi một Kitô hữu, bởi một vị Giáo Hoàng xuất thân từ Đức. Ở một chốn như thế này thì lời nói đành câm nín; để rồi chỉ còn duy nỗi lặng thinh kinh hãi – một thứ lặng thinh tự mình là một lời kêu gào chân tình lên Thiên Chúa: Lạy Chúa, tại sao Chúa lại cứ thinh lặng chứ? Làm sao Chúa lại có thể chịu đựng được tất cả những thứ này? Bởi vậy, trong thinh lặng, chúng ta cúi đầu trước vô tận những ai đã chịu khổ cực và bị sát hại ở nơi đây; tuy nhiên việc thinh lặng của chúng ta lại trở thành một lời van xin tha thứ và hòa giải, một lời van nài Vị Thiên Chúa hằng sống đừng bao giờ để điều này tái diễn nữa… Bởi vậy, ở địa điểm này đây, tôi muốn kết thúc bằng một lời nguyện cầu của lòng tin tưởng – bằng một trong những lời Thánh Vịnh của dân Do Thái cũng là một lời nguyện của Kitô hữu, đó là: ‘Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng còn thiếu thốn chi. Nơi đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ; tới nguồn nước chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi Người lo bồi dưỡng. Vì uy danh Người, Người dẫn tôi theo đường ngay nẻo chính. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi, cây roi và cái trượng của Ngài, đó là điều an ủi lòng tôi… Tôi sẽ cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi’

 

·        Tạ Từ tại Phi Trường Okecie ở Warszaw ngày Chúa Nhật 28

 

Tôi xin kết thúc chuyến viếng thăm của tôi bằng những lời của Thánh Tông Đồ Phaolô đã đồng hành với cuộc hành hương của tôi ở lãnh thổ Ba Lan, đó là: ‘Hãy tỉnh thức đề phòng, hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em, hãy can trường, hãy mạnh bạo. Chớ gì tất cả những gì anh chị em làm đều được thực hiện trong yêu thương’ (1Cor 16:13-14). Tôi ban phép lành cho tất cả anh chị em!