“Đâu có Thiên Chúa đấy có tương lai”
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Tông Du Đức quốc 22-25/9/2011
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
tổng hợp và chuyển dịch theo mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/travels/2011/index_germania_en.htm
trừ bài phỏng vấn đầu tiên theo Zenit
(những chỗ được
in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những
điểm chính yếu quan trọng)
Trả lời phỏng vấn của phóng viên báo chí trên chuyến bay sang Đức
sáng Thứ Năm 22/9
“Người ta có thể tái nhận thức về đặc tính chuyên biệt của việc là
Giáo Hội, dân tộc của tất cả mọi dân tộc, dân Chúa, để nhờ đó cũng
biết chịu đựng các thứ gương mù và hoạt động chống lại các thứ gương
xấu ấy, thực sự làm thành cái mạng lưới to lớn này của Chúa”.
Hỏi:
Tâu Đức Thánh Cha, xin cho chúng con được mở đầu bằng một câu hỏi
rất riêng tư. Đức Thánh Cha vẫn còn cảm thấy mình là người Đức tới
đâu? Những khía cạnh nào Đức Thánh Cha vẫn còn thấy được – có lẽ
không gia tăng cho lắm – cái ảnh hưởng bởi gốc gác Đức quốc của
mình?
Đáp:
Holderlin có lần đã nói: “Cái ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sinh ra của
người ta”, và dĩ nhiên tôi cũng cảm thầy như thế. Tôi được sinh ra ở
Đức và người ta không thể và không được mất gốc. Tôi đã được huấn
luyện về văn hóa ở Đức, ngôn ngữ của tôi là Đức – và ngôn ngữ là
cách thức sống động và tác hành của tinh thần – và tất cả việc hình
thành về văn hóa của tôi diễn ra ở môi trường ấy. Khi tôi đi làm
thần học, tôi đã làm việc này theo cách thực nội tại tôi học được ở
các Đại học đường Đức quốc, và, rất tiếc, tôi phải thú nhận rằng tôi
tiếp tục đọc nhiều sách bằng Đức ngữ hơn các thứ ngôn ngữ khác. Vì
thế, theo lối sống của mình, việc tôi là người Đức là những gì rất
mãnh liệt. Việc thuộc về lịch sử của đất nước này, cùng với những gì
là cao cả và hèn yếu của đất nước ấy, là những gì không thể và không
được loại trừ.
Tuy nhiên, đối với một Kitô hữu, cần phải có thêm một yếu tố khác.
Nhờ phép rửa, họ đã được tái sinh thành một dân tộc mới là dân hợp
bởi tất cả mọi dân tộc, một dân bao gồm tất cả mọi dân tộc và tất cả
mọi văn hóa, một dân họ thực sự thuộc về ngay giây phút đó mà vẫn
không vì thế làm cho họ mất đi nguồn gốc tự nhiên của họ. Bởi thế,
khi một người lãnh nhận một trách nhiệm cao cả, như trường hợp của
tôi, khi tôi lãnh trách nhiệm cao cả nhất nơi dân tộc mới này, thì
rõ ràng là họ đang càng ngày càng dìm sâu vào cộng đồng của Giáo Hội
Công giáo, một dân tộc được làm nên bởi tất cả mọi dân tộc, một dân
tộc đang trở nên sinh động và sâu xa hơn bao giờ hết, nó hình thành
toàn thể cuộc sống của con người mà không vì nó mà bỏ đi quá khứ của
họ. Bởi thế, tôi xin nói rằng nguồn gốc vẫn còn đó, gốc gác về văn
hóa vẫn tồn tại, cũng thế với tình yêu đặc biệt và trách nhiệm riêng
biệt, thế nhưng lại được hội nhập và nới rộng trong một tính chất
phần tử rộng lớn hơn, trong một ‘civitas Dei – thành đô của Thiên
Chúa”, như Thánh Âu Quốc Tinh nói, trong một dân tộc của tất cả mọi
dân tộc là nơi tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau.
Hỏi:
Kính thưa Đức Thánh Cha, trong những năm vừa rồi đã xẩy ra tình
trạng gia tăng những người bỏ Giáo Hội, một phần vì những lạm dụng
tình dục trẻ em gây ra bởi các phần tử thuộc hàng giáo sĩ. Đức Thánh
Cha cảm thấy ra sao về hiện tượng này? Đức Thánh Cha muốn nói gì với
những ai muốn lìa bỏ Giáo Hội?
Đáp:
Trước hết, chúng ta cần phải phân biệt lý do đặc biệt đối với cảm
thức của họ trước những gương mù gây ra bởi các tội ác ấy, những tội
ác đã xẩy ra trong thời gian gần đây. Tôi có thể hiểu rằng, theo
chiều hướng của vấn đề này, nhất là khi họ là những người gần gũi,
người ta có thể nói rằng: “Đó không phải là Giáo Hội của tôi. Đối
với tôi, Giáo Hội là một quyền năng nhân bản hóa và luân lý hóa. Nếu
các vị đại diện của Giáo Hội làm những gì ngược lại, tôi không thể
sống với Giáo Hội này nữa”. Đây là một trường hợp đặc biệt.
Nói chung, những lý do thì nhiều đối với bối cảnh của tình trạng tục
hóa trong xã hội của chúng ta. Tổng quan thì việc lìa bỏ này là bước
cuối cùng trong một chuỗi dài xa cách Giáo Hội. Trong bối cảnh ấy,
tôi nghĩ vấn đề ở đây là cần phải tự hỏi bản thân mình rằng: “Tại
sao tôi ở trong Giáo Hội? Tôi ở trong Giáo Hội như ở trong một hiệp
hội thể thao, một hiệp hội văn hóa v.v., trong đó tôi được thỏa đáng
cho những xu hướng của tôi, để rồi nếu nó không được như vậy nữa thì
tôi lìa bỏ? Hay việc tôi ở trong Giáo Hội là một cái gì đó sâu xa
hơn?”
Tôi muốn nói rằng cần nhận biết là
ở trong Giáo Hội không có nghĩa
là trở thành phần tử của một hiệp hội, mà là ở trong một mạng lưới
của Chúa, Đấng bắt cả cá tốt lẫn cá xấu từ giòng nước chết chóc để
dẫn chúng về miền đất sự sống.
Có thể là trong cái mạng lưới này tôi ở với thứ cá xấu, và tôi cảm
thấy khó chịu, thế nhưng thực sự ra thì tôi không ở đây cho người
này hay cho người kia, mà là vì đó là cái mạng lưới của Chúa, một
cái gì đó khác với tất cả mọi hiệp hội trần thế, một cái mạng lưới
chạm tới nền tảng của hữu thể tôi.
Khi nói với những người ấy, tôi
nghĩ chúng ta cần phải xuống tận đáy của vấn đề:
Giáo Hội là gì? Cái
khác biệt của Giáo Hội ở chỗ nào? Tại sao tôi lại ở trong Giáo Hội,
cho dù xẩy ra những gương mù khủng khiếp như thế?
Như thế người ta có thể tái nhận thức về đặc tính chuyên biệt của
việc là Giáo Hội, dân tộc của tất cả mọi dân tộc, dân Chúa, để nhờ
đó cũng biết chịu đựng các thứ gương mù và hoạt động chống lại các
thứ gương xấu ấy, thực sự làm thành cái mạng lưới to lớn này của
Chúa.
Hỏi:
Đây không phải là lần đầu tiên có những nhóm người bày tỏ sự
chống đối của họ về việc Đức Thánh Cha đến một xứ sở nào đó. Thedo
truyền thống thì mối liên hệ của Đức quốc với Rôma là một mối liên
hệ bị chỉ trích phê phán, một phần xẩy ra ngay trong môi trường của
chính người Công giáo. Những đề tài tranh luận vốn xẩy ra vào một
lúc nào đó như vấn đề bọc cao su làm tình an toàn, Thánh Thể, độc
thân linh mục. Trước chuyến tông du của Đức Thánh Cha, thậm chí có
cả những nghị viên quốc hội đã có những chủ trương chỉ trích ấy. Thế
nhưng, trước chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Hiệp Vương Quốc
bầu không khí cũng không có vẻ gì là thân thiện, mọi sự lại trở
thành tốt đẹp. Đức Thánh Cha đã có những cảm nhận ra sao khi thực
hiện chuyến tông du này về quê hương cũ của Đức Thánh Cha và ngỏ lời
cùng dân Đức quốc?
Đáp:
Trước hết, tôi xin nói là ở một xã hội tự do và trong một thời điểm
tục hóa thì tình trạng xẩy ra những chống đối việc viếng thăm của vị
Giáo Hoàng là chuyện bình thường. Họ có quyền bày tỏ cho tất cả mọi
người thấy việc chống đối của họ: nó thuộc về quyền tự do của chúng
ta và chúng ta cần phải nhìn nhận rằng chủ nghĩa thế tục, và nhất là
việc chống lại Công giáo là những gì mạnh mẽ ở các xã hội chúng ta.
Khi việc chống đối này được bày tỏ một cách dân sự thì không gì có
thể trách móc họ được. Ngoài ra, vị Giáo Hoàng cũng thật sự nhận
được rất nhiệu lòng cảm mến và rất nhiều niềm kính yêu.
Ở Đức
quốc có một số chiều kích về tình trạng chống đối này: đó là vấn đề
chống đối xa xưa giữa văn hóa Đức quốc và văn hóa Rôma, những va
chạm về lịch sử. Hơn thế nữa, chúng ta đang ở trong một xứ sở của
Phong Trào Cải Cách, một phong trào đã nhấn mạnh đến những thứ khác
biệt ấy. Thế nhưng, cũng có cả một đồng thuần lớn lao về đức tin
Công giáo, một niềm xác tín gia tăng là trong thời điểm của mình
chúng ta cần đến một quyền lực về luân lý. Chúng ta đang cần đến sự
hiện diện của Thiên Chúa trong thời điểm của chúng ta.
Cùng với
vấn đề chống đối là những gì tôi nghĩ là bình thường, còn có nhiều
người đang hân hoan đợi chờ tôi, những người mong chờ một cuộc cử
hành đức tin, được qui tụ lại với nhau, niềm vui của việc nhận biết
Thiên Chúa và cùng nhau sống trong một tương lai có Thiên Chúa lấy
tay dẫn dắt chúng ta và chỉ cho chúng ta thấy đường đi nước bước. Vì
vậy, tôi hân hoan đến với Đức quốc của mình và tôi cảm thấy hạnh
phúc được mang sứ điệp của Chúa Kitô đến cho đất nước của tôi.
Hỏi:
Một câu hỏi cuối cùng. Tâu Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha sẽ đến
viếng thăm Erfurt là tu viện cổ của nhà cải cách Martin Luther. Anh
chị em Kitô hữu Tin Lành và anh chị em Công Giáo đối thoại với họ
đang sửa soạn tưởng niệm 500 năm phong trào Cải Cách. Đức Thánh Cha
đang sửa soạn cho cuộc gặp gỡ này với sứ điệp ra sao, bằng những ý
nghĩ như thế nào? Chuyến tông du này phải chăng được hiểu như là một
cử chỉ huynh đệ với những người anh chị em ly khai Rôma?
Đáp:
Khi tôi chấp nhận lời mời để thực hiện chuyến tông du này thì đối
với tôi hiển nhiên là vấn đề đại kết với những người bạn Tin Lành
của chúng ta là những gì cần phải trở thành điểm chính yếu và mạnh
mẽ của chuyến hành trình ấy. Chúng ta sống trong một thời điểm của
chủ nghĩa thế tục, như tôi đã nói, một thời điểm mà Kitô hữu có sứ
vụ hiện thực hóa sứ điệp của Thiên Chúa cùng với sứ điệp của Chúa
Kitô, sứ vụ khả dĩ hóa niềm tin, sứ vụ thẳng tiến với những ý nghĩ
cao cả này, với sự thật. Có thế, cùng nhau, thành phần Công giáo và
tin lành mới trở thành một yếu tố nồng cốt cho thời điểm của chúng
ta, cho dù về cơ cấu chúng ta chưa hoàn toàn hiệp nhất, và thậm chí
vẫn còn đó các trục trặc lớn lao, những vấn đề về nền tảng đức tin
nơi Chúa Kitô, về Thiên Chúa Ba Ngôi và về con người là hình ảnh của
Thiên Chúa. Chúng ta cần phải liên kết và chúng ta cần phải chứng tỏ
cho thế giới thấy sự hiệp nhất này cũng như đi sâu vào mối hiệp nhất
ấy, một mối hiệp nhất là những gì thiết yếu trong giây phút lịch sử
này.
Vì lý do
ấy, tôi rất biết ơn những người bạn của chúng ta, những người anh
chị em của chúng ta, những người anh chị em Thệ Phản, thành phần đã
khả dĩ hóa một dấu hiệu rất ý nghĩa này, đó là cuộc gặp gỡ ở đan
viện được Luther bắt đầu cuộc hành trình thần học của mình, là buổi
cầu nguyện trong nguyện đường ông được thụ phong linh mục và cùng
nhau nói về trách nhiệm của chúng ta là Kitô hữu trong thời điểm
hiện nay. Tôi rất sung sướng khi có thể biểu lộ mối hiệp nhất nền
tảng này, bày tỏ việc chúng ta là anh chị em với nhau, và chúng ta
cùng nhau hoạt động cho thiện ích của nhân loại, loan báo sứ điệp
hân hoan của Chúa Kitô, của Thiên Chúa là Đấng mang dung nhan loài
người và là Đấng đang nói với chúng ta.
