Chuyến Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ

  Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp và chuyển dịch

 

Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 6/12/2006 – Cảm Nghiệm Về Chuyến Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ

Vị Giám Đốc Văn Phòng Báo Chí Tòa Thánh cảm nhận về Thành Quả của Chuyến Tông Du Thỗ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Cảm nhận từ đàn chiên nhỏ bé cộng đồng Công Giáo Thổ Nhĩ Kỳ về Chuyến Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ của ĐTC Biển Đức XVI

Những lời ngài tạ từ Thổ Nhĩ Kỳ và một số vị nhận định về chuyến tông du

Bài Giảng của Đức Thánh Cha ở Vương Cung Thánh Đường Thánh Linh Công Giáo

Đáp Từ của Đức Thánh Cha ngỏ cùng Thượng Phụ Mesrob II Mutafina

Viếng Thăm Đền Thờ Xanh của Hồi Giáo ở Istanbul

Bản Tuyên Ngôn Chung  được ký kết giữa Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI và Đức Thượng Phụ Bartholomew I

Diễn Từ sau Thánh Lễ Kính Thánh Anrê ở Vương Cung Thánh Đường Thượng Phụ Thánh George ở Phanar, Istanbul

Bài Giảng Thánh Lễ cử hành trước Đền Thánh Meryem Ana Evi (Nhà Mẹ Maria) gần Ephêsô

Vị Trí Ngôi Nhà của Đức Mẹ ở Êphêsô Thổ Nhĩ Kỳ

Đáp từ Đức Thượng Phụ Bartholomew I

Đức Thượng Phụ Bartholomew I ngỏ lời nghênh đón

Diễn Từ ngỏ cùng Phái Đoàn Ngoại Giao ở Ankara

Diễn Từ ngỏ cùng Vị Giám Đốc Tôn Giáo Vụ Ali Bardakoglu cùng thành phần đại diện cộng đồng Hồi Giáo

Ý hướng của vị Chủ Tịch Ban Giám Đốc Tôn Giáo Vụ Thổ Nhĩ Kỳ ngỏ lời cùng ĐTC Biển Đức XVI

Được nghênh đón tại phi trường và đến viếng thăm Đài Tượng Niệm Mausoleum

Lịch Trình chuyến tông du của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tới Thổ Nhĩ Kỳ

Chuyến tông du Thổ Nhĩ Kỳ: hướng về biến cố, tình hình phản hồi và mục tiêu tông du

Chuyến Tông Du vẫn tiếp tục bị trục trặc ở Thổ Nhĩ Kỳ

Thủ Tướng Thổ Nhĩ Kỳ có thể sẽ vắng mặt dịp tông du

Thổ Nhĩ Kỳ đang chờ đón Đức Thánh Cha

Chuyến Viếng Thăm Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Phải Chăng là Một Cơ Hội Có Một Không Hai?

Chuyến Tông Du liên quan tới Bí Mật Fatima: Một Thổ Nhĩ Kỳ – đỉnh núi tử đạo?

Chuyến Tông Du liên quan tới đại kết: Một Thổ Nhĩ Kỳ… cạm bẫy giăng đầy?

Chuyến Tông Du liên quan tới chính trị: Một Thổ Nhĩ Kỳ với Khối Hiệp Nhất Âu Châu?

 

 

 

Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 6/12/2006 – Cảm Nghiệm Về Chuyến Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Như thói quen sau mỗi chuyến tông du, trong buổi triều kiến chung này, tôi muốn ôn lại những giai đoạn của cuộc hành trình tôi đã thực hiện ở Thổ Nhĩ Kỳ, từ Thứ Ba tới Thứ Sáu tuần vừa rồi. Như anh chị em biết, theo một số quan điểm thì đó là một cuộc viếng thăm không phải là chuyện dễ dàng thực hiện, song lại là một chuyến viếng thăm đã được Thiên Chúa phù trợ từ đầu, nhờ đó, nó đã được diễn tiến một cách tốt đẹp. Bởi vậy, như tôi đã xin cầu nguyện để sửa soạn và hỗ trợ cho chuyến viếng thăm thế nào thì giờ đây tôi cũng xin anh chị em hãy cùng với tôi để tạ ơn Chúa về việc diễn tiến và kết thúc của nó như vậy.

 

Tôi xin ủy thác cho Ngài các thành quả tôi hy vọng gặt hái được từ đó, đó là những hoa trái về mối liên hệ với anh chị em Chính Thống của chúng ta cũng như về việc đối thoại với tín đồ Hồi Giáo.

 

Trước hết, tôi cảm thấy có nhiệm vụ lập lại niềm tri ân thân ái của tôi đối với vị tổng thống của nước cộng hòa này, với vị thủ tướng, cũng như với các vị thẩm quyền khác, những người đã tiếp đón tôi rất lịch thiệp và bảo đảm những điều kiện cần thiết để tất cả đều được diễn tiến một cách tốt đẹp nhất.

 

Trong tình huynh đệ tôi xin cám ơn các vị giám mục Công Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ cũng như cám ơn các người cộng tác viên  của các vị về tất cả những gì đã thực hiện.

 

Tôi xin gửi lời cám ơn đặc biệt tới Đức Thượng Phụ Bartholomew I, vị đã tiếp đón tôi tại nhà của ngài, đến Thượng Phụ Armenia Mesrob II, đến Đức Tổng Giám Mục Chính Thống Syro Mor Filuksinos cũng như đến các vị thẩm quyền khác về tôn giáo.

 

Suốt chuyến đi này, tôi đã đặc biệt cảm thấy được hỗ trợ bởi các vị tiền nhiệm khả kính của tôi là các vị Tôi Tớ Chúa Phaolô VI và Gioan Phaolô II, những vị đã thực hiện cuộc viếng thăm đáng nhớ ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhất là Chân Phước Gioan XXIII, vị là đại diện giáo hoàng ở xứ sở cao quí này từ năm 1935 đến 1944, để lại một ký ức đầy cảm mến.

 

Trở về với nhãn quan được Công Đồng Chung Vaticanô II trình bày về Giáo Hội (x Tông Hiến ‘Lumen Gentium’, các số 14-16), tôi có thể nói rằng các chuyến đi của Giáo Hoàng cũng góp phần thực hiện cái sứ vụ của ngài theo chiều hướng ‘các vòng tròn qui tâm’. Ở vòng tròn sâu xa nhất Vị Thừa Kế Thánh Phêrô thực hiện việc củng cố đức tin cho thành phần tín hữu Công Giáo, ở vòng tròn lưng chừng, ngài gặp gỡ các anh chị em Kitô hữu khác, và nơi vòng tròn ngoài cùng, ngài ngỏ lời cùng những người ngoài Kitô Giáo và toàn thể nhân loại.

 

Ngày thứ nhất trong chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ xẩy ra ở phạm vi của ‘vòng tròn’ thứ ba, vòng tròn rộng lớn nhất. Tôi đã gặp gỡ vị thủ tướng, vị tổng thống nước cộng hòa, và vị chủ tịch tôn giáo vụ, ngỏ lời đầu tiên của tôi cùng vị chủ tịch tôn giáo vụ này. Tôi đã đến kính viếng đài tưởng niệm ‘vị cha ông của quê hương này’ là Mustafa Kemal Ataturk, sau đó tôi đã có dịp nói chuyện với phái đoàn ngoại giao ở Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh ở Ankara.

 

Những chuỗi gặp gỡ c ần thiết này là một phần quan trọng của chuyến viếng thăm, đặc biệt vì Thổ Nhĩ Kỳ là một quốc gia hầu như toàn tòng người Hồi Giáo, một quốc gia được quản trị bởi một bản hiến pháp mang tính cách một quốc gia trần thế. Bởi thế, đó là một xứ sở tạo nên một tiêu biểu cho một thách đố lớn lao trên tầm cấp thế giới ngày nay. Một đàng, nó cần phải tái nhận thức được thực tại về Thiên Chúa, về tầm quan trọng công cộng của niềm tin tôn giáo, đàng khác, nó lại cần phải bảo đảm được quyền tự do bày tỏ niềm tin ấy, không có những thoái hóa mang sắc thái bảo thủ, và có khả năng mạnh mẽ loại trừ đi bất cứ một hình thức bạo động nào. 

 

Bởi thế, tôi đã có dịp thuận lợi để lập lại những cảm thức trân trọng của mình với các tín đồ Hồi Giáo cũng như với nền văn mình Hồi Giáo. Đồng thời tôi cũng có thể nhấn mạnh tới tầm quan trọng cả tín đồ Kitô Giáo lẫn Hồi Giáo cần phải cùng nhau dấn thân cho con người, cho sự sống, cho hòa bình và cho công lý, tái khẳng định rằng việc phân biệt giữa phạm vi dân  sự và tôn giáo là những gì tạo nên giá trị, và quốc gia cần phải bảo đảm quyền tự do thờ phượng một cách hiệu nghiệm cho các cộng đồng tôn giáo.

 

Trong phạm vị của cuộc đối thoại liên tôn, Đấng Quan Phòng Thần Linh đã cho tôi có thể thực hiện, hầu như vào cuối cuộc hành trình của mình, một cử chỉ mà ban đầu không được dự tính mà chính nó lại cho thấy là cực kỳ quan trọng, đó là việc viếng thăm Đền Thờ Xanh ở Istanbul. Khi giữ tĩnh lặng vài phút ở nơi nguyện cầu ấy, tôi đã hướng lòng về Vị Chúa Tể duy nhất của trời đất này, vị Cha nhân hậu của toàn thể nhân loại, để van xin Ngài cho tất cả mọi tín hữu được ơn nhận biết mình như là tạo vật của Ngài và biết chứng tỏ tình huynh đệ chân  thực với nhau!

 

Ngày thứ hai đưa tôi đến Êphêsô, bởi đó, tôi thấy mình mau chóng tiến vào ‘vòng tròn’ trong cùng của chuyến đi, trực tiếp liên hệ với cộng đồng Công Giáo. Thật vậy, ở Êphêsô, ở một nơi đẹp đẽ được gọi là ‘Đồi Nightingale’, nhìn thấy cả Biển Aegean, là Đền Thờ Gia Cư Mẹ Maria. Đó là một nguyện đường cổ kính và nhỏ bé nổi lên bao quanh ngôi nhà bé nhỏ, mà theo truyền thống rất lâu đời, Tông Đồ Gioan đã xây cất cho Trinh Nữ Maria, sau khi cùng Mẹ đến Êphêsô. Chính Chúa Giêsu đã các vị cho nhau, vì trước khi chết trên thập giá, Người đã phán cùng Mẹ Maria rằng: ‘Này Bà, đó là con của bà!’, và cùng Gioan rằng: ‘Mẹ của con đó!’ (Jn 19:26-27).

 

Những cuộc khảo cổ đã chứng tỏ rằng từ thời rất xa xưa nơi này đã từng là một chốn tôn sùng Thánh Mẫu, nơi được yêu chuộng bởi cả các tín đồ Hồi Giáo, thành phần thường xuyên đến đó để tôn kính Mẹ là vị được họ gọi là ‘Meryem Ana’, tức Mẹ Maria. Ở ngôi vườn gần đền thánh mẫu ấy, tôi đã cử hành Thánh Lễ cho một nhóm tín hữu đến từ các vùng lân cận Izmir và các phần đất khác ở Thổ Nhĩ Kỳ, kể cả từ hải ngoại. Chúng tôi cảm thấy thực sự ‘tự nhiên như ở nhà’ nơi ‘Ngôi Nhà Mẹ Maria’, và trong bầu khí an bình ấy, chúng tôi đã nguyện cầu cho hòa bình ở Thánh Địa và khắp thế giới. Ở đó tôi nhớ tới Cha Andrea Santoro, một vị linh mục người Rôma, một nhân chứng của Phúc Âm đổ máu mình ra ở mảnh đất Thổ Nhĩ Kỳ.

 

‘Vòng tròn’ long chúng, vòng tròn của các mối liên hệ đại kết, đã nắm phần chính yếu của chuyến đi của tôi, vào dịp lễ Thánh Anrê, 30/11. Việc cử hành mừng lễ này trở thành như một môi trường lý tưởng để củng cố các mối liên hệ huynh đệ giữa Giám Mục Rôma, vị Thừa Kế Thánh Phêrô và vị thượng phụ toàn cầu ở Constantinople, một Giáo Hội được thành lập, theo truyền thống, bởi Thánh Tông Đồ Anrê là người an hem của Tông Đồ Simon Phêrô. Theo bước chân của Đức Phaolô VI, vị đã gặp gỡ Đức Thượng Phụ Athenagoras, cũng như của Đức Gioan Phaolô II, vị đã được tiếp đón bởi vị thừa kế Đức Athenagoras là Dimitrios I, tôi lập lại cùng với Đức Thượng Phụ Bartholomew I cử chỉ có một giá trị tiêu biểu lớn lao ấy, để xác quyết việc cùng nhau dấn thân tiếp tục con đường tiến đến việc tái thiết mối hiệp thông trọn vẹn giữa tín đồ Công Giáo và Chính Thống Giáo.

 

Để tỏ ra chấp nhận ý hướng mạnh mẽ này, tôi đã cùng với vị thượng phụ toàn cầu n ày ký một ‘Bản Tuyên Ngôn Chung’, tiến tới một giai đoạn xa hơn nữa trên con đường này.   

 

Hành động hết sức ý nghĩa này đã xẩy ra vào lúc kết thúc phụng vụ trọng kính lễ Thánh Anrê mà tôi đã tham dự và đã kết thúc bằng một phép lành song phương được ban bởi cả Vị Giám Mục Rôma lẫn thượng phụ Constantinople, những vị thừa kế riêng biệt của hai vị Tông Đồ Phêrô và Anrê. Như thế chúng tôi đã bày tỏ rằng việc nguyện cầu bao giờ cũng là nền  tảng cho hết mọi nỗ lực đại kết và là một lời cầu liên  lỉ cùng Thánh Linh.  

 

Trong cùng một lãnh vực của vòng tròn đại kết này, tôi đã hoan hỉ viếng thăm vị thượng phụ của Giáo Hội Tông Truyền Armenia là Đức Mesrob II, và vui mừng gặp gỡ vị tổng giám mục Chính Thống Syro. Trong bối cảnh ấy, tôi luyến nhớ tới cuộc đàm thoại tôi có với vị Đại Tôn của Thổ Nhĩ Kỳ.

 

Chuyến viếng thăm của tôi được kết thúc, ngay trước khi trở về Rôma, bằng việc trở  về với ‘vòng tròn’ trong cùng, đó là cuộc gặp gỡ cộng đồng Công Giáo hiện  diện với tất cả những phần tử của họ tại Vương Cung Thánh Đường Latinh  Thánh Linh ở Istanbul. Tham dự Thánh Lễ này còn có cả vị thượng phụ toàn cầu, vị thượng phụ Armenia, vị tổng giám mục  Chính Thống Syro và các đại diện chư giáo hội Tin Lành. Tóm lại, tất cả mọi Kitô hữu qui tụ lại để nguyện cầu, với tính cách đã dạng của truyền thống mình, lễ ngi và ngôn ngữ của mình. Được an ủi trước Lời của Chúa Kitô, Đấng đã hứa hẹn tin tưởng vào ‘những giòng sông chảy nước sự sống’ (Jn 7:38), và với hình ảnh của nhiều phần tử hiệp nhất thành một thân thể duy nhất (x 1Cor 12:12-13), chún g tôi đã sống lại cảm nghiệm Hiện Xuống.

 

Anh Chị Em thân mến: tôi đã trở về Vatican với một tin h thần đầy lòng biết ơn Thiên Chúa và với những tâm tình cảm mến chân thành và quí mến đối với thành phần dân cư của quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ thân yêu, những người đã làm tôi cảm thấy được đón nhận và cảm thông. Lòng cảm mến và thân ái này vây bọc lấy tôi, cho dù những khó khăn bất khả tránh do chuyến viếng thăm của tôi đã gây ra cho việc diễn tiến bình thường nơi các sinh hoạt thường nhật của tôi, vẫn ở với tôi như một nhung nhớ mạnh mẽ dẫn tôi tới việc nguyện cầu. Xin Thiên Chúa Toàn Năng và Xót Thương giúp cho nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ, cho các vị lãnh đạo chính trị của họ và cho các vị đại diện chư tôn giáo biết cùng nhau xây dựng một tương lai hòa bình, nhờ đó Thổ Nhĩ Kỳ có thể trở thành một ‘chiếc cầu nối’ thân hữu và hợp tác huynh đệ giữa Tây phương và Đông phương.

 

Ngoài ra, chúng ta hãy nguyện cầu để nhờ việc chuyển  cầu của Mẹ Maria Rất Thánh, Thánh Linh sẽ làm cho chuyến tông du này sinh hoa kết trái, và làm khởi sắc khắp thế giới việc truyền giáo của Giáo Hội, một Giáo Hội được Chúa Kitô thiết lập để loan báo cho tất cả mọi dân nước Phúc Âm sự thật, an bình và yêu thương.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/12/2006 

 

 

TOP

 

 

Vị Giám Đốc Văn Phòng Báo Chí Tòa Thánh cảm nhận về Thành Quả của Chuyến Tông Du Thỗ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

 

Vị linh mục dòng tên Federico Lombardi, giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh, hôm Thứ Sáu, 1/12/2006, đã chia sẻ trên Đài Phát Thanh Vatican về cảm tưởng của mình đối với chuyến tông du Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI. Sau đây là những lời phát biểu của vị giám đốc này, vị cho rằng chuyến tông du đã mang lại thành quả tốt đẹp ngoài dự tưởng của nhiều người.

 

Vấn:    Cha có thẩm định một cách toàn cầu ra sao về chuyến tông du này?

 

Đáp:   Hiển nhiên là nó có một giá trị hết sức là tích cực – một giá trị chắc chắn là cao hơn nhiều mong đợi, có thể về phần bản thân của Đức Thánh Cha cũng như của thành phần  cộng tác viên  của ngài.

 

Tôi nhớ lại là trong cả quá khứ nữa cũng có những chuyến đi đặc biệt đầy gai góc, mà chúng ta nói được rằng ‘khó khăn’ {…]. Đối với Đức Gioan Phaolô II thì người ta đã chứng kiến được lòng can đảm của ngài, vị quyết liệt và tin tưởng đươn g đầu với chúng, bao giờ cũng gặt hái được những thàn h quả phi thường vượt trên những gì có thể nghĩ tưởng.

 

Tôi cũng nghĩ điều tương tự như thế đã xẩy ra cho Đức Biển Đức XVI. Điều này là những gì tuyệt đẹp và phấn khởi, vì nó đức tin và lòng can đảm của các vị Giáo Hoàng cũng được tưởng thưởng khi phải đương đầu với những tình hình bất định. Bởi thế mới có một giá trị cực kỳ tích cực trong tất cả mọi khía cạnh, cả nơi mối liên hệ với nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ và quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ, cũng như với đạo của tín đồà Hồi Giáo, nơi các mối liên hệ về đại kết với các niềm tin Kitô Giáo khác, và cuối cùng là lòng phấn khởi mang lại cho cộng đồng Công Giáo địa phương.

 

Vấn:    Chúng ta hãy cố gắng suy nghĩ về chuyến đi này bằng cách trình bày nó bằng các hìn h ảnh. Chắc chắn là trong số những hình ảnh ấy là việc Đức Giáo Hoàng tĩnh lặng suy nguyện ở Đền Thờ Xanh, một cử chỉ đã tạo nên được ấn tượng lớn lao.

 

Đáp:   Đúng thế. Thật sự là đó là giây phút kéo chú ý nhất, và ở một nghĩa nào đó, nó cũng là một  cử chỉ có lẽ mới mẻ nhất và không ngờ nhất so với mấy tuần  lễ trước.

 

Đối với tôi, khi nghĩ về những gì xẩy ra mấy tháng trước – những bàn luận hay những phản ứng theo sau những hiểu lầm về bài diễn văn ở Đại Học Đường Regensburg – thì việc đến viếng ngôi đền này cùng với giây phút tĩnh nguyện sau đó đã tạo nên một cử chỉ tiêu biểu mà, ở một nghĩa nào đó, đã chiếm được và đã tới được với công chúng và lương tâm quần chúng, hơn là những việc làm sáng tỏ bằng lời nói và bằng những câu phát biểu khác nhau được Đức Giáo Hoàng cùng những vị cộng tác viên của ngài bày tỏ trong những tháng trước đó không thể nào làm nổi.

 

Thế nhưng, cái vẫn còn thiếu chính là ở chỗ tác động đó, bước tiến bề ngoài đó, giây phút gặp gỡ thân thiện bằng một nụ cười đó, bằng một con tim cởi mở đó, là những gì chứng tỏ và làm cho nó được hiểu rằng các khoảng cách đã được thắng vượt và việc đối thoại là một điều gì đó có thật, sâu xa và chân tình.

 

Tôi muốn nói rằng, ngoài giây phút tĩnh nguyện ấy, còn có sự thân tình đối thoại với vị Đại Giáo Trưởng cũng như với vị giáo trưởng, hai người đã đón tiếp Đức  Giáo Hoàng ở đền thờ này, là một giây phút đặc biệt là ý nghĩa và tốt đẹp. 


Vấn:    Chúng ta hãy suy nghĩ về một hình ảnh đậm nét nữa về chuyến tông du này, đó là hình ảnh Đức Biển Đức XVI ôm lấy Đức Bartholomew I, một dấu chỉ của mối thân tình mà chúng ta có thể nói của một lòng cảm mến dường như làm phấn khởi con đường đại kết.

 

Đáp:   Đó là một con đường đang tiếp tục diễn tiến, một con đường được Đức  Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã phác họa ngay từ ban đầu, ngay từ ngày đầu tiên khi ngài được tuyển bầu, trong số những ưu tiên của giáo triều ngài.

 

Tôi muốn nói rằng, ngoài cử chỉ ấy, cũng có cả một tầm mức rất quan trọng nữa ở nơi những lời Đức Giáo Hoàng nói lên trong bài diễn từ của ngài trong giờ Thần Vụ, khi ngài lập lại lời mời gọi can trường, sâu xa và thân ái của Đức Gioan Phaolô II trong việc cùng nhau nói chuyện, cùng nhau tìm kiếm những đường lối để xác định thừa tác vụ hoàn vũ thừa kế Thánh Phêrô trong vấn đề phục vụ cho mối hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội, và lời mời gọi này cũng điều hiển nhiên mong ước được hiệp nhất mà ngài đã tiếp tục nhấn mạnh đến trong bài giảng trong Thánh Lễ cuối cùng tại Vương Cung Thánh Đường Công Giáo ở Istanbul.

 

Lòng thiết tha mong ước được hiệp nhất này cho thấy cái ưu tiên của giáo triều đây là những gì thực sự rất hiện hữu, và việc ôm hôn Đức Thượng Phụ Bartholomew I cũng như những cái hôn bình an với các vị đại diện Chính Thống khác và những vị đại diện thuộc các niềm tin Kitô Giáo khác diễn ra trong Thánh Lễ kết thúc chuyến đi là những gì đầy ý nghĩa cảm kích.

 

Cũng còn một lúc khác, về phần vị thượng phụ toàn cầu, khi đụng chạm tới những vấn đề đặc biệt được Giáo Hội Chính Thống kêu gọi tình đoàn kết, ngài đã lên tiếng kêu gọi việc thân tình của Giáo Hội Công Giáo trong những tình hình khó khăn của họ.

 

Bởi thế, đây là một thứ đại kết cần phải được tiếp tục, cả theo quan điểm về tín lý, thần học và giáo hội học được nghiên cứu sâu xa, cũng như theo quan điểm của đức ái cụ thể, của sự gần gũi và đoàn kết cho sứ vụ truyền bá phúc âm hóa cùng chứng từ của Kitô Giáo trong thế giới ngày nay, một chứng từ rất ư là cần thiết cho thế giới  này.



Vấn:    Ở Êphêsô cũng như ở Vương Cung Thánh Đường Thánh Linh thuộc thành phố Istanbul, một cuộc gặp gỡ đầy thắm thiết có những lúc xúc động với cộng đồng Công Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ, và vào một số lần trong chuyến tông du, Đức Giáo Hoàng đã yêu cầu bảo đảm quyền tự do tôn giáo. Giờ đây người ta còn mong mỏi gì nữa vậy?

 

Đáp:   Điều yêu cầu khẳng định quyền tự do tôn giáo, chính nó đã có trong bản Hiến Pháp Thổ Nhĩ Kỳ, chắc chắn là những gì đã được biểu lộ, thế nhưng, trên thực tế, ở một nghĩa nào đó, có những lúc là những gì hết sức muốn thấy, gây ra những khó khăn.

 

Bởi thế, việc xác định về nguyên tắc thì rất rõ ràng, chẳng những nơi các bài diễn từ mà cả nơi các cuộc đàm đạo với các thẩm quyền khác nhau được cả Đức Giáo Hoàng lẫn thành phần cộng tác viên của ngài nêu lên.

 

Đặc biệt là trong cuộc gặp gỡ vị phó thủ tướng cũng đã nêu lên một dự tính đặc biệt trong việc thiết lập một ủy ban ở tầm cấp chính quyền và thành phần đại diện Giáo Hội để giải quyết những vấn  đề cụ thể ấy.

 

Theo chiều hướng ấy thì đó thực sự là một niềm phấn khởi cho cộng đồng Công Giáo, cho đức tin và lòng nhiệt thành của họ, thế nhưng đó cũng là một thứ toát yếu cần phải tiếp tục thực hiện những việc làm cụ thể, nhờ đó những điều toát lược ấy được chuyến viếng thăm này đề ra có thể phát triển và mang lại hoa trái.

 

Một trong những điều in đậm nét trong tôi, đặc biệt trong Thánh Lễ kết thúc, đó là vấn đề hiệp nhất và cộng đồng nơi các lễ nghi khác nhau. Có 4 lễ nghi khác nhau nơi các cộng đồng Kitô hữu Công Giáo đang sống ở Istanbul, và những lễ nghi ấy đã bày tỏ tính chất khác nhau và phong phú của mình trong phụng vụ ban sáng.

 

Bởi vậy, cũng đã có cả một lời mời gọi tiến tới chỗ hiệp nhất, tới mối hiệp thông của những gì là phong phú, của các truyền thống và của những biểu hiện về văn hóa trong Giáo Hội Công Giáo. Một lời mời gọi thần tình mà Giáo Hội Công Giáo đã xuất phát từ buổi gặp gỡ nguyện cầu này cũng đã được Đức Giáo Hoàng minh nhiên đề cập tới hơn một lần vào ngày hôm qua.


Vấn:    Như được biết là có nhiều điều mong đợi nơi chuyến tông du này, cộng với một số điều quan tâm. Vậy có thể nói mà không sợ thái quá hay chăng, Đức Giáo Hoàng đã chiếm được lòng mọi người, có thể là vượt trên những dự tưởng nữa?

 

Đáp:   Có thể nói như thế, và đối với tôi thì đó là một thành quả hết sức tích cực.

 

Chuyến đi này đã sinh hoa kết trái về tất cả mọi khía cạnh, và điều này đã được chứng tỏ là không có một khía cạnh nào đã xẩy ra ngược lại, trệch đi hay đối địch với nhau, trái lại sự bình an là những gì có thể thiết lập, và những sứ điệp tích cực có thể được gửi đi để mời gọi tất cả những ai thành tâm thiện chí hãy hợp tác để xây dựng một cuộc chung sống tốt đẹp hơn.

 

Thật vậy, tôi không muốn quên đi những lời kêu gọi mạnh mẽ cho hòa bình ở Trung Đông là nơi rất gần ở đó-  Thổ Nhĩ Kỳ, ở một nghĩa nào đó, là một quốc gia thuộc vùng địa dư này – những lời kêu gọi hòa bình được Đức Giáo Hoàng lên tiếng một số lần, khuyến khích việc dấn thân của cộng đồng quốc tế, nhất là của quốc gia cao cả này, cho nền hòa bình nơi vùng đất hết sức khẩn trương ấy.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/12/2006 

 

TOP

 

 

Cm nhn t đàn chiên nh bé cng đồng Công Giáo Th Nhĩ K v Chuyến Tông Du Th Nhĩ K ca ĐTC Bin Đức XVI

 

Trong cuộc phỏng vấn với mạng điện toán toàn cầu Zenit, linh mục Ruben Tierrablanca, dòng Phanxicô thuộc Tỉnh Dòng Thánh Phêrô và Phaolô ở Michoacan, Mễ Tây Cơ, hiện đang hình thành cộng đồng quốc tế dòng Phanxicô là Santa Maria Draperis ở Thổ Nhĩ Kỳ, đã chia sẻ cảm nhận của mình như là một phần tử thuộc cộng đồng Công Giáo Thổ Nhĩ Kỳ về ảnh hưởng của chuyến tông du nơi riêng cộng đồng Công Giáo ở đây.

 

Vn:    Người  Công Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ đã sửa soạn cho chuyến viếng thăm này và Đức Biển Đức XVI đã được tiếp đón ra sao?

 

Đáp:   Chúng tôi đã sống một thời điểm rất đặc biệt ở Istanbul vào áp chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI. Ngoài việc hoan hỉ đợi chờ của đoàn chiên nhỏ bé của Giáo Hội Công Giáo nơi xứ sở đa số Hồi Giáo này, chúng tôi rất ý thức rằng con mắt của thế giới đang đổ dồn về Thổ Nhĩ Kỳ vì những lý do chính trị, cũng như những lý do liên quan tới lãnh vực liên tôi.

