TÔNG DU HOA KỲ VÀ LIÊN HIỆP QUỐC

(15-20/4/2008)

Tác Dụng Chuyến Tông Du Hoa Kỳ 15-20/4/2008 của ĐTC BĐXVI

Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Dick Cheney ngỏ lời tạ từ ĐTC Biển Đức XVI

Bài Giảng Thánh Lễ Ở Vận Động Trường Yankee, Bronx New York Chúa Nhật V Phục Sinh, 20/4/2008

Đức Hồng Y Egan chào mừng ĐTC Biển Đức XVI trước Thánh Lễ Đại Trào ở Nữu Ước

Huấn dụ Giới Trẻ và Chủng Sinh tại Chủng Viện Thánh Giuse ở Yonkers, Nữu Ước Thứ Bảy 19/4/2008

Với Nhân Viên Làm Việc Tổ Chức Liên  Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ Thứ Sáu 18/4/2008

Với Các Phần Tử thuộc Tổng Hội Đồng của Tổ Chức Liên  Hiệp Quốc ở Nữu Ước Hoa Kỳ Thứ Sáu 18/4/2008

Vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Chào Mừng ĐTC Biển Đức XVI ngày Thứ Sáu 18/4/2008

Huấn dụ Thành Phần Giảng Dạy ở Các Học Đường Công Giáo Các Cấp tại Sảnh Đường Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn Thứ Năm 17/4/2008 

Bài Giảng cho Thánh Lễ ở Washington Nationals Stadium Thứ Năm 17/4/2008

Xã Hội Mỹ quốc cần phải được Truyền Bá Phúc Âm Hóa về Văn Hóa

Với Các Vị Giám Mục Hoa Kỳ sau Giờ Kinh Tối Thứ Tư 16/4/2008 tại Đền Thánh Mẫu Quốc Gia Mẹ Vô Nhiễm ở Washington DC

Diễn Từ ngỏ Tổng Thống Hoa Kỳ ở Tòa Bạch Ốc Thứ Tư 16/4/2008

Tổng Thống Bush Ngỏ Lời Chào Mừng Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Thứ Tư 16/4/2008

Sứ Điệp gửi Nhân Dân Hiệp Chủng Quốc về Cuộc Viếng Thăm Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước Hoa Kỳ 15-20/4/2008

Dư Luận và Cảm Nghĩ của dân chúng Hoa Kỳ về ĐTC Biển Đức XVI trước chuyến tông du của ngài

Tổng Thống Bush nói về Cuộc Viếng thăm của ĐTC Biển Đức XVI

 

Tác Dụng Chuyến Tông Du Hoa Kỳ 15-20/4/2008 của ĐTC BĐXVI

 

Theo cuộc thăm dò của Hội Hiệp Sĩ Kha Luân Bố Hoa Kỳ sau chuyến tông du của ĐTC Biển Đức XVI cho thấy tác dụng thật tích cực đạt được của tác động mục vụ toàn cầu này của ngài, nhất là liên quan tới khía cạnh giáo huấn của Giáo Hội.

 

Thật vậy, căn cứ vào các dữ kiện thăm dò và thu thập của Marist College Institute for Public Opinion, một cuộc thăm dò được thực hiện  với 1.013 người lớn khắp Mỹ quốc, từ ngày 22/4 đến 29/4/2008, và được phổ biến hôm Thứ Sáu 9/5/2008 thì chuyến tông du thứ tám này của Đức Thánh Cha ảnh hưởng cả tới thành phần sống lẫn không sống đức tin Công Giáo. 

 

Chẳng hạn, thành phần sống đức tin Công Giáo đã tích cực coi ngài là vị lãnh đạo tinh thần, trước chuyến tông du của ngài, chỉ có 70% sau đó lên tới 82%, còn thành phần không sống đức tin Công Giáo, trước chỉ có 62% sau lên tới 79%/.

 

Đa số người Công Giáo, 54%, sau chuyến  tông du của ngài, cho biết thấm thía hơn về các giá trị thiêng liêng của mình, và 41% cho biết họ sẽ đi bầu vào tháng 11 tới đây; rồi 64% cho biết họ hiểu hơn về chủ trương của Giáo Hội đối với các vấn đề quan trọng.

 

88% thành phần sống đức tin Công Giáo và 73% không sống đức  tin Công Giáo cho rằng chuyến tông du của ngài đúng hay vượt quá lòng mong ước của họ. Sau chuyến tông du của ngài, 70% người Công Giáo có một nhãn quan tích cực hơn về Giáo Hội, bao gồm 82% thành phần sống đạo và 56% không sống đạo.

 

Một nửa số người được thăm dò cho biết họ có thể làm cho gia đình trở thành quan trọng hơn trong đời sống của họ, trong khi đó gần  40% nói rằng họ có thể tích cực hơn trong cộng đồng hay giáo xứ của mình.

 

Trong số những người công khai bày tỏ cảm nhận của mình về chuyến tông du của ngài, người ta đọc thấy những lời tiêu biểu sau đây của một người tên là Gail Giacobbe.

 

“Trong cuộc đời của mình tôi chưa bao giờ chứng kiến thấy có quá nhiều người Hoa Kỳ thuộc tất cả mọi giáo phái tỏ ra cảm kích như vậy trước cuộc viếng thăm của Vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta ở nơi đây. Tôi có phúc được tham dự thánh lễ ở Yankee Stadium và thấy 58 ngàn người tỏ ra hết sức SAY MÊ đối với Vị Đại Diện Chúa Kitô. Ngài đã chiếm được tâm can của TẤT CẢ mọi người Hoa Kỳ và chúng tôi kính mến ngài và tiếp tục cám ơn ngài về chuyến viếng thăm của ngài ở nơi đây. Ngay cả những người trong lớp thể dục của tôi cũng cảm thấy BANANAS khi tất cả họ nghe thấy rằng tôi đến Yankee Stadium. Tôi đang nói tới thành phần dân chúng thường nhật của TẤT CẢ MỌI TÔN GIÁO và HOÀN CẢNH. Họ cứ lập lại với tôi rằng: ‘Ôi tuyệt vời biết bao được gặp gỡ CHỊ vì chị đã được gặp Đức Giáo Hoàng’. Tâu Đức Thánh Cha, ngài đã mang đến cho chúng con một niềm hy vọng sâu xa hơn và mới mẻ hơn nơi Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. CHÚNG CON XIN CÁM ƠN NGÀI BẰNG CẢ TẤM LÒNG VÀ NGUYỆN CẦU CỦA CHÚNG CON!!”

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 9+10/5/2008

 

  TOP

 

Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Dick Cheney ngỏ lời tạ từ ĐTC Biển Đức XVI

 

Trọng Kính chào Đức Thánh Cha, Tổng Thống và Thượng Nghị Sĩ Clinton, Các Vị Hồng Y Bertoni và Egan, Đức Giám Mục DiMarzio, quí vị giáo sĩ và tu sĩ, quí tôn vị quan khách, cùng quí bà quí ông. Thật là vinh dự được cùng với tất cả quí vị vào lúc vị khách quí của chúng ta là Đức Thánh Cha kết thúc cuộc viếng thăm Hiệp Chủng Quốc của ngài. Đây là một tuần lễ đáng ghi nhớ, và Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã tiến vào lịch sử xứ sở của chúng ta cách đặc biệt.

 

Khoảng 60 triệu người Hoa Kỳ thuộc đàn chiên của ngài, và tất cả Hoa Kỳ tỏ ra trân trọng vị sứ giả hòa bình, công lý và tự do này. (vỗ tay). Từ thủ đô của quốc gia này cho đến đại đô Nữu Ước đây, các người công dân của chúng ta đã đón tiếp vị Giáo Hoàng này cách trân trọng và cảm mến, bằng những bài ca hân hoan cũng như bằng những lời nguyện cầu tạ ơn.

 

Trọng kính Đức Thánh Cha, trong chuyến tông du đầu tiên đến Hiệp Chủng Quốc này, ngài đã gặp gỡ một quốc gia đang phải đối diện đương đầu với nhiều thứ khó khăn thách đố, thế nhưng với nhiều phúc lành hơn hơn là những gì chúng tôi tưởng. (vỗ tay). Ngài đã gặp gỡ một dân tộc của niềm tin vang vọng khẳng định rằng quốc gia của chúng tôi được thành lập dưới chủ quyền của Thiên Chúa, một quốc gia tìm kiếm những chủ định của Người và cúi mình tuân phục ý muốn của Người. (vỗ tay). Ngài đã thấy một xứ sở là nơi luôn giơ cao ngọn đuốc tự do, bình đẳng và khoan dung; một xứ sở luôn nghênh đón ngài là một người loan truyền Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô và là vị lãnh đạo của Giáo Hội Công Giáo Rôma. (vỗ tay). 

 

Ngài đã mang đến cho xứ sở đa dạng của chúng tôi một sứ điệp phổ quát về niềm hy vọng và cứu độ.  Ngài đã hùng hồn và cảm mến nói với nhân dân Hoa Kỳ, nên đối với nhiều người thì đây là những ngày suy nghĩ và canh tân bản thân. Cho dù được gặp gỡ ngài hay nghe từ xa xôi, hằng triệu người đã thấy nơi ngài những lời lẽ niềm hy vọng không thất vọng, một niềm tin tưởng giữa cảnh lẫn lộn, và một sức mạnh cho cuộc hành trình của họ

 

Trọng kính Đức Thánh Cha, ở Nữu Ước đây, ngài đã ngỏ lời cùng các vị đại diện của nhiều quốc gia, và đã cử hành Thánh Thể trước hằng nhiều ngàn người. Và ngài đã làm cho chúng tôi cảm kích, đặc biệt là việc ngài đến thăm Khu Đất Trống - Ground Zero. (vỗ tay). Ở đó, ngài đã nguyện cầu xin ánh sáng ngàn thu và an bình cho những nạn nhân vô tội hôm 11/9/2001, và ngài đã xin những người còn sống chúng tôi hãy sống làm sao để tất cả những ai đã chết đi vào buổi sáng hôm đó không uổng phí. Đó là những gì chúng tôi hằng ngày suy niệm nữa, và nó vẫn tồn tại trong việc nguyện cầu hằng ngày của chúng tôi.

 

Trọng kính Đức Thánh Cha, gần 57 năm qua đi từ ngày ngài thụ phong linh mục vào tháng 6/1951. Ngài có thể khó mà tưởng tượng vào lúc bấy giờ rằng ngài sẽ đứng trước toàn thể nhân loại như là một bậc thày, một phát ngôn nhân, và là một vị mục tử của trên 1 tỉ tâm hồn. Đó là những gì Thiên Chúa đã kêu gọi ngài thực hiện. (vỗ tay).

 

Trong 57 năm này, đức khôn ngoan của ngài và các tặng ân mục vụ của ngài đã trở thành phúc lành đặc biệt cho thế giới của chúng tôi. Trong 6 ngày này, ngài đã chia sẻ những phúc lành ấy trực tiếp cho dân  chúng của Hiệp Chủng Quốc này. Việc ngài hiện diện đã làm cho xứ sở của chúng tôi được vinh dự. Mặc dù giờ đây ngài cần phải lìa bỏ chúng tôi, những lời của ngài và ký ức của tuần lễ này sẽ lưu lại với chúng tôi. Chúng tôi thực sự khiêm tốn lấy làm biết ơn. (vỗ tay).

 

Chúng tôi xin cám ơn ngài bằng tất cả tấm lòng tha thiết nhất và trân trọng nhất của chúng tôi, chúng tôi xin chúc ngài bình an trở về lại Rôma, và cho tới khi chúng tôi được gặp lại ngài, chúng tôi xin Đức Thánh Cha hãy nhớ đến Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ này trong những lời nguyện cầu của ngài. (vỗ tay).


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 21/4/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

TOP

 

Bài Giảng Thánh Lễ Ở Vận Động Trường Yankee, Bronx New York Chúa Nhật V Phục Sinh, 20/4/2008

 

Anh Chị Em thân mến trong Chúa Kitô,

 

Trong bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ là hãy tin tưởng ở nơi Người, vì Người là “đường, là sự thật và là sự sống” (Jn 14:6). Chúa Kitô là đường dẫn đến cùng Cha, là sự thật mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của con người, và là nguồn mạch của sự sống là niềm vui vĩnh hằng cùng với tất cả mọi thần thánh trong Nước trời của Người. Chúng ta hãy đón nhận lời của Người! Chúng ta hãy lập lại niềm tin tưởng của chúng ta nơi Người và hãy đặt tất cả niềm hy vọng của chúng ta nơi những lời hứa hẹn của Người!

 

Với niềm phấn khích hãy kiên trì nơi đức tin này của Thánh Phêrô (x Lk 22:32; Mt 16:17), tôi hết lòng ưu ái gửi lời chào tới tất cả anh chị em. Tôi cám ơn ĐHY Egan về những lời tốt đẹp ngài đã nhân danh anh chị em để chào mừng tôi. Trong Thánh Lễ này, Giáo Hội ở Hoa Kỳ cử hành 200 năm thiết lập các Giáo Phận Nữu Ước, Doston, Philadelphia và Louisville từ Giáo Hội gốc là Baltimore. Việc hiện diện chung quanh bàn thờ với vị Thừa Kế Thánh Phêrô đây bao gồm chư huynh giám mục và linh mục của ngài, các phó tế, nam nữ tu sĩ, và tín hữu giáo dân từ khắp 50 tiểu bang của Toàn Khối Hiệp Nhất là những gì sống động cho thấy mối hiệp thông của chúng ta trong đức tin Công Giáo xuất phát từ các vị Tông Đồ.

 

Việc cử hành của chúng ta hôm nay cũng là một dấu hiệu cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ Thiên Chúa ban cho Giáo Hội ở xứ sở của anh chị em trong 200 năm qua. Từ một đàn chiên nhỏ bé như được diễn tả ở bài đọc thứ nhất, Giáo Hội ở Hoa Kỳ đã trung thành xây dựng lưỡng giới mến Chúa yêu người. Ở mảnh đất tự do và cơ hội này, Giáo Hội đã liên kết một đàn chiên rất đa dạng vào việc tuyên xưng đức tin, và nhờ nhiều hoạt động giáo dục, bác ái và xã hội, đã góp phần quan trọng cho việc tăng trưởng của toàn thể xã hội Hoa Kỳ.

 

Việc đạt thành lớn lao này không phải là thiếu những thách đố khó khăn. Bài đọc thứ nhất hôm nay, được trích từ Sách Tông Vụ, nói đến những thứ căng thẳng về ngôn ngữ và văn hóa đã xẩy ra trong cộng đồng Giáo Hội ngay từ ban đầu. Đồng thời bài đọc này cũng cho thấy quyền năng của lời Chúa, được các vị Tông Đồ công bố một cách thuyết phục và được lãnh nhận nhờ tin tưởng, là để kiến tạo một mối hiệp nhất vượt lên trên những chia rẽ xuất phát từ những giới hạn và yếu kém của loài người. Ở đây chúng ta được nhắc nhở về một sự thật nồng cốt: đó là mối hiệp nhất của Giáo Hội không có một nền tảng nào khác ngoài Lời Chúa được hóa thành nhục thể nơi Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Tất cả mọi dấu hiệu bề ngoài khác về căn tính, tất cả mọi thứ cấu trúc, tất cả mọi thứ hội đoàn và mọi chương trình, dù có giá trị hay thậm chí thiết yếu đến đâu chăng nữa, thật sự chỉ hiện hữu là để hỗ trợ và duy trì cho mối hiệp nhất sâu xa là tặng ân bất khả hư hao được Thiên Chúa ban cho Giáo Hội của Ngài trong Chúa Kitô ấy.

 

Bài đọc thứ nhất cũng làm sáng tỏ vấn đề mối hiệp nhất của Giáo Hội là những gì “tông truyền” khi chúng ta thấy nơi việc đặt tay trên các vị phó tế tiên khởi. Nó là một mối hiệp nhất hữu hình, được bắt nguồn nơi các Vị Tông Đồ là thành phần được Chúa Kitô tuyển chọn và chỉ định làm nhân chứng cho việc phục sinh của Người, và nó được xuất phát từ những gì Thánh Kinh gọi là “đức tin tuân phục” (Rom 1:5; cf. Acts 6:7).

 

“Thẩm quyền” … “tuân phục”. Thẳng thắn mà nói thì ngày nay những từ ngữ này là những chữ không dễ nói đến. Những chữ như thế tiêu biểu cho một “tảng đá vấp phạm” đối với nhiều người đồng thời của chúng ta, nhất là trong một xã hội coi trọng quyền tự do cá nhân. Tuy nhiên, theo chiều hướng của niềm tin tưởng chúng ta đặt nơi Chúa Giêsu Kitô – “là đường, là sự thật và là sự sống” – chúng ta tiến đến chỗ thấy được ý nghĩa trọn vẹn nhất, giá trị đầy đủ nhất và thật sự là vẻ đẹp của những lời ấy. Phúc Âm dạy chúng ta rằng niềm tự do chân thực, niềm tự do của con cái Thiên Chúa, chỉ có ở nơi việc trao phó bản thân mình là những gì thuộc về mầu nhiệm yêu thương. Chỉ khi nào chúng ta đánh mất bản thân mình, như Chúa Kitô nói với chúng ta, chúng ta mới thực sự tìm thấy bản thân mình (x Lk 17:33). Niềm tự do chân thực bừng nở khi chúng ta xa lánh gánh nặng tội lỗi là những gì che phủ những nhận thức của chúng ta và làm suy yếu đi quyết định của chúng ta, để tìm thấy nguồn  hạnh phúc tối hậu của chúng ta nơi Người Đấng là tình yêu vô cùng, tự do vô tận, sự sống vô biên. “Bình an của chúng ta ở nơi ý muốn của Người”.

 

Bởi thế, niềm tự do thật sự là tặng ân ưu ái của Thiên Chúa, hoa trái của việc hoán cải về với sự thật của Người, sự thật giải phóng chúng ta (x Jn 8:32). Và niềm tự do này thực sự chất chứa một cách thức nhìn thực tại một mới mẻ và thanh thoát. Khi chúng ta mặc lấy “tâm trí của Chúa Kitô” (x Phil 2:5) thì những chân trời mới mở ra trước chúng ta! Trong ánh sáng của đức tin, trong mối hiệp thông với Giáo Hội, chúng ta cũng thấy được niềm hứng khởi và sức mạnh để trở nên một thứ men Phúc Âm trên thế giới này. Chúng ta trở nên ánh sáng của thế gian, nên muối đất (x Mt 5:13-14), được trao phó cho việc “tông đồ” để làm cho cuộc sống của mình và thế giới chúng ta sống càng hoàn toàn thuận hợp với sự án cứu độ của Thiên Chúa.