Đáp từ
nghênh đón ở Bellevue Castle, Berlin, Thứ Năm 22/11/2011
“Mặc
dù chuyến đi này là một chuyến viếng thăm chính thức sẽ củng cố
những mối liên hệ tốt đẹp đang có giữa Công Hòa Liên Bang Đức quốc
với Tòa Thánh, tôi cũng không đến đây chỉ để theo đuổi những mục
đích chuyên chính trị hay kinh tế, như các chính trị gia khác, mà
còn để gặp gỡ dân chúng và nói với họ về Thiên Chúa”.
(Video)
Tôi
hân hạnh
được
anh chị
em ân cần
nghênh đón
ở
Dinh Bellevue này. Tôi đặc
biệt
tri ân Tổng
Thống
Wulff đã
mời
tôi thực
hiện
chuyến
viếng
thăm
chính thức
này, chuyến
viếng
thăm
đánh
dấu
lần
thứ
ba tôi đến
với
Cộng
Hòa Liên Bang Đức
quốc
với
tư
cách là Giáo Hoàng….
Mặc
dù chuyến
đi
này là một
chuyến
viếng
thăm
chính thức
sẽ
củng
cố
những
mối
liên hệ
tốt
đẹp
đang
có giữa
Công Hòa Liên Bang Đức
quốc
với
Tòa Thánh, tôi cũng
không đến
đây
chỉ để
theo đuổi
những
mục
đích
chuyên chính trị
hay kinh tế,
như
các chính trị
gia khác, mà còn để
gặp
gỡ
dân chúng và nói với
họ
về
Thiên Chúa. Bởi
thế,
tôi hân hoan thấy
được
một
con số đông
đảo
thành phần
công dân Đức
quốc
ở
nơi
đây.
Xin đa
tạ!
Thưa
Ngài Tổng
Thống,
như
ngài đã
đề
cập
tới,
chúng ta
đang
chứng
kiến
thấy
một
tình trạng
lạnh
nhạt
gia tăng
đối
với
tôn giáo trong xã hội,
một
tình trạng
coi vấn
đề
sự
thật
như
là một
cái gì đó
trở
ngại
cho việc
thực
hiện
quyết
định,
nên thay vào đó
đặt
ưu
tiên cho những
quan tâm có tính chất
thực
dụng.
Cũng
thế,
cần
phải
có một
nền
tảng
ràng buộc
cho cuộc
chung sống
của
chúng ta; bằng
không, người
ta sống
một
cách thuần
cá nhân. Tôn giáo là một
trong những
nền
tảng
này cho có được
một
đời
sống
xã hội
thành công. “Như
tôn giáo cần
đến
tự
do thì tự
do cũng
cần
đến
tôn giáo”. Những
lời
này vẫn
còn hợp
thời
từ
một
vị đại
giám mục
và là nhà cải
cách xã hội
Wilhelm von Ketteler, vị đang
được
mừng
200 năm
sinh nhật
của
mình năm
nay. (Rede vor der ersten Versammlung der Katholiken Deutschlands,
1848. In: Erwin Iserloh [ed.]: Wilhelm Emmanuel von Ketteler:
Sämtliche Werke und Briefe [Mainz, 1977], I, 1, p. 18).
Tự
do cần một đến một thứ liên kết căn bản với một đòi hỏi cao hơn. Sự
kiện có những thứ giá trị không được hoàn toàn
phó mặc cho việc mạo dụng
là việc bảo đảm thực sự cho quyền tự do của chúng ta.
Con người,
thành phần cảm thấy có trách nhiệm với sự thật và sự thiện, lập tức
đồng ý với điều này, đó là tự do phát triển cho một sự thiện hảo cao
cả hơn chỉ trong trách nhiệm mà thôi. Sự thiện ấy chỉ hiện hữu cho
tất cả mọi người chúng ta với nhau; vì thế tôi bao giờ cũng phải
quan tâm tới tha nhân của tôi. Tự do không thể sống còn nếu thiếu
vắng các mối liên hệ.
Trong cuộc chung sống của loài người, tự do là những gì bất khả nếu
không có tình liên đới. Những gì tôi làm gây thiệt hại cho người
khác thì không phải là tự do mà là một đường lối tác hành đáng trách
tác hại kẻ khác và cuối cùng cũng tác hại chính bản thân tôi.
Tôi
thực sự có thể phát triển như là một con người tự do chỉ bằng việc
sử dụng các khả năng của mình cho cả phúc lợi của kẻ khác nữa. Điều
này chẳng những đúng với những vấn đề riêng tư mà còn cho toàn thể
xã hội nữa. Theo nguyên tắc phụ trợ này, xã hội cần phải cung cấp
chỗ đứng đầy đủ cho những cơ cấu tổ chức bé nhỏ hơn để phát triển,
và đồng thời, cần phải nâng đỡ họ để một ngày kia họ có thể tự mình
đứng vững.
….
Cộng Hòa Liên Bang Đức Quốc đã trở nên những gì ngày nay nhờ quyền
năng của tự do đã được hình thành nhờ trách nhiệm trước Thiên Chúa
cũng như trước nhau. Nó cần đến năng lực này, một năng lực bao gồm
hết mọi lãnh vực của loài người để tiếp tục phát triển cho đến nay.
Nó cần đến năng lực ấy trong một thế giới cần đến một cuộc căn tân
sâu xa về văn hóa cũng như cuộc tái nhận thức những thứ giá trị căn
bản làm nền tảng cho một tương lai tốt đẹp hơn (Caritas
in Veritate, 21).
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2011/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20110922_welcome-berlin_en.html
Diễn
từ
với
quốc
hội
ở Reichstag Building, Berlin Thứ Năm
22/9/2011
“Lời
mời cho buổi thuyết trình này được gửi đến tôi với tư cách là Giáo
Hoàng, với tư cách là Giám Mục Rôma, vị mang trọng trách cao cả nhất
đối với Kitô hữu Công giáo. Khi ngỏ lời mời này quí vị đang nhìn
nhận vai trò được Hội Thánh nắm giữ như là một đồng bạn trong cộng
đồng của các dân tộc cũng như các quốc gia. Khởi đi từ trách nhiệm
quốc tế tôi đang nắm giữ này, tôi cần phải trình bày cùng quí vị một
vài tư tưởng về các nền tảng của một thứ free state of law”.
(Video)
Ngài Tổng
Thống Cộng
Hòa Liên Bang,
Ông Chủ
Tịch the Bundestag,
Bà Chưởng
Ấn,
Bà Chủ
Tịch the Bundestag,
Quí Vị
Tôn Nữ Tôn Nam Phần Tử Quốc
Hội,
Thật
là một vinh dự và là một niềm vui cho tôi được nói trước tòa nhà đặc
biệt này, trước Quốc Hội của đất nước Đức quốc bản xứ của tôi, một
quốc hội gặp gỡ nơi đây như là một thứ đại diện được bầu chọn theo
dân chủ cho nhân dân, để hoạt động cho thiện ích của Cộng Hòa Liên
Bang Đức quốc. Tôi cần phải cảm ơn Ông Chủ Tịch
the Bundestag cả
về việc mời tôi ngỏ lời lẫn những lời tốt đẹp chào đón và cảm nhận
để nghênh đón tôi. Vào lúc này đây, tôi hướng đến quí vị, những vị
tôn nữ tôn nam, ít là như một người đồng hương của anh chị em, một
con người suốt cả cuộc đời của mình vẫn hằng ý thức về những liên hệ
mật thiết với nguồn gốc của mình, và vẫn rất chú trọng theo dõi
những sinh hoạt của Đức quốc bản xứ cũa mình. Thế nhưng, lời mời cho
buổi thuyết trình này được gửi đến tôi với tư cách là Giáo Hoàng,
với tư cách là Giám Mục Rôma, vị mang trọng trách cao cả nhất đối
với Kitô hữu Công giáo. Khi ngỏ lời mời này quí vị đang nhìn nhận
vai trò được Hội Thánh nắm giữ như là một đồng bạn trong cộng đồng
của các dân tộc cũng như các quốc gia. Khởi đi từ trách nhiệm quốc
tế tôi đang nắm giữ này, tôi cần phải trình bày cùng quí vị một vài
tư tưởng về các nền tảng của một
thứ
free
state of law.
Xin
cho phép tôi được bắt đầu những chia sẻ của tôi về các nền tảng của
luật pháp
[Recht] bằng một
câu truyện
ngắn trong Thánh Kinh.
Ở
Sách Chư Vương
Quyển
Thứ Nhất,
câu truyện
được thuật
lại
rằng Thiên Chúa
đã
cho vị
Vua trẻ Solomon, trong cuộc
lên ngôi của mình,
được
bày tỏ
một yêu cầu.
Nhà cầm
quyền trẻ
trung này sẽ
ngỏ ý xin gì vào giây phút quan trọng
ấy? Thành
đạt
ư?
– giầu sang – trường
thọ
– tiêu diệt các quân thù
ư?
Ông
đã
không chọn
điều
gì trong các sự
ấy.
Thay vào
đó,
ông xin có
được một
con tim biết
lắng nghe nhờ
đó
ông có thể cai trị
dân Chúa, và nhận
thức
được
lành dữ
(cf 1Kgs 3:9). Qua câu truyện
này, Thánh Kinh muốn
nói với chúng ta những
gì quan trọng
nhất
đối
với
một chính trị
gia. Tiêu chuẩn
nồng cốt
và
động
lực hoạt
động
của họ
với
tư cách là một
chính trị
gia không
được là vấn
đề
thành
đạt, và chắc
chắn
không phải là những
chiếm
đạt về
vật
chất. Chính trị
cần
phải là một
nỗ
lực cho công lý, và vì thế
nó phải tạo
nên những
điều
kiện
tiên quyết căn
bản
cho hòa bình. Dĩ nhiên là một
chính trị
gia sẽ tìm kiếm
thành công mà thiếu
nó họ sẽ
không tạo
được cơ
hội
cho hoạt
động
chính trị
hiệu năng
của
mình gì hết. Tuy nhiên thành công cần
phải phụ
thuộc
vào qui chuẩn của
công lý, vào ý muốn
thực hiện
những
gì là
đúng
đắn,
cũng
như vào sự
hiểu
biết về
những
gì là
đúng. Thành công cũng
có thể là những
gì lôi cuốn
và vì thế nó có thể
mở
đường dẫn
đến
việc sai lầm
hóa những
gì là
đúng
đắn,
dẫn
đến chỗ
hủy
hoại công lý. “Không có công lý –
một Quốc
Gia không còn là gì khác hơn
là một
đại
băng
đảng
trộm cướp?”
như
Thánh Âu Quốc Tinh
đã
từng
nói. Dân
Đức quốc
chúng ta, theo kinh nghiệm của
mình, biết
rằng những
lời
lẽ
ấy
không phải
là thứ ám
ảnh
mung lung. Chúng ta
đã từng
thấy
quyền lực
đã
tách biệt khỏi
quyền
lợi ra sao, quyền
lực
chống lại
quyền
lợi và chà
đạp
quyền
lợi ra sao,
để
rồi
Quốc Gia
đã
trở
thành một khí cụ
hủy
diệt quyền
lợi
– một băng
đảng
trộm cướp
được
tổ chức
cao tay, có khả
năng
đe
dọa
toàn thế giới
và
đẩy
thế giới
đến
bờ vực
thẳm.
Việc phục
vụ
quyền lợi
và việc
chống lại
cái thống
trị của
những
gì là sai lầm là và mãi là công việc
chính yếu của
chính trị
gia.
Ở vào một
thời
điểm
lịch
sử khi mà con người
nắm
được quyền
lực
chưa từng
có từ
trước, thì công việc
này lại
càng trở thành
đặc
biệt khẩn
trương.
Con người có thể
hủy
hoại thế
giới.
Con người có thể
mạo
dụng chính bản
thân mình. Có thể
nói họ có thể
tạo
nên con người và họ
có thể
chối bỏ
nhân tính con người.
Chúng ta làm sao
để
có thể nhật
ra những gì là
đúng
đắn
đây?
Làm sao chúng ta có thể nhận
thức giữa
thiện và ác, giữa
những gì thực
sự là
đúng
và những gì có vẻ
như
đúng?
Thậm
chí cho
đến nay những
gì vua Solomon xin vẫn là vấn
đề
quyết liệt
đối
với các chính trị
gia và lãnh vực
chính trị ngày nay.
Đối
với hầu
hết
các vấn
đề
cần
được luật
pháp qui
định
thì vấn
đề
hỗ
trợ của
thành phần
đa số
có thể
trở thành như
là một
qui tắc thích
đáng.
Tuy nhiên, hiển nhiên là
đối
với các vấn
đề nền
tảng của
pháp luật, trong
đó
phẩm giá của
con người và của
nhân tính
đang bị
nguy nan, thì nguyên tắc
đa
số vẫn
chưa
đủ:
hết mọi
người
ở
trong vị thế
có trách nhiệm
đều
phải
đích
thân tìm kiếm các thứ
qui tắc cần
phải tuân theo khi hình thành luật pháp.
Ở
vào thế
kỷ thứ
ba,
đại
thần học
gia Origen
đã
đưa ra lời
dẫn
giải sau
đây
về
việc chống
lại
Kitô hữu
đối
với
một số
guồng
máy pháp luật: “Giả
sử
một người
đang
sống giữa
những
người dân Scythians là dân có luật
pháp ngược lại
với
lề luật
thần
linh, và bị bắt
buộc
phải sống
giữa
họ… thì người
này, vì lề
luật
đích
thực,
cho dù bất hợp
lệ
nơi dân Scythians, cũng
được quyền
thành lập
các hiệp hội
với
thành phần
đồng
chí ngược
lại với
các thứ
luật pháp của
người
dân Scythians” (Contra Celsum, Book 1, Chapter 1. Cf. A.