 

Cả mấy tuần lễ, các cú điện thoại liên tục cùng các cuộc viếng thăm của thành phần  phóng viên báo chí, của các đài truyền hình, của các tường trình viên  và phân tích viên của xã hội hiện nay, làm cho chúng tôi bận bịu cả lên. Họ chất vấn chúng tôi rằng: Kitô hữu sống ở Thổ Nhĩ Kỳ ra sao? Quí vị cảm thấy thế nào về chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng? Tại sao con số Kitô hữu đã bị giảm bớt rất nhiều ở thế kỷ vừa qua, thậm chí còn suy giảm hơn thế nữa trong những năm vừa rồi? Tại sao tập tục đạo giáo không được thể hiện nơi đường phố? Quí vị có sợ những phản ứng bạo động của thành phần bảo thủ và thành phần dân tộc chủ nghĩa hay chăng?

 

Chúng tôi đã cố gắng trả lời tất cả những vấn nạn ấy một cách rõ ràng và đơn thành. Tốt hơn nếu thành phần ký giả và các bạn hữu khác đến sống ở đây ít là một thời gian ngắn để hiểu nhiều hơn và rõ hơn, hầu có thể tránh được một số những nhan đề trên nhật báo gây nhạo báng, tác hại cho hết mọi người. 


Vn:    Tình hình hiện nay của người Công Giáo ở xứ sở này ra sao?

 

Đáp:   Tình hình hiện nay và những giới hạn về phương diện chính trị xã hội và tôn giáo chúng tôi đang sống ở đây, cùng những khó khăn chúng tôi vẫn có từ trước tới nay, cũng không khác lắm với những khó khăn của thời các tông đồ. Sách Tông Vụ đã diễn tả Giáo Hội sơ sinh trong đế quốc Rôma và giữa thế giới đa thần.

 

Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay có một chính quyền theo chủ nghĩa trần thế cộng hòa và một dân số tín đồ Hồi Giáo, nhưng vấn đề ngờ vực đối với sứ điệp phúc âm cũng như với đời sống Kitô Giáo là những gì rất giống nhau: ở chỗ cho rằng có một ước mong muốn làm suy yếu đi căn tính của một quốc gia và tính cách thống nhất của một tôn giáo.

 

Thực tế thì đời sống Kitô Giáo, nếu đích thực và khả tín, sẽ dẫn tất cả mọi người tới kiến thức nhân bản hơn nữa về sự sống và cuộc chung sống an bình. Đối với Kitô hữu chúng ta thì vấn đề là việc dấn thân cho vương quốc của Chúa Kitô, còn đối với thành phần không phải Kitô hữu thì vấn đề là ở chỗ họ sống các giá trị và nguyên tắc thuộc niềm tin tưởng của họ cùng với truyền thống hiếu khách đáng ca ngợi và lưu tồn của một dân tộc Đông phương.


Vn:    Chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ này, một xứ sở có một thiểu số Công Giáo, mang một ý nghĩa gì đối với thời điểm hiện nay đang có những căng thăng về liên hệ giữa Kitô Giáo và Hồi Giáo?

 

Đáp:   ‘Ta sẽ tìm kiếm con chiên bị thất tung, Ta sẽ mang về con chiên lạc đàn, Ta sẽ băng bó con chiên bị què quặt, và Ta sẽ tăng sức cho con chiên bị yếu kém’ (Ez 34:16). Tôi đã chớt nhớ đến câu này của tiên tri Êzêkiên khi nghĩ tới chuyến tông du mục vụ của Đức Thánh Cha tới Giáo Hội ở Thổ Nhĩ Kỳ.

 

Cộng đồng Công Giáo của chúng tôi thì nhỏ bé về con số, cần được phấn khích, và nhiều khi cảm thấy kiệt sức. Thế nhưng, giờ đây, qua mấy ngày này, nó đã được gặp gỡ vị chủ chiên của mình, Vị Đại Diện cho Mục Tử Nhân Lành Giêsu Kitô. Các ký gỉa đi hộ tống Đức Giáo Hoàng trên máy bay đã nhấn mạnh tới chiều kích mục vụ như là lý do chính yếu của chuyến viếng thăm này; ở Thổ Nhĩ Kỳ đây, chúng tôi muốn được dẫn dắt bởi vị mục tử cũng là cha của mình, và nhờ ngài tái sinh động đức tin của mình và hân hoan trong một niềm hy vọng không lừa dối.

 

Nhiều xứ sở khác và miền khác trên thế giới muốn được Đức Giáo Hoàng đến thăm, mà ngài lại ở giữa chúng tôi, để băng bó cho con chiên bị thương tích và chăm sóc cho con bị bệnh nạn, để củng cố đức tin của chúng tôi ở giải trái đất này, một vùng biên giới của hai châu lục.


Vn:    Cha là người rất gần gũi với biến cố này: Xin cho chúng tôi biết về các cuộc gặp gỡ dân chúng Kitô hữu ở Thổ Nhĩ Kỳ.

 

Đáp:   ‘Đây là lúc các con làm chứng’ (Lk 21:13). Giành buổi chiều đầu tiên cho việc viếng thăm các vấn đề về lễ nghi, Đức Thánh Cha đã nói hai bài diễn từ, bài đầu tại tổng hành dinh của vị chủ tịch tôn giáo vụ là Ali Bardagoglu, và bài thứ hai trước phái đoàn ngoại giao làm việc ở thủ đô Ankara.

 

Chúng tôi đã nghe nghe được những lời bày tỏ phấn khởi về việc quyết liệt và thẳng thắn sẵn sàng của Giáo Hội Công Giáo đối với ‘việc đối thoại như là một phương tiện gặp gỡ giữa các nền văn hóa và tôn giáo”.

 

Ngoài ra, trích lại Hiến Chế ‘Vui Mừng và Hy Vọng’ của Công Đồng Chung Vaticanô II, ngài nói rằng hòa bình không phải chỉ là tình trạng vắng bóng chiến tranh, mà là ‘hoa trái của một trật tự được vị sáng lập thần linh gieo trồng nơi xã hội loài người, và con người luôn khao khát một sự công chính trọn hảo hơn’ (số 78).

 

Điều này làm cho bản thân tôi nhớ tới nhiều lần lên tiếng từ vị tiến nhiệm nhiều nhung nhớ của ngài là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong việc cổ võ một nền  hòa bình chân thực và lâu bền trên thế giới này.

 

Thực sự là lời Phúc Âm bao giờ cũng chiếu sáng đường lối của chúng ta và tác động công cuộc truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội. Đó là lý do tôi đã lấy câu Phúc Âm của ngày hôm nay để suy nghĩ sâu xa hơn về những bài diễn văn này, những bài diễn từ không được cho vào công hàm khóa lại.

 

Tất cả chúng ta đều biết rằng chuyến đi này có những cơ nguy của nó, có lẽ cái nguy cơ nhất là ở nơi việc giải thích đúng đắn những lời lẽ của ngài hơn là vấn đề cảnh sát. ‘Thế nhưng, không một sợi tóc nào trên đầu các con sẽ bị rơi xuống’, Chúa và Thày của chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã nói với chúng ta hôm nay đây.

 

Và giờ đây, Đức Giáo Hoàng đã trở về Vatican, đời sống của chúng ta cần phải tiếp tục theo gương và giáo huấn của ngài, vì ‘nhờ kiên trì mà các con sẽ cứu được linh hồn mình’, một lần nữa Chúa Giêsu Kitô của chúng ta bảo đảm cho chúng ta như thế.


Vn:    Theo cha thì khía cạnh quan trọng nhất trong chuyến tông du này là gì?

 

Đáp:   Chúng ta biết rằng động lực chính yếu và sâu xa của chuyến ĐTC viếng thăm này là ước muốn chung giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống trong việc tiến triển trên con đường đại kết, hướng về mối hiệp nhất Kitô hữu, một quyết tâm theo phúc âm của hết mọi Kitô hữu.

 

Chúng ta đã sống với niềm hy vọng dồi dào là bản tuên ngôn chung, được ký hôm 30/11, sẽ là một điểm mạnh để giải tỏa và thắng vượt một số những thành kiến và tái cử hành lại những mầu nhiệm của những gì chúng ta cùng tin tưởng Ba Ngôi nơi Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa đang hiện diện trong Thánh Thể và hoạt động trong Giáo Hội duy nhất của Người.

 

Đức Giáo Hoàng cũng chủ sự hai Thánh Lễ, một vào ngày 29/11 ở Êphêsô, nơi đền thờ ‘Gia Cư Mẹ Maria’, và một vào hôm 1/12 ở Vương Cung Thánh Đường Thánh Linh với cộng đồng Công Giáo – trong Thánh Lễ thứ hai gần một nửa là khách, vì cộng đồng Công Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ không quá nhiều nhặn gì như được thấy trên truyền hình trong những cuộc cử hành này, một Thánh Lễ đặc mầu sắc đại kết. 


Vn:    Là một tu sĩ dòng Phanxicô, người hoạt động trong lãnh vực đối thoại liên tôn, cha rút tỉa được những gì từ chuyến viếng thăm ấy?

 

Đáp:   Đối với chúng tôi, những người anh em hèn mọn thuộc cộng đồng huynh đệ quốc tế Santa Maria Draperis, thì nó là một cơ hội lịch sử có một không hai: Ba năm sau khi khai trương cộng đồng huynh đệ này, một cộng đồng được giành để thực hiện việc đối thoại đại kết và liên tôn, mà có được một chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha muốn tìm kiếm mối hiệp nhất Kitô Giáo thì thực sự là một phúc lành vậy.

 

Giờ đây tôi nhớ lại những gì Đức Thượng Phụ Bartholomew I đã nói với chúng tôi khi ngài tiếp chúng tôi ở tòa thượng phụ Chính Thống hôm 30/12/2003, lúc mà người anh em của chúng tôi là Gwenole xin ngài chúc lành cho dự án của chúng tôi và ban cho chúng tôi mấy lời khuyên dạy cho hoạt động của chúng tôi, thì ngài đáp lại rằng: ‘Hãy thương mến nhân dân này’, hiển nhiên là ngài ám chỉ tới nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ.

 

Về phần mình, Đức Biển Đức XVI đã cống hiến cho Giáo Hội hoàn vũ bức thông điệp ‘Thiên Chúa là Tình Yêu’ của ngài. Chúng ta không còn yêu cầu gì hơn nữa; chúng ta đã nhận được những ấn định cần thiết và bảo đảm để thực hiện đường lối đối thoại của chúng ta.  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 8/12/2006

 

TOP 

 

 

1/12 – Những lời ngài tạ từ Thổ Nhĩ Kỳ và một số vị nhận định về chuyến tông du

 

Sau đây là những lời lẽ tạ từ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tại phi trường với vị đại diện chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ, thống đốc hạt Istanbul là Muammer Guler, tiễn đưa ngài trở về lại Rôma:

 

“Tôi để lại một phần của lòng tôi ở Istanbul, ở thành phố tráng lệ này.

 

“Tôi tin rằng, đối với Vị Mục Tử Tối Cao của Giáo Hội Công Giáo, việc đối thoại là một nhiệm vụ. Tôi xin cám ơn Chúa đã làm hiệu cho việc đối thoại này cũng như cho việc hiểu biết hơn giữa các  tôn giáo và nền văn hóa, nhất là với Hồi Giáo.

 

“Thổ Nhĩ Kỳ là một chiếc cầu nối giữa Á Châu và Âu Châu.

 

“Tôi muốn cám ơn mỗi một vị và hết mọi vị thẩm quyền đã tiếp đón tôi một cách tốt đẹp nhất có thể. Tôi để lại một phần tâm can của tôi lại Istanbul. Tôi hy vọng cái năng lực liên kết của thành phố này sẽ mãi mãi tiếp tục.

 

ĐTC cho biết rằng mặc dù ngài “không thể thấy hết mọi sự  nơi những thứ vàng bạc là Đền Thờ Xanh và Bảo Tàng Viện Thánh Sofia, chúng cũng mãi mãi được khắc ghi vào lòng tôi. Tôi hết lòng cám ơn Istanbul.

 

“Nó là một cuộc viếng thăm bình thản, cũng nhờ ở việc hợp tác của dân chúng và tôi hy vọng nó sẽ mãi là một dấu hiệu của tình thân hữu giữa các dân tộc và các tôn giáo.

 

“Istanbul là một thành phố Âu Châu thực sự, một chiếc cầu nối giữa Tây phương và Á Châu, trong việc mang lại gần nhau những thứ cấu trúc và những thứ tổ chức”.

 

Được biết rằng vào năm 2010, thành phố này sẽ là thủ đô về văn hóa của Âu Châu, ngài nói: ‘Nó thực sự là xứng đáng”, và giải thích bằng một nụ cười rằng: “thành phố bản xứ của ngài đã xin được công nhận như thế nhưng không được ban tặng.

 

Vị đại diện chính quyền tiễn đưa ngài đã cám ơn ngài với tư cách cá nhân về “những lời phát biểu của ngài liên quan tới Hồi Giáo làm cho chúng tôi cảm thấy vui mừng sung sướng”, loại trừ đi “quá nhiều những giải thích xấu xa tệ hại”.

 

Ông đã mời ngài trở lại Istanbul, ĐTC trả lời: “Tôi già rồi, tôi không biết Chúa còn ban cho tôi sống bao lâu nữa. Chúng ta hãy đặt hết mọi sự trong tay của Ngài”.

 

Dức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tarcisio Bertone, đã công khai tỏ ra hài lòng mãn nguyện về việc tiếp đón Đức Thánh Cha ở Thổ Nhĩ Kỳ bằng lời phát biểu qua điện  thoại với tờ nhật báo Avvenire rằng:

 

“Tôi nghĩ chuyến đi này xẩy ra tốt đẹp và đã mang lại những thành quả tích cực, cả ở lãnh vực hoàn toàn chính trị lẫn lãnh vực dư luận quần chúng ở Thổ Nhĩ Kỳ.

 

“Có những đài truyền hình đã trình chiều nhiều về những bài nói và sứ điệp của Đức Giáo Hoàng. Ngoài ra, có những đài khác nhau đã truyền hình sống những cuộc gặp gỡ của vị Giáo Chủ này.

 

“Nhiều người đứng dọc đường phố, bao gồm cả giới trẻ và học sinh, đã chào mừng và vỗ tay mừng Đức Giáo Hoàng. Một số trẻ em đã vẫy cờ Thổ Nhĩ Kỳ và Tòa Thánh Vatican”.

 

Trong cuộc phỏng vấn với tờ nhật báo Ý quốc là Avvenire, Đức Thượng Phụ Chính Thống Toàn Cầu Bartholomew I đã cho biết là chuyến viếng thăm của ĐTC có một “giá trị khôn lường trong tiến trình hòa giải”, và vị giáo chủ Chính Thống Giáo này còn cho biết rằng ngài đã đề nghị một điều không ngờ về đại kết với Đức Thánh Cha.

 

Vấn:    Ngài có thể cho chúng tôi biết gì về cuộc hành trình này?

 

Đáp:   Trước hết, tôi phải nói rằng tôi thực sự cám ơn Đức Thánh Cha về chuyến viếng thăm của ngài vào ngày lễ Thánh Anrê. Nó thực sự là một bước tiến rất quan trọng trong mối liên hệ của chúng ta, và đã được thực hiện trong bối cảnh của một cuộc hành trình nói chung góp phần vào vấn đề đối thoại liên tôn theo tôi nghĩ thật là quan trọng.

 

Vấn:    Ngài và Đức Giáo Hoàng đã gặp nhau trực diện một vài lần khuất bóng máy chụp và ký giả. Hai ngài đã nói gì với nhau?

 

Đáp:   Đức Thánh Cha đã tỏ ra nhân ái đối với vai trò thượng phụ và những vấn đề của vai trò này; chúng tôi thực sự biết ơn ngài vì lý do ấy.

 

Nó đã là một cơ hội để biết nhau hơn, kể cả các vị hồng y trong đoàn tùy tùng của ngài, những vị tôi nghĩ rằng chúng tôi đã có được mối thân tình tốt đẹp, và điều này đối với tôi cũng rất quan trọng nữa.

 

Tôi có thể thực sự nói rằng ngày Thứ Năm đây chúng tôi đã sống như là một ngày lịch sử dưới nhiều khía cạnh. Lịch sử vì cuộc đối thoại đại kết và, như chúng ta đã thấy vào buổi chiều, lịch sử vì mối liên hệ giữa các nền văn hóa và tôn giáo. Dĩ nhiên vì tất cả những lý do ấy nó cũng lịch sử đối với xứ sở của chúng tôi nữa.

 

Vấn:    Những bài diễn từ và bản tuyên ngôn chung ngài đã ký là những gì ‘cao quí’ và dung hợp. Ngài cũng nói về tương lai hay chăng?

 

Đáp:   Về khía cạnh này tôi có thể nói rằng tôi đã nói với Đức Thánh Cha về một điều – một điều chúng tôi có thể thực hiện. Tôi đã trình bày với ngài một dự án mà hiện nay tôi không thể nào nói rõ hơn, vì chúng tôi đang đợi ngài chính thức đáp ứng, thế nhưng tôi có thể nói rằng  Đức Thánh Cha rất hào hứng và ngài tiếp nhận nó một cách nhiệt tình.

 

Chúng tôi hy vọng nó có thể được thực hiện vì nó hướng đến việc tiến bộ đại kết, một sự tiến bộ, như chúng tôi đã khẳng định và viết trong bản tuyên ngôn chung, cả hai chúng tôi đều quyết tâm theo đuổi.


Vấn:    Tại sao ngài tỏ ra quả quyết như thế?

 

Đáp:   Hiệp nhất là một trách nhiệm cao quí, thế nhưng đồng thời lại là một trách nhiệm khó khăn cần phải được lãnh nhận nếu nó không được chia sẻ giữa anh em với nhau. Lịch sử của ngàn năm qua là một thứ ‘ký ức’ đau thương về thực tại này.

 

Chúng tôi mạnh mẽ tin tưởng rằng chuyến viếng thăm của Giáo Hoàng Biển Đức XVI  có một giá trị khôn lường cho tiến trình hòa giải ấy, vì ngoài ra nó đã diễn ra ở một thời điểm khó khăn và trong những hoàn cảnh rất tế nhị như thế.

 

Chắc chắn, với ơn Chúa giúp, chúng tôi được có cơ hội để thực hiện những bước tiến thiện ích trong tiến trình hòa giải nơi hai Giáo Hội của chúng tôi. VCà có lẽ, nhờ ơn Chúa giúp, chúng tôi sẽ có cơ hội để thắng vượt một số những chướng ngại về sự không hiểu biết đầy đủ nơi các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, đặc biệt là giữa tín đồ Kitô Giáo và tín đồ Hồi Giáo.

 

Vấn:    Trước đây ngài cũng đã đề cập đến tầm quan trọng của việc này đối với Thổ Nhĩ Kỳ. Tại sao vậy?

 

Đáp:   Là giao điểm của Âu Châu và Á Châu, thành phố này và Giáo Hội đây giữ một vị thế thực sự đặc biệt trong việc nuôi dưỡng một cuộc gặp gỡ nơi các nền văn minh tân tiến. Ở một nghĩa nào đó thì thành phố Istanbul này là một nơi tuyệt vời để trở thành một trung tâm vĩnh viễn của việc đối thoại giữa các niềm tin và văn hóa khác nhau.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 1/12/2006

 

 

TOP

 

 

“Hãy đặt vấn đề đại kết làm mối ưu tiên hàng đầu về Giáo Hội, và đừng thực hiện cho các Giáo Hội và cộng đồng riêng biệt của chúng ta những quyết định nào trái ngược với hay tác hại cho vấn đề đại kết”

 

ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 1/12 – Bài Giảng của Đức Thánh Cha ở Vương Cung Thánh Đường Thánh Linh Công Giáo

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Vào lúc kết thúc chuyến tông du Thổ Nhĩ Kỳ của mình, tôi hân hoan được gặp gỡ cộng đồng Công Giáo ở Istanbul và cử hành Thánh Thể để tạ ơn Thiên Chúa về tất cả những ân ban của Ngài. Trước hết tôi xin gửi lời chào đến Đức Thượng Phụ Constantinople Bartholomew I, và Đức Thượng Phụ Armenia Mesrob II, chư huynh khả kính của tôi, những vị ưu ái tham dự với chúng tôi trong việc cử hành này. Tôi xin bày tỏ cùng các vị lòng sâu xa biết ơn của tôi trước cử chỉ huynh đệ ấy, một cử chỉ tỏ ra tôn kính toàn thể cộng đồng Công Giáo.

 

Anh chị em thuộc Giáo Hội Công Giáo thân mến, các Giám Mục, linh mục và phó tế, tu sĩ và giáo dân nam nữ thuộc về các cộng đồng khác nhau của thành phố này và thuộc về các lễ nghi khác nhau trong Giáo Hội: tôi hân hoan chào tất cả anh chị em theo lời của Thánh Phaolô gửi cho Kitô hữu Galata: ‘Chúc anh chị em ân sủng và bìn h an của Thiên Chúa là Cha của chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô!’ (Gal 1:3). Tôi xin cám ơn các vị thẩm quyền dân sự hiện diện bằng việc ưu ái nghênh đón của họ, đặc biệt là tất cả những ai góp phần vào việc làm hiện thực chuyến viếng thăm của tôi. Sau hết tôi xin chào các vị đại diện thuộc các cộng đồng giáo hội khác và những tôn giáo khác đang hiện diện nơi đây. Chúng ta không thể không nghĩ tới những biến cố khác nhau xẩy ra ở nơi đây và đã hình thành lịch sử chung của chúng ta? Đồng thời tôi cũng cảm thấy cần phải nhắc lại với lòng đặc biệt nhớ ơn nhiều chứng nhân cho Phúc Âm của Chúa Kitô, Đấng đã thôi thúc chúng ta cùng nhau hoạt động cho mối hiệp nhất của tất cả mọi thành phần môn đệ của Người trong chân lý và bác ái!

 

Trong ngôi Vương Cung Thánh Đường Thánh Linh này, tôi muốn dâng lời cảm tạ Thiên Chúa về tất cả những việc Ngài thực hiện trong lịch sử loài người và kêu xin cho mọi người được lãnh nhận những tặng ân của Thần Linh thánh đức. Như Thánh Phaolô vừa nhắc nhở chúng ta, Thần Linh là mạch nguồn bền vững cho niềm tin và mối hiệp nhất của chúng ta. Ngài đã khơi lên trong chúng ta kiến thức về Chúa Giêsu và Ngài đặt vào môi miệng của chúng ta những lời tin tưởng khiến chúng ta có thể nhận biết Chúa. Chúa Giêsu đã nói với Phêrô sau khi vị tông đồ này tuyên xưng đức tin ở Caesarea Philippi: ‘Phúc cho con, hỡi Simon, Con Jona! Vì không phải là huyết nhục đã tỏ cho con biết điều ấy, mà là Cha Thày ở trên trời’ (Mt 16:17). Chúng ta thực sự được chúc phúc khi Thánh Linh hướng chúng ta về niềm vui của lòng tin tưởng và làm cho chúng ta tham gia vào đại gia đình Kitô hữu  là Giáo Hội của Người. Vì tất cả những gì là đa dạng phong phú của Giáo Hội, qua những khác biệt về các tặng ân, thừa tác vụ và hoạt động, Giáo Hội bao giờ cũng là một, vì ‘chính cùng một Thiên Chúa là Đấng đã tác động tất cả những sự ấy trong hết mọi người’. Thánh Phaolô còn thêm: ‘việc biểu lộ Thần Linh cho công ích là những gì giành cho từng người’. Việc biểu lộ Thần Linh, viêc sống bởi Thần Linh, không phải là việc sống cho bản thân mình mà thôi, mà làm cho mình được nên giống Chúa Giêsu Kitô, bằng việc, như Người, trở thành  tôi tớ của anh chị em mình. Đây là một giáo huấn rất cụ thể cho mỗi người Giám Mục chúng ta, được Chúa gọi để dẫn dắt dân của Người bằng việc trở thành tôi tớ như Người; nó cũng xác đáng cho tất cả mọi thừa tác viên  của Chúa cũng như cho tất cả mọi tín hữu nữa: khi chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội, tất cả chúng ta đầu được dìm mình vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô, ‘chúng ta đều được uống cùng một Thần Linh duy nhất’ và đời sống của Giáo Hội trở thành của chúng ta, để chúng ta có thể sống như Người, để chúng ta có thể yêu thương anh chị em chúng ta như Người đã yêu thương chúng ta (x Jn 13:34).

 

Hai mươi sáu năm trước, tại chính Vương Cung Thánh Đường này, vị tiền nhiệm của tôi là Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II, đã bày tỏ niềm hy vọng của ngài là bình minh của tân thiên kỷ sẽ ‘chiếu tỏa trên một Giáo Hội tìm thấy lại mối hiệp nhất của mình, để làm chứng một cách tốt đẹp hơn, giữa những thứ quá ư là căng thẳng của thế giới này, cho tình yêu siêu việt của Thiên Chúa, một tình yêu được biểu lộ nơi Người Con Giêsu Kitô của Ngài’ (Homily in the Cathedral of Istanbul, 5). Niềm hy vọng này chưa trở thành hiện thực, thế nhưng, vị Giáo Hoàng này vẫn mong được thấy no nên trọn, và nó thúc đẩy chúng ta, thành phần môn đệ của Chúa Kitô đang tiến bước một cách ngập ngừng và hạn chế trong con đường hiệp nhất, hãy không ngừng hoạt động ‘cho thiện ích của tất cả mọi người’, hãy đặt vấn đề đại kết làm mối ưu tiên hàng đầu về Giáo Hội, và đừng thực hiện cho các Giáo Hội và cộng đồng riêng biệt của chúng ta những quyết định nào trái ngược với hay tác hại cho vấn đề đại kết. Có thế chúng ta mới thực sự sống bởi Thần Linh của Chúa Giêsu trong việc phục vụ cho công ích.

 

Qui tụ lại với nhau vào sáng hôm nay tại ngôi nhà nguyện cầu được thánh hiến cho Chúa này, làm sao chúng ta không nhắc tới một hình ảnh đẹp khác được Thánh Phaolô sử dụng khi nói  về Giáo Hội, hình ảnh của việc xây dựng có những viên đá gắn bó chặt chẽ với nhau để làm thành một cấu trúc duy nhất, có tảng đá nền nâng đỡ hết mọi sự là Chúa Kitô? Người là nguồn mạch của sự sống mới được Cha ban cho chúng ta trong Thánh Thần. Phúc Âm Thánh Gioan đã loan báo về nó là: ‘từ lòng họ vọt lên giòng sông chảy nước sự sống’. Thứ nước vọt lên này. thứ nước sự sống này là những gì Chúa Giêsu đã hứa với người phục nữ Samaritanô, như được tiên tri Zacaria và Êzêkiên thấy xuất phát từ bên phải Đền Thờ, để làm cho các giòng nước của Biển Chết nên tươi tốt: một hình ảnh tuyệt vời về lời hứa sự sống bao giờ cũng được Thiên Chúa thực hiện cho dân của Ngài và được Chúa Giêsu đến làm hoàn trọn. Trong một thế giới mà con người cảm thấy hết sức miễn cưỡng chia sẽ những sản vật của trái đất này và đang xẩy ra tình trạng thiếu hụt thê thảm về nước, thì thứ sản vật nước này rất quí đối với sự sống của thân xác, Giáo Hội khám phá ra rằng Giáo Hội đang sở hữu một kho tàng còn cao quí hơn thế nữa. Là Thân Mình của Chúa Kitô, Giáo Hội được ủy thác trách nhiệm loan báo Phúc Âm cho đến tận cùng trái đất (x Mt 28:19), truyền đạt cho con người nam nữ của thời đại chúng ta Tin Mừng không phải chỉ là một lời nói mà là một ngôi vị đó là chính bản thân Chúa Kitô phục sinh và hằng sống! Nhờ ân sủng của các bí tích, giòng nước này chảy từ một bên cây Thập Giá, đã trở thành một nguồn suối ngập tràn, thành ‘những giòng sông chảy nước sự sống’, là một trận lụt không ai có thể ngăn chặn, là một tặng ân phục hồi sự sống. Làm sao Kitô hữu có thể giữ cho riêng bản thân mình những gì họ đã lãnh nhận chứ? Làm sao họ lại có thể che đậy đi kho tàng này và vuì chôn đi giòng suối này chứ? Sứ vụ của Giáo Hội không phải là vấn đề duy trì quyền lực hay chiếm hữu giầu sang; sứ vụ của Giáo Hội là trao tặng Chúa Kitô, là cống hiến việc thông phần vào sự sống của Chúa Kitô, một sự thiện quí báu nhất của con người được chính Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Con Ngài.