 

Cái nhãn quan rạng ngời này về một thế giới đang được biến đổi bởi sự thật giải phóng của Phúc Âm được phản ảnh qua việc diễn tả về Giáo Hội ở bài đọc thứ hai hôm nay. Vị Tông Đồ này nói với chúng ta rằng Chúa Kitô, Đấng sống lại từ trong kẻ chết, là tảng đá góc tường cho một đền thờ vĩ đại mà thậm chí cho tới nay đang vươn lên trong Thần Linh. Và chúng ta, những phần tử của thân mình Người, nhờ Phép Rửa, đã trở thành “những tảng đá sống động” nơi đền thờ ấy, thông phần vào sự sống của Thiên Chúa bằng ân sủng, được phúc tự do làm con cái Thiên Chúa, và được quyền  hiến dâng những của lễ hy sinh thiêng liêng đẹp lòng Ngài (x 1Pt 2:5). Và phải chăng đó là việc hiến dâng chúng ta được kêu gọi để thực hiện, nếu chúng ta không hướng hết mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta về sự thật của Phúc Âm và không trang bị tất cả mọi năng lực của chúng ta cho việc phục vụ cho Vương Quốc của Thiên Chúa? Chỉ có thế chúng ta mới có thể xây dựng với Thiên Chúa trên một nền tảng duy nhất là Chúa Kitô (x 1Cor 3:11). Chỉ có thế đời sống của chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa tối hậu và mới sinh hoa trái bền vững mà thôi.

 

Hôm nay chúng ta nhớ lại 200 năm mốc điểm lịch sử của Giáo Hội ở Hiệp Chủng Quốc đó là chương đầu quan trọng về tình trạng phát triển. Trong 200 năm này, khuôn mặt của cộng đồng Công Giáo nơi xứ sở của anh chị em đã biển đổi rất nhiều. Chúng ta nghĩ tới những làm sóng theo nhau di dân có những truyền thống đã làm phong phú cho Giáo Hội ở Hoa Kỳ. Chúng ta nghĩ đến đức tin mãnh liệt trong việc thiết lập nên cả một hệ thống các nhà thờ, những cơ cấu về giáo dục, chăm sóc sức khỏe và xã hội đang đánh dấu Giáo Hội ở xứ sở này. Chúng ta cũng nghĩ đến vô số những người cha người mẹ truyền đạt đức tin của mình cho con cái của họ, việc thi hành kiên trì thừa tác vụ của mình nơi nhiều vị linh mục hiến  đời mình cho việc chăm sóc các linh hồn, cùng với việc đóng góp khôn xiết kể của rất nhiều tu sĩ nam nữ, những người chẳng những đã dạy cho các thế hệ trẻ em biết cách đọc và viết mà còn ảnh hưởng nơi chúng một ước mong suốt đời muốn nhận biết  Chúa, yêu mến Ngài và phụng sự Ngài. Biết bao nhiêu là “những hy sinh thiêng liêng hài lòng Thiên Chúa” đã được hiến dâng lên trong 200 năm qua! Nơi mảnh đất tự do tôn giáo này, những người Công Giáo có được tự do để chẳng những thực hành đức tin của mình mà còn trọn vẹn tham phần vào đời sống dân sự nữa, mang những niềm xác tín sâu xa về luân lý của mình cho công chúng và cộng tác với tha nhân trong việc hình thành một xã hội sống động và dân chủ. Việc cử hành hôm nay đây chính là một cơ hội tri ân về các ân sủng đã lãnh nhận. Nó cũng là một lời mời gọi hãy cương quyết thăng tiến trong việc khôn ngoan sử dụng những phúc lành tự do, để xây dựng một tương lai hy vọng cho các thế hệ mai sau.

 

“Anh em là giòng dõi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là quốc gia thánh hảo, là dân riêng của Ngài để loan báo các công việ chiển vinh của Ngài” (1Pt 2:9). Những lời của Thánh Phêrô đây không chỉ nhắc nhở chúng ta về phẩm vị chúng ta có được nhờ ơn Chúa; chúng cũng thách đố chúng ta sống trung thành hơn nữa với gia sản rạng ngời chúng ta đã được lãnh nhận trong Chúa Kitô (x Eph 1:18). Chúng thách đố chúng ta hãy khảo sát lương tâm của mình, hãy thanh tẩy tâm can, hãy lập lại quyết tâm rửa tội của chúng ta trong việc từ bỏ Satan cùng với những lời hứa hẹn hão huyền của hắn. Chúng thách đố chúng ta hãy trở nên một dân tộc hoan lạc, là tin mừng của niềm hy vọng vững chắc (x Rm 5:5) xuất phát từ niềm tin tưởng vào lời Chúa cũng như tin tưởng vào các lời hứa của Ngài.

 

Mỗi ngày, ở khắp đất nước đây, anh chị em và nhiều cận nhân của anh chị em cầu nguyện cùng Cha theo những lời của Chúa Kitô: “Nước Cha trị đến”. Lời nguyện cầu này cần in ấn vào tâm trí của hết mọi Kitô hữu ở xứ sở này. Nó cần phải sinh hoa kết trái trong đời sống của anh chị em, trong việc xây dựng gia đình và cộng đồng của anh chị em. Nó cần phải tạo nên ‘những môi trường hy vọng’ (x. Spe Salvi, 32ff) mới là nơi Vương Quốc của Thiên Chúa hiện diện trong tất cả quyền lực cứu độ của mình.

 

Khi tha thiết nguyện cầu cho Vương Quốc này trị đến cũng có nghĩa là liên lỉ tỉnh thức trước những dấu chỉ hiện diện của vương quốc ấy và hoạt động cho sự phát triển của vương quốc này ở mọi lãnh vực trong xã hội. Nó có nghĩa là đương đầu với các thách đố hiện tại cũng như tương lai bằng niềm tin tưởng vào cuộc vinh thắng của Chúa Kitô và nghĩa là dấn thân loan truyền việc Người hiển trị. Nó có nghĩa là không nản lòng trước tình trạng chống đối, thù hằn và gương mù. Nó có nghĩa là thắng vượt hết mọi phân rẽ giữa đức tin và đời sống, và đương đầu với các thứ phúc âm sai lầm về tự do và hạnh phúc. Nó cũng có nghĩa là loại trừ đi cái phân rẽ sai lầm giữa đức tin và đời sống chính trị, vì, như Công Đồng Chung Vaticanô II đã viết, “không có một hoạt động nhân loại nào – dù là những trần thế vụ – lại có thể thoát khỏi quyền thống trị của Thiên Chúa” (Lumen Gentium, 36). Nó có nghĩa là hoạt động để làm phong phú xã hội và văn hóa Hoa Kỳ bằng vẻ đẹp và chân lý của Phúc Âm, không bao giờ bị lạc mất đi niềm hy vọng mang lại ý nghĩa và giá trị cho tất cả mọi thứ hy vọng khác đang tác động chi phối đời sống của chúng ta.

 

Các bạn thân mến, đó là cuộc thách đố đặc biệt được Vị Thừa Kế Thánh Phêrô này để ra trước anh chị em hôm nay. Là “một dân tộc được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, một quốc gia thánh hảo”, anh chị em hãy trung thành theo chân của những ai đã ra đi trước anh chị em! Hãy mau làm cho Vương Quốc của Thiên Chúa trị đến ở đất nước này! Các thế hệ trước đây đã lưu lại cho anh chị em một di sản sâu xa. Ở cả ngày hôm nay nữa, cộng đồng Công Giáo ở quốc gia này từng nổi bật ở chứng từ ngôn sứ của mình trong vấn đề bảo vệ sự sống, trong vấn đề giáo dục giới trẻ, trong vấn đề chăm sóc cho người nghèo khổ, bệnh hoạn và xa lạ giữa anh chị em. Trên những nền tảng vững chắc ấy, tương lai của Giáo Hội ở Hoa Kỳ cần phải bắt đầu vươn lên thậm chí cả cho đến lúc này đây!

 

Hôm qua, không xa đây lắm, tôi đã cảm thấy được niềm hân hoan, hy vọng và tình yêu bao dung của Chúa Kitô là Đấng tôi nhìn thấy trên  khuôn mặt của nhiều giới trẻ qui tụ lại ở Dunwoodie. Họ là tương lai của Giáo Hội, và tất cả họ đều xứng được anh chị em nguyện cầu và nâng đỡ. Bởi thế muốn kết thúc bằng việc nói thêm lời lẽ đặc biệt để khuyến khích họ. Các bạn trẻ thân mến của tôi, như “7 người đầy Thần Linh và khôn ngoan” được các vị Tông Đồ ủy thác cho việc chăm sóc Giáo Hội trẻ, chớ gì các bạn thẳng tiến và lãnh nhận trách nhiệm theo niềm tin tưởng vào Chúa Kitô đề ra cho các bạn! Chớ gì các bạn được can đảm để loan báo Chúa Kitô, “hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một” cùng với những sự thật không đổi thay có nguồn gốc nơi Người (x Gaudium et Spes, 10; Heb 13:8). Những sự thật ấy là những gì giải thoát chúng ta! Chúng là những sự thật duy nhất có thể bảo đảm việc tôn trọng phẩm giá và quyền lợi bất khả thay thế của mỗi một con người nam nữ và trẻ em trên thế giới này – bao gồm cả thành phần bất lực nhất loài người là thai nhi trong lòng mẹ. Trong một thế giới mà, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, khi lên tiếng ở chính nơi này đây, đã nhắc nhở chúng ta rằng Lazarô tiếp tục đứng ở cửa (Homily at Yankee Stadium, October 2, 1979, No. 7), thì niềm tin và lòng yêu thương của các bạn cần phải sinh hoa kết trái dồi dào nơi việc vươn đến với người nghèo, với người thiếu thốn và với những ai không có tiếng nói. Hỡi những con người nam nữ trẻ của Hoa Kỳ, tôi thiết tha xin các bạn hãy mở lòng mình ra trước tiếng gọi của Chúa trong việc theo Người trong đời sống làm linh mục và đời sống tu sĩ. Còn gì ghi dấu yêu thương lớn lao hơn là điều này, đó là theo chân Chúa Kitô, Đấng đã sẵn sàng thí mạng sống mình vì bạn hữu của mình (x Jn 15:13).

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô đã hứa với các môn đệ của Người rằng các vị sẽ làm được những việc còn lớn lao hơn cả của Người nữa (x Jn 14:12). Các bạn thân mến, chỉ có một mình Thiên Chúa, qua việc quan phòng của Ngài, mới biết được những gì ân sủng của Ngài cần phải thực hiện nơi đời sống của các bạn cũng như nơi đời sống của Giáo Hội ở Hiệp Chủng Quốc. Tuy nhiên, những gì Chúa Kitô hứa hẹn làm cho chúng ta cảm thấy tràn đầy niềm hy vọng vững chắc. Giờ đây chúng ta hãy liên kết những lời nguyện cầu của chúng ta với của Người, như những tảng đá sống động trong đền thờ thiêng liêng là Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền của Người. Chúng ta hãy hướng mắt chúng ta lên Người vì cho dù tới nay Người đang sửa soạn cho chúng ta một nơi trong nhà Cha của Người. Và được Thánh Linh tăng sức, chúng ta hãy hoạt động bằng lòng nhiệt thành mới trong việc loan truyền Vương Quốc của Người.  

 

“Phúc cho anh em là kẻ tin tưởng!” (x 1Pt 2:7). Chúng ta hãy hướng về Chúa Giêsu! Chỉ một mình Người là đường dẫn đến hạnh phúc trường sinh, là chân lý , Đấng thỏa mãn những ước vọng sâu xa nhất của hết mọi tâm can, và là sự sống mang lại niềm vui mới mẻ và hy vọng cho chúng ta cũng như cho thế giới. Amen.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2008/documents/hf_ben-xvi_hom_20080420_yankee-stadium-ny_en.html

 

TOP

 

 Đức Hồng Y Egan chào mừng ĐTC Biển Đức XVI trước Thánh Lễ Đại Trào ở Nữu Ước

  

Trọng Kính Đức Thánh Cha, chúng con xin chào mừng Đức Thánh Cha tới Nữu Ước!

 

Cuộc tông du của Đức Thánh Cha, đối với chúng con đang qui tụ lại nơi đây vào buổi chiều hôm nay là một ân phúc lớn lao khiến chúng con hết lòng và thành thực tri ân.

 

Hai trăm năm trước đây, vào tháng này đây, vị tiền nhiệm khôn ngoan và dũng cảm đáng nhớ của Đức Thánh Cha là Đức Giáo Hoàng Piô VII đã nâng Giáo Phận Baltimore, Giáo Phận duy nhất bấy giờ ở đất nước này, lên cấp Tổng Giáo Phận và thiết lập trong Giáo Tỉnh của Tổng Giáo Phận này 4 Giáo Phận Phụ nữa. Những giáo phận này là Boston, Nữ Ước, Philadelphia và Bardstown mà nay là Louisville. Tất cả bốn giáo phận phụ này từ đó đã trở thành các Tổng Giáo Phận, và, cùng với Baltimore, đã tham gia vào cuộc Cử Hành Mừng Hai Trăm Năm, một cuộc cử hành mừng kỷ niệm, theo sự quan phòng của Thiên Chúa, đã đạt đến tuyệt đỉnh của mình một cách xứng đáng nhất nơi Hy Tế Thánh Lễ được hiến dâng bởi Vị Đại Diện Chúa của chúng ta và là Đấng Cứu Độ của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô giữa chúng con đây. Trọng kính Đức Thánh Cha, chúng con xin bày tỏ lòng tri ân nhỏ bé và chân thành của mình về cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha và việc Đức Thánh Cha chủ tế Thánh Lễ này.

 

Cùng với chúng con trong dịp cao cả đầy phúc đức này còn có các vị hồng y, các vị tổng giám mục, các vị giám mục, các linh mục, các phó tế, các tu sĩ và tín hữu thuộc tất cả 195 giáo phận và tổng giáo phận ở Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ này nữa. Họ đại diện cho những gì hết sức khác nhau về chủng tộc và kinh nghiệm sắc tộc, tất cả đều liên kết với nhau trong Giáo Hội Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền mà Đức Thánh Cha là Vị Chủ Chiên Tối Cao. Họ được hợp bởi hàng giáo sĩ và thành phần giáo dân thuộc nhiều niềm tin và hiệp thông, các vị lãnh đạo chính trị, và những con người nam nữ cùng trẻ em ở khắp nơi trong đất nước này. Thật là một vinh dự đặc biệt được thay mặt cho họ để thưa cùng Đức Thánh Cha rằng việc hiện diện của Đức Thánh Cha đối với tất cả chúng con là một ân huệ cao cả và đáng hết lòng ghi ơn biết bao.

 

Trọng kính Đức Thánh Cha, chúng con đã hân hoan và tri ân đọc bức Thông Điệp mới đây nhất của Đức Thánh Cha, “Niềm Hy Vọng Cứu Độ”. Bức Thông Điệp này đã đề ra đề tài cho việc Cử Hành Thánh Thể này, “Chúa Kitô, Niềm Hy Vọng Phục Sinh của chúng ta”, và vạch ra rất rõ ràng con đường chúng con cần phải theo bằng một lòng tin tưởng và cậy trông vô hạn vào Chúa trong những tháng năm trước mắt đây. Chúng con hết lòng cám ơn Đức Thánh Cha về Bức Thông Điệp ấy và đối với tất cả những gì Đức Thánh Cha nói, viết và làm trong 3 năm trong tư cách là Vị Thừa Kế Thánh Phêrô đã củng cố đức tin của chúng con và đã làm kiên cường quyết tâm của chúng con trong việc sống như Chúa Kitô đã dạy chúng ta phải sống.

 

Trọng Kính Đức Thánh Cha, sau hết, xin cho con được thêm là ở Nữu Ước này chúng con đặc biệt cảm thấy có phúc bởi việc Đức Thánh Cha đến giữa chúng con tại ngôi Vương Cung Thánh Đường của chúng con, ở chủng viện, nơi một trong những nhà thờ giáo xứ của chúng con, trước cộng đồng thế giới là Liên Hiệp Quốc, và ở Lower Manhattan là nơi chúng con đã gọi là “Ground Zero”, một địa điểm thảm khốc được Đức Thánh Cha quan tâm và nguyện cầu.

 

Xin Đức Thánh Cha biết cho rằng cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha làm cho tâm trí của tất cả chúng con đây được tác động và bừng lên “niềm hy vọng biến đổi cuộc đời và duy trì cuộc sống” là những gì được Đức Thánh Cha viết một cách sâu xa và uyên bác trong bức Thông Điệp của Đức Thánh Cha. Chúng con nguyện cầu cho Vị Giám Mục Rôma, Vị Chủ Chiên Tối Cao và là Vị Đại Diện Chúa Kitô; và chúng con hứa tiếp tục lời nguyện cầu này trong suốt những tháng năm tới đây bằng một lòng mến yêu và niềm hy vọng lớn lao hơn bao giờ hết.

 

Trọng Kính Chào Mừng Đức Thánh Cha!

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 20/4/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

TOP

 

Huấn dụ Giới Trẻ và Chủng Sinh tại Chủng Viện Thánh Giuse ở Yonkers, Nữu Ước Thứ Bảy 19/4/2008

 

Kính Đức Hồng Y,

Cùng Quí Huynh Giám Mục,

Và Các Bạn Trẻ thân mến,

 

Hãy rao giảng Chúa Kitô… và hãy luôn sẵn sàng trả lời cho ai muốn hỏi anh em về niềm hy vọng ở nơi anh em” (1Pt 3:15). Với những lời này trong Thư Thứ Nhất của Thánh Phêrô, tôi chân  thành ưu ái chào từng anh chị em. Tôi cám ơn Đức Hồng Y Egan về những lời ngài chào mừng tôi, và tôi cũng cám ơn những người đại diện được anh chị em chọn để bày tỏ những cử chỉ nghênh đón tôi. Tôi cũng đặc biệt chào và cám ơn Đức Giám Mục Walsh, Giám Đốc Chủng Viện Thánh Giuse, nhân viên và các chủng sinh.