Fürst, “Monotheismus und Monarchie. Zum Zusammenhang von Heil und
Herrschaft in der Antike”, Theol.Phil. 81 [2006], pp.
321-338, quoted on p. 336; cf. also J. Ratzinger, Die Einheit der
Nationen. Eine Vision der Kirchenväter [Salzburg and Munich,
1971], p. 60).
Niềm
xác tín này là nhữrng gì
đã
tác
động
các phong trào phản kháng
để
hoạt
động chống
lại
chế
độ
Nazi cũng
như các chế
độ
độc tài chuyên chế
khác, nhờ
đó
đã
giúp ích rất
nhiều cho công lý cũng
như
cho nhân loại nói chung.
Đối
với
những người
này thì vấn
đề hiển
nhiên bất
khả phủ
nhận
đó là thứ
luật
lệ hiện
hành
ấy
thực sự
là những
gì phi pháp. Tuy nhiên khi một
chính trị gia dân chủ
cần phải
quyết
định
thì vấn
đề
về những
gì bấy giờ
thích hợp với
lề luật
của sự
thật, những
gì thực sự
là
đúng và có thể
ban hành thành luật, thì lại
không rõ ràng là bao nhiêu.
Theo chiều hướng
của những
vấn
đề
nhân loại học
đặc biệt
thì những gì là
đúng
và có thể trở
thành hiệu lực
theo pháp luật thì ngày nay không còn
đơn thuần
hiển nhiên nữa.
Vấn
đề
làm thế nào
để
nhận biết
cái gì thực sự
là
đúng, nhờ
đó mang lại
công lý khi hình thành các thứ
luật lệ
không bao giờ còn là những
gì giản dị
nữa, và ngày nay, trước
mức
độ
bao rộng nơi
kiến thức
của chúng ta cũng
như khả
năng của
chúng ta, nó lại càng trở
nên khó khăn hơn
nữa.
Chúng ta làm thế nào
để
thấy
được
đâu là
đúng?
Theo lịch sử,
những hệ
thống luật
lệ hầu
hết bao giờ
cũng
được
căn cứ
vào tôn giáo:
các quyết
định liên quan tới
những
gì là hợp pháp nơi
con người
đều
được
căn
cứ vào thần
linh. Không như
các
đại tôn giáo khác, Kitô giáo
không bao giờ
đề
ra một thứ
luật
được
mạc khải
cho Quốc Gia hay cho xã hội,
tức là một
lãnh vực pháp lý xuất
phát từ mạc
khải. Thay vào
đó,
Kitô giáo
đã hướng
tới thiên nhiên và lý trí như là các nguồn
mạch chân thực
của pháp luật
– và hướng tới
mối hòa hợp
của lý trí khách quan với
chủ quan, một
thứ lý trí tự
nhiên bao hàm cả hai lãnh vực
đều bắt
nguồn từ
lý trí sáng tạo của
Thiên Chúa.
Bởi
thế các thần
học
gia Kitô giáo
đã
đi
theo chiều
hướng của
một
phong trào triết lý và pháp lý
được
bắt
đầu hình thành
ở
thế
kỷ thứ
hai trước
Công Nguyên. Trong bán thập niên
đầu
của
thế kỷ
này, luật
lệ tự
nhiên về
xã hội
đã
được
phát triển nhờ
các triết
gia Stoic giao tiếp với
các bậc
thày hàng
đầu về
Luật
Pháp Rôma (Cf. W. Waldstein, Ins Herz geschrieben. Das Naturrecht
als Fundament einer menschlichen Gesellschaft [Augsburg, 2010],
pp. 11ff., 31-61). Qua cuộc
gặp gỡ
này, nền văn
hóa pháp lý của Tây phương
đã xuất
phát, một thứ
văn hóa
đã
và
đang là tầm
vóc then chốt cho nền
văn hóa pháp lý của
nhân loại. Cuộc
thành hôn tiền Kitô giáo giữa
pháp lý và triết lý này
đã
mở ra một
con
đường dẫn
đưa qua Thời
Trung Cổ Kitô giáo và những
việc phát triển
về pháp lý của
Thời Minh Tri cho tới
tận Bản
Tuyên Ngôn Nhân Quyền cũng
như tới
Luật Căn
Bản
Đức
Quốc 1949 của
chúng ta,
nhờ
đó quốc
gia của
chúng ta
đã dấn
thân cho “các thứ
nhân quyền bất
khả
vi phạm và bất
khả
phân ly như là nền
tảng
của hết
mọi
cộng
đồng
nhân loại
cũng như
của
hòa bình và công lý trên thế
giới”.
Đối
với việc
phát triển
của luật
pháp cũng
như
đối
với
việc phát triển
của
nhân loại thì vấn
đề
rất
đáng
chú ý
đó
là các thần học
gia Kitô giáo
đã
đồng loạt
chống
lại luật
lệ
về tôn giáo có liên hệ
với chủ
nghĩa
đa thần
và thiên về
triết lý, và họ
đã
nhìn nhận lý trí và thiên nhiên nơi mối
liên hệ của
chúng như là một
nguồn mạch
phổ quát hiệu
năng của
luật pháp. Bước
tiến
này
đã
được
thực
hiện bởi
Thánh Phaolô trong Thư gửi
Kitô hữu
Rôma mà rằng: “Khi Dân Ngoại
là thành phần
không có Lề Luật
(Ngũ
Kinh của Do Thái) thì làm theo tự
nhiên những gì luật
đòi
hỏi, họ
là một
thứ luật
cho chính họ…
họ chứng
tỏ
cho thấy rằng
những
gì luật lệ
đòi
hỏi
đều
được
viết trong tâm can của
họ,
đồng
thời
lương tâm của
họ
cũng làm chứng
như
vậy nữa…”
(Rm 2:14f).
Ở
đây
chúng ta thấy hai quan niệm
nống cốt
về thiên nhiên và lương
tâm, một thứ
lương tâm không là gì khác hơn tấm
lòng biết lắng
nghe của Solomon, khác hơn
lý trí hướng
về thứ
ngôn ngữ của
hữu thể.
Nếu
điều
này dường
như có thể
giải
thích rõ ràng về các nền
tảng
của pháp lý cho tới
Thời
Minh Tri, cho tới Bản
Tuyên Ngôn Nhân Quyền
sau Thế Chiến
II và việc
hình thành Bản Luật
Căn
Bản của
chúng ta, thì
đã
xẩy ra một
chuyển
hướng thê thảm
nơi
trường hợp
ở
nửa thế
kỷ
vừa qua. Ngày nay ý nghĩ về
luật tự
nhiên
được coi như
là một thứ
giáo
điều
chuyên biệt của
Công giáo, không
đáng mang ra bàn luận
ở một
môi trường phi Công giáo, kẻo
người ta hầu
như cảm
thấy xấu
hổ ngay cả
việc
đề
cập tới
từ ngữ
này.
Hãy
để
tôi vắn tắt
tóm gọn
tình trạng này
đã
xuất
phát ra sao. Chính yếu
là do ý nghĩ là có một
vực thẳm
không thể khỏa
lấp giữa
“là - is” và “phải - ought”. Cái “phải”
không bao giờ xuất
phát từ cái “là”, vì hai cái này
ở hai lãnh vực
hoàn toàn khác nhau.
Lý do là vì trong lúc này thứ kiến
thức
về thực
chứng
của bản
tính tự
nhiên
đã hầu
như
được phổ
quát chấp
nhận. Nếu
bản tính – theo lời
của
Hans Kelsen –
được thấy
như
là “một tập
hợp
của các dữ
kiện
khách quan liên kết với
nhau theo chiều
hướng nhân quả”,
thì thật
sự là không có bất
cứ
một dấu
hiệu
nào về
đạo
lý có thể
xuất phát từ
bản
tính tự nhiên này (Cf. Waldstein, op. cit.,
pp. 15-21). Một quan niệm
thực
chứng về
thiên nhiên như
thể thuần
tác vụ,
như các khoa học
tự
nhiên cho rằng nó là như
thế,
không có khả năng
cung cấp
bất cứ
một
nhịp cầu
nối
nào với
đạo
lý và luật
lệ, thế
nhưng,
một lần
nữa
lại lại
hướng
chiều theo những
đáp
ứng tác vụ
mà thôi.
Cũng
thế nếu
áp dụng
vào lý trí, theo kiến thức
về
thực chứng
được
chủ trương
rộng
rãi chỉ là thứ
kiến
thức khoa học
thực
sự. Bất cứ
những gì bất
khả kiểm
chứng hay có thể
sai lầm hóa thì theo kiến
thức này không thuộc
về lãnh giới
của lý trí theo nghĩa
hẹp. Vì thế,
đạo lý và tôn giáo cần
phải
được
đẩy vào lãnh vực
chủ quan, và chúng vẫn
là những gì ngoài lề
đối với
lãnh giới của
lý trí theo nghĩa hẹp
của ngôn từ.
Ở
đâu lý trí thực
chứng
chủ trị
thứ
lãnh vực loại
trừ
tất cả
các lãnh vực
khác này – và
đó là trường
hợp
bao rộng trong tâm thức
quần
chúng của chúng ta – thì bấy
giờ các nguồn
mạch
cổ xưa
về
kiến thức
đối
với
đạo
lý và luật
pháp
đều bị
tẩy
chay.
Đó là một
tình trạng
thê thảm
ảnh
hưởng
tới hết
mọi
người, và là một
tình trạng
cần
đến
một
cuộc tranh luận
công khai. Thật
vậy, mục
đích chính yếu
của bài diễn
văn này
đó
là
để khẩn
trương mời
gọi khai mở
cuộc tranh luận
ấy.
Phương
thức thực
chứng
đối với
thiên nhiên và lý trí, vũ trụ
quan thực
chứng nói chung, là một
chiều kích quan trọng
của
kiến thức
và khả
năng của
con người
chúng ta không thể nào bỏ
qua. Thế
nhưng nơi
mình và tự
mình nó không phải là một
thứ
văn hóa thích
đáng
với
chiều rộng
đầy
đặn của
thân phận
con người.
Ở
đâu lý trí thực
chứng cho mình là nền
văn hóa thích hợp
duy nhất và loại
trừ
đi
tất cả
những thực
tại văn
hóa khác xuống mức
độ văn
hóa hạ tầng,
là nó làm giảm thiểu
con người, thật
sự là nó
đe
dọa nhân tính của
họ. Tôi nói
điều
này
đặc biệt
chú trọng
tới Âu Châu là nơi
đang
có những nỗ
lực liên kết
để nhìn nhận
duy tính chất thực
chứng như
là một thứ
văn hóa chung và là một
thứ căn
bản chung cho việc
làm luật, giảm
thiểu tất
cả mọi
minh thức khác và những
thứ giá trị
của nền
văn hóa chúng ta thành mực
độ nền
văn hóa hạ
tầng, mà hậu
quả là Âu Châu so với
các nền văn
hóa khác trên thế giới
bị rơi
vào tình trạng kém văn
hóa và
đồng thời
xuất hiện
các phong trào quá khích và cực
đoan
để
khỏa lấp
đi cái trống
rỗng. Nơi
tính chất
tự cho mình là chuyên nhất,
thứ lý trí thực
chứng
không nhìn nhận gì khác ngoài tính chất
thuần tác vụ
thì giống
như một
chỗ
chứa bằng
bêtông không có cửa
sổ, trong
đó
chính chúng ta cung cấp các
điều
kiện về
ánh sáng và khí thở,
không còn muốn tiếp
nhận
từ thế
giới
bao rộng của
Thiên Chúa nữa.
Nhưng chúng ta không thể che
đậy
được bản
thân mình sự kiện
là thậm chí trong thứ
thế giới
nhân tạo này, chúng ta vẫn
lén lút rút lấy các vật
liệu nguyên chất
của Thiên Chúa, những
gì chúng ta tái biến hóa thành các sản
phẩm của
riêng chúng ta.
Những
thứ cửa
sổ
này cần phải
tái mở
toang ra, chúng ta cần phải
thấy
thế giới
bao rộng,
thấy bầu
trời
và trái
đất một
lần
nữa và học
biết
thích
đáng sử
dụng
tất cả
những
điều
ấy.
Thế
nhưng chúng ta làm
điều
này như thế
nào? Chúng ta làm sao tìm
đường thoát ra với
thế
giới bao rộng
hơn,
với tấm
tranh to lớn
hơn? Làm thế
nào lý trí có thể tái nhận
thức
được
cái cao cả của
nó mà không bị chênh vênh rơi
vào tình trạng vô tri? Làm thế
nào thiên nhiên có thế
tái nhập vào chiều
sâu thực
sự của
nó, với
tất cả
những
đòi hỏi
của
nó, với tất
cả
những chỉ
dẫn
của nó? Tôi muốn
nhắc
lại một
trong những
phát triển trong lịch
sử
chính trị mới
đây,
hy vọng rằng
tôi sẽ
chẳng những
không bị
hiểu lầm,
mà còn không gây nên quá nhiều những
cuộc
bút chiến một
chiều.