 

Hỡi Anh Chị Em, các cộng đồng của anh chị em đang tiến bước trên con đường nhún nhượng của tình đồng bạn thường nhật với những ai không có cùng niềm tin với chúng ta, nhưng ‘cho rằng tin tưởng vào Abraham, và cùng với chúng ta tôn thờ một Thiên Chúa nhân hậu duy nhất’ (Lumen Gentium, 16). Anh chị em quá rõ là Giáo Hội không muốn áp đặt bất cứ sự gì trên bất cứ một ai, và Giáo Hội chỉ xin được sống tự do để tỏ bày tỏ Đấng Giáo Hội không thể che giấu là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã yêu thương chúng ta cho tới cùng trên cây Thập Giá và đã ban cho chúng ta Thần Linh của Người là sự hiện diện sống động của Thiên Chúa giữa chúng ta và sâu xa trong chúng ta. Hãy luôn tiếp nhận vị Thần Linh này của Chúa Kitô, nhờ đó chuyên chú tới những ai khao khát công lý, hòa bình, phẩn giá và tôn trọng đối với chính bản thân họ cũng như đối với anh chị em của họ. Hãy sống hòa hợp, theo những lời Chúa dạy: ‘Nếu các con yêu thương nhau thí cứ dấu ấy mà mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thày’ (Jn 13:35).

 

Hỡi Anh Chị Em, giờ đây chúng ta hãy trao phó ước vọng của chúng ta trong việc phụng sự Chúa cho Trinh Nữ Maria là Mẹ của Thiên Chúa và là Tôi Tớ của Thiên Chúa. Mẹ đã nguyện cầu cùng với các vị Tông Đồ trên Căn Thượng Lầu, vào những ngày trước Lễ Ngũ Tuần. Cùng với Mẹ, chúng ta hãy cầu xin Chúa Kitô Con Mẹ: Ôi Chúa, xin hãy sai Thánh Linh của Chúa xuống trên toàn thể Giáo Hội, để Ngài ngự trị nơi mỗi một phần tử của Giáo Hội và làm cho họ trở thành thành phần rao giảng tin mừng Phúc Âm của Chúa!

 

Amen.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 1/12/2006

 

 TOP

 

“Chúng ta cần phải tiếp tục làm mọi sự có thể để chữa lành những vết thương phân rẽ và mau chóng thực hiện việc tái thiết mối hiệp nhất Kitô Giáo”

 

ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 30/11 – Đáp Từ của Đức Thánh Cha ngỏ cùng Thượng Phụ Mesrob II Mutafina khi cử hành Lời Chúa tại Vương Cung Thánh Đường Tông Truyền Armenia ở Istanbul

 

Huynh thân mến trong Chúa Kitô,

 

Tôi vui mừng được dịp gặp gỡ Đức Thượng Phụ ở chính nơi Đức Thượng Phụ Kalustia đã tiếp đón các vị tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Với đầy lòng cảm mến, tôi xin gửi lời chào toàn thể cộng đồng Tông Truyền Armenia được huynh dẫn dắt với vai trò chủ chiên và linh phụ. Tôi cũng xin gửi lời chào thăm huynh đệ đến Đức Karekin II, Thượng Phụ của Holy Etchmiadzin, cùng hàng giáo phẩm của Giáo Hội Tông Truyền Armenia. Tôi xin tạ ơn Chúa về niềm tin và chứng từ Kitô Giáo của nhân dân Armenia, được truyền đạt từ đời nọ sang đời kia, thường ở trong những hoàn cảnh rất thảm thương như những hoàn cảnh trong thế kỷ vừa qua.

 

Cuộc hội ngộ của chúng ta không phải chỉ là một cử chỉ lịch thiệp và thân tình về đại kết mà thôi. Nó là một dấu hiệu của việc chúng ta cùng nhau thông dự vào những lời hứa hẹn của Chúa và lòng chúng ta ước muốn thấy hoàn tất lời nguyện cầu của Chúa Giêsu cho thành phần môn đệ của Người vào thời điểm vọng cuộc khổ nạn và tử nạn của Người: ‘để họ tất cả được nên một. Như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha, họ cũng được hiệp nhất trong chúng ta, hầu thế gian tin rằng Cha đã sai Con’ (Jn 17:21). Chúa Giêsu đã hiến sự sống của mình trên cây Thập Giá để qui tụ làm một tất cả mọi con cái của Thiên Chúa bị phân tán, phá hủy những bức tường chia rẽ. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Kitô là Giáo Hội. Những thứ chia rẽ thê thảm mà qua giòng thời gian đã xẩy ra trong thành phần môn đề của Chúa Kitô là những gì công khai phản nghịch lại với ý muốn của Chúa Kitô, gây gương mù cho thế giới và tác hại công việc làm thánh hảo nhất là việc rao giảng Phúc Âm cho tất cả mọi tạo vật (cf. "Unitatis Redintegratio," 1). Chính vì chứng từ đức tin và tình yêu thương ấy mà Kitô hữu được kêu gọi để cống hiến một dấu hiệu rạng ngời niềm hy vọng và nguồn ủi an cho thế giới này, một thế giới đầy những xung đột và căng thẳng. Bởi thế chúng ta cần phải tiếp tục làm mọi sự có thể để chữa lành những vết thương phân rẽ và mau chóng thực hiện việc tái thiết mối hiệp nhất Kitô Giáo. Chớ gì chúng ta được ánh sáng và sức mạnh của Thánh Linh hướng dẫn trong việc làm khẩn trương này.

 

Về khía cạnh này tôi chỉ còn biết thành tâm cảm tạ Chúa về mối liên hệ huynh đệ sâu xa mỗi ngày một hơn giữa Giáo Hội Tông Truyền Armenia và Giáo Hội Công Giáo. Vào thế kỷ 13, Nerses ở Lambron, một trong những vị đại Tiến Sĩ của Giáo Hội Armenia, đã viết những lời đầy phấn khích này: ‘Bởi vậy, vì tất cả chúng ta cần đến  hòa bình từ nơi Thiên Chúa mà hãy làm cho nền tảng của hòa bình này trở thành hòa hợp nơi anh em. Chúng ta đã nguyện cầu cùng Chúa ban hòa bình và tiếp tục làm như thế. Này, Ngài đang ban cho chúng ta tặng ân hóa bình: chúng ta hãy đón nhận nó! Chúng tax in Chúa hãy làm cho Hội Thánh của Người được vững chắc, và Người đã sẵn sàng lắng nghe lời van nài của chúng ta. Bởi vậy chúng ta hãy trèo lên núi của niềm tin Phúc Âm!’ ("Il Primato della Carità," Ed. Qiqajon, p. 81). Những lời lẽ này của ông Nerses đã vẫn còn nguyên giá trị của chúng. Chúng ta hãy cùng nhau nguyện cầu cho môá hiệp nhất của tất cả mọi Kitô hữu, nhờ đó, bằng việc chấp nhận tặng ân này từ trên cao bằng một tâm hồn cởi mở, chúng ta có thể trở thành những chứng nhân lôi cuốn cho sự thật của Phúc Âm và là những người tôi tớ tốt lành hơn cho sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2006/november/documents/hf_ben-xvi_spe_20061130_patriarch-mesrob-ii_en.html

 

 

TOP

 

 

ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 30/11 – Viếng Thăm Đền Thờ Xanh của Hồi Giáo ở Istanbul

 

Trong chuyến tông du Thổ Nhĩ Kỳ của mình, vào ngày Thứ Năm 30/11/2006, sau khi mừng Lễ Thánh Anrê với Giáo Hội Chính Thống và ký kết một Bản Tuyên Ngôn với Đức Thượng Phụ Bartholomew I, và sau khi thăm Bảo Tàng Viện Thánh Sofia (đền thờ Công Giáo xưa của Constantinople đã bị biến thành một đền thờ Hồi Giáo năm 1453) cũng ở thủ đô Istanbul, để tỏ lòng trọng quí Hồi Giáo, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã đến thăm Đền Thờ Xanh của họ, lớn nhất và đẹp nhất ở thủ đô ở Istanbul.

 

Trong lời ngỏ cùng vọ Đại Giáo Trưởng ở Istanbul là Mustafa Cagrici, vị cũng có chữ ký vào bức thư hồi tháng 10 gửi phản đối ngài sau bài diễn văn ngày 12/9/2006 của ngài ở Đại Học Regensburg, ngài đã lên tiếng cám ơn ông đã cho phép ngài được viếng thăm ngôi đền thờ này: “Chúng ta hy vọng sẽ cùng nhau tìm thấy những đường lối hòa bình và huynh đệ để giúp đỡ nhân loại”.

 

Đức Thánh Cha đã cởi giầy ra trước khi tiến vào đền thờ, và được đi kèm bởi vị Đại Giáo Trưởng cũng như bởi vị giáo trưởng Emanullah Hatiboglu.

 

Sau khi cắt nghĩa tín đồ Hồi Giáo hồi tâm nguyện cầu ra sao, vị Đại Giáo Trưởng bắt đầu cầu nguyện. Đứng bên cạnh vị tu sĩ Hồi Giáo này, hướng mặt về Mecca, Đức Thánh Cha cũng tĩnh lặng nguyện cầu vài phút, nhưng là một việc cầu nguyện theo kiểu cách và tinh thần Kitô giáo, như vị giám đốc văn phòng báo chí Tòa Thánh đã cho thành phần ký giả biết sau khi biến cố này diễn ra.

 

Cuộc viếng thăm này kéo dài trong vòng 30 phút và kết thúc bằng việc tặng quà cho nhau. Vị Đại Giáo Trưởng tặng Đức Giáo Hoàng một biểu tượng chim câu, tiêu biểu cho hòa bình, với những lời lẽ từ Kinh Koran ‘khoan dung và nhân hậu vì danh Thiên Chúa’.

 

Vị Giám Mục Rôma cũng tặng cho Vị Đại Giáo Trưởng một bức đá ghép hình những con chim bồ câu. Thấy vậy, vị Đại Giáo Trưởng đã nhận định rằng: ‘Một dấu hiệu thiên định tốt đẹp’.    

 

Đức Thánh Cha nói rằng: ‘Đó là một sứ điệp huynh đệ để tưởng nhớ việc viếng thăm mà chắc chắn tôi sẽ không bao giờ quên này’.

 

Ngài là vị Giáo Hoàng thứ hai tiến vào nội cung của một Đền Thờ Hồi Giáo. Đức Gioan Phaolô II đã viếng thăm Đền Thờ Umayyad ở Syria vào tháng 5/2001.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 30/11/2006

 

 

TOP

 

 

"Chúa Thánh Thần là Đấng sẽ giúp chúng tôi sửa soạn cho ngày trọng đại của việc tái thiết mối hiệp nhất trọn vẹn, bao giờ và ra sao tùy ý Chúa".

 

ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 30/11 – Bản Tuyên Ngôn Chung  được ký kết giữa Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI và Đức Thượng Phụ Bartholomew I sau Lễ Thánh Anrê tại Vương Cung Thánh Đường Thượng Phụ Thánh George ở Phanar, Istanbul

 

‘Đây là ngày Chúa đã lập nên, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó!’ (Ps 117:24)

 

Cuộc gặp gỡ huynh đệ này đã mang chúng tôi lại với nhau, Giáo Hoàng Rôma Biển Đức XVI và Thượng Phụ Toàn Cầu Bartholomew I, là việc Thiên Chúa làm, và ở một nghĩa nào đó là tặng ân của Ngài. Chúng tôi dâng lời cảm tạ lên Vị Tác Giả của tất cả những gì là tốt đẹp này, Đấng cho chúng tôi một lần nữa có thể, trong nguyện cầu và qua đối thoại, bày tỏ niềm vui chúng tôi cảm thấy như là anh  em và lập lại quyết tâm của chúng tôi trong việc tiến tới mối hiệp thông trọn vẹn. Quyết tâm này bắt nguồn từ ý muốn của Chúa và từ trách nhiệm của chúng tôi là những Mục Tử trong Giáo Hội Chúa Kitô. Chớ gì cuộc gặp gỡ của chúng tôi trở thành một dấu hiệu và là một phấn khởi cho chúng tôi trong việc chia sẻ cùng những cảm thức như nhau và những thái độ giống nhau của tình huynh đệ, việc hợp tác và mối hiệp thông trong bác ái và chân lý. Chúa Thánh Thần là Đấng sẽ giúp chúng tôi sửa soạn cho ngày trọng đại của việc tái thiết mối hiệp nhất trọn vẹn, bao giờ và ra sao tùy ý Chúa. Bấy giờ chúng tôi mới có thể thực sự mừng rỡ hân hoan.

 

1.         Chúng tôi đã tri ân nhớ lại những cuộc gặp gỡ của các vị tiền nhiệm của chúng tôi, những cuộc gặp gỡ được Chúa chúc phúc, những vị đã tỏ cho thế giới thấy nhu cầu khẩn trương của mối hiệp nhất và tìm kiếm những đường lối vững chắc để đạt tới m ối hiệp nhất này, bằng việc đối thoại, nguyện cầu và bằng cuộc sống hằng ngày của Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Athenagoras I đã đến Giêrusalem như những người hành hương, đến chính nơi Chúa Giêsu đã chết và sống lại vì phần rỗi của thế giới, và các vị cũng đã gặp nhau một lần nữa ở Phanar đây cũng như ở Rôma. Các vị đã để lại cho chúng ta một bản tuyên ngôn chung vẫn còn nguyên  tất cả giá trị của nó; nó nhấn mạnh rằng việc thực sự đối thoại với nhau trong bác ái cần phải làm sao để có thể duy trì và tác động tất cả mọi liên hệ giữa cá nhân với nhau cũng như giữa các Giáo Hội với nhau, và nó ‘phải được bắt nguồn từ việc hoàn toàn trung thành với một Chúa Giêsu Kitô duy nhất và từ việc tương kính truyền thống riêng của nhau’ ("Tomos Agapis," 195). Chúng tôi c ũng không quên những cuộc viếng thăm nhau giữa Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Đức Thượng PhụDimitrios I. Chính trong cuộc viếng thăm của Đuưc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chuyến viếng thăm đầu tiên về đại kết của ngài, đã xẩy ra việc loan báo vấn đề thành hình Ủy Ban Hỗn Hợp cho việc đối thoại về thần học giữa  Giáo Hội Công Giáo Rôma và Giáo Hội Chính Thống. Việc này đã làm cho hai Giáo Hội của chúng ta tiến lại với nhau trong cùng một mục đích được ấn định là việc tái thiết mối hiệp thông trọn vẹn. 

 

Đối với vấn đề liên hệ giữa Giáo Hội Rôma và Giáo Hội Constantinople, chúng tôi không thể không nhắc tới tác động long trọng có tính cách giáo hội trong việc xóa bỏ ký ức của những thứ tuyệt thông xưa kia là những gì đã từng gây tác dụng tiêu cực qua các thế kỷ  đối với hai Giáo Hội của chúng ta. Chúng ta vẫn chưa rút tỉa được từ hành động này tất cả mọi thành quả tích cực xuất phát từ đó cho việc tiến bộ của chúng ta hướng tới mối hiệp nhất trọn vẹn, những thành quả mà Ủy Ban Hỗn Hợp được kêu gọi để thực hiện việc đóng góp quan trọng. Chúng tôi kêu gọi tín hữu của chúng tôi hãy tích cực tham gia vào tiến trình này, bằng việc nguyện cầu và bằng những cử chỉ ý nghĩa.

 

2.         Vào thời điểm của khóa họp thường niên của Ủy Ban hỗn hợp đặc trách đối thoại về thần học này, một khóa họp vừa được tổ chức ở Belgrade nhờ việc nồng hậu tiếp đãi của Giáo Hội  Chính Thống Serbia, chúng tôi đã bày tỏ niềm vui sâu xa của mình ở việc tái diễn việc đối thoại về thần học này. Việc này đã từng bị gián đoạn mấy năm trời vì những khó khăn khác nhau, thế nhưng giờ đây Ủy Ban này đã có thể hoạt động lại trong một tinh thần thân hữu và hợp tác. Trong việc bàn đến đề tài ‘Vấn Đề Công Đồng và Thẩm Quyền trong Giáo Hội’ ở các cấp địa phương, theo miền và toàn cầu, Ủy Ban này đã thực hiện một giai đoạn nghiên cứu về những thành quả theo giáo hội học và giáo luật học liên quan tới bản chất bí tích của Giáo Hội. Điều này sẽ giúp cho chúng ta giải quyết một số những vấn đề chính yếu vẫn còn bận tâm. Chúng tôi quyết tâm không ngừng ủng hộ, như trong quá khứ, việc làm được úy thác cho Ủy Ban này và chúng tôi hỗ trợ các phần tử của ủy ban này bằng lời nguyện cầu của chúng tôi.

 

3.         Là những Mục Tử, trước hết chúng tôi suy nghĩ về sứ vụ loan báo Phúc Âm trong thế giới ngày nay. Sứ vụ này, ‘Các con hãy đi tuyển mộ các môn đồ ở tất cả mọi dân nước’ (Mt 28:19), ngày nay là những gì hợp thời và khẩn thiết hơn bao giờ hết, ngay cả nơi các quốc gia Kitô Giáo truyền thống. Ngoài ra, chúng tôi không thể nào không lưu ý tới việc gia tăng tình trạng tục hóa, chủ nghĩa tương đối, thậm chí chủ nghĩa tuyệt mệnh, nhất là ở thế giới Tây phương. Tất cả những thứ ấy đòi hỏi một cuộc loan báo Phúc Âm một cách mới mẻ và mãnh liệt, một cuộc loan báo được thích ứng với các nền văn hóa của thời đại chúng ta.  Các truyền thống của chúng ta cho chúng ta thấy cả một gia sản cần phải được liên tục chia sẻ, bàn luận và dẫn giải một cách mới mẻ. Đó là lý do tại sao chúng ta cần phải củng cố việc hợp tác của chúng ta và việc cùng làm chứng trước thế giới.

 

4.         Chúng tôi đã tích cực thấy đươc tiến trình dẫn đến việc hình thành Khối Hiệp Nhất Âu Châu. Những người dự phần vào dự án lớn lao này không được bỏ qua vấn đề quan tâm tới tất cả mọi khía cạnh chi phối những quyền lợi bất khả chuyển nhượng của con người, nhất là quyền tự do tôn giáo là một chứng từ và một bảo đảm cho tất cả mọi quyền tự do khác. Nơi mọi bước tiến hướng tới vấn đề thống nhất hóa, cần phải bảo vệ thành phần thiểu số theo các truyền thống văn hóa của họ và những đặc tính đặc thù nơi tôn giáo của họ. Ở Âu Châu, trong khi vẫn cởi mở với các tôn giáo khác cũng như với các đóng góp về văn hóa của những tôn giáo ấy, chúng ta  cần phải liên kết nỗ lực để bảo trì căn gốc Kitô Giáo, các truyền thống và những giá trị, bảo đảm việc tôn trọng lịch sử, nhờ đó góp phần cho nền văn hóa Âu Châu tương lai cũng như cho phẩm chất của những mối liên hệ của con người ở mọi cấp độ. Trong bối cảnh này, làm sao chúng ta lại không khơi lên những chứng từ rất cổ kính và gia sản Kitô Giáo lẫy long của mảnh đất đang diễn ra cuộc gặp gỡ của chúng ta đây, bắt đầu với những gì được Sách Tông Vụ kể lại cho chúng ta biết liên quan tới hình ảnh của Thánh Phaolô, vị Tông Đồ Dân Ngoại? Nơi mảnh đất này đây, sứ điệp Phúc Âm và truyền thống văn hóa cổ kính đã gặp gỡ nhau. Mối liên hệ này, một mối liên hệ đã góp phần rất nhiều cho gia sản Kitô Giáo chúng ta đang chia sẻ, vẫn còn là những gì hợp thời và sẽ sinh hoa trái hơn trong tương laic ho việc truyền bá phúc âm hóa cũng như cho mối hiệp nhất của chúng ta.

 

5.         Mối quan tâm của chúng tôi cũng bao gồm cả những phần đất khác của thế giới ngày nay, nơi Kitô hữu đang sống, và những khó khăn họ đang phải đương đầu, nhất là về vấn đề nghèo khổ, chiến tranh và khủng bố, cùng với những hình thức tương tự khác nơi việc khai thác thành phần nghèo khổ, thành phần di dân, thành phần nữ giới và thành phần trẻ em. Chúng ta được kêu gọi cùng nhau hoạt động để cổ võ việc tôn trọng các thứ nhân quyền của con người được dựng nên theo hình ảnhcủa Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa, và để nuôi dưỡng việc phát triển về kinh tế, xã hội và văn hóa. Các truyền thống của chúng ta về thần học và đạo lý  có thể cống hiến một nền tảng vững chắc cho một đường lối chung để rao giảng và hành động. Trước hết, chúng tôi muốn khẳng định rằng việc sát hại thành phần vô tội nhân danh Thiên Chúa là một việc xúc phạm đến Ngài cũng như đến phẩm vị của con người. Tất cả chúng ta cần phải quyết tâm thực hiện lại việc phục vụ nhân loại và việc bênh vực sự sống con người, hết mọi sự sống của con người.

 

Chúng tôi hết sức quan tâm tới vấn đề hòa bình ở Trung Đông, nơi Chúa Kitô đã sống, đã chịu khổ đau, đã tử nạn và phục sinh, và là nơi cả một đám rất đông đảo anh cị em Kitô hữu của chúng ta đã sống qua bao thế kỷ. Chúng tôi thiết tha hy vọng rằng hòa bình sẽ được thiết lập ở vùng đất này, việc chung sống tương kính sẽ được củng cố giữa các dân tộc khác nhau đang sống ở đó, giữa c ác Giáo Hội và giữa các tôn giáo khác nhau đang hiện diện ở đó. Để đạt được mục đích ấy, chúng tôi xin hãy thiết lập   những mối liên hệ chặt chẽ hơn giữa Kitô hữu, và một cuộc đối thoại liên tôn đích thực và chân thành, nhắm tới việc  chiến đấu với hết mọi hình thức bạo lực và kỳ thị.

 

6.         Hiện nay, trước những đe dọa lớn lao gây ra cho môi trường thiên nhiên, chúng ta muốn bày tỏ mối quan tâm của chúng tôi trước những hậu quả tiêu cực đối với nhân loại và đối với toàn thể thiên nhiên tạo vật, gây ra bởi việc tiến bộ về kỹ nghệ và kỷ thuật không biệt đến giới hạn của mình. Là những người lãnh đạo về tôn giáo, chúng tôi coi nó là một trong những nhiệm vụ của chúng tôi trong việc khuyến khích và hỗ trợ tất cả mọi nỗ lực được thực hiện để bảo vệ tạo sinh của Thiên Chúa, cũng như để truyền lại cho các thế hệ tương lai một thế giới họ có thể sống được.

 

7.         Sau hết, chúng tôi nghĩ tới tất cả anh chị em, thành phần tín hữu của hai Giáo Hội của chúng ta trên khắp thế giới, các vị Giám Mục, linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ, giao dân nam nữ đang dấn thân phục vụ giáo hội, và tất cả mọi người đã lãnh nhận phép rửa. Chúng tôi xin gửi lời chào đến các Kitô hữu khác, nhớ đến anh chị em trong lời nguyện cầu của chúng tôi và bày tỏ việc chúng tôi cởi mở trong vấn đề đối thoại và hợp tác. Bằng những lời của vị Tông Đồ Dân Ngoại, chúng tôi xin chào tất cả mọi anh chị em: ‘Chúc anh chị em ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha của chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô’ (2Cor 1:2).

 

Tại Phanar ngày 30/11/2006

 

Biển Đức XVI và Bartholomew I


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 30/11/2006

 

 

TOP

 

 

"Trách nhiệm được hai người anh em thánh là Phêrô và Anrê này lưu lại cho chúng ta còn xa chỗ hoàn trọn. Trái lại, ngày nay nó lại trở nên khẩn trương và cần thiết hơn nữa".

 

ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 30/11 – Diễn Từ sau Thánh Lễ Kính Thánh Anrê ở Vương Cung Thánh Đường Thượng Phụ Thánh George ở Phanar, Istanbul

 

Phụng Vụ Thần Linh cử hành vào Lễ Thánh Anrê Tông Đồ, Thánh Sư của Giáo Hội Constantinople, này đưa chúng ta trở về với Giáo Hội sơ khai, với thời các Tông Đồ. Các Phúc Âm của Thánh marcô và Mathêu thuật lại việc Chúa Giêsu đã kêu gọi hai anh em, Simon, người được Chúa Giêsu gọi là Cephas hay Phêrô, và Anrê: ‘Hãy theo Thày, và Thày sẽ làm cho anh em trở thành những tay đánh cá người’ (Mt 4:19; Mk 1:17). Phúc Âm Thứ Bốn cũng cho thấy Anrê như là người môn đệ đầu tiên được kêu gọi, ‘ho protoklitos’,  như truyền thống Byzantine nhận biết về ngài. Chính Thánh Anrê bấy giờ đã mang người anh em Simon của mình đến với Chúa Giêsu (x Jn 1:40f).

 

Hôm nay, trong Thánh Đường Thượng Phụ Thánh George này, chúng ta có thể cảm thấy một lần nữa mối hiệp thông và ơn gọi của hai anh em Simon Phêrô và Anrê, nơi cuộc gặp gỡ của Vị Thừa Kế  Thánh Phêrô và Người Anh của mình trong thừa tác vụ giáo phẩm, vị lãnh đạo một Giáo Hội theo truyền thống được thành lập bởi Tông Đồ Anrê. Cuộc gặp gỡ huynh đệ của chúng ta làm nổi bật mối liên hệ đặc biệt liên kết Giáo Hội Rome và Constantinople như hai Giáo Hội Chị Em với nhau.

 

Với niềm vui chân tình, chúng ta tạ ơn Thiên Chúa đã làm tái sinh động mối liên hệ đã được phát triển từ cuộc gặp gỡ đáng ghi nhớ ở Giêrusalem vào Tháng 12 năm 1964 giữa các vị tiền nhiệm của chúng ta là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Athenagoras. Việc các vị trao đổi thư từ với nhau, những bức thư được phổ biến trong cuốn sách tựa đề ‘Tomos Agapis’, là những gì chứng thực cái sâu đậm của những thắt kết đã phát triển giữa các vị, những thắt kết đã phản ảnh nơi mối liên hệ giữa hai Giáo Hội Chị Em với nhau là Rome và Constantinople.

 

Vào ngày 7/12/1965, ngày áp kết khóa cuối cùng của Công Đồng Chung Vaticanô II, các vị tiền nhiệm khả kính của chúng ta đã thực hiện một bước tiến đặc biệt không thể nào quên được tại Thánh Đường Thượng Phụ Thánh George và tại Đền Thờ Thánh Phêrô ở Vatican riêng biệt: các vị loại bỏ khỏi ký ức của Giáo Hội những thứ tuyệt thông thê thảm năm 1054. Nhờ đó, các vị đã khẳng định một xoay hướng quyết liệt nơi mối liên hệ của chúng ta. Từ đó, nhiều bước tiến quan trọng đã được thực hiện trên con đường tái tiến đến với nhau.  Tôi đặc biệt nhớ đến chuyến viếng thăm  của vị tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đến Constantinople vào năm 1979, và những lần viếng thăm Rôma của Đức Thượng Phụ Toàn Cầu Bartholomew I.

 

Trong cùng một tinh thần ấy, việc tôi hiện diện ở đây hôm nay là để lập lại quyết tâm của chúng ta trong việc tiến bước trên con đường hướng về vấn đề tái thiết lập – theo ơn Chúa – mối hiệp thông trọn vẹn giữa Giáo Hội Rome và Giáo Hội Constantinople. Tôi có thể bảo đảm cùng huynh rằng Giáo Hội Công Giáo sẵn sàng làm mọi sự có thể để thắng vượt những trở ngại và, cùng với anh chị em Chính Thống Giáo của chúng ta, tìm cách hiệu nghiệm nhất của vấn đề hợp tác về mục vụ để đạt được mục đích này.

 

Hai anh em Simon cũng là Phêrô và Anrê là những người đánh cá được Chúa Giêsu kêu gọi trở thành những tay đánh cá người. Chúa Kitô Phục Sinh, trước khi Thăng Thiên, đã sai họ ra đi cùng với các Tông Đồ khác với sứ vụ làm cho tất cả mọi quốc gia thành môn đệ của Người, rửa tội cho họ và truyền dạy giáo huấn của Người (x Mt 28:19ff; Lk 24:27; Acts 1:8).

 

Trách nhiệm được hai người anh em thánh là Phêrô và Anrê này lưu lại cho chúng ta còn xa chỗ hoàn trọn. Trái lại, ngày nay nó lại trở nên khẩn trương và cần thiết hơn nữa. Vì nó hướng tới chẳng những các  nền văn hóa mới chỉ được sứ điệp Phúc Âm chạm tới một cách hời hợt, mà còn tới cả những nền văn hóa Âu Châu lâu đời được sâu xa bắt nguồn vào truyền thống Kitô Giáo. Tiến trình tục hóa đã làm yếu kém đi việc nắm giữ truyền thống ấy; thật vậy, nó đang được xét lại, thậm chí bị loại trừ nữa. Trước thực tại này, chúng ta được kêu gọi, cùng với tất cả mọi cộng đồng Kitô hữu khác, canh tân ý thức của Âu Châu về các gốc gác Kitô Giáo của nó, những truyền thống và các giá trị Kitô Giáo của nó, cống hiến cho chúng một sức sống mới.