 

Các bạn trẻ thân mến, tôi rất hân  hoan được dịp nói chuyện với các bạn đây. Xin chuyển  lời chào thân ái của tôi đến những phần tử thuộc gia đình và họ hàng của các bạn, cũng như đến các vị giáo chức cùng nhân viên thuộc các trường học, đại học cao đẳng và đại học đường các bạn đang theo học. Tôi biết rằng nhiều người đã làm việc khó nhọc để bảo đảm cho việc gặp gỡ của chúng ta đây được diễn ra. Tôi hết lòng cám ơn họ. Tôi cũng muốn cám ơn cả việc các bạn hát mừng Sinh Nhật của tôi nữa! Cám ơn các bạn về cử chỉ cảm kích này; tôi cho tất cả các bạn ‘A cộng’ về việc phát âm Đức ngữ của các bạn! Buổi tối hôm nay tôi muốn chia sẻ với các bạn một ít ý nghĩ về việc làm môn đệ của Chúa Giêsu Kitô khi bước  theo chân Chúa Kitô, đời sống của chúng ta trở thành một cuộc hành trình hy vọng.

 

Ở trước các bạn đây là những hình ảnh của sáu con người nam nữ đã lớn lên để sống một cuộc đời phi thường. Giáo Hộio tôn kính các vị như là Đấng Đáng Kính, Chân Phước hay Thánh Nhân: mỗi vị đã đáp lại tiếng gọi của Chúa Kitô để sống một cuộc đời bác ái và mỗi vị đã phục vụ Người ở đây, nơi những ngõ hẻm, đường phố và ngoại ô của Nữu Ước. Tôi ngỡ ngàng trước các vị là nhóm người rất khác biệt nhau: cả nghèo lẫn giầu, cả giáo dân nam nữ – một vị là người vợ và là người mẹ giầu có – lẫn linh mục và nữ tu, di dân từ xa tới, người con gái của một ông bố thuộc bộ lạc Mohawk và người Mẹ thuộc Algonquin, cả một người nô lệ ở Hạ Uy Di lẫn một nhà trí thức Cuba.

 

Thánh Elizabeth Ann Seton, Thánh Frances Xavier Cabrini, Thánh John Neumann, Chân Phước Kateri Tekakwitha, Đáng Kính Pierre Toussaint, and Padre Felix Varela: bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể thuộc vào thành phần như các vị, vì không có một mẫu thức nào cho nhóm này cả, không có một khuôn đức duy nhất nào hết. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ mới thấy rằng có những yếu tố chung. Được nung nấu bởi tình yêu Chúa Giêsu, đời sống của các vị đã trở thành những cuộc hành trình hy vọng đáng giá. Đối với một số trong các vị thì cuộc hành trình này có nghĩa là lìa bỏ nhà cửa thực hiện một cuộc hành trình xa cả ngàn dặm. Đối với từng vị thì đó là một tác động phó mình cho Thiên Chúa, tin tưởng rằng Ngài là cùng đích của hết mọi cuộc hành trình. Và tất cả các vị đã giang rộng vòng tay hy vọng cho những ai các vị gặp trên đường, thường làm bừng lên trong họ một sự sống đức tin. Qua các cô nhi viện, các học đường và các bệnh viện, bằng việc giúp đáp người nghèo, kẻ liệt và thành phần sống bên lề xã hội , cũng như qua chứng từ thu phục xuất phát từ việc khiêm tốn bước đi theo chân Chúa Giêsu, 6 con người này đã mở đường tin cậy mến cho vô số cá nhân, trong đó có thể bao gồm cả cha ông của anh chị em.

 

Thế thì còn ngày hôm nay thì sao? Ai là người làm chứng cho Tin Mừng của Chúa Giêsu trên các đường phố Nữu Ước này, nơi những khu lân cận hỗn độn của các thành phố lớn, nơi những chỗ giới trẻ tụ họp để tìm kiếm một người nào đó chúng có thể tin tưởng đây? Thiên Chúa là nguồn gốc của chúng ta và là đích điểm của chúng ta, và Chúa Giêsu là đường lối. Con đường của cuộc hành trình này cong queo uốn khúc – như đối với các vị thánh của chúng ta – băng qua những lúc vui mừng cùng với những thứ thách của cuộc sống bình thường hằng ngày: trong gia đình của anh chị em, ở học đường hay đại học, trong các cuộc sinh hoạt vui chơi giải trí của anh chị em, cũng như trong cộng đồng giáo xứ của anh chị em. Tất cả những nơi ấy đều được đánh dấu nền văn hóa trong đó anh chị em lớn lên. Là những con người trẻ Hoa Kỳ, anh chị em được cống hiến cho nhiều cơ hội để phát triển bản thân, và anh chị em đã được lớn lên với một cảm quan quảng đại, phục vụ và công bằng. Tuy nhiên, anh chị em không cần tôi nói với anh chị em là còn có cả những khó khăn nữa: đó là những hoạt động và những chủ trương dập tắt niềm hy vọng, những đường nẻo dường như dẫn đến thứ hạnh phúc và viên mãn mà thật ra chỉ đưa đến chỗ lẫn lộn và sợ hãi mà thôi.


Những năm tháng khi tôi còn là thanh thiếu niên cũng đã bị tác hại bởi một chế độ độc ác cho rằng nó có tất cả mọi câu giải đáp; ảnh hưởng của nó đã tràn lan – thấm nhập vào các học đường và vào các cơ cấu dân sự, cũng như chính trị và thậm cí cả tôn giáo – trước khi người ta hoàn toàn nhận ra nó chỉ là một con quái vật. Nó loại trừ Thiên Chúa, nhờ đó, trở nên trơ trơ trước bất cứ những gì là chân thật và thiện hảo. Nhiều vị ông bà cụ kị của anh chị em đã thuật lại tình trạng hủy hoại đầy rùng rợn này. Thật thế, một số trong các vị đã đến Mỹ Châu chính là để tránh né cái kinh hoàng ấy.


Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa là ngày nay nhiều người thuộc thế hệ của anh chị em đã có thể hoan hưởng những thứ tự do được xuất phát nhờ việc phát triển về dân chủ và việc tôn trọng nhân quyền. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa cho tất cả những ai nỗ lực để bảo đảm rằng anh chị em có thể lớn lên trong một môi trường duy trì những gì là mỹ lệ, thiện hảo và chân thực: cha mẹ và ông bà của anh chị em, các thày cô và linh mục của anh chị em, những vị lãnh đạo chính trị tìm kiếm những gì là đúng thực và công bằng.

 

Tuy nhiên, quyền lực hủy hoại vẫn còn đó. Nếu cứ tưởng khác đi là chúng ta tự đánh lừa mình. Tuy nhiên, nó sẽ không bao giờ chiến thắng được; nó đang bị đánh bại. Đây là yếu tính của niềm hy vọng cho thấy chúng ta là Kitô hữu; Giáo Hội nhắc lại điều này hết sức thảm thiết trong Tam Nhật Phục Sinh và cử hành nó với niềm hân hoan lớn lao trong mùa Phục Sinh! Đấng cho chúng ta thấy con đường vượt qua sự chết là Đấng cũng cho chúng ta thấy cách thức để khắc phục việc hủy hoại và nỗi sợ hãi: Đó chính là Chúa Giêsu, Đấng là vị sư phụ thật sự về sự sống (x Spe Salvi, 6). Cái chết và cuộc phục sinh của Người chất chứa một ý nghĩa khiến chúng ta có thể nói cùng Cha rằng “Cha đã phục hồi cho chúng con sự sống” (Lời Nguyện sau Hiệp Lễ, Thứ Sáu Tuần Thánh). Bởi thế mà, mới mấy tuần trước đây, trong khi cử hành phụng vụ Lễ Vọng Phục Sinh tuyệt vời, từ niềm thất vọng và nỗi sợ hãi chúng ta đã kêu lên cùng Thiên Chúa cho thế giới của chúng ta, song với niềm tin tưởng tràn đầy hy vọng rằng: xin hãy đánh tan bóng tối tăm của cõi lòng chúng con! Hãy đánh tan tối tăm của trí khôn chúng con! (x Lời Nguyện Thắp Nến Phục Sinh).

 

Bóng tôi tăm này có thể là những gì? Cái gì xẩy ra khi con người, nhất là thành phần dễ bị tổn thương nhất, bị bóp chặt bởi đàn áp hay bởi khai thác, hơn là bởi bàn tay của niềm hy vọng? Đó là những gì tiêu biểu trước hết liên quan tới cõi lòng. Ở đây, những mơ tưởng và niềm mong ước được giới trẻ theo đuổi có thể bị tan vỡ hay hủy hoại một cách dễ dàng. Tôi đang nghĩ tới những ai nghiền và lạm dụng ma túy, đến thành phần vô gia cư và nghèo khổ, đến chủ nghĩa duy chủng, đến bạo động, và đến tình trạng đớn hèn – nhất là của những em gái và phụ nữ. Cho dù các căn nguyên của những vấn đề này phức tạp, tất cả cũng chỉ có cùng thái độ của một trí khôn bị đầu độc đi đến chỗ đối xử với con người như là những thứ đồ vật thuần túy – một tình trạng nhẫn tâm của cõi lòng trước hết là coi thường, sau đó là nhạo báng, phẩm vị thiên  phú của hết mọi con người. Các thảm trạng như thế cũng cho thấy những gì được các đôi bàn tay khác – đôi tay của anh chị em – đã từng và có thể vươn ra. Tôi khuyến khích anh chị em hãy mời gọi những người khác, nhất là thành phần yếu hèn và vô tội, hãy liên kết với anh chị em trên con đường thiện hảo và hy vọng.

 

Vùng tăm tối thứ hai – một vùng tăm tối ảnh hưởng đến trí khôn – thường là những gì khó thấy, và vì thế là những gì đặc biệt nham hiểm. Việc mạo dụng sự thật làm cho nhận thức của chúng ta về thực tại bị méo mó đi, và làm vấy bẩn trí tượng tượng và những khát vọng của chúng ta. Tôi đã đề cập tới nhiều thứ tự do đang được anh chị em tạm may mắn hoan hưởng. Cần phải mạnh mẽ bảo toàn tầm quan trọng cốt yếu của tự do. Bởi thế không lạ gì khi thấy có nhiều cá nhân và nhóm người ầm ỉ đòi hỏi quyền tự do của mình ở những diễn đàn công cộng. Tuy nhiên, tự do có một giá trị tinh tế. Nó có thể bị hiểu lầm hay bị lạm dụng để không dẫn đến hạnh phúc được tất cả chúng ta mong mỏi ở nơi nó, mà là đến một vũ đài tối tăm của việc mạo dụng là nơi ý thức về mình cùng thế giới trở nên lẫn lộn, hay thậm chí bị bóp méo bởi những ai đang có âm mưu hành động.

 

Anh chị em có thường thấy được việc đòi hỏi tự do mà không căn cứ vào sự thật về con người hay chăng? Ngày nay có một số người lập luận rằng vấn đề tôn trọng tự do của cá nhân sẽ là những gì sai trái trong việc tìm kiếm sự thật, bao gồm cả sự thật về những gì là tốt lành thiện hảo. Ở một số nhóm người thì việc nói về sự thật được coi là những gì tranh cãi hay phân rẽ, bởi đó tốt nhất là hãy giữ lấy cho mình thôi. Và thay vào vị trí của sự thật – hay nói đúng hơn thay vào chỗ vắng bóng của sự thật – là một ý nghĩ từng lan tràn, ở chỗ, khi cống hiến giá trị cho tất cả mọi sự một cách bừa bãi, thì cho rằng đó là việc bảo đảm tự do và giải thoát lương tâm. Chúng ta gọi điều này là tương đối chủ nghĩa. Thế nhưng, một thứ tự do bất chấp sự thật để theo đuổi những gì là sai trái thì mục đích của nó là gì? Bao nhiêu giới trẻ đã được cống hiến cho một bàn tay nhân danh tự do hay kinh nghiệm để dẫn họ tới tình trạng nghiện ngập, tới chỗ lầm lẫn về luân lý hay tri thức, đến chỗ đớn đau, tới chỗ đánh mất niềm tự trọng, thậm chí tới chỗ thất vọng và tới chỗ đánh mất mạng sống của mình một cách thảm thương và đau buồn? Các bạn thân mến, sự thật không phải là một cái gì áp đặt. Nó cũng không phải là một loạt những luật lệ. Nó là một sự khám phá về Đấng không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng; Đấng chúng ta bao giờ cũng có thể tin tưởng. Trong việc tìm kiếm chân lý, chúng ta tiến tới chỗ sống bằng niềm tin tưởng vì thật ra sự thật là một ngôi vị: là Chúa Giêsu Kitô. Đó là lý do tại sao sự tự do chân thực không phải là một thứ bất chấp. Nó là một chấp nhận; tức là ra khỏi bản ngã để con người mình được liên kết với chính bản thân của Chúa Kitô vì người khác (x Spe Salvi, 28).

 

Vậy thì làm sao chúng ta là thành phần Kitô hữu có thể giúp cho những người khác tiến bước trên một con đường tự do dẫn đến viên mãn và hạnh phúc lâu bền đây? Chúng ta hãy lại hướng về với các vị thánh nhân. Làm thế nào mà chứng từ của các vị thực sự giải phóng kẻ khác khỏi bóng tối tăm của tâm can và trí khôn? Câu trả lời được tìm thấy nơi cái cốt lõi đức tin của các vị; cái cốt lõi đức tin của chúng ta. Viện Nhập Thể, việc giáng sinh của Chúa Giêsu, nói với chúng ta rằng Thiên Chúa thực sự muốn tìm kiếm một chỗ nơi chúng ta. Mặc dù quán trọ đã đầy, Người cũng tiến vào qua một hang lừa, và có người thấy được ánh sáng của Người. Họ nhận cái tối tăm của Vua Hêrôđê đã khép thế giới lại đối với những gì nó là, thay vì theo ngôi sao rạng ngời dẫn lối giữa bầu trời đêm tối. Và cái gì rạng ngời chiếu tỏa đây? Đến đây các bạn có thể nhớ lại lời nguyện cầu được thốt lên trong đêm cực thánh Phục Sinh: ‘Lạy Cha, chúng con được thông phần vào vinh hiển của Cha nhờ Con Cha là ánh sáng thế gian… thắp sáng lên trong chúng con niềm hy vọng của Cha!’ (Làm Phép Lửa). Bởi thế mà trong cuộc long trọng rước với cây nến sáng của mình chúng ta chuyền ánh sáng của Chúa Kitô giữa chúng ta. Đó là ‘ánh sáng xua tan tất cả mọi sự dữ, tẩy rửa lỗi lầm, phục hồi tình trạng vô tội đã bị mất đi, mang lại niềm vui cho kẻ than khóc, loại trừ niềm thù ghét, mang lại cho chúng ta hòa bình, và triệt hạ cái kiêu căng trần thế’ ( Exsultet). Đó là ánh sáng sinh động của Chúa Kitô. Đó là con đường của các vị thánh nhân. Đó là một thứ nhãn quan hy vọng rạng ngời – ánh sáng của Chúa Kitô mời gọi các bạn hãy là những vị sao dẫn đường cho người khác, bước theo đường lối thứ tha, hòa giải, khiêm tốn, hân hoan và an bình của Chúa Kitô.

 

Tuy nhiên, có những lúc chúng ta có khuynh hướng khép kín bản thân mình, ngờ vực sức mạnh nơi ánh quang rạng ngời của Chúa Kitô, giới hạn hóa chân trời hy vọng. Các bạn hãy can đảm! Hãy gắn mắt của các bạn vào các vị thánh nhân. Tính cách đa dạng của những gì các vị cảm nghiệm về sự hiện  diện  của Thiên Chúa khiến chúng ta tái khám phá được chiều rộng và chiều sâu của Kitô Giáo. Trí tưởng tượng của các bạn hãy vỗ cánh thanh thản bay vào chân trời vô hạn của vai trò làm môn đệ của Chúa Kitô. Đôi khi chúng ta bị dân chúng coi như là chỉ nói về những thứ cấm kị. Không gì có thể xa khỏi chân lý! Vai trò làm môn đệ đích thực của Kitô hữu mang tính chất của một cảm quan ngỡ ngàng. Chúng ta đứng trước Vị Thiên Chúa chúng ta nhận biết và kính mến như là một người bạn, trước cái bao la vĩ đại của việc Ngài tạo dựng, và trước vẻ đẹp đức tin Kitô giáo của chúng ta.

 

Các bạn thân mến, tấm gương của các vị thánh nhân bởi thế mời gọi chúng ta hãy cứu xét tới 4 khía cạnh thiết yếu về kho tàng đức tin của chúng ta, đó là khía cạnh nguyện cầu và thinh lặng riêng tư, khía cạnh về việc nguyện cầu theo phụng vụ, khía cạnh đức bác ái tác hành, và khía cạnh về các ơn gọi.

 

Điều quan trọng nhất ở đây đó là các bạn hãy gia tăng mối liên hệ riêng tư của các bạn với Thiên Chúa. Mối liên hệ này được thể hiện nơi việc cầu nguyện. Tự chính bản tính của mình Thiên Chúa là Đấng đang nói năng, lắng nghe và đáp ứng. Thật vậy, Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta có thể và cần phải ‘nguyện cầu liên lỉ’ (1Thes 5:17). Với việc cầu nguyện, chúng ta không rút lui vào bản thân mình hay tránh né những thăng trầm của cuộc sống, mà hướng về Thiên Chúa và qua Ngài về nhau, bao gồm cả thành phần sống bên lề xã hội và những ai không theo đường lối của Thiên Chúa (x Spe Salvi, 33). Như các thánh nhân dạy cho chúng ta biết một cách sống động thì việc cầu nguyện trở thành niềm hy vọng đang tiến hành. Chúa Kitô luôn là đồng bạn của họ, Đấng mà họ trao đổi ở mọi bước đường hành trình cho kẻ khác của họ.