Tôi muốn nói rằng
cuộc
xuất hiện
của
phong trào môi sinh
ở chính trị
Đức
từ thập
niên 1970, trong khi nó không thực sự
mở
toang các cửa sổ
ra, nhưng
đã và tiếp
tục
là một tiếng
kêu cần
đến một
luống
khí mới, một
tiếng
kêu không
được coi thường
hay dẹp
bỏ, chỉ
vì nó bị
coi là vô tri quá nhiều. Giới
trẻ
đã
đi
đến
chỗ ý thức
được
rằng một
cái gì
đó
sai lầm trong mối
liên hệ
của chúng ta với
thiên nhiên, rằng
vấn
đề
không phải
ở chỗ
chúng ta tùy ý sử
dụng vật
liệu
nguyên chất, mà là trái
đất
này có phẩm
giá của nó và chúng ta cần
phải tuân theo các hướng
dẫn của
nó. Nói như
thế, tôi hoàn toàn không cổ
võ bất cứ
một
đảng phái chính trị
nào – tôi không có ý
đồ
gì hết. Nếu
một cái gì
đó
sai lầm trong mối
liên hệ giữa
chúng ta với thực
tại thì tất
cả chúng ta cần
phải nghiêm chỉnh
suy nghĩ về
tất cả
tình trạng này và tất
cả chúng ta
đều
được tác
động
đặt vần
đề về
chính nền tảng
cho nền văn
hóa của chúng ta.
Xin cho tôi
được
nói thêm chút nữa
về
điểm
này. Tầm quan trọng
của
vấn
đề
môi sinh không còn là những gì tranh cãi nữa.
Chúng ta cần phải
lắng nghe tiếng
nói của thiên nhiên và chúng ta cần phải
đáp
ứng
một cách thích
đáng.
Tuy nhiên, tôi muốn
nhấn mạnh
đến
một
điểm
đối với
tôi dường
như bị
khinh thường,
hôm nay
đây cũng
như
trong quá khứ:
đó
là cũng có cả
một thứ
môi sinh con người nữa.
Cả con người
nữa cũng
có một bản
tính mà họ cần
phải tôn trọng
và họ không
được
mạo dụng
tùy ý. Con người không phải
chỉ có thuần
một thứ
tự do tự
tạo. Con người
không tự tạo
dựng nên mình. Họ
có lý trí và ý muốn, thế
nhưng họ
cũng có cả
bản tính, và ý muốn
của họ
có thứ tự
lớp lang nếu
họ biết
tôn trọng bản
tính của họ,
biết lắng
nghe nó và chấp nhận
bản thân mình như
họ là, như
một con người
không tạo dựng
nên mình. Có như thế,
chứ không cách nào khác, tự
do
đích thực
của con người
mới
được
nên trọn.
Chúng ta hãy trở
lại với
những
quan niệm nồng
cốt
về thiên nhiên và lý trí là những
gì chúng ta bắt
đầu.
Nhà
đại
xướng xuất
chủ
nghĩ thực
chứng
về pháp lý là Kelsen,
ở
vào tuổi 84 – năm
1965 –
đã
từ bỏ
nhị
nguyên thuyết “là” và “phải”.
(Tôi thấy
nó hay hay
ở chỗ
ý nghĩ
hữu lý rõ ràng là vẫn
còn khả dĩ
ở
vào tuổi 84!). Trước
đó
ông
đã nói rằng
các tiêu chuẩn
chỉ có thể
xuất
phát từ ý muốn.
Bởi
thế, ông thêm, thiên nhiên chỉ
có thể chất
chứa
các thứ tiêu chuẩn,
nếu
một ý muốn
đặt
các tiêu chuẩn
ở
đó.
Thế nhưng,
ông nói,
điều
này sẽ bao hàm một
Thiên Chúa Hóa Công,
Đấng
đã
tỏ
ý muốn của
mình ra nơi
thiên nhiên. Ông nhận
định
rằng:
“Bất cứ
nỗ
lực nào muốn
bàn về
chân lý của niềm
tin này
đều
hoàn toàn phù phiếm” (Cf. Waldstein, op. cit., p. 19.).
Tôi tự
hỏi mình rằng
“Thật
sự là như
vậy
hay sao?” Thật
sự là vô bổ
để suy nghĩ
là thứ lý trí khách quan biểu
lộ mình nơi
thiên nhiên không bao gồm một
lý trí sáng tạo, một
Thần Linh Sáng Tạo
hay sao?
Đến
đây thì gia sản
về
văn hóa của
Âu Châu cần
phải trợ
giúp chúng ta. Niềm xác tín rằng
có một vị
Thiên Chúa Hóa Công là những gì làm phát xuất ra ý nghĩ
về các thứ
nhân quyền, ý nghĩ
về bình
đẳng
nơi tất
cả mọi
dân tộc trước
pháp lý, xuất phát ra việc
nhìn nhận tính chất
bất khả
vi phạm của
phẩm giá con người
nơi từng
con người cũng
như nhận
thức trách nhiệm
của con người
về những
hành vi cử chỉ
của họ.
Ký
ức
về văn
hóa của
chúng ta
được hình thành bởi
những
minh thức hữu
lý này. Việc
coi thường nó hay bãi bỏ
nó như
là một
điều
gì
đó của
quá khứ
sẽ làm méo mó
đi
hoàn toàn nền
văn hóa của
chúng ta và cướp
giật tính chất
toàn vẹn
của nó. Nền
văn hóa này của
Âu Châu
đã xuất
phát từ cuộc
gặp gỡ
giữa Giêrusalem, Athens và Rôma – từ cuộc
gặp gỡ
giữa chủ
nghĩa vô thần
của dân Do Thái, lý trí triết học
của người
Hy Lạp và luật
pháp Rôma. Cuộc gặp
gỡ tay ba này
đã
hình thành căn tính nội
tại của
Âu Châu. Trong việc nhận
thức về
trách nhiệm của
con người trước
Thiên Chúa cũng như
trong việc nhìn nhận
nhân phẩm bất
khả vi phạm
của từng
con người, nó
đã
thiết lập
các qui chuẩn về
luật pháp: chính các qui chuẩn
ấy chúng ta
được
kêu gọi
để bênh vực
vào thời
điểm
lịch
sử của
chúng ta
đây.
Khi mặc
lấy long bào, vị
vua trẻ
Solomon
được mời
gọi
thực hiện
một
yêu cầu. Phần
chúng ta thì sao nếu
chúng ta là thành phần lập
luật
ngày nay
được mời
gọi
để thực
hiện
một yêu cầu?
Chúng ta sẽ
xin gì
đây? Tôi nghĩ
rằng,
thậm chí ngày nay, tối
hậu vẫn
không có gì khác chúng t among muốn hơn
là một
con tim biết lắng
nghe – khả
năng phân biệt
lành dữ,
nhờ
đó
thiết
lập luật
pháp
đích
thực, phục
vụ
công lý và hòa bình. Tôi xin cám
ơn
anh chị
em
đã lắng
nghe!
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2011/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20110922_reichstag-berlin_en.html
Với
các vị
đại
diện
thuộc
Cộng
Đồng
Do Thái
ở Reichstag Building, Berlin, Thứ Năm
22/9/2011
“Đối với
Kitô hữu, không có vấn
đề lịch
sử cứu
độ bị
đứt
đoạn. Việc
cứu
độ
xuất phát từ
người Do Thái (cf Jn 4:22).
.. Bài Giảng trên Núi không hủy bỏ
Lề Luật
Moisen, mà cho thấy những
khả thể
tiềm tàng của
nó và làm hiện lên những
đòi hỏi
toàn diện”.
(Video)
…
Trong cuộc viếng thăm của tôi ở Hội Đường Cologne 6 năm trước đây,
Tôn Sư Teitelbaum đã nói về việc tưởng nhớ như là một trong những
trụ cột cần thiết cho việc xây dựng một tương lai hòa bình.
Hôm nay tôi
đang
ở
một nơi
tâm
điểm của
việc tưởng
nhớ, một
tưởng nhớ
kinh hoàng chính
ở
nơi
đây
mà the Shoah, mà cuộc
tru diệt
đồng
bào Do Thái
ở
Âu Châu của chúng ta
đã
được mưu
đồ và hoạch
định.
Trước một Nazi kinh khủng, đã có chừng nửa triệu người Do Thái sống
ở Đức, và họ đã làm nên một yếu tố vững chắc cho xã hội Đức quốc.
Sau Thế Chiến Thứ Hai, Đức quốc đã được coi là “Mảnh đất của Shoah”,
nơi mà, đối với người Do Thái, trở nên coi như bất khả sống. Ban đầu
khó có bất cứ nỗ lực nào thực hiện việc tái thiết các cộng đồng Do
Thái xưa, cho dù cá nhân và gia đình người Do Thái đã liên tục đến
từ phương Đông. Nhiều người trong họ đã di dân và xây dựng một đời
sống mới, nhất là ở Hiệp Chủng Quốc hay Do Thái.
Ở nơi
đây, việc
tưởng nhớ
cũng xẩy
ra
đối với
cả the Kristallnacht xẩy
ra từ ngày 9
đến
10 tháng 11 năm
1938.
Chỉ một ít người mới có thể thấy được hoàn toàn mức độ của hành động
khinh bỉ nhân loại này, như
Berlin Cathedral Provost, Bernhard Lichtenberg, vị
đã
kêu lên từ bục
giảng
của Vương
Cung Thánh
Đường
Thánh Hedwig rằng: “Bên ngoài,
Đền
thờ
bị
đốt
cháy – cả
nhà của Thiên Chúa nữa”.
Tình trạng kinh hoàng cai trị của
Nazi
được căn
cứ vào một
thứ hoang
đường
về chủng
tộc, một
phần của
cái hoang
đường này là việc
loại trừ
đi Vị
Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, Vị Thiên Chúa của
Đức Giêsu Kitô và của
tất cả
những ai tin vào Người.
Tay Adolf Hitler cho mình là ‘quyền
năng’ là một
ngẫu tượng
ngoại
đạo,
kẻ muốn
chiếm chỗ
của Vị
Thiên Chúa của thánh kinh,
Đấng
Hóa Công và là Cha của tất
cả mọi
người. Việc
từ chối
không lắng nghe Vị
Thiên Chúa duy nhất này bao giờ
cũng làm cho con người
ta coi thường cả
phẩm giá của
con người nữa.
Con người có thể
trở nên như
thế nào khi họ
chối bỏ
Thiên Chúa và dung nhan của
một con người
có thể ra sao khi họ
chối bỏ
Vị Thiên Chúa này, thì những
hình
ảnh kinh hoàng khủng
khiếp từ
các trại tập
trung
ở vào lúc kết
thúc chiến tranh
đã
cho thấy.
…
Đối với
Kitô hữu, không có vấn
đề lịch
sử cứu
độ bị
đứt
đoạn. Việc
cứu
độ
xuất phát từ
người Do Thái (cf Jn 4:22). Khi cuộc xung khắc
giữa Chúa Giêsu với
Do Thái giáo vào thời của
Người
được
dẫn giải
một cách nông cạn
như là một
thứ
đổ
vỡ với
Cựu
Ước
là nó có khuynh hướng bị
biến thành ý nghĩ
về một
cuộc giải
phóng chủ trương
một cách sai lầm
rằng Ngũ
Kinh chỉ là một
thứ ban hành có tính cách nô bộc về
những lễ
nghi và tuân giữ bề
ngoài.
Tuy nhiên, thật
ra Bài Giảng trên Núi không hủy bỏ
Lề Luật
Moisen, mà cho thấy những
khả thể
tiềm tàng của
nó và làm hiện lên những
đòi hỏi
toàn diện. Nó hướng
chúng ta tới
nguồn mạch
sâu xa nhất
của hành
động
con người
là tâm can, nơi xuất
phát những
chọn lựa
giữa
những gì là tinh tuyền
và những gì nhơ
nhớp,
nơi
đức
tin,
đức
cậy và
đức
mến
triển nở.
…
Tóm lại,
chúng ta có thể kết
luận
rằng việc
trao
đổi
giữa Giáo Hội
Công Giáo và Do Thái Giáo
ở
Đức
quốc
đã trở
sinh những
hoa trái hứa hẹn.
Những
mối liên hệ
bền
bỉ của
lòng tin tưởng
đã
được
hình thành. Những
người Do Thái và Kitô hữu
chắc chắn
có một
trách nhiệm chung
đối
với
việc phát triển
xã hội,
một thứ
phát triển
bao giờ cũng
bao gồm
cả chiều
kích tôn giáo. Chớ
gì tất cả
những
ai tham dự vào cuộc
hành trình này cùng nhau tiến bước.
Để
kết thúc, xin
Đấng
Duy Nhất
và Toàn Năng, Ha Kadosch Baruch Hu, ban
cho chúng ta phúc lành của Ngài. Xin cám
ơn
quí vị.
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2011/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20110922_jewish-berlin_en.html
Với
các cộng
đồng
Hồi
giáo tại
Phòng Tiếp
Tân của
Sứ
Thần
Tòa Thánh
ở Bá Linh Thứ Sáu 23/9/2011
“Hết mọi người cần phải gắn bó với cả những môn
đồ thuộc các tôn giáo khác nữa hay không có tôn giáo nào: vị thế chung cho tất cả mọi người
được thấy nơi việc nhìn nhận một số quyền lợi bất khả phân ly xứng hợp với bản tính của con người và có trước hết mọi công thức tích cực”.
(Video)
…………
Bá Linh là một
địa
điểm
tốt cho một
cuộc
gặp gỡ
như
thế này, chẳng
những
vì cò ngôi
đền thờ
Hồi
giáo cổ nhất
ở
Đức quốc,
mà còn Bá Linh có một
dân số Hồi
giáo
đông
nhất trong tất
cả
mọi thành phố
ở
Đức quốc
này….
…………..