 

Các nỗ lực của chúng ta trong việc thiết lập các thắt buộc chặt chẽ hơn giữa Giáo Hội Công Giáo và Chư Giáo Hội Chính Thống Giáo   là một phần thuộc công cuộc truyền giáo này. Những thứ chia rẽ diễn ra nơi thành phần Kitô hữu là một gương mù đối với thế giới và là một ngãng trở cho việc loan truyền Phúc Âm. Vào lúc áp cuộc khổ nạn và tử nạn của mình, Chúa Kitô, có môn đệ chung quanh, đã thiết tha nguyện cầu cho tất cả được nên một, để thế gian nhận biết (x Jn 17:21). Chỉ nhờ mối hiệp thông huynh đệ  giữa các Kitô hữu và qua tình yêu thương nhau của họ sứ điệp về tình yêu Thiên Chúa đối với mỗi và mọi con người nam nữ mới trở thành uy tín. Bất cứ ai thoáng nhìn một cách thực tế vào thế giới Kitô Giáo ngày nay sẽ thấy được cái khẩn tương của thứ  chứng từ ấy.

 

Simon Phêrô và Anrê đã cùng được kêu gọi với nhau để trở thành những tay đánh cá người. Tuy  nhiên, cùng một công việc ấy lại mặc một hình thức khác nhau đối với từng người trong hai anh em. Simon, bất kể nỗi yếu hèn của con người, đã được gọi là ‘Phêrô’, là ‘đá’ làm nền tảng dựng xây Giáo Hội; ngài đặc biệt được trao cho chìa khóa Nước Trời (x Mt 16:18). Cuộc hành trình của ngài mang ngài từ Giêrusalem tới Antioch, và từ Antioch đến Rôma, để ở Thành Phố này, ngài có thể hành sử một trách nhiệm toàn cầu. Vấn đề phục vụ hoàn vũ của Thánh Phêrô và của những người Thừa Kế thánh nhân chẳng may lại gây ra những ý kiến khác nhau nơi chúng ta, những gì chúng ta hy vọng thắng vượt, cũng nhờ vào cuộc đối thoại về thần học mới đây được tái tấu.

 

Vị tiền nhiệm khả kính của tôi là Người Tôi Tớ Chúa Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói về một thứ tình thương   làm nên đặc tính của việc ngài phục vụ cho mối hiệp nhất, một thứ tinh thương mà chính bản thân Thánh Phêrô là người đầu tiên đã cảm nghiệm thấy (Thông Điệp Ut Unum Sint, 91). Chính trên căn bản ấy Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô này đã thực hiện lời mời gọi tham gia vào một cuộc đối thoại huynh đệ nhắm đến chỗ tìm ra những đường lối giúp cho việc hành sử thừa tác vụ thừa kế Thánh Phêrô ngày nay, trong khi vẫn tôn trọng bản chất và yếu tính của thừa tác vụ này, nhờ đó ‘hoàn thành việc phục vụ của tình yêu thương được nhìn nhận bởi tất cả mọi người trong cuộc’ (cùng nguồn, 95). Ước muốn của tôi hôm nay đây là để nhắc lại và lập lại lời mời gọi này.

 

Thánh Anrê, người anh em của Simon Phêrô, đã lãnh nhận một nhiệm vụ khác Chúa trao phó, một nhiệm vụ được chính tên gọi của ngài cho thấy. Là một người nói tiếng Hy Lạp, cùng với Thánh Philiphê, ngài trở thành vị Tông Đồ của cuộc hội ngộ với những người Hy Lạp muốn đến gặp Chúa Giêsu (x Jn 12:20ff). Truyền thống cho chúng ta biết rằng ngài là một vị truyền giáo chẳng những ở Tiểu Á và những lãnh địa ở phía nam Biển Đen, tức là ở chính miền đất này, mà còn ở cả Hy Lạp, nơi ngài đã tử đạo nữa.

 

Bởi thế, Tông Đồ Anrê là tiêu biểu cho cuộc gặp gỡ giữa Kitô Giáo tiên khởi với nền văn hóa Hy Lạp. Đầy là cuộc hội ngộ, đặc biệt là ở Tiểu Á, trở thành khả dĩ nhất là nhờ các vị đại Giáo Phụ Cappadocia, những vị đã làm giầu cho phụng vụ, thần học và linh đạo của cả hai Giáo Hội Đông lẫn Tây. Sứ điệp Kitô Giáo, như hạt lúa miến (x Jn 12:24), đã rơi xuống mảnh đất này và sinh nhiều hoa trái. Chúng ta cần phải hết lòng tri ân về gia sản được xuất phát từ cuộc gặp gỡ tốt đẹp này giữa sứ điệp Kitô Giáo và nền văn hóa Hy Lạp. Nó đã gây một ảnh hưởng lâu dài nơi các Giáo Hội Đông Tây. Các vị Giáo Phụ Hy Lạp đã lưu lại cho chúng ta một kho quí báu những gì được Giáo Hội tiếp tục rút lấy những gì phong phú cả cũ lẫn mới (x Mt 13:52).

 

Bài học về hạt lúa miến chết đi để trổ sinh hoa trái cũng có một ý nghĩa tương tự nơi cuộc đời của Thánh Anrê. Truyền thống cho chúng ta biết rằng ngài đã theo cùng một số phận như Chúa của ngài và Thày của ngài, kết thúc những ngày sống của mình ở Patras, Hy Lạp. Như Thánh Phêrô, ngài đã chịu tử đạo trên một cây thập tự giá, một câu thập tự giá chéo được chúng ta tôn kính ngày nay như cây thập giá của Thánh Anrê. Từ gương của ngài, chúng ta học được là con đường của mỗi một Kitô hữu, như con đường của cả Giáo Hội, là con đường dẫn tới sự sống mới, sự sống đời đời, nhờ việc bắt chước Chúa Kitô và cảm nghiệm được thánh giá của Người.

 

Theo giòng lịc h sử, cả hai Giáo Hội Rome và Giáo Hội Constantinople đều cảm nghiệm được bài học của hạt lúa miến này. Cùng nhau chúng ta tôn kính nhiều vị tử đạo giống nhau, những vị mà máu của các ngài, theo câu nói nổi tiếng của giáo phụ Tertullian, đã trở thành hạt giống cho thành phần tân Kitô hữu ("Apologeticum," 50, 13). Với các vị ấy, chúng ta chia sẻ cùng một niềm hy vọng thúc đẩy Giáo Hội ‘tiến bước , như một kẻ lạ mặt trên miền đất ngoại bang, giữa những bách hại của thế giới lẫn các niềm ủi an của Thiên Chúa’ ("Lumen Gentium," 8, cf. Saint Augustine, "De Civ. Dei," XVIII, 51, 2). Về phần mình, thế kỷ vừa kết thúc cũng đã chứng kiến thấy những chứng nhân can trường cho đức tin, ở cả Đông lẫn Tây. Thậm chi cho đến giờ đây, có nhiều nhân chứng như thế ở các phần đất khác nhau trên thế giới. Chúng ta nhớ đến họ trong lời nguyện cầu của chúng ta, và bằng bất cứ cánh nào có thể, chúng ta tỏ ra ủng hộ họ, khi chúng tat ha thiết xin tất cả mọi nhà lãnh đạo trên thế giới hãy tôn trọng quyền tự do tôn giáo như là một quyền lợi nồng cốt của con người.

 

Phụng Vụ Thần Linh mà chúng ta đã tham dự được cử hành theo lễ nghi Thánh Gioan Chrysostom. Cây thánh giá và viêc phục sinh của Chúa Giêsu Kitô đã trở thành hiện thực một cách nhiệm mầu. Đối với Kitô hữu chúng ta thì đây là một mạch nguồn và là dấu hiệu liên lỉ canh tân niềm hy vọng. Chúng ta thấy rằng niềm hy vọng được tuyệt vời diễn đạt nơi bản văn cổ được cho là Cuộc Khổ Nạn của Thánh Anrê: Ôi Cây Thạp Giá, tôi xin chào ngươi, một cây thập giá đã được thánh hiến bởi Thân Thể Chúa Kitô và được điểm trang bằng chân tay của Người  như bởi các hạt ngọc châu báu… Chớ gì tín hữu biết được niềm vui của ngươi, và tặng ân ngươi ấp ủ…’

 

Niềm tin vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu trên cây thập tụ giá, và niềm hy vọng được Chúa Kitô Phục Sinh cống hiến cho toàn thể gia đình nhân loại, được tất cả chúng ta chia sẻ, cả tín hữu Chính Thống Giáo lẫn Công Giáo. Chớ gì việc nguyện cầu và hoạt động hằng ngày của chúng ta được linh hoạt bởi một niềm ước vọng thiết tha chẳng những được hiện diện ở Phụng Vụ Thánh này, mà còn có thể cùng nhau cử hành nữa, cùng nhau tham dự vào cùng một bàn của Chúa, chia sẻ cùng một bánh và cùng một chén.  Chớ gì việc gặp gỡ của chúng ta hôm nay đây giúp đẩy mạnh và làm cho chúng ta hân hoan ngưỡng vọng về tặng ân được hoàn toàn hiệp thông với nhau. Và chớ gì Thần Linh Chúa đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình của chúng ta!


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2006/november/documents/hf_ben-xvi_spe_20061130_divine-liturgy_en.html

  

 

 

TOP

 

 

 

"Trong việc cử hành Thánh Thể này, chúng ta chúc tụng Chúa về vai trò thiên mẫu của Mẹ Maria, một mầu nhiệm được long trọng tuyên xưng và công bố ở Êphêsô tại Công Đồng Chung Êphêsô năm 431"

 

ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 29/11 – Bài Giảng Thánh Lễ cử hành trước Đền Thánh Meryem Ana Evi (Nhà Mẹ Maria) gần Ephêsô

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Trong việc cử hành Thánh Thể này, chúng ta chúc tụng Chúa về vai trò thiên mẫu của Mẹ Maria, một mầu nhiệm được long trọng tuyên xưng và công bố ở Êphêsô tại Công Đồng Chung Êphêsô năm 431. Các vị tiền nhiệm khả kính của tôi là hai Người Tôi Tớ Chúa Phaolô VI và Gioan Phaolô II đã đến nơi rất thân thương với cộng đồng Kitô Giáo này, như là những người hành hương; Đức Gioan Phaolô II đã đến viếng Đần Thánh này vào ngày 30/11/1979, hơn một năm chút xíu sau khi mở màn cho giáo triều của ngài. Một vị khác trong các vị tiền nhiệm của tôi đã ở nơi xứ sở này không phải với tư cách là Giáo Hoàng mà là Đại Diện Giáo Hoàng, từ tháng Giêng 1935 đến tháng Chạp 1944, đó là Chân Phước Gioan XXIII, Angelo Roncalli, một vị vẫn còn được hết lòng mộ mến. Ngài đã tỏ ra hết sức quí mến và ca ngợi nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ. Đến đây tôi xin trích lại một đoạn trong Nhật Ký về Một Linh Hồn của ngài: ‘Tôi yêu mến dân Thổ; tôi cảm nhận được những phẩm chất tự nhiên của những con người đã chiếm được chỗ đứng trong cuộc hành trình của nền văn minh’ (pp. 233-4). Ngài cũng đã lưu lại cho Giáo Hội cũng như cho thế giới di sản của tính chất lạc quan Kitô Giáo của ngài, một tính cách lạc quan được bắt nguồn từ đức tin sâu xa và từ mối hiệp nhất liên lỉ với Thiên Chúa. Trong cùng một tinh thần ấy, tôi hướng về quốc gia này, nhất là về ‘đàn nhỏ’ này của Chúa Kitô đang sống giữa quốc gia đây, để cống hiến tiếng nói phấn khích và để bộc lộ lòng cảm mến của toàn thể Giáo Hội. Với hết tình yêu mến, tôi gửi lời chào đến tất cả anh chị em đang hiện diện nơi đây, thành phần tín hữu ở Izmir, Mersin, Iskenderun và Antakia, cùng những người khác ở các phần đất trên thế giới, cũng như những ai không thể tham dự vào việc cử hành này song liên kết với chúng ta trong tinh thần. Tôi đặc biệt chào Đức Tổng Giám Mục Ruggero Franceschini TGP Izmir, TGM Giuseppe Bernardine, TGM hưu trí ở Izmir, Đức Giám Mục Luigi Padovese, các linh mục và tu sĩ. Xin cám ơn việc anh chị em hiện diện, chứng từ của anh chị em, và việc anh chị em phục vụ cho Giáo Hội ở mảnh đất phúc đức này, nơi mà ngay từ ban đầu, cộng đồng Kitô hữu đã cảm thấy tăng trưởng mạnh mẽ, một sự kiện còn được thấy nơi đông đảo khách hành hương tới Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày này.

 

Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội

 

Chúng ta đã nghe một đoạn theo Phúc Âm Thánh Gioan, một đoạn phúc âm mời chúng ta hãy chiêm ngưỡng giây phút cứu chuộc, khi mà Mẹ Maria, hiệp nhất với Con Mẹ hiến dâng hy tế của Người, đã bao trùm vai trò làm mẹ của Mẹ đối với tất cả mọi con người nam nữ, nhất là với thành phần môn đệ của Chúa Giêsu. Một chứng nhân diễm phúc của biến cố ấy là tác giả của cuốn Phúc Âm Thứ Tư là Thánh Gioan, người duy nhất trong các vị Tông Đồ ở trên đồi Golgotha với Mẹ Chúa Giêsu và những phụ nữ khác. Vai trò làm mẹ của Mẹ Maria, một vai trò được bắt đầu từ tiếng xin vâng của mình, đã được nên trọn dưới chân cây Thập Giá. Thánh Anselmô nói rằng ‘từ giây phút của tiếng xin vâng, Mẹ Maria khởi sự cưu mang tất cả chúng ta trong cung lòng của Mẹ’, nhưng ơn gọi và sứ vụ làm mẹ của Đức Trinh Nữ này đối với những ai tin tưởng vào Chúa Kitô thực sự bắt đầu khi Chúa Giêsu nói cùng Mẹ rằng: ‘Hỡi Bà, này là con bà!’ (Jn 19:26). Từ Cây Thập Giá nhìn xuống Mẹ mình và người môn đệ yêu dấu đang ở bên Mẹ, Chúa Kitô hấp hối đã thấy được những hoa trái đầu mùa của một gia đình Người đã đến để thành lập trên thế giới, mở màn cho Giáo Hội và cho một tân nhân loại. Vì lý do này Người đã nói cùng Mẹ Maria như ‘Người Nữ’ chiứ không phải như một ‘Người Mẹ’, từ ngữ Người sử dụng để trao Mẹ cho người môn đệ của mình: ‘Này là Mẹ con!’ (Jn 19:27). Như thế, Người Con Thiên Chúa đã hoàn tất sứ vụ của mình, ở chỗ, được hạ sinh bởi Vị Trinh Nữ này để chia sẻ thân phận loài người của chúng ta trong hết mọi sự ngoại trừ tội lỗi, khi trở về cùng Cha, Người đã lưu lại trên thế gian bí tích hiệp nhất loài người (x Lumen Gentium, 1): đó là một gia đình ‘được hiệp nhất bởi mối hiệp nhất của Cha, Con và Thánh Thần’ (Saint Cyprian, "De Orat. Dom.," 23: PL 4, 536), mà tâm điểm của gia đình này là mối liên kết mới giữa Người Mẹ và người môn đệ. Bởi thế mà vai trò thiên mẫu của Mẹ Maria và vai trò làm mẹ giáo hội của Mẹ là những gì liên kết bất khả phân ly.

 

Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Hiệp Nhất

 

Bài đọc một cho thấy những gì có thể được gọi là ‘Phúc Âm’ của vị Tông Đồ Dân Ngoại, đó là tất cả mọi con người nam nữ, bao gồm cả thành phần dân ngoại, đều được kêu gọi hoàn toàn thông phần vào mầu nhiệm cứu độ trong Chúa Kitô. Đoạn văn này cũng chất chứa một diễn đạt được tôi chọn làm tâm niệm cho Chuyến Tông Du Mục Vụ của tôi, đó là “Chúa Kitô là hòa bình của chúng ta” (Eph 2:14). Đước linh ứng bởi Thánh Thần, Thánh Phaolô đã nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu Kitô chẳng những mang lại cho chúng ta bình an mà chính Người là bình an của chúng ta nữa. Rồi tah1nh nhân đã biện minh cho câu nói này của ngài bằng việc đề cập tới mầu nhiệm Thập Giá: bằng việc đổ ‘máu của Người ra’, bằng việc dâng hiến hy sinh ‘xác thịt của Người’, Chúa Giêsu đã hủy diệt hận thù ‘nơi chính bản thân mình’, và kiến tạo ‘nơi bản thân mình một con người mới duy nhất thay cho hai’ (Eph 2:14-16). Thánh Tông Đồ cắt nghĩa làm thế nào, một cách hoàn toàn không thấy trước được, niềm bình an thiên sai giờ đây đã trở thành hiện thực nơi bản thân của Chúa Kitô và nơi mầu nhiệm cứu độ của Người. Ngài đã giải thích nó bằng việc trong thời gian bị giam cầm tù ngục viết cho cộng đồng Kitô hữu sống ở đây, ở Êphêsô này: ‘cho các thánh nhân đang sống ở Êphêsô và trung thành trong Chúa Giêsu Kitô’ (Eph 1:1), như ngài nói trong lời chào thăm của Bức Thư. Vị Tông Đồ này chúc cho họ ‘ân sủng và bình an từ Thiên Chúa là là Cha của chúng ta và Chúa Giêsu Kitô’ (Eph 1:2). Ân sủng là quyền lực biến đổi con người và thế giới;  bình an là hoa trái chín mùi của việc biến đổi này. Chúa Kitô là ân sủng; Chúa Kitô là bình an.  Thánh Phaolô biết rằng ngài đã được sai đi để loan truyền một ‘mầu nhiệm’, một dự án thần linh  mà chỉthực hiện và mạc khải nơi Chúa Kitô khi thời gian viên trọn, đó là, ‘Dân Ngoại trở thành kẻ đồng thừa tự, thành chi thể của cùng một thân thể, và là những người thông phần vào lời hứa trong Chúa Giêsu Kitô nơi Phúc Âm’ (Eph 3:6). Mầu nhiệm này đã được hoàn thành, trong lịch sử cứu độ, nơi Hội Thánh, một Dân mới mà giờ đây bức tường phân rẽ đã bị phá đổ, dân Do Thái và dân ngoại được liên kết với nhau. Như chính Chúa Kitô, Giáo Hội chẳng những là dụng cụ hiệp nhất mà còn là dấu hiệu tác dụng của Giáo Hội nữa. Và Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Kitô và Mẹ Giáo Hội, là Mẹ của mầu nhiệm hiệp nhất được Chúa Kitô và Giáo Hội biểu hiệu và xây dựng, trên thế giới và qua giòng lịch sử.

 

Chúng ta hãy nài xin hòa bình cho Giêrusalem và cho toàn thế giới

 

Vị Tông Đồ Dân Ngoại nói rằng Chúa Kitô ‘đã làm cho cả hai chúng ta thành một’ (Eph 2:14): những lời này xứng hợp liên quan tới mối liên hệ giữa dân Do Thái và Dân Ngoại trong mầu nhiệm cứu độ đời đời, song những lời ấy, nếu so sánh, cũng bao gồm cả mối liên hệ giữa các dân tộc với các nền văn minh hiện nay trên thế giới. Chúa Kitô ‘đã đến để loan báo bình an’ (Eph 2:17), không chỉ giữa người Do Thái với không Do Thái, mà là giữa tất cả mọi quốc gia, vì tất cả đều có cùng nguồn gốc là Thiên Chúa, Đấng Hóa Công duy nhất  và là Chúa của vũ trụ này. Được kiên cường bởi lời Chúa, từ Êphêsô đây, một thành phố được chúc phúc bởi sự hiện diện của Rất Thánh maria – vị chúng ta biết rằng được mến yêu và tôn kính bởi các tín đồ Hồi Giáo – chúng ta hãy dâng lên Chúa lời nguyện cầu đặc biệt cho hòa bình giữa các dân tộc. Từ mép của bán đảo Anatolia này, một chiếc cầu nối thiên nhiên giữa các châu lục, chúng ta hãy nài xin bình an và hòa giải, trước hết cho những ai đang cư trú nơi Mảnh Đất được gọi là ‘Thánh’ và được coi như vậy bởi cả tín hữu Kitô Giáo, Do Thái và Hồi Giáo: nó là mảnh đất của Abraham, Isaac và Giacóp, được ấn định để làm nhà của một dân tộc trở thành phúc lành cho tất cả mọi quốc gia (x Gen 12:1-3). Bình an cho tất cả nhân loại! Chớ gì lời tiên tri của Isaia sớm được nên trọn: ‘Họ sẽ biến kiếm gươm thành lưỡi cầy, và đao thương thành lưỡi liềm; quốc gia này sẽ không vung kiếm chống lại nước kia; họ không còn biết đến chiến tranh nữa’ (2:4). Tất cả chúng ta đều cần đến thứ bình an toàn cầu này; và Giáo Hội được kêu gọi chẳng những trở thành người loan báo tin mừng ngôn sứ, mà thậm chí còn hơn thế nữa, thành ‘dấu hiệu và dụng cụ’ của thứ hòa bình này. Trước bối cảnh của bình an toàn cầu ấy, niềm khát vọng được trọn vẹn hiệp thông và hòa hợp giữa tất cả mọi Kitô hữu trở thành hết sức khẩn trương hơn bao giờ hết. Hiện diện trong Thánh lễ hôm nay có tín hữu  Công Giáo thuộc các lễ nghi khác nhau, và đây là lý do để hân hoan ca tụng Thiên Chúa. Những lễ nghi này, khi chúng qui tụ lại hiệp nhất và cùng làm chứng chung, đều là một biểu hiệu của một thứ đa dạng tuyệt vời để điểm tô cho vị Hiên Thê của Chúa Kitô. Về vấn đề này, mối hiệp nhất của các vị Bản Quyền thuộc Các Hội Đồng Giám Mục trong niềm hiệp thông và chia sẻ các nỗ lực mục vụ với nhau cần phải trở thành một tấm gương soi.

 

Ca Vịnh Ngợi Khen

 

Trong phụng vụ hôm nay chúng ta đã lập lại, như điệp khúc của Bài Thánh Vịnh Đáp Ca, bài ca chúc tụng được Trinh Nữ Nazarét xướng lên khi gặp bà chị luống tuổi Isave của mình (x Lk 1:39). Tâm hồn chúng ta cũng cảm thấy ủi an trước những lời của Thánh Vịnh gia: ‘tình yêu bền vững và lòng trung thành sẽ gặp nhau, công chính và bình an sẽ hôn nhau’ (85:10). Anh chị em thân mến, trong cuộc viếng thăm này, tôi muốn chuyển đạt lòng yêu thương riêng của tôi và sự gắn bó về tinh thần của tôi, cùng với của Giáo Hội hoàn vũ, với cộng đồng Kitô Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ này, một thiểu số nhỏ bé đang phải đối diện với nhiều thách đố và khó khăn hằng ngày. Bằng niềm tin tưởng mãnh liệt, chúng ta hãy  cùng với Mẹ Maria xướng lên bài ca chúc tụng tạ ơn Thiên Chúa là Đấng đã thương đến phận thấp hèn tôi tớ của Ngài (x Lk 1:48). Chúng ta hãy hân hoan hát lên, thậm chí cả lúc chúng ta bị thử thách  bởi những khốn khó và hiểm nguy, như chúng ta học được từ chứng từ tốt lành của  vị linh mục Rôma là Don Andrea Santoro, vị tôi hãnh diện nhắc lại trong cuộc cử hành này. Mẹ Maria dạy chúng ta rằng nguồn vui của chúng ta và sự nâng đỡ chắc chắn duy nhất của chúng ta là Chúa Kitô, và Mẹ lập lại những lời của Người: ‘Đừng sợ’ (Mk 6:50), ‘Thày ở cùng các con’ (Mt 28:20). Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội, hộ tống chúng ta luôn mãi trên bước đường của chúng ta! Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con! Aziz Meryem Mesih’in Annesi bizim icin Dua et’. Amen.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2006/documents/hf_ben-xvi_hom_20061129_ephesus_en.html

 

 

TOP

 

Vị Trí Ngôi Nhà của Đức Mẹ ở Êphêsô Thổ Nhĩ Kỳ

 

Trong chuyến tông du Thổ Nhĩ Kỳ, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI hôm Thứ Tư 29/11/2006 đã đến dâng Thánh Lễ tại một địa điểm được cho là Nhà của Đức Mẹ. Thật vậy, từ những thế kỷ đầu tiên, nhiều tác giả Kitô Giáo từ Đông sang Tây đều đã đề cập tới việc Thánh Gioan và Mẹ Maria ở trong thành phố Êphêsô này, nơi có tổng hành dinh của một trong bảy Giáo Hội được đề cập tới trong Sách Khải Huyền.

 

Thế nhưng, làm sao có thể xác quyết được nhà của Đức Mẹ. Việc tìm kiếm đã xẩy ra vào cuối thế kỷ thứ 19. Sự kiện diễn tiến như sau.

 

Vào ngày 29/7/1891, có hai vị linh mục người Pháp dòng Thánh Vinh Sơn, đó là cha Henry Jung và Eugène Poulin, đã chiều theo những lời yêu cầu liên tục của nữ tu Marie de Mandat-Grancey, bề trên của Dòng Nữ Tử Bác Ái làm việc tại một bệnh viện Pháp ở Izmir. Hai vị linh mục này khởi công tìm kiếm nhà của Đức Mẹ, căn cứ vào thị kiến của Chân Phước thần bí người Đức là Anna Katharina Emmerick (1774-1824).

 

(Biệt chú của người dịch: Nên nhớ là cuốn phim nổi tiếng “The Passion of Christ – Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô” ở Hoa Kỳ tung ra vào Mùa Chay năm 2004 cũng đã dựa truyện phim vào thị kiến của nữ chân phước này).

 

Trên giuờng bệnh của mình tại một làng ở Westphalia, nơi chị đã sống 12 năm cuối đời, nữ thần bí này đã nhận được những thị kiến về cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Những thị kiến này đã được ghi lại và xuất bản sau khi chị chết bởi tác giả người Đức tên là Clemens Brentano.

 

Hai vị linh mục trên đây, trước kia là quân nhân thuộc quân đội Pháp, đã trèo lên Bulbul Dag (‘đồi nightingale’ ở Thổ Nhĩ Kỳ) là ngọn đồi vươn cao trên đồng bằng Êphêsô.

 

Sau nhiều nỗ lực, các vị đã tìm thấy những thứ đổ nát của một ngôi nhà gần một suối nước, cách Êphêsô mấy cây số. Ngôi nhà này dường như được sử dụng như là một nguyện đường – hoàn toàn hợp với những gì được nữ thần bí chân phước diễn tả.

 

Đó là ‘Panaya uc Kapoulou Monastiri’, theo như Kitô hữu Chính Thống Giáo ở vùng này đã gọi như thế, tức là ‘Đan Viện Tam Môn Panaya, Toàn Thánh’, căn cứ vào 3 vòm cung ở tiền điện. Những Kitô hữu Hy Lạp này thường đến địa điểm này để hành hương trong tuần bát nhật lệ Mẹ Maria Sinh Thì (Mary’s Dormition), 15/8. 

 

Các vị linh mục dòng Vinh Sơn này đã thực hiện một số nghiên cứu nơi các người dân cư ở vùng này và xác định sự hiện hữu của việc tôn sùng bao thế kỷ cho rằng nơi nguyện đường đổ nát này là chỗ cư trú cuối cùng của ‘Meryem Anas’, Mẹ Maria.

 

Những cuộc nghiên cứu về khảo cổ học được thực hiện vào năm 1898 và 1899 đã làm sáng tỏ là trong những thứ tàn rụi ấy có các di tích của một ngôi nhà từ thế kỷ thứ nhất, cũng như có những thứ tàn rụi của một ngôi làng nhỏ được thiết dựng quanh ngôi nhà này từ thế kỷ thứ bảy.

 

Đức Giáo Hoàng Lêô XIII (1878-1903) tỏ ra tin tưởng vào những khám phá này và đã tái thiết lập trong Lễ Nghi Rôma một ghi chú về ngày lễ Mẹ Mông Triệu là Ephêsô có thể là nơi an nghỉ của Mẹ Maria.

 

Đền thánh Meryem Ana, mà mặt tiền được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cử hành Thánh Lễ hôm Thứ Tư 29/11/2006, đã được phục hồi vào thập niên 1950. Việc chăm sóc mục vụ ở địa điểm này được trao phó cho tu sĩ dòng Capuchin Phanxicô.

 

Ngôi Nhà Mẹ Maria này cũng đã được hai vị Giáo Hoàng Phaolô VI và Gioan Phaolô II đến kính viếng vào những lần các ngài tông du Thổ Nhĩ Kỳ 1967 và 1797. Ngôi nhà này cũng là nơi hành hương của cả tín đồ Hồi Giáo nữa, vì Mẹ Maria được Kinh Koran của họ trình bày cho thấy như là ‘người nữ duy nhất không hề bị ma quỉ chạm tới’.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 29/11/2006

 

 

TOP

 

 

"Chớ gì cuộc gặp gỡ này củng cố lòng quí mến nhau của chúng ta và lập lại việc chúng ta cùng nhau quyết tâm kiên trì tiến bước trong cuộc hành trình tiến tới chỗ hòa giải và an bình của hai Giáo Hội".

ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 29/11 – Đáp từ Đức Thượng Phụ Bartholomew I vào buổi Cầu Nguyện tại Vương Cung Thánh Đường Thánh George ở Phanar, Istanbul


’Kìa, anh em xum họp một nhà bao là tốt đẹp bao là sướng vui’ (Ps 133:1)
 

Trọng Kính Đức Thượng Phụ,

 

Tôi hết lòng cám ơn về việc tiếp đón huynh đệ giành cho tôi với tư cách cá nhân ngài cũng như với tư cách của một Tòa Thượng Phụ Toàn Cầu Chính Thống Giáo. Tôi sẽ mãi mãi ghi nhớ cử chỉ này. Tôi cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta thực hiện được cuộc hội ngộ này, với đầy những thiện chí chân thành và ý nghĩa giáo hội.

 

Tôi cảm thấy hết sức vui mừng được ở giữa những người anh em của tôi trong Chúa Kitô, nơi Vương Cung Thánh Đường này, để cùng nguyện cầu với Chúa cũng như để nhớ lại những biến cố trọng yếu đã từng bảo trì cuộc dấn thân của chúng ta trong việc hoạt động cho mối hiệp nhất trọn vẹn giữa Kitô hữu Công Giáo và Chính Thống Giáo. Trước hết tôi muốn nhắc lại quyết định can đảm trong việc xóa bỏ đi cái ký ức về những cuộc tuyệt thông nhau vào năm 1054. Bản tuyên ngôn chung của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Athenagoras, một bản tuyên ngôn được viết lên bằng một tinh thần tái ý thức yêu thương, được long trọng đọc trong một cuộc cử hành cùng một lúc tại cả Đền Thờ Thánh Phêrô ở Rôma lẫn tại Vương Cung Thánh Đường Thượng Phụ này. Câu Tomos của vị Thượng Phụ này được căn cứ vào lời tuyên xưng đức tin của Thánh Gioan: ‘Ho Theós agapé estin’ (1Jn 4:8) - Thiên Chúa là tình yêu! Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cũng đã chọn để bắt đầu cuộc Brief riêng của ngài cũng hoàn toàn xứng hợp như thế, với lời khuyến dụ của Thánh Phaolô là: ‘Ambulate in dilectione’ (Eph 5:2) – ‘Hãy tiến bước trong yêu thương’. Chính trên nền tảng yêu thương nhau này mà những mối liên hệ mới giữa hai Giáo Hội Rome và Constantinople đã phát triển.

 

Các dấu hiệu của tình yêu thương này đã được hiển nhiên nơi nhiều bản tuyên ngôn về việc quyết tâm chung cũng như nơi nhiều cử chỉ đầy ý nghĩa. Cả hai vị Giáo Hoàng Phaolô VI và Gioan Phaolô II đều đã được nồng hậu tiếp đón như những người viếng thăm Ngôi Thánh Đường Thánh George này, và đã trân trọng liên kết với các Đức Thượng Phụ Athenagoras I và Dimitrios I để củng cố động lực hướng tới chỗ tương kiến và tìm cầu mối hiệp nhất trọn vẹn. Chớ gì tên tuổi của các vị được kính nhớ và ca ngợi!

 

Tôi cũng hoan hỉ được ở trên mảnh đất liên hệ chặt chẽ với niềm tin Kitô Giáo này, nơi mà nhiều Giáo Hội đã được nẩy nở vào những thời điểm xa xưa. Tôi nghĩ đến những lời khuyến dụ của Thánh Phêrô ngỏ cùng các cộng đồng Kitô hữu ban đầu ‘ở Pontus, Galatia, Cappadocia, Asia, và Bithynis’ (1Pt 1:1), cũng như đến mùa gặt dồi dào các vị tử đạo, các thần học gia, các vị chủ chăn, các đan viện, và những con người nam nữ thánh đức xuất phát từ các Giáo Hội này qua các thế kỷ.

 

Tôi cũng đồng thời nhớ đến các vị thánh và các vị mục tử nổi nang đã từng trông coi Tòa Thánh Constantinople này, trong đó có Thánh Gregory Nazianzus và Thánh John Chrysostom, những vị cũng được Tây phương tôn kính như những vị Tiến Sĩ của Giáo Hội. Những hài tích của các vị còn tại Đền Thờ Thánh Phêrô ở Vatican, mà một phần đã được cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tặng cho Đức Thượng Phụ như dấu chỉ hiệp thông để tôn kính chính Vương Cung Thánh Đường này. Thật vậy, các ngài là những vị chuyển cầu xứng đáng cho chúng ta trước nhan Chúa.

 

Ở phần đất thuộc thế giới Đông phương này cũng là nơi đã diễn ra 7 Công Đồng Chung mà cả Kitô hữu Chính Thống Giáo và Công Giáo đều nhìn nhận là có thẩm quyền về đức tin và kỷ luật của Giáo Hội. Những Công Đồng ấy là những mốc điểm và là những chỉ dẫn lâu dài cho con đường của chúng ta tiến tới mối hiệp thông trọn vẹn.

 

Tôi xin đúc kết bằng việc bày tỏ một lần nữa niềm vui của tôi được ở cùng anh em. Chớ gì cuộc gặp gỡ này củng cố lòng quí mến nhau của chúng ta và lập lại việc chúng ta cùng nhau quyết tâm kiên trì tiến bước trong cuộc hành trình tiến tới chỗ hòa giải và an bình của hai Giáo Hội.

 

Tôi xin chào anh em trong tình yêu của Chúa Kitô. Xin Chúa luôn ở với anh em.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2006/november/documents/hf_ben-xvi_spe_20061129_bartholomew-i_en.html

 

 

TOP

 

 

"Huynh thân mến, xin chào mừng huynh. ‘Chúc tụng đấng nhân danh Chúa mà đến’".

 

ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 29/11 – Đức Thượng Phụ Bartholomew I ngỏ lời nghênh đón sau Buổi Cầu Nguyện ở Vương Cung Thánh Đường Thánh George ở Phanar, Istanbul

 

Trọng Kính Đức Thánh Cha, người Anh Em yêu dấu trong Chúa Kitô,

 

Với những tâm tình chân thành hân hoan và thỏa nguyện chúng tôi nghênh đón ngài đến với thành phố linh thánh và lịch sử Istanbul này.

 

Đây là một thành phố được tiếng là gia sản được bảo trì cho việc tăng trưởng của Giáo Hội qua các thế kỷ. Chính tại nơi đây Thánh Anrê, ‘người tông đồ đầu tiên được kêu gọi’ trong các Tông Đồ đã thành lập Giáo Hội địa phương Byzantium này và đã tấn phong Thánh Stachys làm vị giám mục tiên khởi của nó. Chính ở nơi đây mà vị Hoàng Đế và vị ‘tương đương với các Vị Tông Đồ’ là Thánh Constantine Cả đã thành lập một Tân Rôma. Chính ở nơi đây mà các Đại Công Đồng Chung của thời Giáo Hội sơ khai đã nhóm họp để hình thành bản Tuyên Xưng Đức Tin. Chính ở nơi đây các vị tử đạo và các thánh nhân, các vị giám mục và các đan sĩ, các thần học gia và các bậc thày, cùng với ‘đông đảo các chứng nhân’ đã tuyên xưng những gì được các vị tiên tri trông thấy, những gì được các vị tông đồ giảng dạy, những gì được Chúa Hội lãnh nhận, những gì được các bậc thày làm thành tín lý, những gì thế giới hiểu biết, những gì ân sủng sáng soi, tức là… chân lý được nhận lãnh, là niềm tin của cha ông. Đó là niềm tin của Chính Thống Giáo. Niềm tin này đã thiết lập vũ trụ.

 

Bởi vậy, với vòng tay rộng mở chúng tôi ngênh đón ngài nhân dịp hồng ân đến thăm Thành Phố này lần đầu tiên, như các vị tiền nhiệm của tôi là các Đức Thượng Phụ Athenagoras và Demetrios, đã tiếp đón các vị tiền nhiệm của ngài là Giáo Hoàng Phaolô VI và Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Những con người khả kính này của Giáo Hội cảm nhận được giá trị khôn lường và nhu cầu khẩn thiết về những cuộc gặp gỡ như thế trong tiến trình hòa giải bằng việc đối thoại trong yêu thương và chân lý.

 

Bởi thế, cả hai chúng ta, như những người thừa kế của các vị và là những người thừa kế Ngai Tòa Rôma và Tân Rôma, chúng ta đồng chịu trách nhiệm về những bước – dĩ nhiên như chúng ta chịu trách nhiệm về những lỡ bước – trong cuộc hành trình này cũng như trong cuộc chiến đấu của chúng ta để tuân lệnh của Chúa chúng ta đó là xin cho thành phần môn đệ của Người ‘được nên một’.

 

Chính trong tinh thần này mà nhờ ơn Chúa, chúng tôi đã nhiều lần đến viếng Rôma và hai năm trước đây để hộ tống các hài tích của Thánh Grêgôriô Thần Học Gia và Thánh Gioan Kim Khẩu, nguyên là những vị Tổng Giám Mục của Thành Phố này, những vị có thánh tích được cố Giáo Hoàng quảng đại trả về cho Vương Cung Thánh Đường Thượng Phụ này. Chính trong tinh thần ấy nữa mà chúng tôi đã đến Rôma vào những tháng sau đó để tham dự lễ an táng của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

 

Chúng tôi hết lòng cảm tạ Thiên Chúa về việc Đức Thánh Cha đã thực hiện những bước tương tự hôm nay đây với cùng một tinh thần. Chúng tôi dâng lời tạ ơn Thiên Chúa bằng lời kinh ca tụng và bày tỏ lời đa tạ cùng Đức Thánh Cha trong lòng quí mến huynh đệ.

 

Huynh thân mến, xin chào mừng huynh. ‘Chúc tụng đấng nhân danh Chúa mà đến’.

 

‘Chúc tụng Danh Chúa bây giờ và cho đến muôn đời’

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 29/11/2006

 

 

 

TOP

 

 

‘Chúng ta rất cần đến việc thực sự đối thoại giữa các tôn giáo cũng như giữa các nền văn hóa, có khả năng hỗ trợ chúng ta, trong tinh thần hợp tác hiệu năng, thắng vượt tất cả mọi thứ căng thẳng’

 

ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 28/11 – Diễn Từ ngỏ cùng Phái Đoàn Ngoại Giao ở Ankara

 

Thưa Quí Vị Đại Sứ,

Cùng Quí Bà và Quí Ông,

 

Tôi rất hân hoan gửi lời chào tới quí vị, Chư Vị Đại Sứ mang một trọng trách cao quí trong việc đại diện cho xứ sở của mình tại nước Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ, và qui tụ lại nơi đây tại Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh để gặp gỡ vị Thừa Kế Thánh Phêrô. Tôi xin cám ơn vị Phó Đoàn của quí vị là Đại Sứ nước Lebanon, về những lời lẽ tốt đẹp ngỏ cùng tôi. Tôi vui mừng tái xác nhận việc tri ân cảm tạ Tòa Thánh thường bày tỏ đối với những nhiệm vụ quan trọng được quí vị thi hành, một nhiệm vụ ngày nay đang càng ngày càng có chiều kích quốc tế. Thật vật, sứ vụ cxủa quí vị trước hết kêu gọi quí vị bảo vệ và cổ võ những thiện ích hợp lý của quốc gia riêng biệt của quí vị, ‘một thứ liên thuộc bất khả tránh mà ngày nay đang càng ngày càng liên kết các dân tộc trên thế giới lại với nhau, kêu mời những vị ngoại giao, bằng một đường lối mới mẻ và sáng tạo, trở thành những người cổ võ mối cảm thông, tình hình an ninh quốc tế và hòa bình giữa các quốc gia’ (John Paul II, Address to the Diplomatic Corps, Mexico, 29 June 1979).

 

Tôi muốn mở đầu bằng việc gợi nhớ tới những chuyến viếng thăm đáng nhớ của hai vị tiền nhiệm tôi ở Thổ Nhĩ Kỳ, đó là Giáo Hoàng Phaolô VI vào năm 1967 và Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1979. Tôi cũng không thể không đề cập tới Giáo Hoàng Biển Đức XV, một cổ động viên hòa bình không biết mệt mỏi trong thời Thế Chiến I, và Chân Phước Gioan XXIII, vị Giáo Hoàng được tiếng là ‘người bạn của dân Thổ’, vị mà sau những tháng năm làm Đại Điện Tòa Thánh ở Thổ Nhĩ Kỳ và Quản Nhiệm Tòa Thánh Hạt Latinh ở Istanbul, đã lưu lại nơi mọi người nỗi nhớ nhung về một vị mục tử ân cần và yêu thương, nhất là nhiệt tình gặp gỡ và tìm hiểu nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ, thành phần nhận ngài là một vị khách ưu ái của họ! Bởi thế tôi sung sướng được làm một người khách của nước Thổ hôm nay đây, đến đây như là một người bạn và như là một tông đồ của việc đối thoại và bình an.

 

Trên 40 năm trước đây, Công Đồng Chung Vaticanô II đã viết rằng ‘Bình an không phải chỉ là tình trạng vắng bóng chiến tranh: nó không thể trở thành một thứ bảo trì mức độ quân bình về quyền lực giữa các lực lượng đối nghịch nhau…. Mà là hoa trái của trật tự xác đáng của sự vật được vị sáng lập thần linh đã ấn định nơi xã hội loài người và là những gì cần phải được nhân loại đạt tới theo nỗi khát khao của họ mong cho công lý được hoàn toàn sáng tỏ hơn’ (Gaudium et Spes, 78). Chúng ta đã nhận thấy rằng bình an đích thực là những gì cần đến công lý, trong việc điều chỉnh những tình trạng bất quân bình về kinh tế và những hỗn loạn về chính trị luôn làm căng thẳng và đe dọa hết mọi xã hội. Những diễn tiến gần đây về tình trạng khủng bố và về những cuộc xung đột ở một miền đất nào đó, đã là những gì đề cao việc cần phải tôn trọng những quyết định của các tổ chức quốc tế, cũng như cần phải ủng hộ những quyết định ấy, đặc biệt bằng cách cống hiến cho chúng phương tiện hiệu nghiệm, hầu có thể ngăn ngừa những cuộc xung đột và duy trì những vùng trung lập giữa thành phần tham chiến, nhờ sự hiện diện của các lực lượng bảo vệ hòa bình.

 

Tuy nhiên, tất cả những điều ấy cũng chưa đủ trừ phi thực hiện một cuộc thực sự đối thoại với nhau, tức là thực hiện một cuộc tranh cãi tốt đẹp giữa những phe phái liên quan, để tiến tới những giải pháp lâu bền và khả chấp về chính trị, những giải pháp tôn trọng con người và thành phần dân chúng. Tôi đang đặc biệt nghĩ tới cuộc xung đột náo động ở Trung Đông, không có dấu hiệu hạ bớt và đang đè nặng trên toàn thể đời sống quốc tế; tôi đang nghĩ tới cái nguy cơ của những cuộc xung đột về ngoại biên đang tăng bội và những hành động khủng bố đang lan tràn. Tôi cám ơn những nỗ lực của nhiều quốc gia hiện đang dấn thân vào cuộc tái thiết hòa bình ở Lebanon, trong số đó có Thổ Nhĩ Kỳ.

 

Hỡi quí vị Đại Sứ, trước sự hiện diện của quí vị đây, một lần nữa tôi kêu gọi việc khôn ngoan tỉnh táo của cộng đồng quốc tế, đừng bỏ bê trách nhiệm của mình, trái lại, hãy hết sức cố gắng cổ võ việc đối thoại giữa các phe phái trong cuộc, một cuộc đối thoại duy nhất có thể bảo đảm việc tôn trọng kẻ khác, trong khi vẫn bảo toàn được những lợi ích hợp lý mà lại loại trừ được việc sử dụng phương tiện bạo lực. Như tôi đã viết trong sứ điệp đầu tiên của mình cho Ngày Thế Giới Hòa Bình, ‘chân lý của sự bình an kêu gọi hết mọi người hãy vun trồng những mối liên hệ bổ ích và chân thành; nó phấn khích họ tìm kiếm và theo đuổi những đường lối thứ tha và hòa giải, minh bạch trong việc đối xứ với kẻ khác, và trung thành với lời nói của họ’ (1/1/2006, đoạn 6).

 

Thổ Nhĩ Kỳ bao giờ cũng giữ vai trò như là một chiếc cầu nối giữa Đông và Tây, giữa Á Châu và Âu Châu, và như một giao điểm của các nền văn hóa và tôn giáo. Trong thế kỷ vừa qua, quốc gia này đã có cách để trở thành một đại Quốc Gia tân tiến, đáng kể ở chỗ chọn một thể chế trần thế, phân biệt rõ ràng giữa xã hội dân sự và tôn giáo, một bên có tính cách tự lập theo lãnh vực xứng hợp của mình mà vẫn tôn trọng lãnh vực của nhau. Sự kiện đa số dân chúng của xứ sở này là tín đồ Hồi Giáo là một yếu tố quan trọng trong sinh hoạt xã hội, một yếu tố mà Quốc Gia này không thể không chú trọng tới, tuy nhiên, Bản Hiến Pháp của Thổ Nhĩ Kỳ công nhận quyền lợi của hết mọi người công dân trong việc được tự do thờ phượng và được tự do theo lương tâm. Các quyền bính dân sự của hết mọi quốc gia dân chủ có phận sự phải bảo đảm quyền tự do hiệu lực này của tất cả mọi tín hữu và cho phép họ được tự do tổ chức sinh hoạt nơi các cộng đồng tôn giáo của họ.

 

Dĩ nhiên là tôi hy vọng rằng các tín hữu, bất kể họ thuộc về cộng đồng tôn giáo nào, sẽ tiếp tục được hưởng lợi ích từ các quyền lợi ấy, vì tôi tin tưởng rằng quyền tự do tôn giáo là một biểu hiệu căn bản của quyền tự do làm người và việc hiện diện chủ động của các tôn giáo trong xã hội là một mạch nguồn cho sự tiến bộ và làm phong phú cho tất cả mọi người. Dĩ nhiên điều này bao gồm việc các tôn giáo không tìm cách hành xử trực tiếp quyền lực chính trị, vì quyền này không thuộc lãnh vực của các tôn giáo, và cũng bao gồm việc các tôn giáo hoàn toàn từ khước vấn đề sử dụng bạo lực như một biểu hiệu hợp pháp của tôn giáo. Về vấn đề này, tôi cám ơn hoạt động của cộng đồng Công Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhỏ về con số nhưng hết sức dấn thân cho việc hết sức góp phần vào việc phát triển xứ sở này, nhất là về vấn đề giáo dục giới trẻ, cũng như về việc xây dựng hòa bình và hòa thuận nơi tất cả mọi người công dân.

 

Như tôi gần đây đã nhận định, ‘chúng ta rất cần đến việc thực sự đối thoại giữa các tôn giáo cũng như giữa các nền văn hóa, có khả năng hỗ trợ chúng ta, trong tinh thần hợp tác hiệu năng, thắng vượt tất cả mọi thứ căng thẳng’ (Address to the Ambassadors of Countries with a Muslim Majority, Castel Gandolfo, 25 September 2006). Cuộc đối thoại này cần phải khiến cho các tôn giáo khác nhau tiến đến chỗ hiểu biết nhau hơn và tôn trọng nhau, hầu hoạt động để làm mãn nguyện những khát vọng cao quí nhất của con người, trong việc tìm kiếm Thiên Chúa và tìm kiếm hạnh phúc. Về phần mình, vào dịp viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ này, tôi muốn lập lại lòng sâu xa quí mến của tôi đối với tín đồ Hồi Giáo, xin họ hãy tiếp tục hoạt động với nhau, trong sự tôn trọng lẫn nhau, để cổ võ phẩm vị của hết mọi người và việc tăng trưởng của một xã hội, nơi quyền tự do cá nhân và việc chăm sóc cho người khác là những gì mang lại hòa bình và an vui cho tất cả mọi người. Có thế, các tôn giáo mới có thể đóng vai trò của mình trong việc đáp ứng nhiều thách đố xã hội chúng ta đang phải đối diện. Chắc chắc là việc công nhận vai trò tích cực của các tôn giáo trong cơ cấu xã hội có thể và cần phải thúc đẩy chúng ta khám phá sâu xa hơn nữa kiến thức của các tôn giáo về con người và tôn trọng phẩm vị của họ, bằng việc lấy họ làm tâm điểm của hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Thế giới của chúng ta cần phải tiến đến chỗ nhận thức rằng tất cả mọi người đều được liên hệ với nhau bằng tình đoàn kết sâu xa, và họ cần phải được khích lệ để gìn giữ những khác biệt về lịch sử và văn hóa của họ, không phải để cạnh tranh với nhau mà là để nuôi dưỡng sự tôn kính lẫn nhau.

 

Giáo Hội, như quí vị biết, đã lãnh nhận một sứ vụ thiêng liêng từ Đấng Sáng lập của mình, và vì thế Giáo Hội không có ý định pha mình trực tiếp vào sinh hoạt chính trị hay kinh tế. Tuy nhiên, vì sứ vụ của mình và theo kinh nghiệm lâu dài của mình về lịch sử của các xã hội và các nền văn hóa, Giáo Hội muốn lên tiếng trong cuộc tranh luận quố ctế, để phẩm vị nồng cốt của con người, nhất là phẩm giá của thành phần yếu hèn nhất, bao giờ cũng được tôn kính. Trước tình trạng phát triển gần đây về hiện tượng truyền thông được toàn cầu hóa, Tòa Thánh mong thấy được cộng đồng quốc tế thực hiện vai trò dẫn lối minh bạch hơn nơi việc thiết lập những qui luật để kiểm soát tốt đẹp hơn tình trạng phát triển về kinh tế, qui định các thứ thị trường, và duy trì những thỏa ước theo vùng giữa các xứ sở với nhau. Thưa Quí Bà và Quí Ông, tôi tin tưởng rằng nơi sứ vụ của quí vị là thành phần ngoại giao, quí vị thiết tha muốn hòa hợp hóa những thiện ích đặc biệt của xứ sở quí vị với nhu cầu cần phải bảo trì những liên hệ tốt đẹp với các quốc gia khác, nhờ đó quí vị mới góp phần đáng kể vào việc phục vụ tất cả mọi người.

 

Tiếng nói của Giáo Hội trên hiện trường ngoại giao bao giờ cũng mang tính chất dấn thân của Phúc Âm trong việc phục vụ nhân loại, và tôi không chu toàn trách nhiệm cốt yếu này nếu tôi không nhắc nhở quí vị về nhu cầu cần phải luôn đặt phẩm giá của con người làm chính tâm điểm cho những mối quan tâm của chúng ta. Thế giới đang trải qua một cuộc phát triêån phi thường về khoa học và kỹ thuật, với những thành quả hầu hết liên quan tới y khoa, canh nông và việc sản xuất lương thực, mà còn tới cả việc truyền đạt kiến thức, tiến trình này không được thiếu hướng đi hay không qui chiếu về con người, khi việc phát triển ấy liên quan tới vấn đề sinh sản, giáo dục, đến cách thức sinh sống và hoạt động, đến tuổi già, hay đến sự chết. Cần phải đặt lại vị trí của tình trạng tiến bộ tân thời vào việc liên tục của lịch sử loài người chúng ta, nhờ đó hướng dẫn nó theo dự án đã được ghi khắc nơi bản tính của chúng ta đối với việc tăng trưởng của nhân loại – một dự án được diễn đạt theo những lời của Sách Khởi Nguyên như sau: ‘Hãy trổ sinh, hãy gia tăng, hãy tràn lan mặt đất và làm chủ nó’ (1:28).

 

Sau hết, khi tâm tưởng của tôi hướng về các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi được xuất phát từ mảnh đất này, nhất là đến Thánh Tông Đồ Phaolô, vị đã đích thân thành lập một số cộng đồng ấy, xin cho phép tôi đưoơc trích lại từ Bức Thư của ngài gửi cho cộng đoàn Galata: ‘Hỡi anh chị em, anh chị em được kêu gọi hưởng tự do; đừng sử dụng tự do như tạo dịp cho xác thịt mà là để phục vụ nhau trong tình yêu thương’ (5:13). Tôi thành thực hy vọng rằng những mối liên hệ tốt đẹp giữa các quốc gia, những quốc gia quí vị đang có nhiệm vụ phục vụ, cũng góp phần mỗi ngày một hơn vào việc đích thực tăng tưởng của nhân loại là thành phần được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Một đích điểm cao quí như thế cần đến việc đóng góp của tất cả mọi người.

 

Vì lý do này, Giáo Hội Công Giáo có ý định lập lại việc hợp tác của mình với Giáo Hội Chính Thống, và tôi hy vọng rằng cuộc gặp gỡ tới đây của tôi với Đức Thượng Phụ Bartholomew I ở Phanar sẽ hiệu nghiệm phục vụ cho mục tiêu ấy. Như Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhấn mạnh, Giáo Hội tìm cách côäg tác với các tín hữu và các nhà lãnh đạo của tất cả mọi tôn giáo, cách riêng với những tín đồ Hồi Giáo, để cùng nhau tất cả có thể ‘bảo trì và cổ võ hòa bình, tự do, công bình xã hội và các giá trị luân lý’ (Tuyên Ngôn Nostra Aetate, 3). Tôi hy vọng rằng, theo quan điểm ấy, cuộc hành trình của tôi đến Thổ Nhĩ Kỳ sẽ mang lại dồi dào hoa trái.

 

Quí Vị Đại Sứ, Quí Bà và Quí Ông, tôi hết lòng cầu khẩn Phúc Lành của Đấng Toàn Năng ban xuống cho quí vị, gia đình của quí vị và tất cả mọi cộng tác viên của quí vị. 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2006/november/documents/hf_ben-xvi_spe_20061128_diplomatic-corps_en.html

 

 

TOP

 

 

"Tín đồ Kitô Giáo và Hồi Giáo, theo các tôn giáo riêng biệt của mình, đều hướng về một thứ chân lý có tính chất linh thánh và về phẩm vị con người".

 

ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 28/11 – Diễn Từ ngỏ cùng Vị Giám Đốc Tôn Giáo Vụ Ali Bardakoglu cùng thành phần đại diện cộng đồng Hồi Giáo

 

Tôi xin tri ân về cơ hội được đến viếng thăm mảnh đất này, một mảnh đất rất phong phú về lịch sử và văn hóa, để ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên của nó, để đích thân chứng kiến thấy tính chất sáng tạo của nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ, và để cảm nhận nền văn hóa cổ kính cùng lịch sử lâu đời của quí vị, cả về dân sự lẫn tôn giáo.

 

Tôi vừa đến Thổ Nhĩ Kỳ thì được ưu ái tiếp đón bởi vị Tổng Thống của nước Cộng Hòa này cùng với  Đại Diện Chính Quyền. Tôi cũng rất sung sướng chào hỏi và gặp gỡ Thủ Tướng Erdogan ở phi trường. Trong việc chào hỏi các vị ấy, tôi hân hoan bày tỏ niềm cảm mến sâu xa của tôi đối với toàn thể nhân dân của xứ sở cao cả này và đến kính viếng một của vị sáng lập tân quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ là tổng thống đầu tiên Mustafa Kemal Ataturk.

 

Giờ đây tôi vui mừng được gặp gỡ ông, vị Chủ Tịch của Ban Giám Đốc Tôn Giáo Vụ. Tôi muốn bày tỏ lòng tôn kính của tôi trước những trách nhiệm lớn lao của ông, và tôi xin gửi lời chào hỏi đến tất cả mọi vị lãnh đạo tôn giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhất là Đại Tôn Muftis ở Ankara và Istanbul. Qua bản thân ông, thưa Ông Tổng Thống, tôi gửi lời chào tới tất cả mọi tín đồ Hồi Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ với lòng đặc biệt quí trọng và thân ái trân trọng.

 

Xứ sở của quí vị rất thân thương đối với Kitô hữu, vì nhiều cộng đồng Kitô hữu tiên khởi đã được thành lập ở nơi đây và đã phát triển một cách già giặn, được sinh động nhờ việc giảng dạy của các vị Tông Đồ, đặc biệt là Thánh Phaolô và Gioan. Truyền thống còn lưu lại cho chúng tôi biết rằng Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, cũng đã sống ở Êphêsô, trong ngôi nhà của Thánh Tông Đồ Gioan.

 

Mảnh đất cao quí này cũng chứng kiến thấy cả một cuộc triển nở của nền văn hóa Hồi Giáo ở những lãnh vực đa dạng nhất, bao gồm cả văn chương và nghệ thuật cũng như các cơ cấu tổ chức của tôn giáo này.

 

Có rất nhiều tượng đài của tín hữu Kitô Giáo và Hồi Giáo chứng thực cho một quá khứ lừng lẫy của Thổ Nhĩ Kỳ. Quí vị có lý để cảm thấy hãnh diện về chúng, bảo trì chúng để số khách hành hương càng ngày càng gia tăng đổ xô về đây được chiêm ngắm ca ngợi.