 

Một chiều kích khác của việc cầu nguyện chúng ta cần phải nhớ nữa đó là việc âm thầm chiêm niệm. Thánh Gioan chẳng hạn, nói với chúng ta rằng để thấu nhập mạc khải của Thiên Chúa, trước hết chúng ta cần phải lắng nghe, rồi đáp lại bằng việc loan báo những gì chúng ta đã nghe và đã thấy (x 1Jn 1:2-3; Hiến Chế về Mạc Khải Dei Verbum, 1). Phải chăng chúng ta có lẽ đã bị mất đi một cái gì đó nơi nghệ thuật lắng nghe? Các bạn có giành chỗ cho việc lắng nghe tiếng nói thì thào của Thiên Chúa, kêu gọi các bạn đến với sự thiện hảo hay chăng? Hỡi các bạn, đừng sợ thinh lặng hay tĩnh lặng, hãy lắng nghe Thiên Chúa, hãy tôn thờ Người trong Thánh Thể. Hãy để lời của Người uốn nắn cuộc hành trình của các bạn thành một cuộc triển nở thánh đức

 

Nơi phụng vụ chúng ta thấy được toàn thể Giáo Hội nguyện cầu. Chữ phụng vụ có nghĩa là việc tham dự của dân Chúa vào ‘công cuộc của Chúa Kitô Tư Tế và của Thân Mình của Người là Giáo Hội’ (Tông Thư Sacrosanctum Concilium, 7). Công cuộc này là công cuộc nào đây? Trước hết nó ám chỉ Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô, Cái Chết và Cuộc Phục Sinh của Người, và việc Người Thăng Thiên – những gì chúng ta gọi là Mầu Nhiệm Vượt Qua. Nó cũng ám chỉ chính việc cử hành phụng vụ nữa. Thật sự hai ý nghĩa này liên hệ với nhau bất khả phân ly, vì ‘công cuộc của Chúa Giêsu’ này là nội dung thực sự của phụng vụ. Qua phụng vụ, ‘công cuộc của Chúa Giêsu’ được tiếp tục tiếp cận với lịch sử; với đời sống của chúng ta để hình thành nó. Ở đây chúng ta có một thoáng nhìn khác về tính cách uy nghi cao cả nơi đức tin Kitô giáo của chúng ta. Bất cứ khi nào các bạn qui tụ lại để dâng Lễ, khi các bạn đi Xưng Tội, khi các bạn cử hành bất cứ một bí tích nào thì Chúa Giêsu cũng đều tác hành. Nhờ Thánh Linh, Người lôi kéo các bạn tới với Người, vào tình yêu hy hiến của Người dâng lên Chúa Cha và cho tất cả mọi người. Bởi thế chúng ta thấy rằng phụng vụ của Giáo Hội là một thừa tác vụ của niềm hy vọng cho nhân loại. Việc các bạn trung thành tham dự là một niềm hy vọng chủ động giúp cho thế giới – bao gồm cả thánh nhân lẫn tội nhân – hướng về Thiên Chúa; đó là niềm hy vọng thực sự của nhân loại mà chúng ta cống hiến cho hết mọi người (x Spe Salvi, 34).

 

Việc nguyện cầu tư riêng của các bạn, thời gian các bạn thinh lặng chiêm niệm, và việc các bạn tham dự vào phụng vụ của Giáo Hội, mang các bạn đến gần với Thiên Chúa hơn và đồng thời cũng sửa soạn cho các bạn trong việc phục vụ người khác. Các vị thánh đang đồng hành với chúng ta tối hôm nay cho chúng ta thấy rằng đời sống đức tin và đức cậy cũng là một đời sống đức mến. Khi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trên Thập Giá chúng ta thấy được tình yêu ở một thể thức sâu đậm nhất. Chúng ta có thể bắt đầu nghĩ tưởng tới con đường yêu thương chúng ta cần phải đi theo này (x Deus Caritatas Est, 12). Có đầy những cơ hội để thực hiện con đường này. Hãy nhìn các bạn bằng đôi mắt của Chúa Giêsu, hãy lắng nghe bằng đôi tai của Người, hãy cảm nhận và suy nghĩ bằng tâm trí của Người. Các bạn có sẵn sàng cống hiến tất cả mọi sự như Người đã làm vì chân lý và công lý hay chăng? Nhiều trường hợp của người khổ đau được các vị thánh của chúng ta đáp ứng bằng lòng cảm thương là những gì vẫn còn hiện hữu ở trong và ngoài thành phố này. Rồi những bất công mới xẩy ra: một số thì phức tạp, xuất phát từ việc khai thác tâm can và từ việc mạo dụng trí tuệ; thậm chí cả đến nơi cư ngụ chung của chúng ta là chính trái đất này, cũng đang quằn quại rên xiết dưới sức ép của lòng tham lam duy hưởng thụ và việc khai thác vô trách nhiệm. Chúng ta cần phải lắng nghe một cách sâu xa. Chúng ta cần phải đáp ứng bằng một hành động xã hội mới xuất phát từ tình yêu phổ quát vô hạn. Có thế, chúng ta mới bảo đảm được rằng các hoạt động xót thương và công lý của chúng ta mới trở thành niềm hy vọng đang tiến hành cho người khác.

 

Giới trẻ thân mến, cuối cùng tôi muốn chia sẻ đôi lời về các ơn gọi. Trước hết, tôi nghĩ đến cha mẹ, ông bà và các bố mẹ đỡ đầu của các bạn. Họ từng là những chính yếu dạy dỗ đức tin cho các bạn. Bằng việc đưa các bạn đến rửa tội là họ làm cho các bạn có thể lãnh nhận được tặng ân cao cả nhất trong đời sống của các bạn. Vào ngày đó, các bạn đã được tham dự vào sự thánh hảo của chính Thiên Chúa. Các bạn đã trở thành những người con trai con gái của Cha. Các bạn được tháp nhập vào Chúa Kitô. Các bạn được biến thành nơi cư ngụ của Thần Linh Người. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người làm cha làm mẹ trên khắp thế giới, nhất là những ai đang phải chiến đấu một cách nào đó về xã hội, vât chất và tinh thần. Chúng ta hãy tôn kính ơn gọi lập gia đình và phẩm vị của cuộc sống gia đình. Chúng ta hãy luôn cảm nhận được rằng chính ở nơi gia đình mà các ơn gọi được hình thành. 

 

Qui tụ lại ở nơi Chủng Viện Thánh Giuse này, tôi gửi lời chào các chủng sinh hiện diện và thật sự muốn phấn khích toàn thể chủng sinh ở khắp Hoa Kỳ. Tôi cảm thấy vui khi biết rằng con os61 của các bạn đang gia tăng! Dân Chúa mong thấy được các bạn là những vị linh mục thánh thiện, trong cuộc hành trình hoán cải hằng ngày, gợi lên nơi kẻ khác ước muốn tiến vào sâu hơn  cuộc sống Giáo Hội của người tín hữu. Tôi tha thiết xin các bạn hãy sống sâu xa hơn mối liên hệ giữa các bạn với Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành. Hãy trao đổi tâm tình với Người. Hãy loại trừ đi khuynh hướng phô trương, ham danh, tự phụ. Hãy cố gắng thực hiện một mẫu sống thực sự mang tính chất bác ái, thanh tịnh và khiêm hạ theo gương Chúa Kitô, Vị Thượng Tế Đời Đời là Đấng các bạn cần phải trở nên hình ảnh sống động (cf. Pastores Dabo Vobis, 33). Các chủng sinh thân mến, tôi hằng ngày cầu cho các bạn. Hãy nhớ rằng cái đáng kể trước nhan Chúa đó là được ở trong tình yêu của Người và làm cho người khác thấy được tình yêu của Người”.

Các Nữ Tu, Nam Tu và Linh Mục đang đóng góp rất nhiều vào sứ vụ tryền giáo của Giáo Hội. Chứng từ ngôn sứ của họ được đánh dấu bằng một niềm xác tín sâu xa về tính cách chính yếu liên quan tới việc Phúc Âm hình thành nên  đời sống Kitô hữu và biến đổi xã hội. Hôm nay, tôi muốn các bạn chú ý tới việc canh tân tích cực về đàng thiêng liêng đang được các Hội Dòng thực hiện liên quan tới đặc sủng của các hội dòng ấy. Chữ đặc sủng có nghĩa là một tặng ân được tự do và nhưng không ban phát. Các đặc sủng này là những gì được Chúa Thánh Liunh ban cho, Đấng soi động cho các vị sáng lập viên nam nữ, và là Đấng hình thành nên các Hội Dòng có được một gia sản thiêng liêng sau đó. Những đoàn sủng lạ lùng hợp với từng Tổ Chức Tu Dòng này là một kho tàng thiêng liêng đặc biệt. Thật vậy, lịch sử Giáo Hội có lẽ được hiện  lên một cách mỹ miều nhất qua lịch sử về các trường phái linh đạo của mình, nhất là những trường phái xuất phát từ đời sống thánh thiện của các vị sáng lập viên nam nữ. Nhờ khám phá thấy những đặc sủng, những đặc sủng mang lại những gì là khôn ngoan thiêng liêng rộng lớn như thế, tôi tin rằng một số trong giới trẻ các bạn sẽ được thu hút bởi một đời sống phục vụ tông đồ hay chiêm niệm. Các bạn đừng cảm thấy e thẹn khi nói với các vị Nam Tu, Nữ Tu hay Linh Mục về đặc sủng và linh đạo của Hội Dòng họ. Không có một cộng đồng nào là hoàn hảo hết, thế nhưng chính lòng trung thành với một đặc sủng nguyên thủy, chứ không phải với những cá nhân đặc biệt nào đó, mà Chúa đang gọi các bạn hãy nhận thức khám phá. Các bạn hãy can đảm lên! Cả các bạn nữa cũng hãy làm cho đời sống của các bạn trở thành một tặng ân trao tặng bản thân mình vì yêu mến Chúa Giêsu Kitô, và trong Người, yêu thương hết mọi phần tử thuộc gia đình nhân loại (cf. Vita Consecrata, 3). 

Các bạn thân mến, một lần nữa tôi muốn hỏi các bạn rằng còn ngày nay thì thế nào? Các bạn đang tìm kiếm gì đó? Thiên Chúa đang thì thào với các bạn ra sao? Niềm hy vọng không bao giờ làm thất vọng là Chúa Giêsu Kitô. Các vị thánh nhân cho chúng ta thấy tình yêu vô vị kỷ nơi đường lối của Người. Là thành phần môn đệ của Chúa Kitô, những cuộc hành trình đặc biệt của các vị được hiện lên trong cộng đồng của niềm hy vọng này là Giáo Hội. Chính ở trong lòng Giáo Hội mà cả các bạn nữa sẽ có được lòng can đảm và sự trợ giúp để tiến bước theo con đường của Chúa Kitô. Được nuôi dưỡng bằng việc nguyện cầu riêng tư, được tác động trong âm thầm, được hình thành bởi phụng vụ Giáo Hội, các bạn sẽ khám phá ra ơn gọi đặc biệt được Thiên Chúa muốn giành cho các bạn. Các bạn hãy hân hoan ấp ủ lấy nó. Các bạn là thành phần môn đệ của Chúa Kitô ngày nay. Các bạn hãy chiếu tỏa ánh sáng của Người nơi đại đô này cũng như ở các nơi khác. Hãy chứng tỏ cho thế giới thấy được lý do về niềm hy vọng sống động trong các bạn. Hãy nói cho những người khác về sự thật giải phóng các bạn. Với những cảm thức về niềm hy vọng lớn lao này nơi các bạn, tôi từ biệt các bạn, cho đến khi chúng ta gặp lại nhau ở Sydney vào Tháng 7 tới đây trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới! Như một bảo chứng cho lòng tôi mến yêu các bạn cùng gia đình của các bạn, tôi hân hoan ban Phép Lành Tòa Thánh cho các bạn. 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng) 

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2008/april/documents/hf_ben-xvi_spe_20080419_st-joseph-seminary_en.html

 TOP

Với Các Phần Tử thuộc Tổng Hội Đồng của Tổ Chức Liên  Hiệp Quốc ở Nữu Ước Hoa Kỳ Thứ Sáu 18/4/2008

(Tiếng Pháp)

Thưa Ông Chủ Tịch,

Thưa Quí Bà Quí Ông,

 

Để bắt đầu ngỏ lời cùng Hội Đồng này, trước hết tôi bày tỏ cùng Ông Chủ Tịch niềm tri ân chân thành của tôi về những lời lẽ tốt đẹp của ông. Tôi cũng xin cám ơn ông Tổng Thư Ký Ban Ki-moon đã mời tôi đến thăm tổng hành dinh của Tổ Chức nàycùng những lời nghênh đón ông ngỏ cùng tôi. Tôi xin chào các vị Lãnh Sự và Ngoại Giao thuộc các Quốc Gia Phần Tử cùng toàn thể mọi vị hiện diện nơi đây. Qua quí vị, tôi xin gửi lời chào đến nhân dân được quí vị đại diện ở chỗ này. Họ mong tổ chức này tiếp tục thực thi cái hứng khởi ban đầu trong việc thiết lập “một trung tâm hòa hợp những hoạt động của các quốc gia để đạt được những mụch đích chung” về hòa bình và phát triển ấy (cf. Charter of the United Nations, article 1.2-1.4). Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bày tỏ điều này vào năm 1995, thì Tổ Chức này cần phải là “một trung tâm về luân lý, nơi tất cả mọi quốc gia trên thế giới đều cảm thấy quen thuộc và càng thấy được mình thực sự là một ‘gia đình chư dân’” (Address to the General Assembly of the United Nations on the 50th Anniversary of its Foundation, New York, 5 October 1995, 14).

 

Qua Liên Hiệp Quốc đây, các Quốc Gia đã thiết lập những mục tiêu chung, những mục tiêu mà, cho dù chúng không hợp với toàn thể công ích của nhân loại, chắc chắn cũng là một yếu tố căn bản của cái thiện ích ấy. Những nguyên tắc nền tảng của Tổ Chức này – ước muốn hòa bình, tìm cầu công lý, tôn trọng phẩm vị con người, vấn đề hợp tác và trợ giúp về nhân đạo – cho thấy những ước vọng chính đáng của tinh thần con người, và cấu tạo nên những lý tưởng cần phải có để củng cố những mối liên hệ quốc tế. Như các vị tiền nhiệm Phaolô VI và Gioan Phaolô II của mình đã bày tỏ nhận định của các vị ở chính diễn đài này, thì tất cả những gì Giáo Hội Công Giáo và Tòa Thánh cẩn thận và chăm chú theo dõi, đó là thấy được nơi hoạt động của quí vị một mẫu gương về việc làm thế nào để các vấn đề và những thứ xung khắc liên quan tới cộng đồng thế giới có thể đi theo qui định chung. Liên Hiệp Quốc hiện thân hóa niềm khát vọng có được “một mức độ khá hơn về trật tự quốc tế” (John Paul II, Sollicitudo Rei Socialis, 43), một trật tự quốc tế được tác động và chi phối bởi nguyên tắc phụ trợ, nhờ đó có khả năng đáp ứng những đòi hỏi của gia đình nhân loại bằng những luật lệ quốc tế có hiệu lực cũng như nhờ những cấu trúc có khả năng hòa hợp tình trạng ngày ngày vươn lên nơi cuộc sống của chư dân. Điều này lại càng cần hơn nữa ở vào thời điểm chúng ta đang cảm nghiệm thấy cái ngược nghịch hiển nhiên của một thứ đồng thuận đa phương đang tiếp tục bị khủng hoảng vì nó vẫn bị lệ thuộc vào những quyết định của một thiểu số, trong khi đó những vấn đề trục trặc của thế giới này cần đến những thứ can thiệp theo thể thức tác hành chung của cộng đồng quốc tế.

 

Thật vậy, những vấn nạn về an ninh, về những mục đích phát triển, về việc giảm thiểu những mức độ bất quân bình ở địa phương và trên toàn cầu, việc bảo vệ môi sinh, các nguồn tài nguyên và khí hậu, là những gì đòi hỏi tất cả mọi nhà lãnh đạo trên thế giới liên kết hoạt động và tỏ ra sẵn sàng tin tưởng hoạt động, bằng cách tôn trọng luật lệ và cổ võ tình đoàn kết với những miền đất yếu kém nhất trên trái đất này. Tôi đặc biệt nghĩ đến những quốc gia ở Phi Châu và các phần đất khác trên thế giới vẫn còn đang ở bên lề cuộc phát triển toàn diện thực sự, và vì thế đang có nguy cơ nếm trải toàn là những hậu quả tiêu cực của tiến trình toàn cầu hóa. Trong bối cảnh của các mối liên hệ quốc tế, cần phải nhìn nhận là luật lệ và các cơ cấu đã đóng một vai trò quan trọng hơn mà tự bản chất của chúng nhắm đến việc cổ võ công ích, nhờ đó bảo toàn được tự do của con người. Những qui định ấy không hạn chết tự do. Trái lại, chúng gia tăng tự do khi chúng cấm đoán tác hành cùng những hoạt động phản lại công ích, ngăn chặn việc hành sử gây tác dụng của nó do đó gây tổn thương tới phẩm giá của hết mọi con người. Vì tự do cần phải có một sự tương giao giữa những quyền lợi và nhiệm vụ là những gì hết mọi người được kêu gọi đảm trách về những quyết định của mình được chọn lựa căn cứ vào mối liên hệ với người khác. Ở đây chúng ta cũng nghĩ đến đường lối được các thành quả của việc nghiên cứu khoa học và tiến bộ về kỹ thuật đôi khi đem ra áp dụng. Ngoài những lợi ích to lớn nhân loại có thể chiếm đạt, có một số trường hợp chúng lại cho thấy trắng trợn phạm đến trật tự thiên nhiên, cho đến độ chẳng những phản nghịch lại với tính chất linh thánh của sự sống mà còn cướp mất căn tính tự nhiên của con người và gia đình nữa. Cũng thế, hoạt động quốc tế trong việc bảo trì môi trường cũng như bảo vệ những hình thức khác nhau của sự sống trên trái đất chẳng những cần phải bảo đảm được việc sử dụng hợp lý kỹ thuật và khoa học, mà còn phải tái nhận thức được hình ảnh chân thực của thiên nhiên tạo vật nữa. Điều này không bao giờ đòi hỏi một sự chọn lựa giữa khoa học và đạo lý: trái lại, nó là vấn đề chấp nhận một thứ phương pháp khoa học thật sự tôn trọng các chỉ thị của đạo lý.