Giáo Hội
Công Giáo mạnh mẽ
tranh
đấu
cho việc nhìn nhận
xứng
hợp với
chiều
kích công cộng của
lòng gắn
bó với tôn giáo. Trong một
xã hội
đầy
những
đa nguyên lý thì
đòi
hỏi
này không phải là không quan trọng.
Theo tiến trình thì cần
phải
bảo
đảm
là kẻ
khác bao giờ cũng
phải
được trân trọng
đối
xử. Mối
tương
kính này chỉ gia tăng
theo chiều
hướng thuận
hợp
với nhau về
những
thứ giá trị
bất
khả phân ly nào
đó
xứng
với bản
tính của
con người,
đặc
biệt
là phẩm giá bất
khả
vi phạm của
từng
con người
được
Thiên Chúa dựng
nên. Việc thuận
hợp
này không hạn chế
việc
bày tỏ các tôn giáo riêng tư;
trái lại nó
để
cho mỗi
người minh chứng
một
cách tỏ tường
cho những
gì họ tin tưởng,
không tránh né việc
so sánh với những
tôn giáo khác.
Ở
Đức quốc
– cũng
như
ở
nhiều
quốc gia khác, không chỉ
ở các quốc
gia Tây phương
– cái mẫu cứ
chung này
được
nhắc
đến
trong Hiến
Pháp là văn kiện
có nội
dung về pháp lý có hiệu
lực
đối với
hết
mọi người
công dân, dù họ
thuộc về
một
cộng
đồng
đức
tin hay không.
Dĩ
nhiên, việc bàn luận
về
viện hình thành hay nhất
các nguyên tắc như
về
quyền tự
do tôn thờ
công cộng là những
gì bao rộng
và vẫn còn tiếp
tục
bàn luận, nhưng
vấn
đề quan trọng
ở
đây là Bản
Luật
Căn Bản
Đức
Quốc bày tỏ
chúng một
cách vẫn còn hiệu
năng
cho
đến ngày nay với
một
khoảng cách 60 năm
trời
(cf. Art. 4:2). Trong bản luật
này chúng ta thấy
trước hết
là cái nét
đặc
thù chung nằm
ở
ngay tâm
điểm
của việc
con người
chung sống và một
cách nào
đó
cũng thấm
nhập
vào các thứ qui luật
chính thức
bề ngoài của
việc
hoạt
động
ở
những cơ
cấu
tổ chức
của
đời sống
dân chủ.
Chúng ta có thể
hỏi mình là một
văn
kiện như
thế
–
được viết
lên
ở
một giai
đoạn
lịch sử
hoàn toàn khác nhau, tức là
ở
một
tình trạng hầu
như
theo văn hóa Kitô giáo – cũng
thích hợp với
Đức
quốc ngày nay, một
đất
nước
định
vị
trong một thế
giới
toàn cầu hóa và
được
đánh
dấu bởi
một
mức
độ
đáng
kể về
đa
nguyên nơi lãnh vực
niềm
tin về
đạo
giáo.
Lý do cho
điều
này
đối với
tôi dường
như
ở
sự
kiện là các vị
cha ông của
Bản Luật
Căn
Bản này, vào một
thời
điểm
quan trọng,
đã hoàn toàn nhận
thức
được nhu cầu
cần
phải tìm
được
một
nền tảng
thực
sự vững
chắc
nhờ
đó
tất
cả mọi
người
công dân có thể nhận
ra và có thể
phục vụ
như
là một nền
tảng
chống
đỡ
cho hết
mọi người,
bất
kể những
khác nhau của
họ. Trong việc
tìm kiếm
này, lưu ý tới
phẩm
giá con người và trách nhiệm
trước
Thiên Chúa, họ không quan tâm
đến
niềm
tin tôn giáo của riêng mình; thật
vậy,
đối với
nhiều
người trong họ,
nguồn
mạch cảm
hứng
thực sự
đó
là nhãn quan Kitô giáo về con người.
Thế
nhưng họ
đã
biết rằng
hết
mọi người
cần
phải gắn
bó với
cả những
môn
đồ
thuộc các tôn giáo khác nữa
hay không có tôn giáo nào: vị
thế
chung cho tất cả
mọi
người
được
thấy
nơi việc
nhìn nhận
một số
quyền
lợi bất
khả
phân ly xứng hợp
với
bản tính của
con người
và có trước hết
mọi
công thức tích cực.
Như
thế, một
xã hội
vào lúc
ấy chính yếu
hầu
như
đồng
chủng
đã
đặt
một
nền tảng
mà ngày nay chúng ta có thể coi là hiệu
lực
cho một kỷ
nguyên mang tính cách
đa nguyên, những
nền
tảng thực
sự
vạch ra những
giới
hạn hiển
nhiên về
tính chất
đa
nguyên: thật
vậy, không thể
hiểu
được là một
xã hội
có thể sống
còn lâu dài mà lại
thiếu
đồng
thuận
về các thứ
giá trị
đạo lý căn
bản.
…………
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2011/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20110923_muslim-berlin_en.html
Bài Giảng trong Thánh Lễ
ở Olympic Stadium, Bá Linh Thứ Năm 22/9/2011
“Giáo Hội, như là rao giảng viên của lời Chúa và là nơi chất chứa các bí tích, liên kết chúng ta với Chúa Kitô, cây nho thực. Giáo Hội như ‘đầy trọn và hoàn trọn
Đấng Cứu Chuộc’, như
Đức Piô XII diễn tả (Pius XII,
Mystici Corporis, AAS 35 [1943] p. 230: “plenitudo et
complementum Redemptoris”),
đối với chúng ta là bảo chứng của sự sống thần linh và là môi giới của những hoa trái
được dụ ngôn về cây nho nói tới”.
(Video)
….
Trong dụ
ngôn về cây nho, Chúa Giêsu không nói: “Các
on là cây nho” mà nói “Thày là cây nho, các con là cành” (Jn 15:5).
Nói cách khác, “Như
cành
được dính liền
với
cây nho thế nào thì các con cũng
thuộc về
Thày như
thế! Thế
nhưng,
vì các con thuộc về
Thày mà các con cũng
thuộc về
nhau nữa”
Cái thuộc về
nhau và về
Người này không phải
là một
cái gì lý tưởng, mơ
tưởng,
là mối liên hệ
tiêu biểu,
mà – tôi hầu như
muốn
nói rằng – là một
trạng
thái truyền
đạt
sự
sống về
sinh lý của
việc thuộc
về
Chúa Giêsu Kitô. Giáo Hội là thế,
là mối
hiệp thông sự
sống
này với Chúa Giêsu Kitô và cho nhau, một
mối hiệp
thông
được
bắt nguồn
từ
phép rửa và
được
sâu
đậm
cùng sống
động
hơn
nữa nơi
Thánh Thể.
“Thày là cây nho thực” thực
sự
có nghĩa như
thế
này: “Thày là các con và các con là Thày” – một
thứ
đồng hóa vô tiền
khoáng hậu
về Chúa với
chúng ta, với
Giáo Hội.
Trên con
đường
đến Damascus, chính Chúa Kitô
đã hỏi
Saolê, một
tên bách hại Giáo Hội
rằng:
“Tại sao ngươi
lại
bách hại Ta?” (Lk 9:4). Bằng
những lời
này, Chúa
đã
cho thấy cái
định
mệnh
chung xuất phát từ
mối
hiệp thông nội
tại
về sự
sống
của Giáo Hội
Người
với chính Người,
Đấng
phục sinh. Người
tiếp
tục sống
trong Giáo Hội
của Người
trên thế
gian này. Người hiện
diện
giữa chúng ta, và chúng ta với
Người. “Tại
sao ngươi
lại bắt
bớ
Ta?” Cuộc bách hại
Giáo Hội
của Người
tối
hậu nhắm
vào Chúa Giêsu.
Điều
này
đồng thời
có nghĩa
là khi chúng ta bị
đàn
áp vì
đức
tin của chúng ta thì chúng ta không lẻ
loi cô
độc: bởi
Chúa Giêsu Kitô
ở
bên chúng ta và
ở với
chúng ta.
….
Nhiều
người chỉ
thấy
cái hình thức bề
ngoài của
Giáo Hội.
Điều
này khiến Giáo Hội
thuần
túy trở thành như
là một
trong nhiều cơ
cấu
tổ chức
thuộc
xã hội dân chủ,
những
cơ cấu
tổ
chức có qui chuẩn
và luật
lệ bởi
thế
được áp dụng
cho công việc
thẩm
định
và xử
trí một thực
tại
phức tạp
như
“Giáo Hội”. Ngoài ra, cảm
nghiệm
đau buồn
đó
là Giáo Hội chất
chứa
cả cá tốt
lẫn
cá xấu, cả
lúa lẫn
cỏ lùng, và nếu
chỉ
lưu ý tới
những
khía cạnh tiêu cực
ấy,
thì không còn thấy
được
mầu
nhiệm cao cả
và tuyệt
vời của
Giáo Hội
nữa.
Bởi
thế, việc
thuộc
về cây nho này, thuộc
về “Giáo Hội”,
không còn là một
nguồn vui. Tình trạng
bất
mãn và bất bình bắt
đầu
lan tràn, khi những quan niệm
nông nỗi
và sai lầm của
“Giáo Hội”,
một “Giáo Hội
mơ
tưởng” của
họ,
không
được cụ
thể
hóa! Bấy giờ
chúng ta không còn nghe thấy bài ca hân hoan “Tạ
ơn Chúa là
Đấng
yêu thương
gọi con vào Giáo Hội
của
Người”
được
các thế
hệ Công giáo xác tín hát lên.
Thế
nhưng, chúng ta hãy trở
lại với
bài Phúc Âm. Vậy
Chúa tiếp tục
nói: “Hãy
ở
trong Thày và Thày
ở trong các con. Như
cành không thể tự
sinh hoa kết
trái thế nào thì các con cũng
thế trừ
phi các con
ở
trong Thày… vì ngoài Thày ra (chẳng
hạn
tách khỏi Thày hay
ở
ngoài Thày) các con không thể làm gì
được”
(Jn 15:4f).
Hết
mọi người
trong chúng ta
đều
phải
đối
diện
với việc
chọn
lựa này. Chúa nhắc
nhở
chúng ta mối nguy cơ
sẽ
đến
đâu
khi Người
tiếp tục
dụ
ngôn này: “Nếu ai không
ở
trong Thày thì họ
như cành bị
quăng
ra mà khô héo
đi và bị
thu quén lại
mà quăng vào lửa
cho thiêu cháy
đi”
(Jn 15:6). Khi dẫn giải
về
bài phúc âm này, Thánh Âu Quốc
Tinh
đã
nói rằng: “Cành nho chỉ
thích
đáng
với hai việc,
hoặc
là cây nho hay là lửa thiêu; nếu
nó không
ở
với cây nho thì chỗ
của
nó sẽ là lửa
thiêu; và nó có thể
thoát
được lửa
thiêu khi nó
ở
với cây nho” (In Ioan. Ev. Tract.
81:3 [PL 35, 1842]).
Quyết
định này
đòi
hỏi
chúng ta nơi
đây
làm cho chúng ta nhận
thức một
cách rõ ràng về
tầm quan trọng
sâu xa của
những việc
chọn
lựa
đời
sống
của chúng ta. Thế
nhưng,
đồng thời
hình
ảnh
của cây nho là một
dấu
hiệu của
niềm
hy vọng và lòng cậy
trông. Chính Chúa Kitô
đến thế
gian bằng
việc nhập
thể
của mình
để
nên nguồn
gốc cho chúng ta. Bất
cứ
điều
gì khó khăn hay cằn
cỗi
xẩy ra cho chúng ta thì Người
là nguồn mạch
cống
hiến cho chúng ta thứ
nước sự
sống
giúp chúng ta dinh dưỡng và kiên cường.
Người
mang lấy trên mình tất
cả
tội lỗi
mọi
của chúng ta, mọi
lo âu của
chúng ta và mọi khổ
đau
của chúng ta, và Người
thanh tẩy chúng ta và biến
đổi
chúng ta, một cách hết
sức
huyền nhiệm,
thành những
cành nho tươi tốt
cung cấp
rượu nho ngon lành.
Trong những
lúc khốn khó như
thế,
đôi khi chúng ta cảm
thấy như
thể
chính chúng ta
ở trong máy ép nho, như
những trái nho hoàn toàn bị
nghiền nát. Thế
nhưng
chúng ta biết rằng
nếu
chúng ta liên kết với
Chúa Kitô, chúng ta trở nên thành một
thứ
rượu chín mùi. Thiên Chúa có thể
biến
đổi
thành yêu thương
ngay cả những
gì là nặng
nề và áp lực
trong
đời
sống của
chúng ta. Vấn
đề quan trọng
là chúng ta “ở”
trong Chúa Kitô,
ở với
cây nho. Vị
thánh ký sử dụng
chữ
“ở” cả
chục
lần trong
đoạn
phúc âm ngắn này. Việc
“ở
trong Chúa Kitô” là những gì nổi
bật
cả
đoạn
phúc âm
ấy. Trong thời
đại
bồn chồn
và thiếu
dấn thân của
chúng ta, khi mà rất
nhiều người
lạc
mất hướng
đi
và mất thăng
bằng,
khi mà lòng trung thành yêu thương
trong
đời
sống hôn nhân và tình bằng
hữu
đã
trở
nên quá mỏng dòn và vắn
vỏi,
khi mà chúng ta cần phải
kêu lên như
các môn
đệ trên
đường
đi
về làng Emmaus rằng:
“Lạy
Chúa, xin
ở với
chúng con, vì trời
gần tối
và màn
đêm
đang bao phủ
chúng con!” (cf Lk 24:29), nơi kỷ
nguyên hiện
nay, Vị Chúa phục
sinh ban cho chúng ta một nơi
nương
náu, một chốn
rạng
ngời, hy vọng
và tin tưởng,
một chỗ
nghỉ
ngơi và an toàn. Khi mà tình trạng
khô cằn và chết
chóc
đang
chập chờn
trên các cành nho, thì trong Chúa Kitô chúng ta thấy
được
tương lai, sự
sống
và niềm vui. Trong Người
chúng ta bao giờ
cũng thấy
được
sự thứ
tha và cơ
hội
để
bắt
đầu lại,
cơ
được
được
biến
đổi khi chúng ta
được
lôi kéo vào tình yêu thương của
Người.