 

Tôi bắt đầu cuộc viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ của mình với cùng những cảm thức được diễn đạt bởi vị tiền nhiệm của tôi là Chân Phước Gioan XXIII, khi ngài đến đây với tư cách là Tổng Giám Mục Giuseppe Roncalli để hoàn thành vai trò làm Đại Diện Giáo Hoàng ở Istanbul: ‘Tôi cảm thấy mộ mến Thổ Nhĩ Kỳ là nơi Chúa đã sai tôi tới… Tôi yêu mến nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ, tôi cảm nhận được những tính chất tự nhiên của những con người đã chiếm được chỗ đứng của mình trong cuộc hành trình văn minh’ (Journal of a Soul, pp. 228, 233-4).  

 

Về phần mình, tôi cũng muốn nhấn mạnh tới các tính chất của nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ. Đến đây, tôi xin mượn lời của vị tiền nhiệm mới đây của tôi là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đáng kính nhớ, vị đã nói nhân chuyến viếng thăm của ngài vào năm 1979: ‘Tôi tự hỏi nếu không muốn nói là khẩn nài, vào chính ngày hôm nay đây khi mà tín hữu Kitô Giáo và tín hữu Hồi Giáo đã tiến vào một giai đoạn lịch sử mới, là hãy nhìn nhận và phát triển những mối liên hệ linh thiêng nối kết chúng ta lại với nhau, để cungùnhau bảo tồn và cổ võ hòa bình, tự do, công bằng xã hội và các giá trị luân lý cho thiện ích của tất cả mọi người’ (Huấn Từ cho Cộng Đồng Công Giáo ở Ankara, ngày 28/11/1979).

 

Những vấn đề này vẫn tiếp tục tồn tại qua những tháng năm từ đó tới nay; thật vậy, như tôi đã xác định ngay từ đầu giáo triều của mình, là chúng thôi thúc chúng ta hãy tiến bước thực hiện cuộc đối thoại của chúng ta một cách chân thành như bạn bè trao đổi với nhau. Khi tôi được hân hạnh gặp gỡ các phần tử của những cộng đồng Hồi Giáo ở Cologne năm ngoái vào dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới, tôi đã lập lại nhu cầu cần phải tiến tới việc thực hiện vấn đề đối thoại liên tôn và liên văn hóa một cách lạc quan và hy vọng. Nó không thể trở thành một thứ ngoại phụ tùy ý, trái lại, nó là ‘một nhu cầu thiết yếu chi phối phần lớn tương lai của chúng ta’ (Address to the Catholic Community in Ankara, 28 November 1979).

 

Tín đồ Kitô Giáo và Hồi Giáo, theo các tôn giáo riêng biệt của mình, đều hướng về một thứ chân lý có tính chất linh thánh và về phẩm vị con người. Đó là nền tảng cho việc chúng ta tỏ ra tương kính và trân quí nhau, đó là nền tảng cho việc hợp tác để phục vụ hòa bình giữa các quốc gia và dân tộc, là ước vọng thiết tha nhất của tất cả mọi tín hữu cũng như tất cả mọi con người thành tâm thiện chí.

 

Trên 40 năm qua, giáo huấn của Công Đồng Chung Vaticanô II đã tác động và hướng dẫn đường lối của Tòa Thánh và các Giáo Hội địa phương trên khắp thế giới trong những mối liên hệ với các tín đồ thuộc các tôn giáo khác. Theo truyền thống Thánh Kinh, Công Đồng này đã dạy rằng toàn thể loài người cùng có một nguồn gốc và một đích điểm, đó là Thiên Chúa, Đấng Hóa Công của chúng ta và là đích điểm của cuoôc hành trình trần thế của chúng ta. Tín hữu Kitô Giáo và Hồi Giáo thuộc về gia đình của những ai tin tưởng vào một Thiên Chúa duy nhất và là thành phần, theo các truyền thống riêng biệt của mình, mang dấu vết tổ phụ Abraham (cf. Second Vatican Council, Declaration on the Relation of the Church to Non-Christian Religions "Nostra Aetate" 1, 3). Mối hiệp nhất nhân bản và thiêng liêng này nơi nguồn gốc của chúng ta cũng như nơi đích điểm của chúng ta thúc đẩy chúng ta hãy tìm kiếm một đường lối chung khi chúng ta đóng vai trò của mình trong việc tìm cầu những giá trị nền tảng rất chuyên biệt của con người thuộc thời đại chúng ta. Lầnhững con người nam nữ đạo giáo, chúng ta cảm thấy bị thách thức trước niềm mong mỏi rộng rãi muốn có được công lý, phát triển, đoàn kết, tự do, an ninh, hòa bình, bênh vực sự sống, bảo vệ môi trường và các nguồn nhiên liệu của trái đất. Cũng vì chúng ta, trong khi tôn trọng quyền tự lập hợp pháp của các trần thế vụ, cần phải đặc biệt góp phần để tìm kiếm những giải pháp xứng hợp cho những vấn đề khẩn thiết ấy. 

 

Trước hết, chúng ta có thể đáp ứng một cách khả tín cho vấn đề xuất phát một cách rõ ràng từ xã hội ngày nay, cho dù nó thường được lướt qua, vấn đề về ý nghĩa và mụch đích của đời sống, đối với mỗi cá nhân con người cũng như đối với toàn thể nhân loại. Chúng ta được kêu gọi để cùng nhau làm việc, hầu giúp cho xã hội hướng tới siêu việt thế, trả về cho Thiên Chúa Toàn Năng vị trí đích thực của Ngài. Đường lối tiến tới hay nhất đó là bằng việc đối thoại chân thực giữa tín đồ Kitô Giáo và Hồi Giáo, căn cứ vào chân lý và được thúc đẩy bởi chân thành muốn hiểu biết nhau, tôn trọng những khác biệt và nhìn nhận những gì chúng ta có chung. Điều này sẽ dẫn tới chỗ tôn trọng thực sự đối với những chọn lựa hữu trách nơi mỗi người, nhất là những gì liên quan tới các giá trị nền tảng và đến niềm xác tín về tôn giáo riêng tư của họ.

 

Để chứng minh về việc tôn trọng huynh đệ là những gì có thể giúp cho tín đồ Kitô Giáo và Hồi Giáo làm việc với nhau, tôi xin trích lại một số lời của Giáo Hoàng Grêgôriô VII năm 1076 ngỏ cùng một ông hoàng Hồi Giáo ở Bắc Phi Châu, vị đã tỏ ra rất nhân ái độ lượng đối với tín đồ Kitô Giáo thuộc thẩm quyền của ông. Giáo Hoàng Grêgôriô đã nói về đức bác ái đặc biệt mà tín đồ Kitô Giáo và Hồi Giáo mặc nợ nhau ‘vì chúng ta tin vào một vị Thiên Chúa duy nhất, cho dù qua các cách thức khác nhau, và vì chúng ta ca ngợi Ngài và tôn thờ Ngài hằng ngày là Đấng Hóa Công và là Vị Cai Trị thế giới’.

 

Tự do tôn giáo, một quyền tự do được bảo đảm và hiệu nghiệm tôn trọng về cơ cấu trong thực hành, đối với cả cá nhân cũng như các cộng đồng, là những gì tạo nên cho tất cả mọi tín hữu điều kiện thiết yếu cho việc họ trung thành góp phần xây dựng xã hội, bằng một thái độ phục vụ chân thực, nhất là đối với thành phần yếu kém và nghèo nàn nhất.

 

Thưa Ông Chủ Tịch, tôi xin kết thúc bằng việc chúc tụng vị Thiên Chúa Tòan Năng và xót thương về cơ hội may mắn này để mang chúng ta lại với nhau vì danh Ngài. Tôi nguyện cầu để nó trở thành dấu hiệu của việc dấn thân chung của chúng ta trong vấn đề đối thoại giữa các tín đồ Kitô Giáo và Hồi Giáo, và là một phấn khích trong việc kiên trì tiến theo con đường này một cách tôn trọng và thân tình. Chớ gì chúng ta tiến đến chỗ hiểu biết nhau hơn, củng cố những nối kết tình cảm giữa chúng ta trong cùng một ước vọng chúng sống trong hòa thuận, bình an và tin tưởng nhau. Là thành phần tín hữu, chúng ta kín múc từ việc nguyện cầu của mình sức mạnh cần thiết để thắng vượt tất cả mọi dấu vết thành kiến và cùng minh chứng cho niềm tin mãnh liệt của chúng ta nơi Thiên Chúa. Chớ gì ơn phúc của Ngài mãi mãi ở với chúng ta!


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2006/november/documents/hf_ben-xvi_spe_20061128_pres-religious-affairs_en.html

 

 

 

TOP

 

 

Ý hướng của vị Chủ Tịch Ban Giám Đốc Tôn Giáo Vụ Thổ Nhĩ Kỳ ngỏ lời cùng ĐTC Biển Đức XVI

 

Sau đây là một số tư tưởng chính yếu của ông Ali Bardakoglu, chủ tịch ban giám đốc tôn giáo vụ, trong bài chào mừng Đức Thánh Cha Biển Đức XVI:

 

“Các tôn giáo là nguồn mạch bình an.

 

“Từ Abraham tới Moisen, từ Đức Giêsu tới Mohammed, tất cả mọi tiên tri đều nói về sứ điệp hòa bình và cứu độ này và biến mình thành những người cưu mang trọng trách ấy.

 

“Hãy theo bước chân sáng tỏ của các vị và gánh vác tránh nhiệm rất cao cả mang sứ điệp bình an và cứu độ này cho tất cả nhân loại.

 

“Chỉ có thế chúng ta mới thành đạt trong việc chiếm hữu được một nền hòa bình bền bỉ trên thế giới này.

 

“Tìn đồ Hồi Giáo chúng tôi tìm cách bảo vệ tất cả mọi gia sản về văn hóa và tôn giáo ấy là những gì hiện hữu nơi xứ sở của chúng tôi và chúng tôi coi nó như là một trong những trách nhiệm chính yếu của mình.

 

“Con người nào (trong xã hội ngày nay sặc mùi duy vật chủ nghĩa) vẫn còn cảm thấy lẻ loi cô độc và buồn tẻ càng cần đến tôn giáo hơn là trong quá khứ.

 

“Sự kiện tất cả chúng ta đều là con cái của Abraham phải làm cho chúng ta nhận thấy được tính cách đa dạng về chủng tộc, tôn giáo và văn hóa như là một cái gì phong phú giúp vào việc hiểu biết nhau hơn.

 

“Vì thế, thành phần lãnh đạo tôn giáo chúng ta có một trách nhiệm quan trọng. Thế nhưng, chúng ta không được tìm cách bảo tồn nguyên tắc của tôn giáo mình, chúng ta cũng cần phải tìm cách làm cho nguyên tắc ấy được hiểu rằng cái tính cách đa dạng về tôn giáo, chủng tộc và văn hóa này là những gì phong phú theo như ý định của Thiên Chúa.

 

“Đó chắc chắn sẽ là một nền tảng lành mạnh cho việc xây dựng hòa bình vậy.

 

“Không đặt mình vào vị trí cho rằng tôn giáo của người này hay hơn của người kia, thành phần đại diện tôn giáo cần phải liên hợp nỗ lực của mình để tạo nên một nền tảng lành mạnh cho hòa bình.

 

“Tuyệt đối lên án tất cả mọi thứ bạo lực phạm đến nhân loại, bất kể từ đâu tới. Chúng tôi thuộc về một tôn giáo coi việc sát hại một con người vô tội là sát hại toàn thể nhân loại.

 

“Chúng tôi chống lại cái ám ảnh về Hồi Giáo cứ tìm cách cho rằng Hồi Giáo là nguồn gốc gây ra tất cả mọi thứ võ lực và các hành vi ghe tởm. Tất cả mọi tín đồ Hồi Giáo cảm thấy hết sức khổ tâm về những điều cáo giác này.

 

“Tạo cơ hội âm vang cho những thứ đường lối gây tổn thương này sẽ là những gì vô tình và có lẽ gián tiếp chuyển thành việc hỗ trợ cho thành phần tác giả gây ra bạo lực.

 

“Tất cả mọi cuộc đổ máu ở Trung Đông và tất cả mọi lực lượng tìm cách cho thấy các tôn giáo là nguồn mạch của những cuộc xung đột ấy là những gì thậm chí lại càng làm cho sứ vụ của chúng ta trở nên khó khăn hơn.

 

“Thế giới tân tiến này cần phải đương đầu một cách thê thảm với một cuộc khủng hoảng về luân lý và nhân bản, một cuộc khủng hoảng gây náo động tâm thần của tất cả mọi người. Tôn giáo của chúng ta chất chứa nơi mình các giải đáp và giải quyết cho những thứ bệnh hoạn này.

 

Loại trừ tình trạng bất công nữ giới phải đương đầu, kiến tạo một bầu khí lành mạnh cho con em của chúng ta tăng trưởng, giúp cho giới trẻ thoát khỏi cái ách nghiện thuốc phiện v.v. Những vấn đề ấy có thể thắng vượt bằng việc chúng ta hợp tác với nhau”.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 29/11/2006

 

 

TOP

 

“Tôi thực sự muốn đến Thổ Nhĩ Kỳ vì Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành một chiếc cầu nối …. giữa các tôn giáo. Tôi muốn tái tấu tình đoàn kết giữa các nền văn hóa. Đó là nhiệm vụ của chúng ta”.

 

ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 28/11 – được nghênh đón tại phi trường và đến viếng thăm Đài Tượng Niệm Mausoleum

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã đặt chân xuống phi trường quốc tế Esenboga ở Ankara Thổ Nhĩ Kỳ vào lúc 1 giờ trưa địa phương và đã được chính vị Thủ Tướng nước này là Recep Tayyip nghênh đón trong vòng 20 phút.

 

Hai người đã bắt tay nhau và bước đi trên nền thảm đỏ dẫn tới một căn phòng trưng bày bức chân dung của vị thiết lập nền Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ tân tiến vào năm 1923.

 

Vị thủ tướng này lúc đầu không tính gặp ĐTC đã nói cùng ngài khi nghênh đón ngài rằng: “Tôi muốn bày tỏ niềm hạnh phúc của chúng tôi khi thấy ngài và phái đoàn đại biểu của ngài nơi xứ sở của chúng tôi”.

 

Ông cũng nói với ĐTC rằng việc ngài đến viếng thăm quốc gia của ông diễn ra “vào một thời điểm rất quan trọng”. Ở đây ông đặc biệt có ý nói tới dự án về Liên Hiệp Các Nền Văn Minh mà ông đang đảm trách cùng Tổng Thư Ký LHQ Kofi Annan, và Thủ Tướng Tây Ban Nha José Luis Rodríguez Zapateno, và là một dự án sẽ được trình bày vào tháng tới tại Tổng Hành Dinh LHQ ở Nữu Ước.

 

Kết thúc cuộc nghênh đón với sự tham dự của các nhân vật cao cấp đôi bên, vị Thủ Tướng và ĐTC đã trao đổi tặng vật cho nhau. 

 

Mở đầu cuộc nghênh đón, vị Thủ Tướng đã lên tiếng xin lỗi ĐTC vì không thể tiếp ngài lâu hơn, bởi việc ông cần phải tham dự thượng nghị NATO được tổ chức vào hôm nay và ngày mai ở Riga, nước Latvia.

 

Trước khi đến phi trường để nghênh đón ĐTC, vị thủ tướng nói với thành phần lập pháp thuộc đảng sùng Hồi Giáo trong quốc hội rằng ông hy vọng nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tỏ ra lịch thiệp với vị giáo chủ này, và chuyến viếng thăm của ngài sẽ là những gì cổ võ nền hòa bình thế giới:

 

“Chúng ta hy vọng rằng chuyến viếng thăm này sẽ góp phần tiến triển mối liên kết các nền văn minh và hòa bình thế giới. Là một quốc gia và một xứ sở, chắc chắn chúng ta sẽ tỏ ra hiếu khách theo truyền thống của mình đối với Giáo Hoàng Biển Đức XVI”.

 

Sau cuộc nghênh đón ĐTC, ông cho biết rằng vị giáo hoàng đã nói là ngài ủng hộ việc Thổ Nhĩ Kỳ muốn xin gia nhập Khối Hiệp Nhất Âu Châu. 

ĐTC đã nói với Thủ Tướng Thổ Nhĩ Kỳ rằng: “Tôi thực sự muốn đến Thổ Nhĩ Kỳ vì Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành một chiếc cầu nối …. giữa các tôn giáo. Tôi muốn tái tấu tình đoàn kết giữa các nền văn hóa. Đó là nhiệm vụ của chúng ta”.

 

Sau khi được nghênh đón ở phi trường, ĐTC đã đi xe tới đài tưởng niệm lưu giữ hài cốt của vị tổng thống tiên khởi của nền cộng hòa tân tiến Thổ Nhĩ Kỳ, vị đã sống từ năm 1881 đến năm 1938.

 

Tại đây, ngài đã đặt một vòng hoa cạnh đài tưởng niệm rồi ký vào cuốn sách viếng thăm, đoạn viết bằng Anh ngữ câu sau đây:

 

“Nơi mảnh đất này, một tụ điểm của các tôn giáo và văn hóa khác nhau và là chiếc cầu nối giữa Á Châu và Âu Châu, tôi hân hoan lập lại những lời lẽ của vị sáng lập Nền Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ: ‘Hòa Bình ở Quê Hương, Hòa Bình trên Thế Giới’”.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenitvà CNN phổ biến ngày 28/11/2006

 

 

 

TOP

 

 

Lịch Trình chuyến tông du của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tới Thổ Nhĩ Kỳ

 

Sau đây là lịch trình cho chuyến tông du thứ 5 sắp tới của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tới Thổ Nhĩ Kỳ, do văn phòng báo chí của Tòa Thánh chính thức phổ biến.

 

9 giờ sáng Thứ Ba, 28/11/2006, ngài lên máy bay ở Phi Trường Fiumicino ở Rôma, và sẽ tới phi trường Esenboga ở Ankara, thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ, vào lúc 1 giờ trưa giờ địa phương.

 

Đầu tiên ngài sẽ viếng thăm Mausoleum ở Ataturk, ‘Cha của Người Thổ’, vị công bố cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ năm 1923. Sau đó là lễ nghi nghênh đón ngài và cuộc ngài viếng thăm Tổng Thống Thổ Nhĩ Kỳ Ahmet Necdet Sezer.

 

Đoạn Đức Giáo Hoàng sẽ gặp vị phó thủ tướng trước khi gặp vị chủ tịch tôn giáo vụ là Ali Bardokoglu, vị Đại Giáo Sĩ có thẩm quyền cao nhất Hồi Giáo tại các tổng hành dinh của ông, và phái đoàn ngoại giao ở Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh. Ngài sẽ đọc bài diễn từ cho từng cuộc gặp gỡ này.

 

Ngày hôm sau ngài sẽ đến Smyrna, thành phố lớn thứ ba của xứ sở này, được gọi là ‘Hòn Ngọc của Người Aegean’, từ đó ngài sẽ đến Êphêsô, thành phố Tông Đồ Phaolô đã sống và bị bắt giữ, và cũng là nơi theo truyền thống, Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Ký Gioan đã sống.

 

Ở Êphêsô, ngài sẽ cử hành Thánh Lễ ở Đền Thánh Meryem Ana Evi (Nhà của Mẹ Maria) và thuyết giảng. Chính tại thành phố này đã diễn ra một Công Đồng Chung năm 431 công bố Trinh Nữ Maria là ‘Theotokos’ – Mẹ Thiên Chúa.

 

Vào chiều hôm Thứ Tư cùng ngày, ngài sẽ bay từ Smyrna đến Istanbul – trước đây là Constantinople – nơi ngài sẽ viếng thăm và nguyện cầu ở Thánh Đường Thượng Phụ Thánh George và gặp riêng Đức Thượng Phụ Chính Thống Hoàn Vũ Bartholomew I. Ngài sẽ chào vị thượng phụ này tại tổng hành dinh của vị ấy.

 

Sáng Thứ Năm, 30/11, ngài sẽ tham dự Phụng Vụ Thánh tại Thánh Đường Thượng Phụ Thánh George ở Istanbul. Ngài sẽ đọc bài diễn từ và ký một bản tuên ngôn chung. Như thế ngài hoàn tất mục tiêu chính yếu của chuyến tông du này, đó là việc đáp lại lời mời của Đức Thượng Phụ Bartholomew để tham dự lễ Thánh Anrê, quan thày của tòa thượng phụ, được cử hành vào ngày 30/11.

 

Sau lễ nghi này, ngài sẽ dùng bữa trưa với Đức Thượng Phụ Bartholomew I ở tòa thượng phụ. Chiều, ngài sẽ viếng thăm Bảo Tàng Viện Thánh Sophia.

 

Ngài sẽ đến vương cung thánh đường Tòa Thánh Armenia, nơi ngài sẽ cầu nguyện và gặp gỡ cùng chảo hỏi Thượng Phụ Mesrob I. Buổi chiều cùng ngày ngài sẽ gặp vị tổng giám mục Chính Thống Syria và tôn sư trưởng Do Thái ở Thổ Nhĩ  Kỳ.

 

Sau cùng ngài sẽ gặp gỡ và dùng bữa tối với các phần tử của hội đồng giám mục Công Giáo. Thứ Sáu 1/12, ngài sẽ chủ tọa Thánh Lễ ở Vương Cung Thánh Đường Thánh Linh và giảng thuyết. Đó là điểm hẹn cuối cùng của ngài, sau đó ngài sẽ ra phi trường của thành phố này, sau khi tạ từ, lên máy bay lúc 1 giờ 15 chiều về lại Rôma.

 

Ngài là vị giáo hoàng Rôma thứ ba đến thăm Thổ Nhĩ Kỳ, nơi có 99 % Hồi Giáo trong 70 triệu dân và chỉ có .04% Công Giáo, sau Đức Phaolô VI năm 1967 và Gioan Phaolô II năm 1979.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 12/11/2006

 

 

TOP

 

 

Chuyến tông du Thổ Nhĩ Kỳ: hướng về biến cố, tình hình phản hồi và mục tiêu tông du

 

Hướng về biến cố

 

Sau Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 16/11/2006, Đức Thánh Cha Biến Đức XVI đã đề cập tới chuyến tông du của ngài tới Thổ Nhĩ Kỳ như sau:

 

“Anh chị em thân mến: Như anh chị em đã biết là vào mấy ngày nữa đây tôi sẽ đến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ. Từ giây phút này, tôi muốn gửi lời chào thân ái tới nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ thân yêu, một dân tộc có cả một sự phong phú lớn lao về lịch sử và văn hóa. Tôi xin bày tỏ lòng cảm mến và chân tình với quốc gia này cùng quí vị đại diện của quốc gia ấy.

 

“Với lòng cảm mến, tôi muốn gặp gỡ cộng đồng Công Giáo, một cộng đồng luôn được ấp ủ trong lòng tôi, và hiệp nhất tình huynh đệ với Giáo Hội Chính Thống, nhân dịp Lễ Thánh Tông Đồ Anrê.

 

“Bằng niềm tin tưởng, tôi muốn theo gót các vị tiền nhiệm của tôi là Đức Phaolô VI và Gioan Phaolô II, và tôi xin Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII từ trên trời bảo vệ, vị đã là khâm sứ của Tòa Thánh 10 năm ở Thổ Nhĩ Kỳ với đầy lòng quí mến và trân trọng đất nước ấy. Tôi xin tất cả mọi anh chị em hãy đồng hành với tôi bằng lời nguyện cầu để chuyến hành trình này mang lại nhiều kết quả theo ý Chúa”.

 

Tình hình phản hồi

 

Thật vậy, kể từ sau lời ngài trích dẫn ở bài nói tại Đại Học Regensburg hôm Thứ Ba 12/9/2006 trong chuyến tông du Bavaria Đức Quốc vào thời khoảng 9-14/9/2006, một lời trích dẫn liên quan tới Hồi Giáo, ngài đã bị thế giới Hồi Giáo kịch liệt phản đối, nhất là đã bị nhóm khủng bố Al Queda đe dọa sát hại mạng sống của ngài.

 

Trước tiên, hậu quả trước mắt là một nữ tu dòng Consolata là Leonella Sgorbati, người Ý, 65 tuổi, đã bị bắn chết ngày 17/9/2006 ở Somalia, và một linh mục Chính Thống Giáo ở Iraq là Amer Iskender đã bị chặt đầu hôm 11/10.

 

Còn ở chính Thổ Nhĩ Kỳ, hôm 1/11/2006, một thanh niên 26 tuổi tên là Ibrahim Ak đã bắn 4 phát súng chỉ thiên trước Tòa Lãnh Sự Ý ở Istanbul.

 

Một trong những cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất ở xứ sở này của tác giả Yucel Kaya là cuốn “Tấn Công Giáo Hoàng: Ai sẽ Giết Chết Biển Đức XVI ở Istabul?”

 

Vị thủ tướng và bộ trưởng tôn giáo vụ đều tìm cách thoái thác việc gặp gỡ Đức Thánh Cha.

 

Đảng Saadet ở nước này đã tổ chức nhiều cuộc xuống đường, nhất là vào hôm thứ Tư 22/11/2006, đã chiếm đóng nhà thờ St. Sophia ở Haghia như để ngăn chặn không cho ngài đến cầu nguyện tại đây.

 

Vậy chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI thành công hay thất bại?

 

Vị Giám Mục đại diện Tòa Thánh ở Anotolia là Luigi Padovese đã nói với mạng điện toán toàn cầu Zenit hôm Thứ Hai, 27/11/2006, áp ngày của cuộc Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tông du Thổ Nhĩ Kỳ, rằng:

 

“Tất cả mọi thứ sửa soạn cho cuộc gặp gỡ Đức Thánh Cha đã kết thúc. Các cuộc xuống đường hôm Chúa Nhật ở Istanbul và Bursa đã có một tác dụng phản hồi đối với những ai tìm cách thực hiện một cuộc phản đối tập thể.

 

“Trái lại, chúng góp phần vào việc lôi kéo quần chúng chú ý hơn nữa tới việc viếng thăm của Đức Thánh Cha...

Vấn đề đáng lưu ý ở đây là tất cả các tờ nhật báo quốc gia quan trọng nhất thuật lại cuộc xuống đường này đều đề cập tới những lời được Đức Giáo Hoàng nói hôm Chúa Nhật trong buổi Nguyện Kinh Truyền Tin.

 

“Sự đổi thay này đã góp phần vào việc làm dịu đi những thứ căng thẳng trong những tuần qua. Hiển nhiên là con mắt của thế giới giờ đây đang chú trọng tới Thổ Nhĩ Kỳ và đây là một cơ hội độc đáo để nó tỏ ra cho thấy bộ mặt dân chủ và dân sự của quốc gia này.

 

“Giờ đây tất cả những gì chúng ta có thể làm là nguyện cầu để mọi sự được xuôi may. Từ những dấu chứng tôi thấy được, tôi tin rằng đây là lần đầu tiên một chuyến đi của Đức Thánh Cha được nhiều lời nguyện cầu như thế”.

 

Tới giây phút chót, vị thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ là Recep Tayyip Erdogan, vị thành lập Đảng phò Hồi Giáo Cho Công Lý và Phát Triển vào năm 2001 nhờ thế đã thắng cuộc tuyển cử quốc hội năm 2002, vị đã có ý định tránh gặp Đức Thánh Cha lấy cớ phải đi họp NATO ở Latvia vào Thứ Ba và Thứ Tư tuần này, đã quyết định nghênh đón Đức Thánh Cha tại phi trường quốc tế Esemboga ở Ankara.

 

Mục tiêu tông du

 

Chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI có 3 mục tiêu, một về mục vụ, một về đại kết và một về đối thoại liên tôn.

 

Về mục tiêu mục vụ, ngài đến để củng cố đức tin cho cộng đồng Công Giáo nhỏ bé ở đây, một cộng đồng theo 4 lễ nghi khác nhau là Latinh, Công Giáo Armenia, Công Giáo Syria và Chaldea. Tổng số người Công Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ, một quốc gia có 72 triệu dân và 99% Hồi Giáo, là 32 ngàn người, tức 0.04% trong tổng số dân. Cộng Đồng Công Giáo nhỏ bé ở đây có 47 giáo xứ, được trợ giúp bởi 6 vị giám mục, 13 linh mục triều, 55 linh mục dòng, 4 thày phó tế, 12 nam tu (không chức linh mục), 84 nữ tu, 8 truyền giáo giáo dân và 28 giáo lý viên. Ở Thổ Nhĩ Kỳ người Công Giáo không được nhìn nhận theo pháp lý.

 

Đức Thánh Cha sẽ cử hành 2 Thánh Lễ với tín hữu Công Giáo: lễ một vào Thứ Tư ở đền Thánh Mẫu quốc gia ở Meyem Ana Evi, tức là nhà của Maria Mẹ Chúa Giêsu, ở Êphêsô, thành phố diễn ra việc Công Đồng Chung Êphêsô công bố thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Mẹ. Thánh Lễ thứ hai sẽ được cử hành vào Thứ Sáu, ngày cuối cùng của chuyến tông du, ở Vương Cung Thánh Đường Công Giáo mang tên Thánh Linh.