 

Ngày nay nguyên tắc về trách nhiệm bảo vệ đã được tái nhấn mạnh nơi việc nhìn nhận mối hiệp nhất của gia đình nhân loại, và việc chú trọng tới phẩm giá bẩm sinh của hết mọi con người nam nữ. Điều này cũng mới được nhận thấy mà thôi, song nó đã hiện diện sâu xa nơi các nền tảng của Liên Hiệp Quốc, và giờ đây hoạt động của nó càng ngày càng nổi nang. Hết mọi Quốc Gia có nhiệm vụ chính yếu trong việc bảo vệ dân chúng của mình khỏi những vi phạm nhân quyền trầm trọng và kéo dài, cũng như khỏi những hậu quả gây ra bởi những cuộc khủng hoảng về nhân đạo, hoặc bởi thiên nhiên hay nhân tạo. Nếu các Quốc Gia không thể bảo toàn được việc bảo vệ ấy thì cộng đồng quốc tế cần phải can thiệp bằng phương tiện pháp lý căn cứ vào Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc cũng như vào các phương tiện quốc tế khác. Hoạt động của cộng đồng quốc tế cùng với các cơ cấu của nó, nếu tôn trọng các nguyên tắc ràng buộc trật tự quốc tế, thì không bao giờ được cho là một áp đặt không cần thiết hay là một thứ hạn chế chủ quyền. Trái lại, việc tỏ ra dửng dưng hay không can thiệp lại là những gì gây tai hại thực sự. Vấn đề thiết yếu ở đây là việc chịu khó tìm kiếm hơn nữa những đường lối để ngăn ngừa và hành sử những cuộc xung khắc bằng việc lợi dụng mọi cách thức về ngoại giao có thể, và chú trọng cùng phấn khích cả đến những dấu hiệu mong manh nhất về việc đối thoại hay ước muốn hòa giải.

 

Nguyên tắc “trách nhiệm bảo vệ” được “ius gentium” cổ xưa coi như là nền tảng của hết mọi hành động cho những ai nắm chính quyền cần phải có đối với thành phần thuộc quyền: vào thời điểm khi mà quan niệm về Quốc Gia chủ quyền đất nước mới được phát triển, Tu Sĩ Dòng Đaminh Francisco de Vitoria, vị được coi là tiền hô cho tư tưởng này của Liên Hiệp Quốc, đã diễn tả trách nhiệm này như là một khía cạnh của lý trí tự nhiên được mọi dân nước chấp nhận, và như là thành quả của một thứ trật tự quốc tế có nhiệm vụ cần phải điều hành những mối liên hệ giữa các dân tộc. Giờ đây, cũng như bấy giờ, nguyên tắc này đã gợi lên ý nghĩ con người như là hình ảnh của Đấng Hóa Công, gợi lên ước muốn được tự do tuyêät đối và thực sự. Như chúng ta biết, việc thành lập Liên  Hiệp Quốc trùng hợp với những biến động sâu xa mà nhân loại đã trải qua khi những gì liên quan tới ý nghĩa về siêu việt tính và về lý trí tự nhiên bị loại bỏ, do đó, tự do và nhân phẩm đã bị trầm trọng vi phạm. Khi điều này xẩy ra thì nó đe dọa đến những nền tảng khách quan của những thứ giá trị đang tác động và chi phối trật tự quốc tế và nó làm suy yếu đi những nguyên tắc vững chắc bất khả vi phạm được Liên Hiệp Quốc hình thành và củng cố. Khi phải đương đầu đối diện với những thách đố mới và dai dẳng thì thật là sai lầm khi quay trở về với phương sách thực dụng, một phương sách khó lòng có được một “cơ sở chung”, nội dung thì chẳng có gì mấy và hiệu quả lại chẳng được bao nhiêu.

 

Vấn đề căn cứ vào phẩm vị con người này, một phẩm vị là nền tảng và là mục đích của trách nhiệm bảo vệ, dẫn chúng ta tới đề tài chúng ta đang đặc biệt chú trọng trong năm nay là năm mừng kỷ niệm 60 năm Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền. Bản văn kiện này là thành quả của một sự hội tụ những truyền thống tôn giáo và văn hóa khác nhau, tất cả đều được tác động bởi một ước vọng chung là đặt con người vào tâm điểm của các cơ cấu, luật lệ và những hoạt động của xã hội, và coi con người là những gì chính yếu đối với thế giới văn hóa, tôn giáo và khoa học. Quyền lợi của con người đang được coi là ngôn ngữ chung và là nền móng về đạo lý của các mối liên hệ quốc tế. Đồng thời, tính cách phổ quát, tính cách phân khả phân ly và tính cách liên thuộc của tất cả mọi quyền lợi con người đều giúp vào việc bảo đảm nhân phẩm. Tuy nhiên, các quyền lợi này đã được rõ ràng nhìn nhận và diễn giải trong Bản Tuyên Ngôn áp dụng cho hết mọi người vì có cùng một nguồn gốc làm người, thành phần vẫn là cao điểm trong dự án tạo dựng của Thiên Chúa đối với thế giới cũng như đối với lịch sử. Chúng được căn cứ vào luật tự nhiên là những gì in ấn nơi tâm can của con người và hiện diện ở những nền văn hóa và văn minh khác nhau. Đưa nhân quyền ra khỏi cấu trúc này nghĩa là hạn hẹp tầm vóc của chúng và nhường bước cho quan niệm tương đối, từ đó ý nghĩa và việc giải thích quyền lợi có thể biến đổi và tính chất phổ quát của nó bị chối bỏ nhân danh những quan điểm khác nhau về văn hóa, chính trị, xã hội và thậm chí cả tôn giáo. Cái rất khác nhau về những quan điểm này không được làm mờ ám sự kiện là chẳng những quyền lợi là những gì phổ quát mà cả  con người nữa là chủ thể của những quyền  lợi đó

(Tiếng Anh)

Đời sống của cộng đồng này, cả về nội bộ lẫn quốc tế, hiển nhiên cho thấy rằng việc tôn trọng các quyền lợi cũng như việc bảo đảm từ đó mà có, là những gì đo lường về công ích giúp vào việc thẩm lượng mối liên hệ giữa công lý và bất công, giữa phát triển và nghèo khổ, giữa an ninh và xung đột. Việc cổ võ nhân quyền vẫn là phương sách hiệu nghiệm nhất để loại trừ đi những thứ bất quân bình giữa các quốc gia và các khối xã hội, cũng như để gia tăng nền an ninh. Thật vậy, những nạn nhân trải qua cơn khốn khó và thất vọng, thành phần mà nhân phẩm của họ bị vi phạm một cách nghiễm nhiên, đã trở thành mồi ngon cho lời mời gọi tham gia bạo động, và bởi đó họ có thể trở thành những người vi phạm đến hòa bình. Công ích mà các thứ nhân quyền giúp phần đạt thành tuy nhiên vẫn không thể nào có được chỉ bằng cách áp dụng những phương thức sửa chữa, hay lại càng không phải bằng cách chiếm được một mức quân bình giữa những quyền lợi đối địch nhau. Cái công của Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền là ở chỗ nó giúp cho những nền văn hóa khác nhau, những biểu lộ về pháp lý khác nhau và những mẫu thức về cơ cấu khác nhau đồng qui quanh một tâm điểm chính của các thứ giá trị cũng là của các quyền lợi. Dù sao ngày nay cũng cần phải tăng gấp đôi nỗ lực trước áp lực muốn cắt nghĩa lại những nền tảng của Bản Tuyên Ngôn này và muốn dung hòa cái hiệp nhất nội tại của nó để dễ dàng đi từ việc bảo vệ nhân phẩm đến chỗ thỏa đáng lợi lộc thuần túy, thường là những ích lợi riêng. Bản Tuyên Ngôn này đã được chấp nhận như là “một tiểu chuẩn chiếm đạt chung” (Lời Tựa) và không thể áp dụng một cách què quặt, theo chiều hướng hay những chọn lựa tùy ý là những gì chỉ đưa đến nguy cơ tương khắc với mối hiệp nhất của con người bởi thế với tính cách bất khả phân ly của nhân quyền

Kinh nghiệm cho thấy rằng phạm vi pháp luật thường qua mặt công lý khi cái bất nhất về các quyền lợi làm cho chúng trở thành như là một thành quả duy nhất của những ban bố về luật pháp hay những quyết định có tính cách qui chuẩn được thực hiện bởi những cơ quan khác nhau của những ai đang nắm quyền hành. Khi được trình bày một cách thuần tính cách pháp lý thì các thứ quyền lợi có nguy cơ trở thành những đề xướng yếu kém bị tách khỏi chiều kích luân lý và luận lý là nền tảng và là mục đích của chúng. Bản Tuyên Ngôn Chung, trái lại, đã củng cố niềm xác tín rằng việc tôn trọng nhân quyền là những gì chính yếu được bắt nguồn từ công lý bất đổi thay, một thứ công lý cũng là nền tảng cho tính cách hiệu lực của những tuyên ngôn quốc tế. Khía cạnh này thường bị coi thường khi thực hiện nỗ lực để tước khỏi những quyền lợi phận vụ thực sự của chúng nhân danh một thứ quan điểm duy thực dụng hẹp hòi. Vì những quyền lợi và các nhiệm vụ theo đó xuất phát tự nhiên từ việc giao tiếp của con người mà người ta dễ quên rằng chúng là hoa trái của một cảm quan chung về công lý được chính yếu đặt trên căn bản của mối liên đới giữa các phần tử trong xã hội, và vì thế có hiệu lực ở mọi lúc và cho mọi dân tộc. Cái trực giác này được bày tỏ từ hồi thế kỷ thứ năm qua Thánh Âu Quốc Tinh thành Hippo, một trong những vị sư phụ về gia sản tri thức của chúng ta. Ngài đã dạy rằng câu nói: Đừng làm cho kẻ khác những gì bạn không muốn làm cho mình “không thể nào lại  thay đổi theo những hiểu biết khác nhau đã xuất hiện trên thế giới này” (De Doctrina Christiana, III, 14). Bởi thế, cần phải tôn trọng các thứ nhân quyền như là một biểu hiệu của công lý chứ không phải chúng là những gì có thể trở thành hiệu lực bởi ý muốn của thành phần lập pháp.

Thưa Quí Bà Quí Ông,

Trong khi lịch sử đang tiến hành thì các tình rạng mới cũng xuất hiện, và người ta đang cố gắng để liên kết chúng với những thứ quyền lợi mới. Tức là, việc nhận thức, cái khả năng để phần biệt lành với dữ, đang trở thành thiết yếu hơn nữa theo chiều hướng của những thứ đòi hỏi liên quan tới chính cuộc sống và tác hành của con người, cộng đồng và dân chúng. Trong việc giải quyết đề tài về quyền lợi, vì liên quan tới những trường hợp quan trọng và những thực tại sâu xa, mà việc nhận thức vừa là một cái gì bất khả thiếu vừa là một tính chất tốt đẹp. 

Bởi thế, việc nhận thức cho thấy rằng việc hoàn toàn ủy thác cho Quốc Gia, với luật lệ và cơ cấu của quốc gia, trách nhiệm tối hậu để đáp ứng những khát vọng của con người, của cộng đồng và toàn thể dân chúng, đôi khi có thể gây ra những hậu quả loại trừ khả năng của một trật tự xã hội tỏ ra tôn trọng phẩm vị và quyền lợi của con người. Trái lại, một nhãn quan về đời sống bám chặt lấy chiều kích tôn giáo có thể giúp chiếm đạt điều này, vì việc nhìn nhận giá trị siêu việt của hết mọi con người nam nữ là những gì thuận lợi cho việc hoán cải tâm can là những gì sau đó dẫn tới một cuộc dấn thân chống lại bạo lực, khủng bố và chiến tranh, cùng cổ võ công lý và hòa bình. Điều này cũng tạo cơ hội thích hợp cho việc đối thoại liên tôn mà Liên Hiệp Quốc được kêu gọi hỗ trợ, như tổ chức này đang hỗ trợ cho việc đối thoại ở những lãnh vực khác nơi hoạt động của con người. Đối thoại cần phải được coi là phương tiện nhờ đó những thành phần khác nhau trong xã hội có thể phát biểu quan điểm của họ và thiết lập sự đồng thuận về sự thật liên quan tới những giá trị hay mục đích đặc biệt.  Nó liên quan tới bản chất của các tôn giáo, nếu được tự do hành đạo, chúng có thể tự động thực hiện một cuộc đối thoại giữa tâm tưởng và đời sống. Ở cả cấp độ này nữa, nếu lãnh vực tôn giáo tách biệt với hoạt động chính trị, thì chắc chắn cá nhân và cộng đồng được nhiều lợi ích. Ngoài ra, Liên Hiệp Quốc có thể dựa vào những thành quả của việc đối thoại giữa các tôn giáo với nhau, mà gặt hái được hoa trái từ việc sẵn sàng của thành phần tín hữu mang kinh nghiệm của mình ra phục vụ cho công ích. Công việc của họ là phát động một nhãn quan đức tin không theo chiều kích bất khoan dung, kỳ thị và xung khắc mà là chiều kích hoàn toàn tôn trọng sự thật, chiều kích cùng nhau chung sống, quyền lợi và hòa giải.

Dĩ nhiên, nhân quyền cần phải bao gồm cả quyền tự do tôn giáo, một quyền lợi được hiểu là như việc bày tỏ một chiều kích vừa cá nhân vừa cộng thông – một nhãn quan mang lại mối hiệp nhất nơi con người, hoàn toàn khác với chiều kích của người công dân với chiều kích của người tín hữu. Hoạt động của Liên Hiệp Quốc trong những năm gần  đây đã bảo đảm rằng cuộc tranh luận công cộng giành chỗ cho những quan điểm được tác động bởi một nhãn quan tôn giáo nơi tất cả mọi chiều kích của nó, bao gồm cả chiều kích lễ nghi, tôn thờ, giáo dục, phổ biến tín liệu và tự do tuyên xưng và theo đạo. Bởi thế, không thể nào chấp nhận được vấn đề thành phần tín hữu cần phải dẹp bỏ những gì làm nên bản thân họ – đức tin của họ – để làm một người công dân chủ động. Không bao giờ cần phải chối bỏ Thiên Chúa để hoan hưởng quyền lợi của mình. Những quyền lợi liên quan tới tôn giáo lại càng cần phải được bảo vệ nếu chúng bị coi là đụng độ với một ý hệ trần tục thịnh hành hay với đa số những chủ trương về đạo giáo có bản chất loại trừ. Việc hoàn toàn bảo đảm cho quyền tự do tôn giáo không thể bị giới hạn vào việc tự do thi hành việc thờ phượng mà còn tỏ ra trân trọng thích đáng với chiều kích công khai của tôn giáo nữa, theo đó tỏ ra tôn trọng khả năng của thành phần tín hữu trong việc họ đóng vai trò của mình để dựng xây trật tự xã hội. Thật vậy, họ thực sự là như thế, chẳng hạn, qua việc tham gia có tầm vóc ảnh hưởng và rộng rãi vào một hệ thống bao rộng những hoạt động từ các Viện  Đại Học, các viện khoa học và học đường tới các cơ quan chăm sóc sức khỏe và các tổ chức bác ái phục vụ thành phần nghèo nhất và bị bỏ rơi nhất. Vấn đề chối bỏ không chịu nhìn nhận việc đóng góp cho xã hội được xuất phát từ chiều kích tôn giáo và việc tìm cầu Tuyệt Đối Thể – theo bản chất của mình, thể hiện qua mối hiệp thông giữa những ngôi vị – sẽ là những gì thực sự thiên về chính sách cá nhân chủ nghĩa và sẽ làm phân mảnh mối hiệp nhất của con người.

Việc tôi hiện diện ở Hội Đồng này là một dấu hiệu tỏ ra quí trọng Liên Hiệp Quốc, với ý hướng bày tỏ niềm hy vọng là Tổ Chức này sẽ càng ngày trở thành dấu hiệu hiệp nhất giữa Chư Quốc và là một dụng cụ phục vụ cho toàn thể gia đình nhân loại. Việc hiện diện  của tôi cũng biểu lộ thái độ sẵn lòng của Giáo Hội Công Giáo trong việc cống hiến những gì đóng góp hợp với mình để xây dựng những mối liên hệ quốc tế ở chỗ giúp cho mọi người và mọi dân tộc cảm thấy họ có thể thực hiện một cái gì đó khác biệt. Theo cách thức hợp với việc góp phần của mình vào lãnh vực đạo lý và luân lý cũng như qua hoạt động tự do nơi thành phần tín hữu của mình, Giáo Hội cũng hoạt động để hiện thực hóa những mục đích này nhờ hoạt động quốc tế của Tòa Thánh. Thật vậy, Tòa Thánh bao giờ cũng được giành cho một chỗ ở các hội đồng của Chư Quốc, nhờ đó biểu lộ tính chất đặc biệt của mình như là một chủ thể ở lãnh vực quốc tế. Như Liên Hiệp Quốc gần đây xác nhận, Tòa Thánh bởi vậy đang góp phần của mình theo những hoạch định của luật lệ quốc tế, giúp xác định luật lệ này và kêu gọi tuân giữ nó.

Liên Hiệp Quốc vẫn là một môi trường đặc biệt để Giáo Hội dấn thân đóng góp cảm nghiệm của mình “về nhân loại”, một cảm nghiệm được phát triển qua các thế kỷ nơi các dân  tộc của mọi chủng tộc và văn hóa, và dùng nó để phục vụ tất cả mọi phần tử thuộc cộng đồng quốc tế. Cảm nghiệm và hoạt động này, nhắm đến chỗ chiếm đạt tự do cho hết mọi tín hữu, cũng như tìm cách gia tăng việc bảo vệ được cống hiến cho các quyền  lợi của con người. Những quyền lợi này được căn cứ và hình thành bởi bản tính siêu việt của con người, một bản tính giúp con người có thể theo đuổi hành trình đức  tin của họ và việc họ tìm kiếm Thiên Chúa trên trần gian này. Việc nhìn nhận chiều kích này cần phải được củng cố nếu chúng ta bảo trì niềm hy vọng của nhân loại mong thấy được một thế giới tốt đẹp hơn, và nếu chúng ta tạo được những điều kiện cho hòa bình, phát triển, hợp tác và bảo đảm về các quyền lợi cho các thế hệ tương lai.