Việc
ở trong Chúa Kitô nghĩa
là, như chúng ta
đã
thấy
trên
đây, là
ở
trong cả
Giáo Hội nữa.
Toàn thể
mối hiệp
thông này của
tín hữu
được
chặt
chẽ tháp nhập
vào cây nho, vào Chúa Kitô. Chúng ta thuộc về
nhau trong Chúa Kitô. Trong mối hiệp
thông này Người
nâng
đỡ chúng ta,
đồng
thời
tất cả
mọi
phần tử
cũng
nâng
đỡ nhau nữa.
Chúng ta cùng nhau vững mạnh
trước
giông ba bão táp và bảo lệ
lẫn
nhau. Những ai tin tưởng
thì không lẻ
loi cô
độc. Chúng ta không tin tưởng
một mình, chúng ta tin tưởng
với toàn thể
Giáo Hội
ở khắp
mọi
thời
đại
và mọi
nơi chốn,
với
cả Giáo Hội
thiên cung và Giáo Hội
trần thế.
Giáo Hội,
như là rao giảng
viên của
lời Chúa và là nơi
chất
chứa các bí tích, liên kết
chúng ta với Chúa Kitô, cây nho thực.
Giáo Hội như
“đầy
trọn và hoàn trọn
Đấng
Cứu Chuộc”,
như
Đức Piô XII diễn
tả
(Pius XII,
Mystici Corporis, AAS 35 [1943] p. 230: “plenitudo
et complementum Redemptoris”),
đối với
chúng ta là bảo
chứng của
sự
sống thần
linh và là môi giới
của những
hoa trái
được
dụ ngôn về
cây nho nói tới.
Bởi thế,
Giáo Hội
là tặng ân tuyệt
vời
nhất của
Thiên Chúa. Vậy
nên Thánh Âu Quốc Tinh mới
nói: “ai yêu mến
Giáo Hội bao nhiêu thì có Thánh Linh bấy
nhiêu” (In Ioan. Ev. Tract. 32:8 [PL 35:1646]). Với
Giáo Hội và trong Giáo Hội
chúng ta có thể loan báo cho tất
cả
mọi dân tộc
rằng
Chúa Kitô là nguồn mạch
sự
sống, rằng
Người
hiện hữu,
rằng
Người là
Đấng
cao cả
cần chúng ta lưu
tâm, cần
chúng ta mong mỏi thật
nhiều.
Người
đã
ban chính mình Người
và vì thế Người
ban cho chúng ta Thiên Chúa, hạnh phúc và tình yêu. Bất
cứ ai tin tưởng
vào Chúa Kitô thì có tương lai. Vì Thiên Chúa không muốn
những gì là tàn héo, chết
chóc, ersatz, và sau cùng bị
vùi dập:
Người muốn
những
gì là phong phú và sống
động,
Người
muốn sự
sống
viên trọn và Người
ban cho chúng ta sự
sống viên mãn.
Anh Chị Em thân mến! Tôi chúc cho anh chị em tất cả, cho chúng ta
tất cả, như thế này, đó là khám phá ra một cách sâu xa hơn nữa niềm
vui được ở với Chúa Kitô trong Giáo Hội, cùng với tất cả những thử
thách của Giáo Hội và các thời điểm đen tối, là tìm thấy niềm an ủi
và ơn cứu chuộc giữa những thách đố xẩy ra, và tất cả chúng ta được
càng ngày càng trở thành một thứ rượu nho quí báu làm cho Chúa Kitô
hân hoan và mang lại yêu thương cho thế giới.
Amen.
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2011/documents/hf_ben-xvi_hom_20110922_olympiastadion-berlin_en.html
Huấn từ trong buổi Kinh Tối Kính Đức Trinh Nữ
Maria ở
Chapel
of the Shrine, Etzelsbach
Thứ
Sáu 23/9/2011
“Lòng tôn sùng Thánh Mẫu tập trung vào việc chiêm ngưỡng về mối liên
hệ giữa Người Mẹ và Người Con thần linh của Mẹ”
(Video)
Anh Chị Em thân mến,
Tôi xin gửi chào nồng nàn nhất đến tất cả mọi anh chị em, tất cả
những ai đến Etzelsbach đây vào giờ cầu nguyên này. Từ hồi còn trẻ
tôi đã nghe rất nhiều về Eichsfeld tới nỗi có lúc tôi nghĩ rằng tôi
cần phải đích thân thấy nó và cùng cầu nguyện với anh chị em…
Bởi vậy tôi rất vui mừng vì ước muốn viếng thăm Eichsfeld của tôi đã
được nên trọn, và giờ đây ở Etzelsbach này tôi xin tạ ơn Mẹ Maria
cùng với anh chị em. Như bài thánh ca của những khách hành hương hát
rằng “ở trong thung lũng thanh vắng dấu yêu dưới những cây chanh lá
cam xưa này”, Mẹ Maria ban cho chúng ta được sống an toàn và sức
mạnh mới.
Trong hai chế độ độc tài chuyên chế vô thần, những chế độ tìm cách
cắt đứt dân chúng khỏi niềm tin cha ông của họ, những dân cư của
Eichsfeld chắc chắn đã tìm thấy được một cửa mở và là một chốn an
bình nội tâm ở đền thánh tại Etzelsbach này.
Mối thân tình đặc biệt với Mẹ Maria được gia tăng từ tất cả những
điều ấy, là những gì chúng ta tìm cách vun trồng hơn nữa, không chỉ
qua việc cử hành Giờ Kinh Tối kính Đức Trinh Nữ Maria hôm nay.
Khi Kitô hữu ở tất cả mọi thời đại và nơi chốn hướng về Mẹ Maria là
họ tác hành theo niềm xác tín tự nhiên là Chúa Giêsu không thể nào
từ chối người mẹ của mình những gì mẹ xin; và họ cậy dựa vào niềm
tin cậy bất khả chuyển lay rằng Mẹ Maria cũng là mẹ của chúng ta –
một người mẹ đã cảm nghiệm tất cả mọi niềm sầu thương nhất, vị đã
cảm thấy tất cả mọi thương đau của chúng ta với chúng ta và nghĩ
cách chế ngự chúng theo lòng từ mẫu của mình.
Biết bao nhiêu người qua các thế kỷ đã thực hiện những cuộc hành
hương đến kính viếng Mẹ Maria, để tìm được niềm ủi an và sức mạnh
trước hình ảnh Mẹ Sầu Bi, như ở Etzelsbach này!
Chúng ta hãy nhìn lên hình ảnh của Mẹ: một người đàn bà ở vào tuổi
trung tuần, mí mắt nặng trĩu khóc thương, trầm ngâm nhìn vào một
khoảng cách nào đó, như thể đang chiêm niệm trong lòng mình về hết
mọi sự đã xẩy ra. Trên hai gối của Mẹ là một thân thể vô hồn Con Mẹ,
Mẹ nhẹ nhàng và âu yếm ôn lấy Người như một tặng vật cao quí. Chúng
ta thấy những dấu vếr đóng đinh nơi thân xác trần trụi của Người.
Cánh tay trái của thi thể này thong xuống đất. Có lẽ pho tượng
Pietà
này, như nhiều pho tượng khác, ban đầu đã được đặt trên bàn thờ.
Chúa Giêsu tử giá mới bằng cánh tay giang thẳng của Người chỉ về
những gì đang diễn tiền trên bàn thờ, nơi hy tế thánh đã được Người
hoàn tất trở nên hiện diện trong Thánh Thể.
Một đặc tính đặc biệt của bức ảnh thánh ở Etzelsbach này là vị thế
của thân thể Đức Mẹ. Nơi hầu hết các hình ảnh bức tượng
Pietà
thì đầu của Chúa Giêsu tử nạn nằm hướng về bên trái để người quan
sát có thể thấy cạnh sườn bị thương của Vị Chúa Tử Giá này. Thế mà ở
Etzelsbach đây cạnh sườn bị thương tích này lại được che giấu đi, vì
thân mình quay về hướng khác. Tôi cảm thấy như có một ý nghĩa sâu xa
nào đó được chất chứa nơi bức ảnh này, một ý nghĩa chỉ trở nên sáng
tỏ nhờ âm thầm chiêm niệm, ở chỗ, nơi bức ảnh Etzelsbach này, trái
tim của Chúa Giêsu và của Mẹ Người hướng vào nhau; những trái tim
gắn bó với nhau. Hai trái tim trao đổi yêu thương. Chúng ta biết
rằng trái tim cũng là nơi cảm nhận sâu xa nhất và cảm thương thân
mật nhất.
Trong trái tim của Mẹ Maria có chỗ cho một thứ tình yêu mà Người Con
Thần Linh của Mẹ muốn tuôn đổ xuống trên thế giới.
Lòng tôn sùng Thánh Mẫu tập trung vào việc chiêm ngưỡng về mối liên
hệ giữa Người Mẹ và Người Con thần linh của Mẹ.
Trong lời nguyện cầu và những khổ đau của mình, trong niềm tri ân
cảm tạ và hân hoan vui sướng, tín hữu liên lỉ khám phá ra được những
chiều kích mới và những tính chất mà mầu nhiệm này có thể giúp vào
việc bày tỏ cho chúng ta, chẳng hạn khi
hình ảnh Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria được thấy như là một
biểu hiệu cho mối hiệp nhất yêu thương sâu xa và trọn vẹn của Mẹ với
Chúa Giêsu.
Nó không phải là việc hiện thực hóa bản thân mình, là ước muốn chiếm
hữu cho mình và hình thành nên mình, những gì thực sự giúp cho con
người có thể triển nở theo kiểu cách đời sống tân tiến gợi lên cho
chúng ta, thứ kiểu cách dễ hướng về một thứ hình thức giả tạo của
lòng vị kỷ. Trái lại, nó là một thái độ tự hiến, tự trống rỗng, một
thái độ hướng về trái tim Mẹ Maria và vì thế về trái tim của Chúa
Kitô cũng như về tha nhân của chúng ta: đó là những gì giúp chúng ta
có thể gặp thấy bản thân mình.
“Chúng ta biết rằng trong hết mọi sự Thiên Chúa làm đều cho thiện
ích của những ai yêu mến Ngài, những ai được kêu gọi theo mục đích
của Ngài” (Rm 8:28), như chúng ta vừa nghe trong bài đọc từ Bức Thư
gửi cho Kitô hữu Rôma.
Với Mẹ Maria, Thiên Chúa đã thực hiện cho thiện ích trong hết mọi
sự, và Ngài đã không ngừng, qua Mẹ Maria, làm cho thiện ích được lan
tràn hơn nữa trên thế giới này.
Khi nhìn xuống từ cây Thập Tự giá, từ ngai tòa ân sủng và cứu độ,
Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta Mẹ Maria của Người để làm mẹ của
chúng ta.
Ở vào giây phút người hy hiến bản thân mình cho nhân loại thì Người
làm cho Mẹ Maria trở thành như con kênh đào của những giòng sông ân
sủng chảy ra từ Thập Giá.
Ở dưới chân cây Thập Giá, Mẹ Maria trở thành vị đồng hành của chúng
ta và là vị bảo hộ cho cuộc hành trình của đời sống. ‘Bằng tình yêu
từ mẫu của mình, Mẹ chăm sóc cho những người anh chị em của Con của
Mẹ, thành phần vẫn còn hành trình trên thế gian bị bủa vây bởi những
hiểm nguy và khốn khó, cho tới khi họ được dẫn vào nhà vinh phúc của
mình”, như Công Đồng Chung Vaticanô II diễn tả cho thấy (Lumen
Gentium, 62). Phải, thật vật, trong đời sống chúng ta trải qua những
lúc thăng trầm, thế nhưng Mẹ Maria là Đấng chuyển cầu cho chúng ta
với Người Con của Mẹ và giúp chúng ta khám phá ra quyền lực tình yêu
thần linh của Người, và mở lòng chúng ta ra cho tình yêu ấy.
Niềm tin tưởng của chúng ta nơi việc chuyển cầu quyền năng của Người
Mẹ của Thiên Chúa và lòng tri ân của chúng ta đối với ơn trợ giúp
chúng ta hằng cảm nghiệm thấy là những gì thực sự thúc đẩy chúng ta
nghĩ vượt ra ngoài cả những nhu cầu của giây phút nào đó.
Điều mà Mẹ Maria thực sự muốn nói với chúng ta là gì, khi Mẹ cứu vãn
chúng ta khỏi một cuộc thử thách nào đó? Mẹ muốn giúp cho chúng ta
nắm bắt được chiều rộng và chiều sâu của ơn gọi Kitô hữu chúng ta.
Bằng niềm ân cần của một người mẹ, Mẹ muốn làm cho chúng ta hiểu
rằng tất cả đời sống của chúng ta cần phải là một đáp ứng cho tình
yêu của Thiên Chúa chúng ta, Đấng giầu lòng xót thương.