 

Về mục tiêu đại kết, ngài sẽ đến Istanbul để đáp lời mời của Đức Thượng Phụ Hoàn Vũ ở Constantinople là Bartholomew I, vị đã hiện diện vào lúc mở màn cho giáo triều của ngài. Qua việc viếng thăm này, ngài muốn củng cố một trong những ưu tiên của ngài là tìm cách thực hiện cuộc đại kết Kitô Giáo, như ngài đã minh định trong bài giảng của ngài với hồng y đoàn ở Nguyện Đường Sistine hôm 20/4/2005 ngay sau ngày ngài được bầu làm giáo hoàng.

 

Đó là lý do vào hôm Thứ Tư 29/11, ngài sẽ tham dự một cuộc họp nguyện cầu và đối thoại với vị giáo phụ Chính Thống Giáo này. Tột đỉnh của chuyến viếng thăm này sẽ diễn ra vào Thứ Năm là thời điểm ngài viếng thăm vị thượng phụ hoàn vũ để cử hành mừng Lễ Thánh Anrê là người anh em của Thánh Phêrô.

 

Sau khi ngài tham dự Giờ Thần Vụ là một cuộc cầu nguyện ngắn chung và trưng bày một phiến đá tưởng niệm ba vị Giáo Hoàng đã viếng thăm tòa thượng phụ này là Đức Gioan XXIII, như vị đại diện tòa thánh, Đức Phaolô VI và Gioan Phaolô II. Biến cố đại kết này sẽ được kết thúc bằng việc đọc và ký kết một bản tuyên ngôn chung giữa Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI và Đức Thượng Phụ Batholomew I.

 

Trong cùng ngày giành cho Đại Kết này, ngài sẽ viếng thăm cả Đức Thượng Phụ Mesrob II Mutafyan, ở tổng hành dinh của Thượng Phụ Tông Tòa Armenia. Đây là một trong 15 Giáo Hội Chính Thống Giáo chưa hoàn toàn hiệp nhất với Giáo Hội Rôma, mặc dù trong các thập niên gần đêy đã có những bước tiến khả quan trong việc tiến đến mục tiêu đại kết.

 

Mục tiêu đại kết còn khiến ngài tiếp cả vị Tổng Giám Mục Chính Thống Syria và một số vị lãnh đạo cộng đồng Tin Lành.

 

Về mục tiêu liên tôn với Hồi Giáo nhân chuyến viếng thăm một quốc gia hầu như toàn tòng Hồi Giáo này, vào hôm Thứ Ba, ngài sẽ viếng thăm Mausoleum of Mustafa Kemal Ataturk (1881-1938), vị sáng lập và là vị tổng thống tiên khởi cho nên cộng hòa tân tiến của Thổ Nhĩ Kỳ.

 

Sau cuộc gặp gỡ các vị lãnh đạo chính quyền, ngài ngỏ lời củng vị chủ tịch tôn giáo vụ của xứ sở này, có thể bao gồm những gì liên quan tới việc đối thoại và chung sống giữa các tín đồ Hồi Giáo vàtín đồ  Kitô Giáo.

 

Để tỏ lòng tôn kính Hồi Giáo, ngài đã yêu cầu được đến viếng thăm Đền Thờ Xanh vào chiều Thứ Năm, một đền thờ lớn nhất ở Istanbul. Mục đích đối thoại liên tôn còn dẫn ngài sẽ đến thăm Vị Đại Tôn Sư của Thổ Nhĩ Kỳ cuùg ngày sau đó nữa.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp theo VIS và Zenit 

 

 

TOP

 

 

Chuyến Tông Du vẫn tiếp tục bị trục trặc ở Thổ Nhĩ Kỳ

 

Vị đại diện Tòa Thánh ở Anatolia Thổ Nhĩ Kỳ là ĐGM Luigi Padovese, 59 tuổi, cho dù lạc quan và trấn an dư luận, nhưng cũng không thể giấu diếm được những gì đang xẩy ra tại quốc gia sắp được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sang viếng thăm vào thời khoảng 28/11-1/12/2006 tới đây.

 

Trước hết là sự kiện vị Thủ Tướng nước này hầu như không thể có mặt trong cuộc viếng thăm của ĐTC liên quan tới vấn đề tranh cử sắp tới, sau nữa đến vị Bộ Trưởng Tôn Giáo Vụ cũng muốn lánh mặt trong cuộc tông du của Đức Thánh Cha. 

 

Chưa hết, hôm 1/11/2006, một thanh niên 26 tuổi tên là Ibrahim Ak đã bắn 4 phát súng chỉ thiên trước Tòa Lãnh Sự Ý ở Istanbul để chống lại chuyến viếng thăm của vị Giáo Hoàng đương kim.

 

Còn nữa, một trong những cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất ở xứ sở này của tác giả Yucel Kaya là cuốn “Tấn Công Giáo Hoàng: Ai sẽ Giết Chết Biển Đức XVI ở Istabul?” - "Attack on the Pope: Who Will Kill Benedict XVI in Istanbul?"

 

Về những phát súng chỉ thiên, vị giám mục đại diện tòa thánh cho mạng điện toán toàn cầu Zenit biết rằng: “Tôi nghĩ là không cần quan trọng thái quá tới những hành động chụp bắt sự chú ý như hành động ấy. Việc chú trọng thái quá tới những thứ xẩy ra như thế của một số báo chí Thổ Nhĩ Kỳ chỉ đổ thêm dầu vào lửa căng thẳng, và tôi chưa nói đến việc nó còn làm phát sinh thêm những hành vi khác đại loại như thế”.

 

Về việc vị Bộ Trưởng Tôn Giáo Vụ không muốn gặp Đức Thánh Cha, vị giám mục cho biết: “Tôi lấy làm tiếc xót vì ngoài vị Thủ Tướng Recep Tayyip Erdogan ra, vị Bộ Trưởng Mehmet Aydin cũng sẽ vắng mặt nữa, vị cũng xuất hành ra khỏi nước. Tôi không đặt vấn đề gì về sự vắng mặt này, một sự vắng mặt dầu sao cũng có vẻ ngộ nghĩnh làm sao ấy, vì vị Giáo Hoàng đến Thổ Nhĩ Kỳ không phải chỉ với tư cách là một quốc trưởng mà còn là một vị lãnh đạo tôn giáo nữa”.

 

“Căn cứ vào đó thì dường như về phía quần chúng không cảm nhận việc viếng thăm của Đức Thánh Cha, những cử chỉ như thế – bất kể thực sự có lý chăng nữa, thứ lý lẽ cần phải được kể đến – có thể được hiểu là một cách thức muốn tỏ ra cách biệt”.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/11/2006

 

 

TOP

 

 

Thủ Tướng Thổ Nhĩ Kỳ có thể sẽ vắng mặt dịp tông du

 

Thủ Tướng Thổ Nhĩ Kỳ là Recep Tayyip Erdogan có thể sẽ vắng mặt trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đến nước này vào thời khoảng 28/11-1/12/2006, vì ông phải tham dự thượng nghị NATO ở Latvia. Giữa những vấn đề được truyền thông đặt ra quanh vụ này, văn phòng báo chí của Tòa Thánh đã phổ biến một bản tuyên cáo để cho biết tự sự.

 

Theo bản tuyên cáo này thì “đã được báo cho biết trước đây – trong khi đang sửa soạn cho chuyến tông du – về việc trùng hợp với trách nhiệm quan trọng của vị thủ tướng này vào dịp thượng nghị NATO”.

 

Tuy nhiên, Tòa Thánh cũng được cho biết rằng “vị lãnh đạo chính quyền này cố gắng ở Thổ Nhĩ Kỳ để gặp gỡ Đức Thánh Cha, nhưng không bảo đảm”. “Trong trường hợp vắng mặt”, vị thủ tướng này nói rằng: “ông sẽ được đại diện bởi một vị thẩm quyền quan trọng khác, tức là bởi vị phó thủ tướng”.

 

Theo bản thảo cho chương trình của chuyến tông du này thì ĐTC sẽ gặp Tổng Thống Ahmet Necdet Sezer; và Đại Giáo Trưởng Mufti Ali Bardokoglu là thẩm quyền tôn giáo cao nhất của xứ sở này; vị Thượng Phụ Hoàn Vũ ở Constantinople là Bartholomew I, và Thượng Phụ Armenia là Mesrop II Mutafyan.

 

Tronmg cuộc phỏng vấn với tờ nhật báo Ý là II Corriere della Sera hôm Thứ Hai 30/10/2006, vị chủ tịch của hội đồng giám mục Thổ là ĐTGM Ruggero Franseschini ở Izmir, đã nhìn nhận là có thể có những lý do chính trị về việc vắng mặt của vị thủ tướng này. Theo vị TGM này cho biết thì:

 

“Cuộc tuyển cử đang tiến tới và có lẽ thành phần cực đoan thiên hữu đã thắng thế, thành phần chống lại vấn đề đối thoại. Vị thủ tướng có thể nghĩ rằng việc ông không gặp gỡ Đức Giáo Hoàng sẽ cất đi vấn đề rắc rối cho khỏi cuộc vận động tranh cử”.

 

Vị TGM này cũng đề cập tới những khó khăn hiện tại nơi cuộc đối thoại giữa Hồi Giáo và Kitô Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ, và cho rằng gây ra bởi 3 lý do sau đây: thứ nhất là việc xâm chiếm Cyprus của xứ sở này là những gì bị thế giới Kitô Giáo và Chính Thống Giáo chống đối, nói chung là thế giới Tây phương; thứ hai là “tình trạng tái ý thức của tín đồ Hồi Giáo”, và thứ ba là hậu quả của cuộc khủng bố ngày 11/9/2001.

 

Vị TGM kết luận rằng “Thế nhưng ĐTC sẽ tới. Chúng ta hân hoan vui mừng vì ngài sẽ tới, và như những con người của đức tin, chúng ta tin rằng Thiên Chúa có thể mang lại sự thiện từ sự dữ”.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 2/11/2006

 

 

TOP

 

Thổ Nhĩ Kỳ đang chờ đón Đức Thánh Cha

 

Vị đại diện tòa thánh ở Anatolia là Đức Giám Mục Luigi Padovese cho mạng điện toán toàn cầu biết rằng các thứ căng thẳng gây ra bởi bài diễn văn của ĐTC tại Đại Học Regensburg đã trở nên yên ắng, và cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha ở Thổ Nhĩ Kỳ là một biến cố được nghênh đón.

 

“Các việc sửa soạn cho chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha được tiếp tục theo chương trình ấn định, cả ở Vatican lẫn ở Thổ Nhĩ Kỳ. Những viễn phóng ảnh và điện thoại gọi đến yêu cầu Đức Thánh Cha đừng tới Thổ Nhĩ Kỳ chỉ lưa thưa lác đác vậy thôi.

 

“Ngoài ra, nếu chuyến đi này bị hủy bỏ thì sẽ bỏ lỡ mất một cơ hội. Đức Thánh Cha cần phải làm cho tư tưởng của Giáo Hội được nghe thấy, về những mối liên hệ giữa Kitô Giáo và Hồi Giáo, một cách trực tiếp và rõ ràng, như được trình bày trong văn kiện ‘Nostra Aetate’ của Công Đồng”.

 

Vị giám mục 59 tuổi này đã nói rằng những căng thẳng trước đây đã gây ra bởi sự giải thích sai lạc bài diễn văn của Đức Thánh Cha, xẩy ra bởi sự kiện là “các tin tức thường xuất phát từ Tây phương bị ‘thấm nhiễm’ theo ý hệ”.

 

Vị giám mục này nói rằng nếu Đức Thánh Cha nói trực tiếp với nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ thì mọi sự sẽ khác đi. Vì, theo vị giám mục này, “báo chí Thổ Nhĩ Kỳ trái lại đã phản ứng một cách tích cực” về bài diễn từ của ngài ngỏ cùng các vị lãnh sự thuộc các quốc gia Hồi Giáo ngày 25/9.

 

“Những đoạn của bài diễn văn này đã được trích lại. Chỉ có một ít lời chỉ trích thực sự là ở chỗ, theo một số tờ nhật báo, cuộc gặp gỡ quá ngắn ngủi. Vị giám đốc của Văn Phòng Tôn Giáo Vụ Thổ Nhĩ Kỳ là Tiến Sĩ Ali Bardagoglu… một trong những người đầu tiên phản ứng một cách dữ dội những lời của Đức Thánh Cha ở Regensburg,… đã bày tỏ những lời lẽ cảm mến” sau cuộc họp ngày 25/9/2006. Theo vị giám mục này thì ông Bardagoglu nói rằng “Thổ Nhĩ Kỳ nghênh đón Đức Biển Đức XVI”.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 8/10/2006 

 

 

TOP

 

 

 

Chuyến Viếng Thăm Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Phải Chăng là Một Cơ Hội Có Một Không Hai?

 

Vị đại diện của Tòa Thánh ở Anatolia, nơi mà linh mục Andrea Santoro người Ý hôm 5/2/2006 đã bị thảm sát trong cuộc biến loạn của thế giới Hồi Giáo kéo dài từ cuối tháng 1 đến cuối thàng 2/2006 trước bộ tranh biếm họa đầu năm 2006, là Giám Mục Luigi Padovese, 59 tuổi, một học giả chuyên cần của Giáo Hội ở Thổ Nhĩ  Kỳ, vị đã bị đe dọa và 4 tháng trước đây tí nữa bị một chiếc xe gắn máy cố tình cán lên ngài, vị mà giờ đây đi đâu cũng được cảnh sát hộ vệ theo lời yêu cầu của lãnh sự Ý với thống đốc ở Antioch, trong cuộc phỏng vấn với mạng điện toán toàn cầu hôm Thứ Sáu 22/9/2006, tức vào thời điểm sau khi biến động của thế giới Hồi Giáo đã kể như hoàn toàn nguôi ngoai hạ màn, đã cho biết rằng chuyến tông du của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tới Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối tháng 11 tới đây là một cơ hội độc nhất vô nhị để làm sáng tỏ các mối liên hệ giữa Hồi Giáo và Kitô Giáo, đồng thời cũng cho biết cả về bối cảnh của quốc gia mà Đức Thánh Cha sẽ tới. Sau đây là nguyên văn cuộc phỏng vấn đặc biệt này.

 

Vấn:    Tình hình hiện nay ở Thổ Nhĩ Kỳ ra sao?

 

Đáp:   Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy như là một bức tranh phức hợp, nơi có sự hiện diện của những nhóm theo chủ nghĩa dân tộc và là nơi hiện tượng Hồi Giáo Hóa đang gia tăng, xuất phát từ tình trạng kinh tế đã từng xuống dốc, làm tăng thêm thái độ khép kín trước cả Kitô Giáo lẫn Âu Châu.

 

Chúng ta có thể nghĩ rằng ở Thổ Nhĩ Kỳ hết mọi người đều ủng hộ việc quốc gia này gia nhập Âu Châu, thế nhưng, tôi lại đang bắt đầu thấy rằng vấn đề không phải là như thế.

 

Có những nhóm Hồi Giáo tin rằng việc Thổ Nhĩ Kỳ tái tấu mối liên hệ với Âu Châu có thể làm cho nó mất đi căn tính của người Hồi Giáo. Ở Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, để là một người Thổ dân tốt lành nghĩa là làm một tín đồ Hồi Giáo tốt lành. Đối với thành phần này, thì việc Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập Âu Châu có nghĩa là một người Thổ tốt lành nhưng không còn là một tín đồ Hồi Giáo tốt lành nữa.

 

Vấn:    Ngài có nghĩ là tín đồ Hồi Giáo sợ tính chất tân tiến hay chăng?

 

Đáp:   Họ sử dụng các phương tiện có tính cách tân tiến, nhưng lại sợ mất đi căn tính quốc thể của mình, hoa trái mang lại từ cuộc chiến thắng của Ataturk (vị tổng thống tiên khởi của Thổ Nhĩ Kỳ).

 

Theo tôi nghĩ thì nền dân chủ Thổ Nhĩ Kỳ, tự bản chất, không chấp nhận những tiếng nói khác, ở chỗ, nó có tính cách dân chủ nhưng không nhất trí. Đó là lý do cho thấy tại sao tất cả đều nói rằng các thành phần thiểu số là thành phần khó có thể được chấp nhận và nhìn nhận.

 

Vấn:    Và tình hình với Chính Thống Giáo thì sao?

 

Đáp:   Mối liên hệ với Chính Thống Giáo hoàn toàn tốt đẹp vì chúng tôi đang cảm nghiệm được những vấn đề giống nhau.

 

Có một số sự hòa hợp liên quan tới những vấn đề chung, mặc dù tôi cần phải nói rằng, về chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng, các tòa thượng phụ Hoàn Vũ và Armenia có một chủ trương hầu như khác biệt – một hành động được biện minh bởi những lý do khôn ngoan, vì ở Thổ Nhĩ Kỳ không có khuynh hướng tế nhị hay không có vấn đề phân biệt giữa Chính Thống Giáo, Công Giáo và Tin Lành. Từ ngoài nhìn vào thì nó giống như việc rửa tay; còn nhìn từ bên trong thì nó là cách bảo vệ cộng động này khỏi bị nguy hiểm và đe dọa.


Vấn:    Có thể nói gì về cộng đồng Công Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ?

 

Đáp:   Sự hiện diện của người Công Giáo thì rất hạn hẹp và tập trung ở những trung tâm lớn, như Istanbul, Smyrna, Mersin và Ankara, nhất là nơi các nhà ngoại giao. Có những giáo xứ đây đó, nhưng thường chỉ có mấy trăm tín hữu mà thôi.

 

Có thành phần Kitô hữu Công Giáo Latinh, Công Giáo Armenia, Công Giáo Chaldean và Công Giáo Syro. Họ thuộc về Truyền Thống và giữ những biểu hiện theo những quyền hạn khác nhau, mặc dù về lượng thì ít ỏi.

 

Vấn:    Ngài thẩn định thế nào về chuyến viếng thăm tới đây của Đức Thánh Cha?

 

Đáp:   Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha là những gì tế nhị – không phải là vấn đề trục trặc liên quan tới những vấn đề có tính chất đại kết, vì theo quan điểm này đã có được một sự hòa hợp rồi. Ngoài ra, còn có một bản tuyên ngôn chung giữa Giám Mục Rôma và thượng phụ Istanbul.

 

Những vấn đề phứ ctạp hơn liên quan tới mối liên hệ giữa Kitô Giáo và Hồi Giáo, cũng như những gì vị Giáo Hoàng này đang nghĩ về việc Thổ Nhĩ Kỳ dần dần gia nhập Âu Châu. Truyền thông Thổ Nhĩ Kỳ đã chỉ trích Hồng Y Ratzinger vì, theo họ, ngài không ủng hộ việc Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập Âu Châu.

 

Vấn:    Ngài nghĩ sao về các phản ứng đối với bài nói của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tại Đại Học Regensburg?

 

Đáp:   Tôi sợ rằng có một số ở Thổ Nhĩ Kỳ muốn tổ chức xuống đường liên quan tới việc Đức Giáo Hoàng tới. Đối với thành phần cực đoan thì đây là một cơ hội rất thuận lợi.

 

Tôi đã đọc một lời phát biểu của một nhân vật có trách nhiệm về tôn giáo vụ ở Thổ Nhĩ Kỳ, vị đã nói rõ là Thổ Nhĩ Kỳ sẽ đón nhận vì Giáo Hoàng này như là một vị lãnh đạo quốc gia mà thôi, tức hình ảnh về vị lãnh đạo tôn giáo của ngài đang bị phai mờ mất rồi.

 

Có những người mong rằng vị Giáo Hoàng này đừng tới Thổ Nhĩ Kỳ; tuy nhiên, không có vấn đề mở cửa cho thế giới Hồi Giáo mà là vấn đề của một thứ ban công, trong việc nói về những mối liên hệ giữa Hồi Giáo và Kitô Giáo.

 

Tôi tin rằng những gì gây trục trặc có thể trở thành một cơ hội có một không hai, một dịp độc nhất vô nhị, vì tất cả truyền thông của các quốc gia Ả Rập sẽ chú trọng tới những gì vị Giáo Hoàng này nói. Một số sẽ không cảm thấy vui, nhưng ít là họ sẽ đề cập tới những gì Đức Thánh Cha khẳng định.

 

Vấn:    Cộng động Kitô hữu Tây phương làm thế nào để có thể giúp cho đàn chiên nhỏ bé Thổ Nhĩ Kỳ đây?

 

Đáp:   Chúng tôi là một thực thể không có tiếng nói. Vấn đề, được Đức Thánh Cha cũng bày tỏ vào dịp qua đời của Cha Santoro, đó là chúng tôi đang sống ở Thổ Nhĩ Kỳ không có phương tiện truyền thông xã hội.

Anh chị em Tin Lành có đài truyền hình và hai hoặc ba đài phát thanh. Chúng tôi chẳng có gì hết. Điều này có nghĩa là chúng tôi không thể có được một vị thế, và thậm chí không thể cải chính cả những gì là sai lầm viết hay nói phạm đến chúng tôi. Để thực hiện những việc cải chính sửa sai ấy, tôi đã phải liên lạc với một luật sư làm việc toàn thời. Tôi yêu cầu cải chính trên hai tờ nhật báo và họ đã làm thế, và để tránh việc truy tố thì người ta đến gặp tôi để trình bày các lý do biện minh.

 

Vấn:    Việc đối thoại với Hồi Giáo tiến triển ra sao?

 

Đáp:   Tình hình phức tạp vì Hồi Giáo có một ý nghĩ về thực tại là những gì gồm tóm tất cả mọi sự và thu hút tất cả mọi sự. Và chủ nghĩa tuyệt đối được tín đồ Hồi Giáo biện hộ là những gì không nhường bước cho bất cứ một hình thức đối thoại hay dung hòa nào.

 

Có một mối liên hệ với một số người thuộc thế giới Hồi Giáo. Vấn đề lớn nhất có liên quan tới tình trạng khó khăn nơi các trình độ khác nhau về vốn liếng văn hóa và thần học. Có những trường thần học của Hồi Giáo, nhưng tôi cảm thấy rằng họ không ở cùng một trình độ với chúng ta; chúng tôi không gặp nhau ở cùng một tọa độ.

 

Vấn đề là Hồi Giáo không cho phép giải thích Sách Kinh Koran, trong khi Kitô Giáo lại cho phép dẫn giải Thánh Kinh.

 

Bởi vậy, vấn đề xẩy ra là không có được một cuộc đối thoại thực sự mà chỉ có chuyện hiểu biết nhau mà thôi. Một cuộc hội họp về thông tin từ bên này cho bên kia biết, những gì chúng ta làm và những gì họ làm, nhưng đó không phải là vấn đề thực sự đối thoại.

 

Có vấn đề đối thoại và hợp tác nơi những công tác bác ái và xã hội, thế nhưng khi liên quan tới vấn đề thần học thì chúng tôi thụt lại đằng sau quá xa.

 

Chúng tôi đã tổ chức những hội nghị về các hình ảnh Chúa Giêsu và Đức Maria nơi Hồi Giáo, thế nhưng có ít tham dự viên Hồi Giáo – chỉ có thành phần có trình độ nào đó về văn hóa mà thôi. Những vị giáo trưởng ít có vốn liếng về thần học không đến tham dự. Đây là một trong những vấn đề lớn.

 

Có rất ít hoạt động về thần học nơi Hồi Giáo, một hoạt động khác nhau tùy theo các học đường khác nhau. Vấn đề khác nhau đó là Kitô hữu chúng ta có được một huấn quyền hướng dẫn; trái lại, (tín đồ Hồi Giáo) không có huấn quyền này và tùy theo mỗi thần học gia quyết định.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 26/9/2006

 

TOP

 

Chuyến Tông Du liên quan tới Bí Mật Fatima: Một Thổ Nhĩ Kỳ – đỉnh núi tử đạo?

 

Tình hình căng thẳng và giận dữ nơi thế giới Hồi Giáo, sau hai lần thanh minh và dẫn giải của chính Đức Thánh Cha, một vào buổi nguyện Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 17/9 và một vào buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 20/9/2006, đã dường như thực sự lắng đọng, nhưng phải chăng đây cũng có thể là bầu khí thuận lợi cho việc âm thầm mưu toan thực hiện những gì bất lợi cho vị giáo hoàng vào chuyến tông du tới đây của ngài hay chăng?

Bí Mật Fatima phần thứ ba là bí mật đã được Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Thánh Lễ phong chân phước cho hai Thiếu Nhi Fatima là Phanxicô và Giaxinta hôm 13/5/2000 tại chính Linh Địa Thánh Mẫu Fatima, tuyên bố sẽ tiết lộ cho thế giới biết, và sau đó vào ngày 26/6 cùng năm, Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin đã chính thức phổ biến toàn bộ phần Bí Mật Fatima đã từng được Tòa Thánh giữ kín và làm cho thế giới hết sức tò mò và đoán mò đủ thứ này. Nếu cần, xin xem toàn bộ phần bí mật quan trọng ấy trong cuốn “Fatima: Dấu Chỉ Thời Đại” của người viết, được Nhà Xuất Bản Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp in ấn và phát hành vào năm 2000, hay vào ngay mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh là

http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20000626_message-fatima_en.html

Thật vậy, phần bí mật này liên quan tới hình ảnh vị giáo hoàng bị sát hại, một vị giáo hoàng được Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho là chính ngài. Đó là lý do ngài đã thực hiện việc hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ ngày 25/3/1984, để đáp ứng lời yêu cầu của Trời Cao như điều kiện để làm cho Nước Nga trở lại, một việc làm đã được chính Đức Gioan Phaolô II  nhắc lại vào hôm Thứ Tư 25/3/2004, kỷ niệm 20 năm biến cố hiến dâng này, một biến cố, theo diễn tiến và chứng từ hùng hồn của lịch sử, quả thực đã dẫn tới Biến Cố Đông Âu năm 1989, bắt đầu từ Balan là quê hương của vị giáo hoàng nạn nhân của vụ ám sát 13/5/1981, rồi sau đó tới biến cố Nước Nga giải thể vào Lễ Giáng Sinh 25/12/1991. (Xin xem cuốn “Đức Gioan Phaolô II: ‘Sống là Chúa Kitô – Chết là Vinh Thắng’”, chương 4, ‘Nguyên Tố Gây Ra Sụp Đổ Đông Âu’, trang 45-60), của cùng người viết), Chưa hết, ngoài việc đáp ứng trên, Đức Gioan Phaolô II còn tiết lộ chính phần còn lại của Bí Mật Fatima được ngài cho là đã nên trọn. Sau đây là nguyên văn câu có liên quan tới việc sát hại vị giáo hoàng Công Giáo trong phần thứ ba của Bí Mật Fatima:

 

·        Rồi chúng con thấy một vị Giám Mục mặc Áo Trắng, ‘mà chúng con có cảm nhận đó là Đức Thánh Cha’, trong một vùng sáng mênh mông là Thiên Chúa, ‘giống như người ta thấy mình đi ngang qua trước một tấm gương soi’. Các vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ khác đang tiến lên một ngọn núi dốc đứng, trên đỉnh có một cây Thập Giá lớn, được làm bằng những thân cây nứt nẻ như loại thân cây điên điển còn vỏ; trước khi tiến lên tới đỉnh núi, Đức Thánh Cha đã băng qua một thành phố lớn, một nửa đã bị tàn rụi, còn một nửa kia thì đang run rẩy loạng quạng lê bước với đầy những đớn đau và buồn khổ, Ngài cầu nguyện cho các linh hồn của những thi thể Ngài gặp thấy trên quãng đường đi; tiến tới đỉnh núi rồi thì khi đang quì ở dưới chân cây Thập Giá lớn, Ngài bị đã ám sát chết bởi một nhóm lính bắn tới bằng các viên đạn và mũi tên, cũng lần lượt bị sát hại như thế có cả các vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ cùng với thành phần giáo dân ở các tầng lớp và vai trò khác nhau”.

 

Phân tích kỹ đoạn Bí Mật Fatima trên đây, thì biến cố Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vẫn chưa hoàn toàn xẩy ra đúng hệt như những gì được thị kiến thấy ở đây. Trước hết là việc ngài chết hụt chứ không chết thật như ở đây nói rõ: “Ngài bị đã ám sát chết”. Thứ hai là ngài chỉ bị một tay sát thủ thường dân bắn mà thôi, chứ không phải nhiều người lính như ở đây nói tới: “bởi một nhóm lính”. Thứ ba, ngài bị ám sát bằng đạn thôi, chứ không phải “bằng các viên đạn và mũi tên” như ở đây viết rõ. Và thứ bốn, “cũng lần lượt bị sát hại như thế có cả các vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ cùng với thành phần giáo dân ở các tầng lớp và vai trò khác nhau”, nhưng trong biến cố 13/5/1981 thì chỉ có một mình ngài bị sát hại mà thôi.