Trong Thông Điệp mới đây của mình là Spe Salvi, tôi đã nói rằng “hết mọi thế hệ đều có nhiệm vụ tham gia một cách mới mẻ vào việc miệt mài tìm kiếm con đường đúng đắn để chỉ dẫn các sự vụ của con người” (số 25). Đối với các Kitô hữu thì công việc này được tác động bởi niềm hy vọng được xuất phát từ công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu Kitô. Đó là lý do tại sao Giáo Hội vui mừng được liên kết với hoạt động của Tổ Chức ưu tú này, một tổ chức mang trách nhiệm cổ võ hòa bình và thiện chí khắp trái đất. Các Bạn thân mến, tôi xin cám ơn quí vị về cơ hội được ngỏ lời cùng các bạn hôm nay đây, và tôi hứa cùng các bạn việc tôi hỗ trợ bằng lời nguyện cầu đối với việc các bạn theo đuổi thực hiện công cuộc cao quí này.

Trước khi rời tôn Hội Đồng này, tôi muốn gửi lời chào của tôi bằng những ngôn ngữ chính, đến tất cả mọi Quốc Gia được đại diện ở nơi đây.

Bình an và Thịnh Vượng nhờ ơn Chúa phù giúp!

Peace and Prosperity with God’s help!

Paix et prospérité, avec l’aide de Dieu!

Paz y prosperidad con la ayuda de Dios!

سَلامٌ  وَإزْدِهَارٌ  بعَوْن ِ الله ِ!

因著天主的幫助願大家  得享平安和繁榮 !

Мира и благоденствия с помощью Боҗией!

Cám ơn quí vị rất nhiều.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2008/april/documents/hf_ben-xvi_spe_20080418_un-visit_en.html

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

 TOP

  

Vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Chào Mừng ĐTC Biển Đức XVI ngày Thứ Sáu 18/4/2008

 

Trọng Kính Đức Thánh Cha,

Trọng Kính Quí Vị Giám Mục,

 

Tôi hết lòng cám ơn  Đức Thánh Cha đã nhận lời mời của tôi đến viếng thăm Liên Hiệp Quốc – ngôi nhà của tất cả mọi con người của niềm tin tưởng trên khắp thế giới.  Xin chào mừng Đức Thánh Cha đến  với ngôi nhà chung này của chúng ta.

 

Liên Hiệp Quốc là một tổ chức trần thế, bao gồm 192 quốc gia. Chúng tôi có 6 ngôn ngữ chính thức nhưng không có một tôn giáo chính thức nào. Chúng tôi không có một nguyện đường – dù chúng tôi có một phòng tĩnh niệm.

 

Thế nhưng, nếu ngài hỏi những người trong chúng tôi làm việc cho Liên  Hiệp Quốc rằng điều gì thúc đẩy chúng tôi làm điều này thì nhiều người trong chúng tôi sẽ đáp lại bằng ngôn từ của niềm tin tưởng. Chúng tôi coi những gì chúng tôi làm không phải chỉ là một công việc làm ăn mà còn là một sứ vụ. Thật vậy, sứ vụ là một chữ chúng tôi sử dụng thường xuyên nhất đối với công việc của chúng tôi trên khắp thế giới – từ sự bình an và an ninh đến việc phát triển rồi tới nhân quyền.

 

Trọng kính Đức Thánh Cha, qua rất nhiều năm tháng, sứ vụ của chúng tôi liên kết với sứ vụ của ngài.

 

Ngài đã nói về một cuộc thách đố về tình trạng nghèo nàn đang hành khổ rất nhiều thành phần dân chúng trên thế giới, và làm sao chúng ta có thể chấp nhận được thái độ dửng dưng và chỉ lo biết đến bản thân mình mà thôi.

 

Ngài đã thúc đẩy việc dừng gia tăng các thứ vũ khí nguyên tử, và đã kêu gọi hãy giải giới nguyên tử đang tiến triển và được công nhận.

 

Ngài đã vạch ra rằng những nơi nào có quyền lực hơn thì không được sử dụng nó để vi phạm đến quyền lợi của kẻ khác, và nói rằng hòa bình được căn cứ vào việc tôn trọng các quyền  lợi của tất cả mọi người.

 

Ngài đã nói về các nguồn nước và tình trạng thay đổi khí hậu như là những vấn đề có một tầm v ọng hết sức quan trọng  đối với toàn thể gia đình nhân loại.

 

Sau hết, ngài đã kêu gọi hãy tin tưởng vào và dấn thân cho Liên Hệp Quốc. Như ngài đã nói LHQ có “khả năng nuôi dưỡng việc đối thoại và hiểu biết chân thực, hòa giải những quan điểm khác biệt, và phát triển những qui chế và chính sách đa phương có thể đối đầu với những thách đố đầy giẫy nơi thế giới phứ ctạp và đang đổi thay nhanh chóng này”.

 

Trọng kính Đức Thánh Cha, chúng tôi chia sẻ những mục tiêu ấy. Chúng tôi cám ơn lời cầu nguyện của ngài trong khi chúng tôi tiến hành trên con đường đến đến những mục tiêu ấy.

 

Trước khi rời LHQ hôm nay, ngài sẽ thăm viếng Phòng Tĩnh Niệm. Vị tiền nhiệm của tôi là Dag Hammarskjold đã thiết lập căn phòng này, đã khéo nói về nó. Ông đã nói về tảng đá làm nên tâm điểm của nó rằng: “Chúng ta coi nó như là một bàn thờ, trống không không phải vì không có Thiên Chúa, không phải vì nó một bàn thờ cho một Vị CHúa vô danh, mà vì nó được hiến dâng cho Vị Thiên Chúa được con người tôn thờ dưới nhiều danh hiệu và nhiều hình thức”.

 

Trọng kính các ngài,

 

Dù chúng ta tôn thờ một vị Thiên Chúa duy nhất, nhiều vị hay chẳng vị nào – chúng tôi ở Liên  Hiệp Quốc đây đều phải bảo trì và củng cố niềm tin tưởng của chúng tôi hằng ngày. Theo những đòi hỏi về việc phát triển Tổ Chức của mình, chúng tôi cần đến mặt hàng quí báu này mỗi ngày một hơn.

 

Tôi rất biết ơn Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI chia sẻ với chúng tôi về một phần đức tin  của ngài – và đặt niềm tin tưởng vào chúng tôi. Ngài dồi dào có được cả hai điều này. Chớ gì chúng tôi được kiên cường vững mạnh nhờ việc ngài viếng thăm hôm nay đây.

 

Xin cám ơn rất nhiều.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 18/4/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

TOP

 

Với Nhân Viên Làm Việc Tổ Chức Liên  Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ Thứ Sáu 18/4/2008

Quí Bà cùng Quí Ông,

Nơi đây, trong một khoảng không gian nhỏ giữa thành phố bận bịu Nữu Ước là trụ sở của một Tổ Chức nắm vai trò toàn cầu trong việc cổ võ hoà bình và công lý. Tôi cũng thấy cái tương phản tương tự về tầm vóc này giữa Quốc Đô Vatican với thế giới là nơi Giáo Hội thi hành sứ vụ truyền giáo và việc tông đồ toàn cầu của Giáo Hội. Những họa sĩ thuộc thế kỷ thứ 16 đã vẽ những bản đồ trên các bức tường của Tông Dinh Tòa Thánh đã nhắc nhở cho các vị Giáo Hoàng về lãnh vực rộng lớn của vùng thế giới đã được con người biết đến. Nơi những bức họa trên tường ấy, các Vị Thừa Kế Thánh Phêrô thấy được dấu hiệu rõ ràng về tầm vóc vươn rộng nơi sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội ở vào thời điểm việc khám phá ra Tân Thế Giới đã mở ra những chân trời bất ngờ. Ở nơi đây, trong cái dinh lồng kính này, nghệ thuật trưng bày theo cách thức riêng của nó trong việc nhắc nhở chúng ta về những trách nhiệm của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc. Chúng ta thấy các hình ảnh về những tác dụng của chiến tranh và nghèo khổ, chúng ta được nhắc nhở về nhiệm vụ của chúng ta trong việc tranh đấu cho một thế giới tốt đẹp hơn, và chúng ta hân hoan nơi cái hoàn toàn đa dạng và dồi dào phong phú của văn hóa con người là những gì được biểu lộ một cách bao rộng về chư dân và chưa quốc qui tụ lại dưới cái dù của cộng đồng quốc tế này.

Nhân chuyến viếng thăm  của tôi đây, tôi muốn bày tỏ lòng trân trọng với việc đóng góp vô giá của thành phần nhân viên quản trị và nhiều nhân viên khác của Liên Hiệp Quốc, những người đang thi hành nhiệm vụ của mình một cách hết sức dấn thân và chuyên nghiệp hằng ngày – ở Nữu Ước đây, ở các trung tâm khác của LHQ, cũng như ở các sứ vụ đặc biệt trên toàn thế giới. Tôi xin bày tỏ lòng cảm nhận riêng của tôi cũng như của toàn thể Giáo Hội Công Giáo đối với quí vị cũng như với những người đã ra đi trước  quí vị. Chúng ta đặc biệt nhớ tới nhiều người dân sự và những người gìn giữ hòa bình đã hiến mạng mình khi đang thi hành sứ vụ vì lợi ích của các dân tộc họ phục vụ – nguyên trong năm 2007 thôi đã có 40 người trong họ. Chúng ta cũng nhớ đến con số rất đông đảo những người dấn hoạt động mà không bao giờ được nhận biết cho đầy đủ, thường ở trong những hoàn cảnh khó khăn. Xin gửi lời cám ơn chân thành nhất đến quí vị – những thông dịch viên, thư ký, nhân viên điều hành đủ mọi chuyện, nhân viên bảo trì và an ninh, các nhân viên về phát triển, các nhân viên giữ trật tự cùng nhiều người khác. Hoạt động quí vị đang làm đây là những gì giúp cho Tổ Chức này có thể tiếp tục khám phá ra những đường lối mới để chiếm đạt những mục đích đã hình thành nên nó.

Tổ Chức Liên Hiệp Quốc thường được nói như là một “gia đình chư dân”. Cũng thế, tổng hành dinh ở Nữu Ước đây có thể được diễn tả như là một ngôi nhà, một nơi tiếp nhận và quan tâm đến thiện ích của các phần tử trong gia đình ở khắp nơi. Nó là một nơi chốn tuyệt hảo đến phát động việc tăng trưởng về kiến thức cùng việc hợp tác giữa chư dân. Nhân viên của LHQ thực sự được tuyển chọn m ột cách bao rộng về văn hóa và quốc tịch. Nhân viên ở đây tạo nên một tiểu vũ trụ của toàn thế giới, trong đó mỗi một người góp phần riêng bất khả thiếu của mình theo chiều kích gia sản về văn hóa và tôn giáo đặc biệt của mình. Những lý tưởng đã tác động những vị khai sáng nên tổ chức này là những gì cần phải hình thành ở nơi đây cũng như nơi hết mọi người đang thi hành sứ vụ của LHQ khắp thế giới trong sự tương kính và chấp nhận là những đặc tính của một gia đình thịnh đạt.

Trong các cuộc tranh luận nội tại của Liên Hiệp Quốc, vấn đề “trách nhiệm bảo vệ”càng ngày càng được nhấn mạnh đến. Thật vậy, điều này đang được nhận thức như là những gì căn bản về luân lý đối với thẩm quyền của chính quyền. Nó cũng là một tính chất tự nhiên liên quan tới gia đình là nơi những phần tử cứng cát săn sóc những người yếu kém. Tổ Chức này nhân danh cộng đồng quốc tế thi hành một nhiệm vụ quan trọng trong việc giám sát lãnh vực đòi các chính quyền phải hoàn trọn trách nhiệm bảo vệ nhân dân của mình. Theo tiến trình mỗi ngày thì chính quí vị là người đặt nền tảng cho hoạt động, qua việc quí vị tỏ ra quan tâm tới nhau nơi chỗ làm việc đây, cũng như qua việc quí vị chú tâm tới nhiều người có các thứ nhu cầu và ước muốn được quí vị phục vụ qua tất cả những gì quí vị làm.  

Giáo Hội Công Giáo, qua hoạt động quốc tế của Tòa Thánh, cũng như qua vô vàn hoạt động của thành phần Công Giáo giáo dân, của Giáo Hội địa phương và của các cộng đồng tu trì, như bảo đảm với quí vị về việc Giáo Hội ủng gộ hoạt động của quí vị. Tôi hứa đặc biệt nhớ đến quí vị cùng gia đình của quí vị trong lời nguyện cầu của tôi. Xin Thiên Chúa Toàn Năng luôn chúc lành cho quí vị và an ủi quí vị bằng ân sủng của Ngài và bình an của Ngài, nhờ đó, qua việc chăm sóc được quí vị cống hiến cho toàn thể gia đình nhân loại, quí vị có thể tiếp tục phục vụ Ngài.

Xin cám ơn.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2008/april/documents/hf_ben-xvi_spe_20080418_un-staff_en.html

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

 TOP

“Bản Chất và Căn Tính của Nền Giáo Dục Công Giáo Ngày Nay”

Huấn dụ Thành Phần Giảng Dạy ở Các Học Đường Công Giáo Các Cấp tại Sảnh Đường Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn Thứ Năm 17/4/2008 

 

Qúi Hồng Y,

Quí Chư Huynh Giám Mục,

Cùng Tôn Vị Giáo Sư, Giáo Viên và Các Nhà Giáo Dục.

 

‘Đẹp thay bước chân của những ai mang tin mừng’ (Rm 10:15-17). Với những lời này của Tiên Tri được Thánh Phaolô trích dẫn, tôi gửi lời chào thân ái tới từng người trong anh chị em – những con người mang  đức khôn ngoan – và qua anh chị em tới tất cả mọi nhân viên, sinh viên và gia đình của nhiều tổ chức học thức khác nhau được anh chị em đại diện. Tôi rất hân hạnh được gặp gỡ anh chị em và chia sẻ với anh chị em một vài ý tưởng về bản chất và căn tính của vấn đề giáo dục Công Giáo ngày nay. Tôi đặc biệt cám ơn Cha David O’Connell, Chủ Tịch và là Viện Trưởng Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ. Tôi xin cám ơn những lời lẽ tốt lành mà Cha đã ngỏ lời nghênh đón tôi. Xin chuyển niềm tri ân chân thành của tôi tới toàn thể cộng đồng – giáo chức, nhân viên và sinh viên – của Đại Học này.

 

Giáo dục là những gì thuộc về sứ vụ loan truyền Tin Mừng của Giáo Hội. Trước hết và trên hết, hết mọi cơ cấu giáo dục Công Giáo là nơi để gặp gỡ Vị Thiên Chúa hằng sống là Đấng nơi Chúa Giêsu Kitô đang mạc khải tình yêu và sự thật biến đổi của Ngài ra (x. Spe Salvi, 4). Mối liên hệ này đưa đến một ước vọng muốn hiểu biết hơn về Chúa Kitô cùng với giáo huấn của Người. Nhờ thế, những ai gặp Người mới được chính quyền lực Phúc Âm giúp để sống một đời sống mới với đầy những gì là mỹ miều, thiện hảo và chân thực; một đời sống chứng nhân Kitô Giáo được nuôi dưỡng và kiên cường trong cộng đồng môn đệ Chúa là Giáo Hội.

 

Tính cách năng động giữa việc gặp gỡ riêng tư, với kiến thức và chứng từ Kitô Giáo là những gì thuộc về việc phục vụ sự thật được Giáo Hội thực hiện giữa loài người. Việc Thiên Chúa mạc khải cống hiến cho hết mọi thế hệ cơ hội để khám phá ra sự thật tối hậu về sự sống của mình và đích điểm của lịch sử. Công việc này không dễ dàng gì; nó bao gồm toàn thể cộng đồng Kitô hữu và tác động một thế hệ của thành phần giáo dục viên Kitô giáo trong việc bảo đảm rằng quyền lực nơi sự thật của Thiên Chúa thấm nhập vào hết mọi chiều kích của những cơ cấu họ phục vụ. Có thế, Tin Mừng của Chúa Kitô mới có tác dụng, hướng dẫn cả giáo sư lẫn học trò hướng về một sự thật khách quan mà, trong việc vượt lên trên những gì là riêng biệt và những gì là chủ quan, hướng tới cái phổ quát và tuyệt đối khiến chúng ta có thể tin tưởng loan truyền niềm hy vọng không làm thất vọng (x Rm 5:5). Được phác họa cho những cuộc đối thoại riêng tư, cho tình trạng lẫn lộn về luân lý cũng như cho sự phân mảnh của kiến thức, những mục đích cao quí của học thức và giáo dục, được xây dựng trên mối hiệp nhất của sự thật và trong việc phục vụ con người cùng cộng đồng, trở thành phương tiện đặc biệt mãnh liệt của niềm hy vọng.  

Các bạn thân mến, lịch sử của quốc gia này có nhiều gương mẫu của việc Giáo Hội dấn thân về vấn đề này. Cộng đồng Công Giáo ở nơi đây thực sự đã coi việc giáo dục là một trong những ưu tiên hằng đầu của mình. Điều này không thể nào xẩy ra nếu không có nhiều hy sinh. Những nhân vật nổi bật như Thánh Elizabeth Ann Seton và những vị sáng lập nam nữ khác, bằng sự kiên trì và nhìn xa trông rộng của mình, đã đặt những nền tảng của những gì ngày nay trở thành một hệ thống khả quan về các trường học giáo xứ góp phần vào phúc lợi thiêng liêng của Giáo Hội và của quốc gia. Có một số vị, như Thánh Katharine Drexel, đã hiến đời mình cho việc giáo dục những người bị kẻ khác bỏ rơi – trong hoàn cảnh của mình, những người Mỹ gốc Phi Châu và những người Mỹ Châu bản xứ. Vô vàn những tu sĩ nam nữ và linh mục dấn thân cùng với những người làm cha làm mẹ vô vị kỷ, qua các trường học Công Giáo, đã giúp những thế hệ của thành phần di dân vượt qua cảnh nghèo khổ để chiếm được chỗ đứng của mình trong lòng xã hội.