Mẹ dường như muốn nói với chúng ta rằng: ‘Các
con hãy hiểu rằng Thiên Chúa, Đấng là nguồn của tất cả mọi sự tốt
lành thiện hảo và là Đấng không bao giờ muốn bất cứ sự gì ngoài hạnh
phúc đích thật của các con, có quyền đòi hỏi các con một đời sống
hoàn toàn và hân hoàn tuân theo ý muốn của Ngài, đồng thời nỗ lực
giúp cho những người khác cũng làm như thế’.
Ở đâu có Thiên Chúa thì ở đấy có tương lai.
Thật vậy – khi chúng ta để cho tình yêu của Thiên Chúa thấm nhập và
hình thành tất cả cuộc sống của chúng ta, thì thiên đình mở ra. Bấy
giờ mới có thể hình thành hiện tại để nó càng xứng hợp hơn nữa với
Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Bấy giờ những điều nhỏ
bé của đời sống thường ngày mới có ý nghĩa và những thứ trục trặc to
tát mới có thể được giải quyết.
Tin tưởng như thế, chúng ta hãy cầu cùng Mẹ Maria; tin tưởng như
vậy, chúng ta hãy tin tưởng vào Chúa Giêsu Kitô là Chúa và là Thiên
Chúa của chúng ta. Amen.
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2011/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20110923_vespers-etzelsbach_en.html
Bài Giảng cho Thánh Lễ ở
Touristic airport, Freiburg im Breisgau Chúa Nhật
25/9/2011
“Chúng ta hãy tin tưởng
vào Thiên Chúa, Đấng mà quyền năng của Ngài biểu lộ hơn hết nơi tình
thương và ơn tha thứ…
Chúng ta cần
cởi mở bản thân cho Ngài để quyền năng tình thương của Ngài có thể
chạm đến con tim của chúng ta.”.
(Video)
… Trong bài đọc một chúng ta đã nghe Thiên Chúa biểu lộ quyền năng
của tình thương Ngài nơi lịch sử của dân Israel ra sao. Kinh nghiệm
về cuộc Lưu Đầy ở Babylon đã khiến cho dân chúng rơi vào một cuộc
khủng hoảng đức tin: Tại sao lại xẩy ra tai ương ấy? Có lẽ Thiên
Chúa không thực sự quyền năng gì hết?
Có các thần học gia, trước tất cả những gì là khiếp đảm xẩy ra trong
thế giới ngày nay, nói rằng Thiên Chúa có lẽ không thể nào là Đấng
toàn năng. Đáp lại thái độ này, chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa, Đấng
Tạo Thành toàn năng dựng nên trời đất. Và chúng ta hân hoan cùng tạ
ơn vì Thiên Chúa là Đấng toàn năng. Đồng thời chúng ta ý thức rằng
Ngài hành sử
quyền năng của Ngài khác với đường lối chúng ta thường thực hiện.
Ngài đã đặt hạn chế cho quyền năng của Người, bằng việc công nhận tự
do nơi tạo vật của Ngài.
Chúng ta hân hoan và tạ ơn về tặng ân tự do. Tuy nhiên, khi chúng ta
thấy những điều kinh hãi xẩy ra như hậu quả của nó thì chúng ta cảm
thấy run sợ. Chúng ta hãy tin tưởng
vào Thiên Chúa, Đấng mà quyền năng của Ngài biểu lộ hơn hết nơi tình
thương và ơn tha thứ.
Anh chị em tín hữu thân mến, chúng ta hãy tin tưởng rằng Thiên Chúa
muốn cứu độ dân của Ngài. Ngài muốn chúng ta được cứu độ, muốn tôi
được cứu độ, muốn từng người được cứu độ. Ngài luôn kề cận với chúng
ta, nhất là trong những lúc hiểm nguy và thay đổi sâu xa, và trái
tim của Ngài nhức nhối vì chúng ta, Ngài vươn tới chúng ta.
Chúng ta cần
cởi mở bản thân cho Ngài để quyền năng tình thương của Ngài có thể
chạm đến con tim của chúng ta.
Chúng ta cần phải tự nguyện sẵn sàng từ bỏ sự dữ, thoát ra khỏi tình
trạng dửng dưng lạnh lùng của mình và giành chỗ cho lời của Ngài.
Thiên Chúa tôn trọng tự do của chúng ta. Ngài không kiềm chế nó.
Ngài đợi chờ chúng ta thưa ‘vâng’, như thể Ngài van xin chúng ta
thưa ‘vâng’.
Trong Phúc Âm Chúa Giêsu sử dụng đề tài căn bản cho việc giảng dạy
ngôn sứ này. Người kể về dụ ngôn hai người con trai được cha kêu gọi
đi làm vườn nho. Đứa con thứ nhất đáp: ‘Con không đi đâu’ nhưng sau
đó hối hận mà đi. Người con kia thưa cùng cha rằng ‘vâng con đi’
song lại không đi. Khi Chúa Giêsu hỏi trong hai người con này thì
đứa nào làm theo ý muốn của người cha thì thành phần lắng nghe trả
lời đúng rằng ‘người con thứ nhất’ (Mt 21:29-31). Ý nghĩa
của dụ ngôn này đã rõ ràng, đó là vấn đề không phải là lời nói song
là việc làm, việc ăn năn hoán cải và sống đức tin.
Như chúng ta đã nghe, Chúa Giêsu hướng ý nghĩa này về các vị trưởng
tế và kỳ lão trong dân Israel, tức là hướng về thành phần chuyên gia
về đạo giáo của dân chúng. Thoạt tiên họ thưa ‘dạ’ với ý muốn của
Thiên Chúa, nhưng lòng đạo đức của họ trở thành những gì là hình
thức và Thiên Chúa không còn nghĩa lý gì với họ nữa. Thế nên họ thấy
sứ điệp của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả và sứ điệp của Chúa Giêsu là những
gì rắc rối phiền hà. Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn này bằng những lời
lẽ khó nghe như sau: ‘Thật vậy, thành phần thu thuế và gái điếm còn
vào Nước Thiên Chúa trước các người. Vì Gioan đã đến cùng các người
một cách chính trực nhưng các người không tin ông, nhưng các người
thu thuế và gái điếm lại tin ông, và cho dù các người thấy đó các
người sau đó vẫn không ăn năn thống hối mà tin vào ông” (Mt 21:32).
Được chuyển dịch thành ngôn từ của thời đại hiện nay, thì lời phát
biểu này có thể âm vang như thế này: những
người bất khả thần tri, thành phần liên lỉ quan tâm tới vấn đề về
Thiên Chúa, những người mong muốn có được một con tim tinh tuyền
nhưng chịu khổ vì tội lỗi của mình, thì gần với Nước Thiên Chúa hơn
là những tín hữu có đời sống đức tin hình thức và là những người coi
Giáo Hội như là một cơ cấu thuần túy, không để cho Giáo Hội chạm đến
con tim của họ, hay để cho đức tin chạm đến con tim của họ.
Những lời này phải làm cho chúng ta tất cả lắng đọng suy nghĩ, thật
ra chúng cần phải quấy rối chúng ta. Tuy nhiên, nó không có nghĩa là
hết mọi người sống trong Giáo Hội và làm việc cho Giáo Hội đều cần
phải được coi là xa cách Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa. Hoàn toàn
không phải thế! …(
đến đây ĐTC bày tỏ lòng biết ơn đối với kể đến những hoạt động tông
đồ mục vụ ở Đức)…
. Thế nhưng theo tinh thần
giáo huấn của Chúa Giêsu thì vẫn cần một điều gì hơn nữa – một con
tim cởi mở để tình yêu của Chúa Kitô chạm đến nó, nhờ đó, cống hiến
cho tha nhân của chúng ta, những người cần đến chúng ta, một cái gì
đó hơn là một thứ dịch vụ về kỹ thuật: nó cống hiến yêu thương là
những gì người khác có thể thấy được Chúa Kitô là Vị Thiên Chúa hằng
sống.
Vậy chúng ta hãy tự hỏi mình xem, theo chiều hướng của bài Phúc Âm
hôm nay, mối
liên hệ riêng tư giữa tôi với Thiên Chúa ra sao:
trong việc cầu nguyện, trong việc tham dự Lễ Chúa Nhật, trong việc
đào sâu đức tin của tôi bằng cách suy niệm Thánh Kinh và học hỏi
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo? Các bạn thân mến, tóm lại, việc
canh tân của Giáo Hội sẽ chỉ xẩy ra qua việc sẵn sàng hoán cải cũng
như bằng việc canh tân đức tin.
Phúc Âm cho Chúa Nhật này, như chúng ta thấy, nói về 2 người con,
thế nhưng ở đằng sau hai người con này, một cách huyện nhiệm, có một
người con thứ ba.
Người con thứ nhất nói ‘không’ nhưng lại làm theo ý của cha. Người
con thứ hai nói ‘có’ nhưng không làm theo những gì người cha xin.
Người
con thứ ba vừa thưa ‘vâng’ vừa làm theo những gì người cha xin.
Người con thứ ba này là Con Một của Thiên Chúa, là Chúa Giêsu Kitô,
Đấng đã qui tụ tất cả chúng ta lại ở nơi đây.
Chúa Giêsu, khi vào trần gian đã thưa: ‘Ôi Thiên Chúa, này con xin
đến để làm theo ý của Ngài” (Heb 10:7). Người không chỉ nói ‘vâng’,
mà Người còn thực hiện tiếng ‘vâng’ này, và Người đã chịu khổ vì nó,
thậm chí chết trên thập tự giá (x Phil 2:6-8)…..
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2011/documents/hf_ben-xvi_hom_20110925_freiburg_en.html
Với thành phần Công giáo tham gia vào đời sống Giáo Hội và xã hội, ở
Concert Hall, Freiburg im Breisgau Chúa Nhật
25/9/2011
“Động
lực chính yếu cho vấn để thay đổi đó là sứ vụ tông đồ của thành phần
môn đệ và của chính Giáo Hội”.
(Video)
…………
Qua
một số thập kỷ, giờ đây chúng ta đang cảm thấy tình trạng tụt dốc
nơi việc hành đạo và chúng ta đang chứng kiến thấy con số đáng kể
của thành phần lãnh nhận phép rửa đang xa rời với đời sống của Giáo
Hội.
Tình
trạng này làm nẩy lên vấn nạn, đó là Giáo Hội
không được thay đổi hay sao? Giáo Hội không cần phải thích ứng những
vai trò và cấu trúc của mình với ngày nay để vươn tới với thành phần
đang tìm kiếm và nghi hoặc ngày nay hay sao?
Mẹ
Chân Phước Têrêsa có lần được hỏi theo ý kiến của mẹ
đâu
là điều đầu tiên cần phải thay đổi trong Giáo Hội.
Câu trả lời của mẹ đó là: quí vị
và tôi đây.
Có
hai điều hiển nhiên từ câu chuyện ngắn này. Một đàng Mẹ Têrêsa muốn
nói với người phỏng vấn mẹ rằng: Giáo Hội
không phải chỉ là một người nào khác, không phải chỉ là hàng giáo
phẩm, bao gồm Giáo Hoàng và các vị giám mục mà thôi: chúng ta tất cả
là Giáo Hội,
chúng ta là thành phần lãnh nhận phép rửa. Đàng khác, điểm mở đầu
của mẹ là như thế này: phải, có những lý do để thay đổi. Có nhu cầu
cần phải đổi thay. Hết mọi Kitô hữu và toàn thể cộng đồng tín hữu
được kêu gọi để liên lỉ thay đổi.
Vấn
đề đổi thay này như thế nào về phương diện thực hành? Phải chăng
chúng ta đang nói về một loại canh tân được người chủ nhà thực hiện
trong việc tái sắp xếp hay sơn phết lại căn nhà của họ? Hay chúng ta
đang nói về một thứ sửa sai, được phác họa để đưa chúng ta về nguồn
và giúp cho đường lối của chúng ta linh động hơn và trực tiếp hơn?
Chắc chắn những yếu tố và các yếu tố khác đang góp phần và chúng ta
không thể nào đi sâu vào tất cả các vấn đề này ở đây. Tuy nhiên,
động
lực chính yếu cho vấn để thay đổi đó là sứ vụ tông đồ của thành phần
môn đệ cũng như của chính Giáo Hội.
Nói
cách khác, Giáo Hội cần phải liên lỉ tái dấn thân mình cho việc
truyền giáo của mình. Ba Phúc Âm nhất lãm đề cao các khía cạnh khác
nhau của công việc truyền giáo. Việc
truyền giáo trước hết được bắt nguồn từ cảm nghiệm riêng tư:
‘Các con là những chứng nhân” (Lk 24:28); nó
được
diễn đạt nơi các mối liên hệ:
“Các con hãy tuyển mộ thành phần môn đồ nơi tất cả mọi dân nước” (Mt
28:19); và nó loan truyền
một sứ điệp đại đồng:
“Các con hãy rao giảng phúc âm cho tất cả mọi tạo vật” (Mk 16:15).
Tuy nhiên, vì những
đòi hỏi và hạn chế của thế giới, việc làm chứng này luôn bị lu mờ,
các môn liên hệ bị xa tránh và sứ điệp bị tương đối hóa.