 

Căn cứ vào những suy diễn trên đây, dựa vào biến cố 13/5/1981, thì lần này, nếu thực sự xẩy ra, vị giáo hoàng đương kim của chúng ta, vị hằng nói tới thập giá chế ngự sự dữ cũng như tới đức tin và thúc giục sống đức tin, nhất là trong chuyến tông du về Đức 6 ngày 9-14/9/2006, một đức tin gay go trong thế giới ngày nay, mà muốn sống trọn thì chẳng khác gì như “đang tiến lên một ngọn núi dốc đứng, trên đỉnh có một cây Thập Giá lớn”, sẽ bị sát hại chết thực sự, bởi một nhóm dân quân khủng bố nào đó (như nhóm Al Qaeda đã đe dọa, một lời đe dọa liên quan đến việc “bẻ gẫy cây thập giá”, và tay sát thủ Ali Agca cảnh báo trên đây), bằng đủ loại vũ khí có thể, chẳng hạn bằng cả phi đạn tầm xa (giống như của nhóm Herbollah ở Libăng bắn sang phần đất của Do Thái trong Tháng 8/2006, là những gì được bí mật nói tới như “mũi tên”), và vì thế có thể sát hại cả phái đoàn tùy tùng, bao gồm đủ mọi thành phần từ giám mục trở xuống cùng giáo dân tại hiện trường với ngài vào một thời điểm thiên định nào đó trong chuyến tông du thứ năm đầy mạo hiểm này.

 

Hiện thân của một trong thành phần đã cùng tử nạn với ngài, phải chăng dẫn đầu đã có một nữ tu người Ý, dòng Chị Em Thừa Sai Consolata, đó là Sơ người đã được dư luận nói chung và Đức Hồng Y chủ tịch hội đồng Ý nói riêng, cho rằng là nạn nhân của biến cố bài diễn văn Đức Thánh Cha nói gây phẫn nộ tín đồ Hồi Giáo.

 

Thật vậy, vào trưa Chúa Nhật 17/9/2006, nữ tu dòng truyền giáo Consolata là Leonella Sgorbati, người Ý, 65 tuổi, đang băng ngang qua đường giữa Bệnh Viện SOS là nơi nữ tu làm việc và Làng SOS là nơi nữ tu và 4 chị em khác cư trú, thì bị hai tay súng xuất hiện đằng sau gần những chiếc xe taxi và những hàng quán bên đường bắn. Nữ tu này đã vội chạy đến Bệnh Viện SOS và chết sau đó ít lâu. Theo tường thuật của chị em cùng dòng ở tại đó cho cơ quan Tín Vụ Công Giáo Phi Châu (CISA: Catholic Information Service of Africa) ở Nairobi biết vào cùng ngày thì thi thể của người nữ tu này bị những vết thương gây ra bởi 7 viên đạn: “Chị biết rằng chị sắp chết, vì chị cứ nói rằng ‘tôi không thở được’. Những lời cuối cùng của chị là ‘tôi tha thứ, tôi tha thư’”.

 

Trong Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật 24/9/2006, liên quan đến nội dung của Phụng Vụ Lời Chúa về lời Chúa Kitô tiên báo lần hai cuộc Vượt Qua của Người, cũng như về những lời của Thánh Giacôbê rất khít khao với tình trạng xung khắc hiện nay trên thế giới, Đức Thánh Cha đã nhắc đến gương chứng nhân của chị dòng này như sau:

 

·        Phụng vụ hôm nay cũng đã nhắc nhở trong Thư của Thánh Giacôbê rằng: ‘Ở đâu có ghen tị và vị kỷ, thì ở đó xẩy ra lệch lạc và đủ mọi thứ việc làm xấu xa nhơ nhuốc. Thế nhưng, đức khôn ngoan từ trên cao trước hết là những gì tinh tuyền, rồi an bình, nhân ái, tuân hợp, đầy xót thương và hoa trái tốt lành, không bất nhất hay thiếu chân thành’. Vị tông đồ này kết luận: ‘Hoa trái của đức công chính là những gì được gieo trong an bình cho những ai vun trồng bình an’ (3:16-18). Lời này khiến cho chúng ta nhớ đến chứng từ của rất nhiều Kitô hữu, thành phần, bằng lòng khiêm nhượng và trong âm thầm, đã vì Chúa Giêsu hiến đời mình để phục vụ kẻ khác, hoạt động một cách cụ thể như thành phần tôi tớ của yêu thương và bởi đó là ‘những kiến tạo gia’ hòa bình. Một số đã được kêu gọi để cống hiến chứng từ bằng máu cao cả, như đã xẩy ra mới đây mấy hôm cho một tu sĩ người Ý là Nữ Tu Leonella Sgorbati, người nữ tu đã trở thành nạn nhân của bạo lực. Người nữ tu này, người đã nhiều năm phục vụ thành phần nghèo khổ và trẻ em ở Somalia, đã chết khi thốt lên lời ‘tha thứ’: Đó là chứng từ Kitô Giáo đích thực nhất, một dấu hiệu phản khắc đầy an bình cho thấy cuộc vinh thắng của tình yêu trên hận thù và sự dữ”.

 

Nếu quả thực biến cố sát hại trên đây thành công, đúng như phần thứ ba của Bí Mật Fatima trên đây tiên báo, thì phần thắng không phải về tay thành phần khủng bố Hồi Giáo, mà là đã lọt vào tay Đấng Quan Phòng Thần Linh. Vì Ngài chính là Đấng đã khôn ngoan định liệu trước hết mọi sự theo ý định thần linh vô cùng khôn ngoan của Ngài, và sau đó chẳng những đã tiết lộ cho riêng 3 Thiếu Nhi Fatima là Lucia, Phanxicô và Giaxinta thấy trước từ năm 1917, mà còn tỏ cho chung loài người biết trước từ năm 2000 nữa.

 

Như đã sử dụng biến cố 13/8/1981 của Đức Gioan Phaolô II để thực hiện ý định của mình nơi Biến Cố Cộng Sản Đông Âu năm 1989 thế nào, Thiên Chúa là Đấng làm chủ lịch sử của loài người cũng có thể, biết đâu, lần này, lại chẳng sử dụng đến chính cái chết của vị giáo hoàng đương kim Biển Đức XVI để làm một việc gì đó theo ý nhiệm của Ngài cho thời đại hiện nay, như làm cho Kitô Giáo hiệp nhất, nhờ đó Âu Châu mới có thể hiệp nhất, tức làm cho Âu Châu trở về với Ngài, để Âu Châu trở thành một lực lượng chẳng những ngăn chặn làn sóng hận thù của thành phần tín đồ Hồi Giáo quá khích và khủng bố, mà còn khiến cho cả Do Thái nhận biết Đấng Thiên Sai nơi Kitô Giáo mà trở về với Ngài nữa thì sao? Thế thì cái chết của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI là những gì cần thiết, hết sức xứng đáng và (ở một nghĩa nào đó) rất đáng ước mong. Chúng ta hãy chờ để thấy được những dấu chỉ thời đại và nguyện cầu cho Đức Thánh Cha của chúng ta trong chuyến đi định mệnh ở Thổ Nhĩ Kỳ vào thời khoảng tuần lễ cuối Năm Phụng Vụ B, 28/11-1/12/2006, thời điểm Giáo Hội cử hành và mầu nhiệm cánh chung với Lễ Chúa Kitô Vua. 

 

Đúng vậy, nếu “Thiên Chúa thực hiện hết mọi sự hòa hợp với nhau để mang lại thiện ích cho những ai được Ngài kêu gọi theo ý định của Ngài” (Rm 8:28), thì mầu nhiệm Vượt Qua là tử giá và phục sinh của Chúa Kitô vẫn là những gì cần phải được liên tục tiếp diễn trong lịch sử loài người, một mầu nhiệm hằng được Giáo Hội lữ hành cử hành mà nhớ đến Người, chẳng những trên bàn thờ trong việc long trọng cử hành Phụng Vụ Thánh Thể, mà còn nơi các chi thể thuộc Nhiệm Thể Giáo Hội nữa, qua các chứng từ đức tin đẫm máu của họ, nhờ đó, mầu nhiệm sự dữ sẽ được dứt khoát giải quyết và thanh toán bằng quyền lực vô địch của một tình yêu thần linh mạnh hơn sự chết, đúng như những gì được vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI đương kim của chúng ta đã thâm tín, ước nguyện và khuyên dạy, trong bài giảng Thánh Lễ Chúa Nhật ngày mùng 10/9/2006 tại Neue-Messe ở Munich Đức quốc:

 

·        Thế giới cần đến Thiên Chúa. Chúng ta cần đến Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa như thế nào? Trong bài đọc thứ nhất, vị tiên tri nói với một người đang chịu áp đảo rằng: ‘Ngài sẽ đến báo oán’ (Is 35:4). Chúng ta có thể dễ dàng cho rằng tại sao con người nghĩ đến báo oán. Thế nhưng, chính vị tiên tri này tiếp tục tỏ cho thấy những gì thực sự là, đó là sự thiện hảo chữa lành của Thiên Chúa. Lời giải thích cuối cùng nơi lời của vị tiên tri này được thấy nơi Đấng đã chết trên thập giá: Nơi Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể. ‘Việc trả oán’ của Người là thập tự giá: một tiếng ‘không’ đối với bạo lực và là ‘một tình yêu thương cho đến cùng’. Đó là vị Thiên Chúa chúng ta cần. Chúng ta không thôi tỏ lòng tôn trọng đối với những tôn giáo và văn hóa khác, việc sâu xa tôn trọng niềm tin của họ, khi chúng ta minh nhiên và dứt khoát loan truyền vị Thiên Chúa chống lại bạo lực bằng nỗi đớn đau của mình; Đấng trước quyền lực sự dữ tỏ ra tình thương của Người, để kìm hãm và chế ngự sự dữ. Giờ đây chúng ta hãy dâng lời nguyện của chúng ta lên Ngài, xin Ngài ở với chúng ta và giúp chúng ta trở thành những nhân chứng cho Người. Amen!”

 

Giáo Phận San Bernadino, California, Chúa Nhật 24/9/2006

 

 

TOP

 

 

 

Chuyến Tông Du liên quan tới đại kết: Một Thổ Nhĩ Kỳ… cạm bẫy giăng đầy?

 

Về phía tôn giáo, không cần biết đến ngầm ý hay dụng ý chính trị ấy có phải thực sự là như thế hay chăng, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI vẫnb được dịp để thực hiện chiều hướng đại kết Kitô Giáo của ngài, một chiều kích ngài đã tuyên bố ngay từ ban đầu, ngay sau khi được hồng y đoàn tuyển bầu làm Giáo Hoàng, một nguyện ước đã được ngài minh nhiên và mạnh mẽ bộc lộ trong thánh lễ đầu tiên với các vị tại nguyện đường Sistine hôm Thứ Tư 20/4/2005, tức ngay sau ngày ngài trúng cử giáo hoàng 19/4/2005, như sau:

 

·        Bằng tất cả ý thức và vào lúc mở đầu cho thừa tác vụ của mình ở Giáo Hội Rôma là nơi Thánh Phêrô đã tắm máu, vị Thừa Kế này lãnh nhận, như là quyết tâm chính yếu của mình, quyết tâm không ngừng hoạt động hướng đến việc tái thiết mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình của tất cả mọi thành phần môn đệ của Chúa Kitô. Đó là tham vọng của ngài, đó là nhiệm vụ bó buộc của ngài. Ngài biết rằng, để làm điều này, những bày tỏ về cảm tình thiện cảm mà thôi chưa đủ. Cần phải có những cử chỉ cụ thể để thấm nhập các tâm hồn và đánh động lương tâm, phấn khích mọi người tiến đến chỗ hoán cải nội tâm là điều căn bản cho tất cả mọi thứ tiến bộ trên con đường đại kết”.

 

Tuy nhiên, trong cuộc xuống đường dữ dội của thế giới Hồi Giáo vừa rồi, sinh mạng ngài đã bị đe dọa, nhất là từ nhóm khủng bố khét tiếng Al Qaeda, và được cảnh báo bởi nhân vật Thổ Nhĩ Kỳ đã từng ra tay ám sát Đức Gioan Phaolô II, thì liệu chuyến tông du thứ năm này có thể hiện thực hay chăng?

 

Nếu không thể rút lại nữa, vì thế giá của cả đôi bên, thì phải chăng chuyến tông du này là một cuộc mạo hiểm, là một cuộc liều mạng? Tình hình cho thấy, nếu Tổng Thống Thổ Nhĩ Kỳ không bị áp lực của thành phần Hồi Giáo cực đoan trong nước chống đối việc tiếp rước vị giáo hoàng này, thì chắc chắn Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ không chịu bỏ cuộc, cho dù có thực sự nguy hiểm đến tính mạng của ngài đi nữa, và chuyến tông du của ngài đến Thổ Nhĩ Kỳ, nếu quả thực xẩy ra án mạng, thì chẳng khác gì như cuộc lên Giêrusalem của Chúa Kitô để tử nạn cứu thế vậy thôi.

 

Bí Mật Fatima phần thứ ba, liên quan đến cái chết thực sự của vị giám mục mặc áo trắng là Giáo Hoàng Rôma, (chứ không phải cái chết hụt của Đức Gioan Phaolô II ngày 13/5/1981 ở Quảng Trường Thánh Phêrô bởi công dân Thổ Nhĩ Kỳ là Ali Agca), có thể đang treo lơ lửng trên đầu vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI?

 

Trong bài “Al Qaeda threat over pope speech”, mạng điện toán toàn cầu CNN ngày 18/9/2006, có trích lại lời của nhóm Al Qaeda như sau:

 

·        Tụi chúng mình sẽ bẻ gây cây thập tự giá và đổ tràn rượu ra…. Thiên Chúa sẽ giúp tín đồ Hồi Giáo chiến thắng Rôma…. Thiên Chúa để cho tụi chúng mình chặt cổ chúng, và làm cho tiền bạc của chúng cùng giòng dõi của chúng thành những gì tưởng thưởng cho thánh chiến quân”.

 

Trong cuộc bấn loạn của thế giới Hồi Giáo xẩy ra ngay sau chuyến tông du của vị lãnh đạo thế giới Công Giáo về thăm quê hương đất nước Bavaria Đức quốc của mình, Báo chí ở Thủ Đô Ankara Thổ Nhĩ Kỳ đã đăng tải bức thư của Ali Agca là tay ám sát Đức Gioan Phaolô II trước đây, vẫn đang ngồi tù tại bản quốc của y sau khi được chính quyền Ý thả ra vào năm 2000 theo lời xin ân xá của vị giáo hoàng nạn nhân. Anh ta viết thư gửi vị giáo đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI để cảnh giác ngài rằng:

 

·        Ông nhất định đừng có mà đến Thổ Nhĩ Kỳ nghe. Ông có thể gặp nguy hiểm cho sinh mạng của ông đó. Thư này tôi viết cho ông là vì tôi đã nắm được hết đầu đuôi câu truyện này mà”.   

 

Về phía truyền thông ở Thổ Nhĩ Kỳ, theo bài “Muslim fury at pope jihad comments” được tác giả Syed Mohsin Naqvi viết và được mạng điện toán toàn cầu CNN phổ biến ngày Thứ Sáu 15/9/2006, cơ quan thông tin Anatolian quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ đã trích lại lời của vị lãnh đạo văn phòng Hướng Dẫn Chung Về Tôn Giáo Vụ ở Ankara là Ali Bardakoglu như thế này:

 

·        Những lời lẽ của vị giáo hoàng này hết sức là đáng tiếc, đáng quan ngại và bất hạnh liên quan tới thế giới Kitô Giáo và nền hòa bình chung của nhân loại. Tôi không thấy có ích lợi gì nơi một người đến viếng thăm thế giới Hồi Giáo lại nghĩ tưởng như thế về vị thánh tiên tri của Hồi Giáo”.

 

Theo bài “Muslim anger over papal comments grows” của Benjamin Harvey ngày Thứ Sáu 15/9 trên mạng điện toán toàn cầu CNN, thì nhân vật tên Salih Kapusuz, phó thủ lãnh đảng Hồi Giáo của Thủ Tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan đã nói trên truyền hình quốc gia rằng những phát ngôn của giáo hoàng Biển Đức XVI một là ‘thành quả của sự thiếu hiểu biết đáng thương’ về Hồi Giáo và về vị tiên tri của đạo này, hay tệ hơn nữa, là một việc cố tình bóp méo sự thật. Nhân vật này nói:

 

·        Ông (giáo hoàng này) có một tâm thức đen tối được bắt nguồn từ Thời Trung Cổ tối tăm. Ông là một thứ sơ đẳng chưa học được tinh thần canh tân của thế giới Kitô Giáo. Dường như đây là một nỗ lực muốn làm sống lại tâm thức của các cuộc Đạo Binh Thánh Giá. Biển Đức, tác giả của những phát ngôn khốn nạn và xấc láo ấy, đang bị thụt lùi vào lịch sử bởi những lời lẽ của mình. Ông đang bị thụt lùi vào lịch sử cũng một kiểu như các nhà lãnh đạo Hitler và Mussolini”.

 

Cũng tại Thổ Nhĩ Kỳ, giáo hoàng Biển Đức XVI còn bị yêu cầu là phải xin lỗi trước cuộc viếng thăm của ngài tới đây. Một đảng phái khác đã tổ chức một một xuống đường ở bên ngoài đến thờ lớn nhất Ankara, với một nhóm khoảng 50 người đã đến đặt một vòng hoa đen bên ngoài cơ quan sứ vụ ngoại giao của tòa thánh Vatican.

 

Theo mạng điện toàn cầu CNN cùng ngày Chúa Nhật 17/9/2006, qua bài “Muslims demand apology from pope” của Flavia Taggiasco, Hada Messia và Delia Gallagher, thì giáo hoàng Biển Đức XVI đã đích thân lên tiếng thanh minh về những gì ngài nói gây chấn động bất lợi nơi thế giới Hồi Giáo từ Thứ Năm 14/9 vừa rồi, song các vị lãnh đạo Hồi Giáo vẫn cho rằng chưa đủ và khăng khăng đòi vị giáo hoàng này phải đích thân lên tiếng xin lỗi mới được.

 

Riêng ở Thổ Nhĩ Kỳ, theo hãng thông tấn AP, thì ông Bộ Trưởng Nội Vụ Mehmet Aydin đã nói với thành phần phóng viên báo chí ở Istabul rằng vị giáo hoàng này có vẻ tỏ ra xin lỗi về việc phản ứng giận dữ chứ không phải về chính những điều ông đã nhận định về Hồi Giáo: 

 

·        Quí vị một là nói lời ‘tôi xin lỗi’ này một cách thích đáng hai là chẳng nói gì hết. Quí vị xin lỗi về việc nói một điều như vậy hay về những hậu quả của điều ấy đây?”

 

Tuy nhiên, theo ông Bộ Trưởng Ngoại Giao của nước Thổ Nhĩ Kỳ này thì chuyến viếng thăm của vị giáo hoàng này đến đất Thổ Nhĩ Kỳ vẫn không có gì thay đổi. Các vị giám mục Công Giáo Thổ Nhĩ Kỳ, vào hôm Thứ Hai 18/9/2006, vẫn tiếp tục bàn đến các chi tiết cho việc cử hành phụng vụ của Đức Thánh Cha tại Thủ Đô Ankara.

 

Trong bài “Can pope's Turkey trip calm anger?” được mạng điện toán toàn cầu CNN phổ biến ngày 19/9/2006, đã phổ biến những nhận định của hai tờ báo. Trước hết là lời của vị chủ nhiệm tờ nhật báo Thỗ Nhĩ Kỳ The New Anotolian là IInur Cevik nhận định về chuyến viếng thăm của vị thủ lãnh thế giới Công Giáo tới đây như sau:

 

·        Cả chúng tôi nữa cũng muốn chuyến viếng thăm này được hiện thực, nhưng sẽ xẩy ra thế nào đây? Làm sao vị giáo hoàng này có thể sửa đổi và thuyết phục được đám đông quần chúng sống theo cảm thức đạo giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ rằng ông không phải là kẻ thù của Hồi Giáo và ông muốn hình thành một bầu khí chung sống với nhau? Đó là một công việc khó khăn cần vị giáo hoàng này thực hiện. Nếu ngài không làm nổi điều này thì nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ rất khó mà tỏ ra nồng hậu tiếp đón ông. Những gì ông giáo hoàng này làm là sai lầm. Tối thiểu là ông đã làm tổn thương tới những cảm quan đạo giáo của quần chúng Thổ Nhĩ Kỳ”.

 

Đúng thế, theo bài viết này thì lời trích dẫn của vị giáo hoàng chẳng những đã làm cho thành phần lãnh đạo Hồi Giáo hận tức, bao gồm cả giới chính quyền theo Hồi Giáo, mà còn gây ấn tượng cho thành phần không theo tôn giáo nào rằng ngài không tỏ ra thân thiện và vẫn còn tỏ ra chống lại việc nước này muốn xin gia nhập Khối Hiệp Nhất Âu Châu.

 

Đó là lý do, vị chủ nhiệm trên hy vọng rằng chuyến viếng thăm của vị giáo hoàng này là cơ hội để “chỉ cần đánh tan thành kiến của cả hai thành phần này” ở Thổ Nhĩ Kỳ:

 

·        Ông giáo hoàng cần phải thấy được sự kiện là một nước Thổ Nhĩ Kỳ theo chủ nghĩa trần thế có cả một khối dân Hồi Giáo khổng lồ có thể là những gì trở thành vốn liếng cho Khối Hiệp Nhất Âu Châu. Ông có thể đích thân thấy được rằng Thổ Nhĩ Kỳ có thể là một chiếc cầu nối tốt giữa các nền văn minh và tôn giáo … rằng đó là một xứ sở Hồi Giáo đặc thù theo cái nhìn của Tây phương”.

 

Tờ Turkish Daily News cũng đăng tải bài viết của Cengiz Aktar, đồng ý rằng vị giáo hoàng này có thể ban bố:

 

·        Một sứ điệp quan trọng nhất là làm thế nào nền hòa bình quí giá được tất cả chúng ta đang tìm kiếm sẽ là: Một nước Thổ Nhĩ Kỳ Hồi Giáo trở thành hội viên của Khối Hiệp Nhất Âu Châu theo chủ nghĩa trần thế”. 

 

 

TOP 

 

 

Chuyến Tông Du liên quan tới chính trị: Một Thổ Nhĩ Kỳ với Khối Hiệp Nhất Âu Châu?

 

Đúng thế, trước tình hình bùng lên dữ dội của thế giới Hồi Giáo, từ một nước Hồi Giáo nghiêng về chủ nghĩa trần thế tương tự Tây phương như Thổ Nhĩ Kỳ, đến những quốc gia Hồi Giáo cực đoan ở Trung Đông và nhất là ở Pakistan, trong gần một tuần, từ ngày Thứ Năm 14/9 đến hết Thứ Hai 25/9/2006, về những lời trích dẫn khách quan của vị Giáo Hoàng đương kim Biển Đức XVI ở Đại Học Đường Regensburg hôm Thứ Ba 12/9/2006, liên quan tới Hồi Giáo và bạo lực, liệu chuyến viếng thăm thứ năm này của ngài, chuyến viếng thăm đã được chính tổng thống nước này là Ahmet Necdet Sezer, vị tổng thống nhiệt liệt phò chủ nghĩa trần thế của Tây phương.

 

Về phía chính trị, phải chăng vị tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ đương kim phò chủ nghĩa trần thế của Tây phương muốn mời vị lãnh đạo thế giới Công Giáo là vị Giáo Hoàng đương kim Biển Đức XVI này, nhân vật có thể nói là tiêu biểu và có thế giá nhất ở thế giới Tây phương, tới nước của ông, vì nước của ông đang có liên quan tới việc nước này muốn gia nhập Khối Hiệp Nhất Âu Châu, một việc mà khi còn là Hồng Y Joseph Ratzinger, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã đặt vấn đề là Khối Hiệp Nhất Âu Châu có nên chấp nhận Thổ Nhĩ Kỳ hay chăng, vì nước này có nền văn hóa không hợp với Âu Châu?

 

Thật vậy, theo tình hình diễn tiến cho thấy, vấn đề Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập Khối Hiệp Nhất Âu Châu có vẻ nặng kinh tế và nhẹ nhân quyền. Đức ông Aldo Giordano, tổng bí thư của Hội Đồng Các Hội Đồng Giám Mục Âu Châu (CCEE: Council of European Bishops' Conferences) đã tỏ ra lo ngại là trong việc cứu xét đến vấn đề chấp nhận Thổ Nhĩ Kỳ vào Khối Hiệp Nhất Âu Châu, Khối Hiệp Nhất Âu Châu đặt nặng vấn đề sách lược và chính trị hơn là vấn đề nhân quyền.

 

Thật thế, vị tổng bí thư này đã bày tỏ mối quan tâm của mình với Đài Phát Thanh Vatican, sau khi cuộc họp ở Brussels quyết định hôm 17/12/2004 về vấn đề bắt đầu vào Tháng 10/2005 thảo luận tới việc gia nhập từ từ của quốc gia Hồi giáo duy nhất ở Âu Châu này.

 

Tuy nhiên, trước đó, tờ nhật báo Avvenire ở Ý đã gây chú ý về những gì đã xẩy ra ở Quốc Hội Âu Châu tại Strasbourg, Pháp quốc hôm 15/12/2004, liên quan đến cuộc bỏ phiếu thừa nhận Thổ Nhĩ Kỳ đối với vần đề có thể trở thành phần tử của khối này. Một nhóm đại biểu, vì quan tâm tới việc nước này cần phải tôn trọng nhân quyền, đã nêu lên một bản tu chính yêu cầu nước ấy ban pháp quyền tức khắc cho các nhà thờ Kitô giáo trong xứ sở này; hủy bỏ Văn Phòng Tôn Giáo Vụ, một cơ cấu ngặt nghèo kiểm soát việc thờ phượng; và cho phép kiến thiết các cơ sở mới. Tuy nhiên, cuộc bỏ phiếu của Quốc Hội Âu Châu đã loại bỏ bản tu chính này.

 

Theo tờ nhật báo Avvenire thì thành phần cuối cùng bị kỳ thị tôn giáo ở nước này là Chính Thống giáo. Bởi vì nước Hồi giáo này không cho phép Chính Thống giáo lấy lại Nhà thờ Trinh Nữ Dâng Mình ở Istanbul là nhà thờ bị thiệt hại trong cuộc tấn công Sứ Quán Hiệp Vương Quốc năm 2004. Hôm 21/11/2004, Đức Thượng Phụ toàn cầu Bartholomew I giáo chủ Contantinople đã nói rằng:

 

·        Chúng tôi thấy mình trở thành nạn nhân chẳng những của thành phần khủng bố mà còn của các thẩm quyền nơi thành phố này và xứ sở này. Chúng tôi chỉ xin những gì là quyền lợi được đối xử bình đẳng như hết mọi người công dân”.

 

Mấy ngày sau, chẳng một lời cắt nghĩa, vị giám mục ở Mira không được phép cử hành Giờ Kinh Thần Vụ hằng năm diễn ra vào ngày 6/12 nơi cảnh đổ nát của nhà thờ Thánh Nicholas ở Mira, Tiểu Á. Và một phán quyết hầu như đồng thời của Tối Cao Pháp Viện không cho vị thượng phụ này các quyền sở hữu đối với một cô nhi viện thuộc các hải đảo Chư Hoàng Tử. Tòa án này, hai tháng trước đó, cũng đã phủ quyết việc tái thiết Chủng Viện Thần Học ở Halki.

 

ĐHY Roberto Tucci đã nhận định trên Đài Phát Thanh Vatican rằng Khối Hiệp Nhất Âu Châu đặt nặng “các yếu tố khác, kinh tế, chính trị, quân sự v.v. mà coi thường những giá trị về tự do tôn giáo”, một coi thường “rất ư là nguy hiểm”, “như thể Âu Châu không tìm thấy những giá trị nào cao cả hơn” là những giá trị được đề cập đến trong lãnh vực trần thế.

 

Đức Ông tổng thư ký cho rằng vấn đề này liên quan đến việc Bản Hiến Pháp Âu Châu không dám minh nhiên nói rõ đến các căn gốc Kitô giáo:

 

·        Vấn đề rắc rối thật sự có lẽ là vấn đề về chính chúng ta. Một thực tại mà không có căn tính hiển nhân đang gặp nguy cơ thảm bại”.

 

Thổ Nhĩ Kỳ có 68 triệu dân hầu như toàn tòng Hồi giáo. Các cộng đồng tôn giáo không phải Hồi giáo không được pháp luật chính thức nhìn nhận.

 

Lịch sử chính trị và quân sự còn ghi nhận là từ năm 1326, Đế Quốc Ottoman xuất phát từ Thổ Nhĩ Kỳ đã xuất hiện trên chiến trường thế giới, chẳng những đã triệt hạ được Đế Quốc Byzantine năm 1453, mà còn, vào thế kỷ 16, đã bành trướng biên cương bờ cõi đế quốc này tới tận Hung Gia Lợi ở miền bắc vào năm 1526, rồi sau đó tới Yemen ở miền nam, Morocco ở miền tây, và Ba Tư ở miền đông, trở thành một đế quốc lớn nhất thế giới vào đầu thế kỷ 17, bao gồm một vùng đất tam biên là Đông Âu, Trung Đông và Bắc Phi. Thế nhưng, từ năm 1783 đến 1914, đế quốc này đã mất đi nhiều chiếm địa của mình, và cuối cùng đã tan bại trong Thế Chiến Thứ I (1914-1918) cùng với Đức quốc.

 

 

TOP