Sự hy sinh này tiếp tục cho tới ngày nay. Thật là một việc tông đồ cả thể của niềm hy vọng, khi kiếm cách giải quyết những nhu cầu về vật chất, về tri thức và về tinh thần của trên  3 triệu trẻ em và học sinh. Nó cũng cung cấp một cơ hội rất đáng ca ngợi cho toàn thể cộng đồng Công Giáo trong việc đóng góp một cách rộng lượng vào những nhu cầu về tài chính của những tổ chức chúng ta. Cần phải bảo đảm vững vàng tính cách nâng đỡ hỗ trợ dài hạn của chúng. Thật vậy, cần phải thực hiện hết những gì có thể, trong việc hợp tác với cộng đồng rộng lớn hơn, để bảo đảm rằng chúng có thể vươn tới thành phần dân chúng thuộc tất cả mọi tầng lớp về xã hội và kinh tế. Không được từ khước quyền được giáo dục đức tin của một em bé nào, một sự giáo dục nuôi dưỡng hồn sống của một quốc gia.

Một số người ngày nay đặt vấn đề về việc Giáo Hội dấn thân cho nền giáo dục, tự nghĩ là không biết những đường lối của Giáo Hội có tốt đẹp hơn ở các nơi khác hay chăng. Chắc chắn là ở một quốc gia như quốc gia này đây thì Quốc Gia cung cấp những nhiều cơ hội giáo dục và thu hút được những con người nam nữ quảng đại dấn thân cho cái nghề giáo dục đang trọng kính này. Bởi vậy mà thật là đúng lúc để suy nghĩ về những gì chuyên biệt đối với các cơ cấu Công Giáo của chúng ta. Chúng đóng góp ra sao cho thiện ích của xã hội qua sứ vụ truyền bá phúc âm hóa chính yếu của Giáo Hội.

Tất cả mọi hoạt động của Giáo Hội xuất phát từ việc Giáo Hội nhận thức rằng Giáo Hội là một người mang tin mừng có nguồn gốc nơi chính Thiên Chúa: nơi sự thiện hảo và đức khôn ngoan của Ngài. Thiên Chúa đã muốn mạc khải bản thân mình và tỏ cho thấy dự án nhiệm mầu của ý muốn Ngài (x Eph 1:9; Dei Verbum, 2). Ước vọng của Thiên Chúa muốn tỏ mình ra, và ước vọng thâm sâu của tất cả mọi con người muốn biết sự thật, trở thành một môi trường cho việc con người tra vấn về ý nghĩa của cuộc sống. Cuộc gặp gỡ đặc thù này được bảo trì trong cộng đồng Kitô hữu của chúng ta: ai tìm kiếm sự thật thì trở nên người sống bởi đức tin (x Fides et Ratio, 31). Nó có thể diễn tả như là một thứ chuyển động từ ‘cái tôi’ đến cái ‘chúng tôi’, khiến cá nhân trở thành phần tử trong Dân Chúa.

Cái năng động này về căn tính của cộng đồng  - tôi thuộc về ai đây? – là những gì làm sống động nét đặc thù của các tổ chức Công Giáo. Một đại học đường hay căn tính của học đường Công Giáo không phải chỉ là một vấn đề của con số học sinh sinh viên. Nó là vấn đề của niềm xác tín – chúng ta có thực sự tin rằng chỉ ở nơi mầu nhiệm Lời nhập thể mới thật sự sáng tỏ mầu nhiệm về con người (x Gaudium et Spes, 22)? Chúng ta có sẵn sàng dấn toàn thân mình – trí khôn và lòng muốn, bộ óc và con tim – cho Thiên Chúa hay chăng? Chúng ta có chấp nhận sự thật được Chúa Kitô mạc khải hay chăng? Đức tin có hiện lộ trong các đại học đường và học đường của chúng ta hay chăng? Chúng ta có thiết tha bày tỏ trong lãnh vực phụng vụ, bí tích, bằng việc nguyện cầu, những hành động bác ái, quan tâm về công lý, và tỏ ra tôn trọng thiên nhiên tạo vật của Chúa hay chăng? Chỉ có thế chúng ta mới thực sự làm chứng cho ý nghĩa của những gì chúng ta là những gì chúng ta chấp nhận mà thôi. 

Theo chiều kích ấy, người ta có thể nhận thấy rằng ‘cuôc khủng hoảng về sự thật’ hiện đại được bắt nguồn từ ‘cuộc khủng hoảng về đức tin’. Chỉ nhờ đức tin chúng ta mới tự do chấp nhận chứng từ của Thiên Chúa và nhìn nhận Ngài như là bảo đảm viên siêu việt của sự thật do Ngài mạc khải. Chúng ta lại thấy được lý do tại sao việc duy trì mối thân tình riêng tư với Chúa Giêsu Kitô và việc cùng làm chứng cho sự thật yêu thương của Người là những gì bất khả châm chước nơi các tổ chức học hỏi của Công Giáo. Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều biết và quan tâm nhận định thấy cái khó khăn hay do dự của nhiều người ngày nay trong việc tin tưởng phó mình cho Thiên Chúa. Nó là một hiện tượng phức tạp và là một hiện tượng tôi cứ vẫn suy nghĩ mãi. Trong khi chúng ta chuyên cần tím cách dấn thân cho vấn đề tri thức của giới trẻ, thì có lẽ chúng ta đã lơ là với ý muốn. Bởi thế chúng ta mới buồn rầu nhận thấy rằng cái ý niệm về tự do đang bị bóp méo. Tự do không phải là một thứ tùy ý muốn (an option out). Nó là một thứ muốn chấp nhận (an option in) – là một thứ tham dự vào chính Sự Hữu. Bởi thế, tự do đích thực không thể nào đạt được nếu tách lìa Thiên Chúa. Việc tùy ý muốn này cuối cùng sẽ đi đến chỗ gạt ra ngoài chính sự thật chúng ta cần đến để biết được bản thân mình. Thế nên, đối với mỗi một người trong anh chị em và đồng nghiệp của anh chị em, trách nhiệm đặc biệt đó là khêu lên nơi giới trẻ ước muốn thực hiện tác động đức tin, phấn khích họ hãy dấn thân mình cho đời sống của Giáo Hội là những gì đi kèm theo niềm tin tưởng ấy.  Chính ở chỗ này mà tự do đạt tới tính chất vững chắc của sự thật. Trong việc muốn sống bằng sự thất ấy, chúng ta tỏ ra thiết tha với tất cả sự sống của niềm tin được ban cho chúng ta nơi Giáo Hội.

Thế nên, hiển nhiên là căn tính Công Giáo là những gì không lệ thuộc vào thống kê. Nó dĩ nhiên cũng không đối đầu với nội dung của những gì là chính thống. Nó là những gì đòi hỏi và sinh động hơn nhiều, ở chỗ, mỗi và mọi khía cạnh của các cộng động học hỏi đều âm vang trong đời sống đức tin  của Giáo Hội. Chỉ có ở nơi đức tin sự thật mới trở nên hiện thực và lý trí mới thực sự là nhân bản, có khả năng hướng dẫn ý muốn theo đường lối của tự do (x Spe Salvi, 23). Có thế, các tổ chức của cúng ta mới góp phần sống động vào sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội và thực sự phục vụ xã hội.  Những tổ chức ấy trở nên những nơi chốn cho thấy việc Thiên Chúa sống động hiện diện nơi các nhân loại vụ và giúp cho hết mọi giới trẻ khám phá được niềm vui trong việc ‘sống cho người khác’ của Chúa Kitô’ (xem cùng nguồn vừa dẫn, 28).

Sứ vụ truyền bá phúc âm hóa chính yếu của Giáo Hội, trong đó, các tổ chức giáo dục đóng một vai trọ trọng yếu, thì am hợp với khát vọng sâu xa của quốc gia trong việc phát triển một xã hội thực sự xứng với phẩm giá của con người. Tuy nhiên, có những lúc giá trị của việc Giáo Hội đóng góp vào cuộc diễn đàn chung được đặt thành vấn đề. Bởi thế cần phải nhắc lại rằng các chân lý đức tin và các chân lý của lý trí không bao giờ phản nghịch nhau (cf. First Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Catholic Faith Dei Filius, IV: DS 3017; St. Augustine, Contra Academicos, III, 20, 43). Thật thế, sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội khiến Giáo Hội tham dự vào cuộc nhân loại tranh đấu để đạt tới sự thật. Trong việc loan báo sự thật được mạc khải, Giáo Hội phục vụ tất cả mọi phần tử trong xa hậi bằng việc thanh tẩy lý trí, bảo đảm rằng nó vẫn hướng tới việc quan tâm tới những sự thật tối thượng. Rút ra từ sự khôn ngoan thần linh, Giáo Hội tỏa ánh sáng trên nền tảng của nền luân lý và đạo lý của nhân loại, và nhắc nhở tất cả mọi nhóm người trong xã hội rằng không phải là tập tục tạo nên sự thật mà sự thật cần phải là nền tảng của tập tục. Việc đóng góp này của Giáo Hội, chẳng những không làm tổn hại tới tính cách khoan nhượng về những gì đa dạng hợp lý mà còn soi chiếu chính sự thật khiến việc thỏa thuận trở thành khả đạt cũng như giúp cho cuộc tranh luận chung hợp lý, chân thành và khả chấp. Cũng thế, Giáo Hội không bao giờ ngừng ra tay chống đỡ những phạm trù luân lý chính yếu về đúng sai, mà nếu bị hụt hẫng đi thì niềm hy vọng chỉ là những gì tàn tạ, nhường chỗ cho những thứ tính toán lạnh lùng lãnh đạm của thực dụng cống hiến cho con người một chút giá trị hơn con tốt một chút trên bàn cờ ý hệ.

Về vấn đề diễn đàn giáo dục, việc phục vụ cho sự thật có một tầm vóc quan trọng trong các xã hội, nơi mà ý hệ phàm tục đang đặt một cái nêm chặn giữa chân lý và đức tin. Việc phân chia này đã dẫn tới khuynh hướng làm cho chân lý quay ra đối đầu với kiến thức và ngả theo chiều hướng của một thứ tâm thức thực dụng là thứ tâm thức, vì loại bỏ đi siêu hình học, đã đi tới chỗ chối bỏ những nền tảng của đức tin và loại trừ đi nhu cầu cần phải có một nhãn quan luân lý. Chân lý có một ý nghĩa sâu xa hơn kiến thức, ở chỗ việc biết sự thật dẫn chúng ta tới chỗ khám phá thấy sự thiện. Sự thật nói với một cá nhân bằng tất cả những gì của họ, kêu gọi chúng ta đáp ứng bằng tất cả con người của mình. Quan niệm lạc quan này được chất chứa nơi đức tin Kitô Giáo vì đức tin ấy đã cung cấp một nhãn quan về Logos, Lý Trí sáng tạo của Thiên Chúa, một Lý Trí nơi việc Nhập Thể, đã tỏ mình là chính Sự Thiện. Sự thật yêu thương của Phúc Âm không phải chỉ là một thứ truyền đạt các dữ kiện thực tại – ‘mang tính cách hiểu biết’ – mà là những gì sáng tạo và biến đổi cuộc sống – ‘có tính cách thực hiện’ (xem Spe Salvi, 2). Với niềm tin tưởng, các nhà giáo dục Kitô giáo có thể giải phóng giới trẻ khỏi những hạn hữu của chủ nghĩa thực dụng và làm khơi dậy việc chấp nhận chân lý, Thiên Chúa và sự thiện hảo của Ngài. Có thế anh chị em cũng mới gíup hình thành lương tâm của họ, một lương tâm, được phong phú bởi đức tin, mở ra một con đường vững chắc tiến tới sự bình an nội tâm và việc tôn trọng người khác.

Bởi thế không lạ gì không phải chỉ có các cộng đồng giáo hội của chúng ta mà còn chung xã hội cũng hết sức mong đợi nơi các nhà giáo dục Công Giáo nữa. Điều này đặt nơi anh chị em một trách nhiệm đồng thời cũng cống hiến cho anh chị em một cơ hội. Càng ngày càng có nhiều người – nhất là thành phần phụ huynh – nhận thấy nhu cầu tuyệt hảo nơi việc giáo dục về nhân  bản cho con cái của họ. Là Mẹ và là Thày, Giáo Hội có cùng một quan tâm như họ. Khi mà chỉ có cá nhân được nhìn nhận là tối hậu thì tiêu chuẩn trên hết để phán đoán trở thành bản ngã và sự thỏa mãn những ước muốn cấp thời của cá nhân ấy. Tính cách khách quan và quan điểm, những gì chỉ có thể xẩy ra bằng cách nhìn nhận chiều kích siêu việt chính yếu của con người, có thể bị mất đi. Trong một chân trời tương đối như thế, những mục tiêu của vấn đề giáo dục là những gì bị cắt xén không thể nào tránh được. Từ từ sẽ đi đến chỗ hạ cấp các thứ tiêu chuẩn. Ngày nay chúng ta nhận thấy ái ngại trước một thứ sự thiện và một cuộc theo đuổi vô đích điểm những gì là mới mẻ khoa trương như là cuộc hiện thực của tự do. Chúng ta chứng kiến thấy một thứ giả tưởng là hết mọi kinh nghiệm đều có giá trị tương đương cũng như thấy được những gì là do dự chấp nhận sự bất toàn và lầm lỗi. Thật đáng lo ngại trước tình trạng suy giảm nơi lãnh vực giáo dục quí báu và tế nhị về tính dục để có thể đương đầu với ‘cái nguy cơ’, bị mất đi cái liên hệ với vẻ đẹp của tình yêu phối ngẫu.

Các nhà giáo dục Kitô giáo đáp ứng như thế nào đây? Những tiến triển tai hại này dẫn đến một tình trạng đặc biệt khẩn trương về những gì chúng ta có thể gọi là “đức ái về tri thức”. Khía cạnh này của đức ái kêu gọi các nhà giáo dục hãy nhìn nhận rằng trách nhiệm sâu xa trong việc dẫn giới trẻ đến sự thật chính là tác động yêu thương. Thật vậy, phẩm vị của việc giáo dục nằm ở chỗ nuôi dưỡng sự thiện hảo và hạnh phúc thực sự của những ai được giáo dục. Trên thực tế thì “việc bác ái về tri thức” là những gì chống đỡ mối hiệp nhất thiết yếu nơi kiến thức đối với vấn đề phân mảnh đưa đến chỗ lý trí tách khỏi việc theo đuổi tìm kiếm chân lý. Nó hướng dẫn giới trẻ tới chỗ hoàn toàn thỏa mãn việc hành sử tự do tương quan với sự thật, và nó cố gắng nói lên mối liên hệ giữa đức tin và tất cả mọi khía cạnh về gia đình cùng đời sống dân sự. Một khi đam mê của họ muốn chiếm được tầm vóc trọn vẹn và mối hiệp nhất của sự thật được khơi dậy thì chắc chắn giới trẻ sẽ thích thú khám phá thấy rằng vấn đề của những gì họ có thể biết được mở ra cả một cuộc thám hiểm rộng lớn đối với những gì họ cần phải làm. Ở đó họ sẽ cảm nghiệm thấy có thể hy vọng “nơi những gì” và “trong những ai”, và thêm phấn khởi đóng góp với xã hội ở chỗ làm phát sinh niềm hy vọng nơi người khác.

Các bạn thân mến, tôi muốn kết thúc bằng việc đặc biệt nhấn mạnh tới tầm quan trọng hết sức nơi vấn đề chuyên môn và chứng từ của anh chị em ở các đại học đường và học đường Công Giáo. Trước hết, tôi xin  cám ơn anh chị em về việc dấn thân và lòng quảng đại của anh chị em. Tôi biết được từ khi tôi còn là một vị giáo sư, và tôi đã nghe thấy từ các vị Giám Mục và viên chức của Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo, rằng tiếng tăm của các tổ chức học hỏi Công Giáo nơi xứ sở này thì lớn lao nhờ ở anh chị em và các vị tiền nhiệm của anh chị em. Những đóng góp vô vị kỷ của anh chị em – từ việc nghiên cứu trổi vượt cho đến việc tận tụy của những ai làm việc ở các học đượng trong thành phố – đều giúp ích cho cả xứ sở của anh chị em lẫn Giáo Hội. Bởi thế tôi xin hết lòng tri ân.

Đối với các phần tử giáo chức ở các viện đại học Công Giáo, tôi muốn tái khẳng định giá trị cao cả của tự do về hàn lâm. Vì sự tự do này anh chị em được kêu gọi để tìm kiếm chân lý ở bất cứ nơi nào anh chị em được dẫn tới từ việc thận trọng phân tích chứng cớ. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý là bất cứ viện dẫn nào về nguyên tắc tự do theo hàn lâm để biện minh cho những chủ trương tương phản lại với đức tin và giáo huấn của Giáo Hội đều là những gì làm khuất lấp đi hay thậm chí phản bội cái căn tính và sứ vụ của đại học đường; một sứ vụ thuộc về munus docendi của Giáo Hội chứ tự nó không tự trị hay tự lập.

Những vị giáo chức và quản trị viên, ở đại học đường hay học đường, có nhiệm vụ và đặc ân trong việc bảo đảm là thành phần học sinh sinh viên được hướng dẫn theo tín lý và thực hành Công Giáo. Điều này đòi hỏi là chứng từ công khai về đường lối của Chúa Kitô, như được thấy trong Phúc Âm và được Huấn Quyền Giáo Hội chấp nhận, là những gì khuôn đúc tất cả mọi khía cạnh thuộc đời sống của một tổ chức, cả bên trong lẫn bên ngoài lớp học. Những gì đi trệch khỏi nhãn quan này đều làm suy yếu căn tính Công Giáo và thay vì tăng tiến tự do lại đi đến chỗ lộn xộn bất khả tránh, về phương diện luân lý, tri thức hay thiêng liêng.