Nếu Giáo Hội, theo lời của Đức Phaolô VI, giờ đây đang nỗ lực “để mô
phỏng theo lý tưởng của Chúa Kitô” thì điều này “chỉ có thể xẩy ra
nơi tác hành và suy nghĩ của Giáo Hội hoàn toàn khác với thế giới
quanh mình, một thế giới Giáo Hội dù sao cũng nỗ lực gây ảnh hưởng”
(Thông Điệp Ecclesiam Suam, 58). Để hoàn thành việc truyền giáo của
mình, Giáo Hội sẽ luôn luôn cần phải tách mình khỏi hoàn cảnh chung
quanh của mình, ở một nghĩa nào đó trở thành “phi thế gian”.
Việc
truyền giáo của Giáo Hội được bắt nguồn từ mầu nhiệm Thiên Chúa ba
ngôi, từ mầu nhiệm yêu thương tạo dựng của Ngài. Và tình yêu
không phải
là một cái gì đó trong Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa, chính Ngài là
tình yêu thao bản tính.
Và tình yêu thần
linh không muốn hiện hữu cho duy bản thân mình, theo bản chất, tình
yêu muốn tuôn trào bản thân mình ra.
Tình yêu đã xuống với nhân loại, với chúng ta, một cách đặc biệt qua
việc nhập thể và tự hiến của Con Thiên Chúa: vì sự kiện ấy Chúa Kitô,
Con Thiên Chúa, như bước ra khỏi cái khuôn khổ của thần tính mình,
mặc lấy xác thịt và trở thành con người, không phải chỉ để củng cố
thế giới tính chất thế tục của nó và là đồng bạn của nó, để cho nó
diễn tiến như nó là, mà là để biến đổi nó. Biến
cố Chúa Kitô bao gồm sự kiện không thể tưởng nổi về những gì các vị
Giáo Phụ của Hội Thánh gọi là một sacrum commercium, một cuộc trao
đổi giữa Thiên Chúa và con người.
Các vị Giáo Phụ giải thích vấn đề ấy như thế này: chúng ta chẳng có
gì để dâng cho Thiên Chúa, chúng ta chỉ có tội lỗi của chúng ta để
đặt trước nhan của Ngài. Và điều này Ngài đã lãnh nhận và biến nó
thành của Ngài, trong khi đó Ngài lại ban cho chúng ta chính mình
Ngài và vinh quang của Ngài: một cuộc trao đổi thực là chênh lệch,
một cuộc trao dổi được hoàn tất nơi đời sống và cuộc khổ nạn của
Chúa Kitô. Người
thực sự trở nên một ‘tội nhân’, Người đã chuốc lấy tội lỗi vào bản
thân mình, nhận lấy những gì của chúng ta và ban cho chúng ta những
gì của Người.
Thế nhưng, như Giáo Hội tiếp tục phản tỉnh và sống đức tin, vấn để
trở nên rõ ràng là chúng ta chỉ có thể dâng lên cho Người tội lỗi
của chúng ta, thế nhưng Người đã tăng cường cho chúng ta, tự sâu xa
bên trong Người ban cho chúng ta khả năng, để cống hiến cho Người
một cái gì đó tích cực nữa, đó là tình yêu của chúng ta – cống hiến
cho Người nhân tính một cách tích cực. Hiển nhiên là chỉ
nhờ lòng quảng đại của Thiên Chúa mà con người, một tên hành khất,
một kẻ lãnh nhận sự phong phú của các ân huệ thần linh, mới có thể
dâng cho Thiên Chúa một cái gì đó; mà Thiên Chúa làm cho chúng ta có
thể tiếp nhận tặng ân Ngài ban, bằng cách làm cho chúng ta có thể
trở thành kẻ cống hiến bản thân mình cho Ngài.
Giáo
Hội nặng nợ tất cả cuộc hiện hữu của mình đối với cuộc trao đổi
chênh lệch này.
Giáo
Hội không có gì của riêng mình để dâng cho Đấng đã thiết lập Giáo
Hội, nhờ đó Giáo Hội có thể nói rằng đó là một cái gì tuyệt vời
chúng ta đã thực hiện! Lý do hiện
hữu của Giáo Hội là ở chỗ làm một dụng cụ cho việc cứu chuộc, để
mình được thấm đẫm lời Chúa và đem thế giới đến với mối hiệp nhất
yêu thương với Thiên Chúa.
Giáo Hội
được dìm sâu vào việc Đấng Cứu Chuộc vươn tới con người.
Khi Giáo Hội thực sự là mình thì Giáo Hội luôn thăng tiến, Giáo Hội
liên lỉ phục vụ việc truyền giáo Giáo Hội đã lãnh nhận từ Chúa. Bởi
thế Giáo Hội bao giờ cũng cần phải hướng tới một cách mới mẻ việc
chăm sóc cho thế giới là nơi Giáo Hội thuộc về, và hiến mình cho họ
để hiện thực và tiếp tục cuộc trao đổi thánh được bắt đầu nơi việc
Nhập Thể.
Tuy
nhiên, trong giòng lịch
sử cụ thể của Giáo Hội, một khuynh hướng liên lỉ nữa cũng được bộc
lộ, tức là Giáo Hội trở nên tự mãn, dừng lại trong thế giới này, trở
thành tự đủ và thích ứng mình với những tiểu chuẩn trần thế.
Không phải
là không thường xẩy ra trường hợp Giáo Hội đặt nặng việc tổ chức và
cơ cấu hóa hơn là ơn gọi của Giáo Hội hướng về Thiên Chúa, ơn gọi
của Giáo Hội hướng thế giới về một Đấng khác.
Để
hoàn tất một cách trọn vẹn công việc đích thực này của mình, Giáo
Hội cần phải liên lỉ canh tân nỗ lực trong việc tách mình khỏi
khuynh hướng có tính chất trần tục và một lần nữa trở nên cởi mở đối
với Thiên Chúa. Thực hiện như thế là Giáo Hội thực hiện lời Chúa
Giêsu nói: ‘Họ không thuộc về thế gian như Con không thuộc về thế
gian” (Jn 17:16), và chính nhờ cách thức này mà Người hiến mình cho
thế gian. Người ta hầu như có thể nói rằng lịch sử trợ giúp Giáo Hội
đây qua những giai đoạn tục hóa khác nhau, những giai đoạn đã góp
phần quan trọng cho việc Giáo Hội thanh tẩy và canh tân nội tâm.
Những hướng chiều tục hóa – một là bằng việc chiếm đoạt những sản
vật của Giáo Hội, hay loại trừ những đặc ân hoặc những gì tương tự –
bao giờ cũng chất chứa một cuộc sâu xa giải phóng Giáo Hội cho khỏi
các hình thức của vấn đề tục hóa,
vì theo tiến
trình thì Giáo Hội thực sự gạt ra bên ngoài cái giầu sang trần thế
và một lần nữa hoàn toàn tha thiết với đức khó nghèo trần thế.
Trong việc này Giáo Hội chia sẻ thân phận của chi tộc Levi, một chi
tộc theo trình thuận Cựu Ước là chi tộc duy nhất trong dân Do Thái
không có cho mình đất đai của cha ông, chấp nhận chính Thiên Chúa,
lời Chúa và các dấu chỉ của Ngài là gia phần của mình. Ở vào những
lúc như thế trong lịch sử, Giáo Hội chia sẻ với chi tộc này những
đòi hỏi của một đức khó nghèo hướng về thế giới, để được tách khỏi
những ràng buộc về vật chất của mình: có thế hoạt động truyền giáo
của Giáo Hội mới lấy lại được uy tín.
Lịch
sử đã cho thấy rằng, khi Giáo Hội trở nên ít trần tục hơn thì chứng
từ truyền giáo của Giáo Hội mới rạng ngời hơn.
Một
khi được giải thoát khỏi những gánh nặng và đặc quyền về vật chất và
chính trị, Giáo Hội mới có thể hiệu năng vươn rộng hơn nữa, và bằng
một đường lối thực sự là Kitô giáo đối với toàn thế giới, Giáo Hội
mới có thể thực sự cởi mở trước thế giới.
Giáo Hội có thể sống thản nhiên hơn ơn gọi của mình đối với thừa tác
vụ tôn thờ thần linh và phục vụ tha nhân. Công việc truyền giáo, một
công việc liên hệ với việc tôn thờ Kitô giáo và cần phải minh định
cấu trúc của nó, trở nên tỏ tường hơn. Giáo Hội hướng mình về thế
giới không phải để chiếm đoạt con người ta cho một cơ cấu tổ chức
bằng quyền năng cho là do mình, mà là để dẫn họ bằng cách đưa họ về
với Đấng mà mỗi một người có thể nói như Thánh Âu Quốc Tinh rằng
Ngài gần gũi con hơn là chính con với bản thân con (cf Tự Thú
III,6,11). Ngài là Đấng vô cùng trổi vượt trên tôi nhưng lại rất sâu
xa trong tôi đến độ Ngài thực sự là nội tâm của tôi. Hình thức hướng
về thế giới này nơi Giáo Hội cũng giúp vào việc cho thấy cá nhân
Kitô hữu có thể hướng về thế giới bằng những cách thức hiệu nghiệm
và thích đáng.
Ở
đây không phải là vấn đề tìm một sách lược mới để tái tấu Giáo Hội.
Trái lại, nó là vấn đề gạt ra một bên những gì thuần phương thức và
tìm kiếm những gì hoàn toàn trong sáng, không đồng hạnh hóa hay coi
thường bất cứ những gì ngoài sự thật nơi trường hợp hiện tại của
chúng ta, nhưng sống đức tin một cách trọn vẹn ngay bây giờ theo ánh
sáng hoàn toàn rực rỡ của ngày sống, hoàn toàn chiếm đoạt nó, và
tước lột nó khỏi bất cứ sự gì chỉ có vẻ thuộc về đức tin mà thật ra
chỉ là những gì thuần hiệp định hay thói quen.
Nói
cách khác,
đối
với dân chúng thuộc mọi thế hệ, chứ không riêng gì chúng ta, đức tin
Kitô giáo là những gì chướng. Đối với dân chúng thuộc mọi thế hệ thì
tin tưởng tất cả những cái sau đây đều là liều lĩnh, tin tưởng rằng
vị Thiên Chúa hằng hữu phải biết chúng ta và chăm sóc cho chúng ta,
rằng cái bất khả giác ở vào một lúc đặc biệt nào đó đã trở thành khả
giác, rằng Đấng bất tử cần phải chịu khổ và chết trên Thập Giá, rằng
chúng ta là thành phần hữu tử được hứa hẹn phục sinh và sự sống đời
đời.
Cái
chướng này, một cái chướng không thể nào bị loại trừ ngoại trừ người
ta tẩy chay chính Kitô giáo, bất hạnh thay đã bị khuất lấp trong
thời gian gần đây bởi những thứ chướng đớn đau khác nơi thành phần
rao giảng đức tin. Một tình trạng nguy hiểm đang xuất hiện khi những
cái chướng này đang chiếm chỗ của cái chướng Thập Giá – skandalon
chính yếu và vì thế những cái chướng ấy đẩy Thánh Giá ra ngoài tầm
tay với, che lấp đi những đòi hỏi thực sự của Phúc Âm Kitô giáo ở
đằng sau cái bất xứng của những ai loan báo Phúc Âm.
Bởi
vậy, đây là lúc càng phải nhận thức được cái hình thức đúng đắn của
việc tách khỏi thế gian, để dứt khoát tách khỏi cái tính chất trần
tục của Giáo Hội. Dĩ nhiên điều này không có nghĩa là rút lui khỏi
thế giới: hoàn toàn ngược lại. Một Giáo Hội trút nhẹ gánh nặng của
tính chất trần tục thì ở trong một vị thế, ít là qua các hoạt động
bác ái của mình, làm trung gian mối giới sức mạnh ban sự sống của
đức tin Kitô giáo cho những ai đang thiếu thốn, những ai đang khổ
đau và những ai chăm sóc họ. “Đối
với Giáo Hội, bác ái không phải là một thứ hoạt động an sinh ai cũng
có thể làm được, mà là thuộc về bản tính của Giáo Hội, một thể hiện
bất khả châm chước của chính việc Giáo Hội hiện hữu”
(Deus
Caritas Est, 25). Đồng thời hoạt động bác ái
của Giáo Hội dù sao cũng cần phải được liên lỉ hướng tới những đòi
hỏi xứng đáng trong việc tách biệt khỏi tính chất trần tục, nếu
không muốn hoạt động bác ái này bị tàn héo đi tận gốc rễ trước tình
trạng tính chất của Giáo Hội càng ngày càng bị hao mòn. Chỉ
có mối liên hệ sâu xa với Thiên Chúa mới làm cho nó có khả năng hoàn
toàn vươn tới kẻ khác, giống như việc thứ thiếu vươn tới tha nhân
làm nghèo nàn đi mối liên hệ với Thiên Chúa vậy.
Bởi
thế, việc hướng về các mối quan tâm của thế giới, đối với Giáo Hội,
nghĩa là việc tách khỏi tính chất trần tục, khi làm chứng cho cái
chính yếu của tình yêu Thiên Chúa theo Phúc Âm bằng lời nói và việc
làm, ngay lúc này đây, một công việc đồng thời cũng hướng ra bên
ngoài thế giới hiện tại, vì đời sống hiện tại này cũng liên kết chặt
chẽ với sự sống đời đời. Với tư cách cá nhân cũng như với tư cách
cộng đồng Giáo Hội, chúng ta hãy sống tính chất đơn thành của tình
yêu cao cả này, một tình yêu vừa là những gì đơn giản nhất mà lại
khó khăn nhất trên trái đất này, vì nó không đòi gì khác hơn là việc
ban tặng bản thân mình.
……….
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2011/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20110925_catholics-freiburg_en.html