Tôi cũng muốn có lời phấn khích cả thành phần giáo chức giáo dân lẫn Tu Sĩ dạy giáo lý, những người cố gắng bảo đảm rằng giới trẻ hằng ngày càng cảm nhận được tặng ân đức tin. Việc giáo dục về đạo giáo là một việc tông đồ khó khăn, nhưng có nhiều dấu hiệu cho thấy giới trẻ mong muốn học hỏi về đức tin và mạnh mẽ thực hành đức tin. Nếu việc khơi động này gia tăng thì các thày cô cần phải hiểu biết một cách rõ ràng và chính xác bản chất và vai trò đặc biệt của việc giáo dục Công Giáo. Họ cũng cần phải sẵn sàng đem việc dấn thân của toàn thể cộng đồng học đường đến chỗ hỗ trợ cho giới trẻ của chúng ta cũng như gia đình của họ, để cảm nghiệm thấy mối hòa hợp giữa đức tin, đời sống và văn hóa.

Đến đây tôi muốn đặc biệt kêu gọi Anh Chị Em Tu Sĩ và Linh Mục là đừng loại bỏ việc tông đồ học đường; thật vậy, hãy canh tân việc dấn thân của anh chị em với các học đường đặc biệt là những những vùng nghèo nàn. Ở những nơi có nhiều hứa hẹn trống rỗng lôi cuốn giới trẻ xa lìa đường lối chân lý và tự do đích thật, thì chứng từ của con người tận hiến cho các lời khuyên Phúc Âm là một tặng ân bất khả thay thế. Tôi khuyến khích thành phần Tu Sĩ hiện diện nơi đây hãy canh tân lòng nhiệt thành để cổ võ các ơn gọi. Hãy biết rằng chứng từ của anh chị em cho lý tưởng tận hiến và truyền giáo nơi giới trẻ là một nguồn mạch hết sức phấn khởi về đức tin cho họ và gia đình họ.

Cùng tất cả anh chị em tôi xin anh chị em hãy làm chứng cho niềm hy vọng. Hãy nuôi dưỡng chứng từ của anh chị em bằng việc nguyện cầu. Hãy chứng tỏ niềm hy vọng làm nên đời sống của anh chị em (x 1Pt 3:15), bằng việc sống sự thật được anh chị em nêu lên cho học sinh sinh viên của anh chị em. Hãy giúp họ nhận biết và yêu mến Đấng anh chị em gặp gỡ là Đấng anh chị em hân hoan cảm nhiệm được sự thật và sự thiện của Người. Cùng với thánh Âu Quốc Tinh, chúng ta hãy nói rằng: ‘chúng tôi là những người nói và các bạn là những người nghe đều nhìn nhận chúng ta đều là môn đệ với nhau của cùng một vị sư phụ’ (Sermons, 23:2). Với những cảm thức hiệp thông này, tôi hân  hoan ban Phép Lành Tòa Thánh cho anh chị em, đồng nghiệp và sinh viên học sinh của anh chị em, và gia đình của anh chị em. 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2008/april/documents/hf_ben-xvi_spe_20080417_cath-univ-washington_en.html

 

TOP

 

Bài Giảng cho Thánh Lễ ở Washington Nationals Stadium Thứ Năm 17/4/2008

Anh Chị Em thân mến trong Chúa Kitô,

“Bình an ở cùng các con!” (Jn 20:19). Với những lời đầu tiên của Chúa Kitô Phục Sinh nói với các môn đệ của Người này, tôi xin gửi lời chào đến tất cả anh chị em trong niềm vui của mùa Phục Sinh. Trước hết, tôi tạ ơn Chúa về phúc được ở giữa anh chị em đây. Tôi đặc biệt cám ơn Đức Tổng Giám Mục Wuerl về những lời ngài chào mừng tôi.

Thánh Lễ của chúng ta hôm nay mang Giáo Hội ở Hoa Kỳ về lại với cội nguồn của mình ở Maryland gần ngay đây, và tưởng nhớ đến 200 năm chương đầu của biến cố Giáo Hội này phát triển rất khả quan – vị tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Piô VII đã phân chia Giáo Phận tiên khởi Baltimore và thành lập các Giáo Phận Boston, Bardstown (nay là Louisville), Nữu Ước và Philadelphia. Hai trăm năm sau, Giáo Hội ở Hoa Kỳ có thể cảm tạ chúc tụng về việc hoàn thành của các thế hệ trước đây khi các vị mang những nhóm di dân rất khác biệt vào mối hiệp nhất của đức tin Công Giáo cũng như vào một cuộc dấn  thân chung để truyền bá Phúc Âm. Đồng thời, ý thức được tính cách đa dạng phong phú của mình, cộng đồng Công Giáo ở xứ sở này đã tiến đến chỗ cảm nhận trọn vẹn hơn bao giờ hết tầm quan trọng của mỗi đóng góp cá nhân và nhóm người những tặng ân riêng biệt của họ với toàn khối. Giáo Hội ở Hiệp Chủng Quốc giờ đây, được kêu gọi để hướng tới tương lai, một tương lai đã được đâm rễ sâu xa vào đức tin do các thế hệ trước truyền lại, và sẵn sàng đương đầu với các thách đố mới – những thách đố không kém phần gay go hơn những gì cha ông của anh chị em đã phải đương đầu – với niềm hy vọng xuất phát từ tình yêu Thiên Chúa được tuôn đổ vào lòng chúng ta bởi Thánh Linh (x Rm 5:5).

Trong việc thi hành thừa tác vụ Thừa Kế Thánh Phêrô của mình, tôi đến Hoa Kỳ để củng cố anh chị em, hỡi anh chị em thân mến, theo đức tin của các Tông Đồ. Như Thánh Phêrô vào ngày Lễ Ngũ Tuần, tôi đến để tái loan báo rằng Chúa Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Thiên Sai, Đấng sống lại từ kẻ chết, Đấng vinh quang ngự bên hữu Cha, và được chỉ định làm thẩm phán của kẻ sống và kẻ chết (x Acts 2:14ff). Tôi đến để lập lại lời kêu gọi khẩn trương của vị Tông Đồ này là hãy hoán cải để được thứ tha tội lỗi và hãy xin Chúa lại tuôn đổ Thánh Linh xuống trên Giáo Hội ở xứ sở này. Như chúng ta đã nghe trong suốt Mùa Phục Sinh này là Giáo Hội được hạ sinh bởi tặng ân thống hối và tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh của Thần Linh. Qua mọi thời đại, Giáo Hội được cùng vị Thần Linh này thôi thúc mang tin mừng của việc chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa trong Chúa Kitô cho con người nam nữ thuộc mọi chủng tộc,  ngôn ngữ và dân tộc. Các bài đọc của Thánh Lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy xem xét tình trạng phát triển của Giáo Hội ở Hoa Kỳ như là một phần  của câu chuyện dài về việc Giáo Hội phát triển sau biến cố Thánh Linh Hiện Xuống vào Ngày Lễ Ngũ Tuần. Qua các bài đọc này chúng ta thấy được cái liên kết bất khả phân ly giữa Chúa Kitô phục sinh, tặng ân Thần Kinh để được thứ tha tội lỗi và mầu nhiệm Giáo Hội. Chúa Kitô đã thiết lập Giáo Hội của Người trên nền tảng Các Tông Đồ như là một cộng đồng hữu hình có cơ cấu đồng thời lại là một mối hiệp thông linh thiêng, một nhiệm thể được sinh động bởi tặng ân muôn mặt của Thần Linh, và là bí tích cứu độ cho toàn thể nhân loại. Ở mọi nơi và mọi lúc, Giáo Hội được kêu gọi để phát triển trong hiệp nhất qua việc liên lỉ hoán cải về với Chúa Kitô, Đấng mà công cuộc cứu độ của Người được loan báo bởi những Vị Thừa Kế các Tông Đồ và cử hành các phép bí tích. Mối hiệp nhất này, ngược lại, làm xuất phát một thứ phát triển không ngừng nghỉ về truyền giáo, như Thần Linh thôi thúc các tín hữu loan truyền ‘những việc làm cao cả của Thiên Chúa’ và mời gọi tất cả mọi dân tộc hãy gia nhập vào cộng đồng của những ai được cứu độ bởi máu Chúa Kitô và được Thần Linh của Người ban sự sống.

Bởi thế, tôi cầu xin để cuộc mừng kỷ niệm quan trọng này nơi đời sống của Giáo Hội ở Hiệp Chủng Quốc, và sự hiện diện của Vị Thừa Kế Thánh Phêrô giữa anh chị em đây sẽ là một cơ hội cho tất cả mọi người Công Giáo tái khẳng định mối hiệp nhất của họ theo đức tin tông truyền, để cống hiến cho những con người đương thời một chứng từ thuyết phục của niềm hy vọng tác động nơi họ, và được canh tân lòng nhiệt thành truyền giáo để làm lan rộng Vương Quốc của Thiên Chúa.

Thế giới cần đến chứng từ này! Ai có thể phủ nhận là thời điểm hôm nay đây là một thời điểm giao thời, chẳng những cho Giáo Hội ở Hoa Kỳ mà còn cho cả xã hội nữa? Nó là một thời điểm đầy hứa hẹn, như chúng ta thấy gia đình nhân loại qua nhiều hình thức đã sát lại gần nhau hơn và trở thành liên thuộc với nhau hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, đồng thời chúng ta cũng thấy được cả những dấu hiệu rõ ràng về một tình trạng đổ vỡ đáng lo ngại đến tận gốc rễ của xã hội những dấu hiệu chia lìa, hận thù và phân cách nơi nhiều người đương thời của chúng ta; gia tăng bạo động; suy yếu cảm quan về luân  lý; thô bạo nơi các mối liên hệ xã hội; và càng ngày càng lãng quên Chúa Kitô và Thiên Chúa. Cả Giáo Hội nữa, thấy được những dấu hiệu đầy hứa hẹn nơi nhiều giáo xứ mạnh mẽ và những phong trào sinh động, nơi lòng nhiệt thành vì đức tin được tỏ hiện qua rất nhiều giới trẻ, qua số những người hằng năm chấp nhận đức tin Công Giáo, và qua tình trạng chú trọng nhiều hơn tới việc cầu nguyện và học hỏi giáo lý. Đồng thời Giáo Hội cũng cảm thấy, thường là đớn đau, tình trạng chia rẽ và phân cách trong nội bộ của mình, cũng như thực trạng trục trặc mà nhiều người đa 4lãnh nhận phép rửa thay vì tác hành như men thiêng trong thế giới lại chiều theo những thái độ ngược lại với chân lý Phúc Âm.

“Lạy Chúa, xin sai Thần Linh Chúa đến và xin canh tân bộ mặt trái đất” (Ps 104:30). Những lời này của bài Đáp Ca hôm nay là một lời cầu nguyện xuất phát từ lòng Giáo Hội ở mọi thời và mọi nơi. Chúng nhắc nhở chúng ta rằng Thánh Linh đã được tuôn đổ như là những hoa trái đầu mùa của một cuộc tân tạo, của một “trời mới đất mới” là nơi bình an của Thiên Chúa sẽ ngự trị và cộng đồng nhân loại sẽ được hòa giải trong công lý và yêu thương. Chúng ta đã nghe Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng tất cả mọi tạo vật cho đến nay “đang rên xiết” trong niềm mong đợi được tự do đích thực là tặng ân Chúa ban cho con cái của Ngài, một thứ tự do giúp chúng ta có thể sống hợp với ý của Ngài. Hôm nay chúng ta hãy thiết tha nguyện cầu để Giáo Hội ở Hoa Kỳ được canh tân trong vị Thần Linh này, và được kiên cường với sứ vụ của mình trong việc loan truyền Phúc Âm cho một thế giới đang mong được tự do đích thực (x Jn 8:32), một hạnh phúc đích thực, và được thỏa nguyện những ước vọng sâu xa nhất của họ!

 

Đến đây tôi muốn bày tỏ lời đặc biệt biết ơn và phấn khích tất cả những ai đã chấp nhận cái thách đố của Công Đồng Chung Vaticanô II, một thách đố thường được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II lập lại, và hiến đời mình cho việc tân truyền bá phúc âm hóa. Tôi xin chư huynh Giám Mục của tôi, các linh mục và phó tế, tu sĩ nam nữ, phụ huynh, thày cô và các giáo lý viên. Lòng trung thành và can đảm nhờ đó Giáo Hội ở xứ sở này sẽ đáp ứng những thách đố xuất phát từ một nền văn hóa càng ngày càng tục hóa và duy vật phần lớn lệ thuộc vào lòng trung thành của anh chị em trong việc gìn giữ kho tàng đức tin Công Giáo. Giới trẻ cần được giúp đỡ để thấy được con đường dẫn đến tự do đích thật: con đường chân thành và quảng đại theo gương Chúa Kitô, con đường dấn thân cho công lý và hòa bình. Người ta thấy nhiều tiến bộ trong việc phác họa những chương trình giáo lý vững chắc, tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều điều cần phải làm để giúp cho tâm trí của giới trẻ hiểu biết và yêu mến Chúa. Những khó khăn thách thức chúng ta đòi chúng ta phải thực hiện việc hướng dẫn toàn diện và lành mạnh về các chân lý đức tin. Thế nhưng, chúng cũng đòi phải vun trồng một thứ tâm thức, một thứ ‘văn hóa tri thức’, đích thực Công Giáo, tin tưởng vào mối hòa hợp giữa đức tin và lý trí, và sẵn sàng mang cái phong phú của nhãn quan đức tin ra để giải quyết các vấn đề khẩn trương đang ảnh hưởng tới tương lai của xã hội Hoa Kỳ.

 

Các bạn thân mến, chuyến viếng thăm Liên Hiệp Quốc của tôi nhắm mục đích là làm chứng cho “Chúa Kitô là Niềm Hy Vọng của chúng ta”. Nhân dân Hoa Kỳ bao giờ cũng là một dân của niềm hy vọng: các vị cha ông của các bạn đã đến xứ sở này với niềm mong đợi tìm được tình trạng tự do và cơ hội mới, trong khi đó cảnh tượng rộng lớn hoang dã đã tác động nơi họ niềm hy vọng có thể hoàn toàn bắt đầu lại, xây dựng một quốc gia mới trên những nền tảng mới. Thực sự không phải mọi dân cư ở mảnh đất này đều cảm thấy được những hứa hẹn ấy: người ta nghĩ đến những bất công mà những người thổ dân Mỹ Châu đã phải chịu đựng, và đến những người bị bắt buộc đến đây từ Phi Châu để làm nô lệ. Tuy nhiên, niềm hy vọng tương lai là một yếu tố sâu đậm nơi tính chất của người Hoa Kỳ. Và niềm hy vọng Kitô Giáo – một niềm hy vọng được tuôn đổ vào lòng chúng ta bởi Thánh Linh, niềm hy vọng thanh tẩy về mặt siêu nhiên và qui hướng các ước vọng của chúng ta vào Chúa cũng như vào dự án cứu độ của Ngài – niềm hy vọng cũng đã đánh dấu và tiếp tục đánh dấu sự sống của cộng đồng Công Giáo nơi xứ sở này.

 

Chính trong chiều hướng của niềm hy vọng xuất phát từ tình yêu và lòng trung thành của Thiên Chúa tôi đã nhận thấy được nỗi đớn đau mà Giáo Hội ở Hoa Kỳ đã trải qua gây ra bởi việc lạm dụng tình dục trẻ em. Tôi không thể nào diễn tả hết nỗi đớn đau và tai hại gây ra bởi việc lạm dụng này. Những ai chịu đựng khổ đau bởi việc lạm dụng này cần phải nhận được niền ưu ái chú trọng về mục vụ. Tôi cũng không thể nào diễn tả cho đủ các tai hại đã xẩy ra trong cộng đồng Giáo Hội này. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để thành thực và công bằng giải quyết tình trạng thê thảm này và để bảo đảm rằng trẻ em – thành phần được Chúa Kitrô yêu quí (x Mk 10:14) và là kho tàng lớn lao nhất của chúng ta – có thể lớn lên trong một môi trường an toàn. Cần phải tiếp tục những nỗ lực bảo vệ trẻ em như thế. Hôm qua tôi đã nói với các vị Giám Mục về vấn đề này rồi. Hôm nay tôi khuyến  khích từng người trong anh chị em hãy làm những gì có thể để nuôi dưỡng việc chữa lành và hòa giải, cùng hỗ trợ những ai bị đớn đau. Tôi cũng xin anh chị em hãy quí mến các vị linh mục của mình và hãy công nhận với các vị về hoạt động tuyệt vời của các vị. Nhất là cầu xin Thánh linh tuôn đổ các tặng ân của Ngài xuống trên Giáo Hội, những tặng ân dẫn tới việc hoán cải, thứ tha và lớn lên trong thánh đức.

 

Thánh Phaolô nói, như chúng ta đã nghe trong bài đọc 2, về một thứ cầu nguyện xuất phát từ đáy lòng của chúng ta bằng những lời lẽ sâu xa như “những lời rên xiết” (Rm 8:26) được Thần Linh tác động. Đó là lời cầu nguyện khát mong ở giữa cuộc thanh trừng để xin Thiên Chúa hoàn thành những lời hứa hẹn của Ngài. Đó là lời cầu của niềm hy vọng không nản chí, song cũng là một niềm hy vọng của việc nhẫn nại chịu đựng và thường được kèm theo bằng nỗi khổ đau vì chân lý. Nhờ lời nguyện cầu này, chúng ta được tham dự vào mầu nhiệm yếu hèn và khổ đau của Chúa Kitô, trong khi mạnh mẽ tin tưởng vào sự chiến  thắng của Thập Tự Giá. Với lời cầu nguyện ấy, chớ gì Giáo Hội ở Hoa Kỳ thiết tha hơn với những đường lối hoán cải và trung thành với những đòi hỏi của Phúc Âm. Và chớ gì tất cả mọi người Công Giáo cảm được sự ủi an của niềm hy vọng, cùng với những tặng ân vui mừng và mạnh mẽ của Thần Linh.

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô Phục Sinh ban tặng Thánh Linh trên các Tông Đồ và ban cho các vị quyền thứ tha tội lỗi. Nhờ quyền năng thắng vượt của ân sủng Chúa Kitô là những gì được ban cho các vị thừa tác viên hèn yếu loài người, Giáo Hội liên  lỉ được tái sinh và mỗi người chúng ta nhận được niềm hy vọng cho một cuộc khởi sự mới. Chúng ta hãy tin tưởng vào quyền năng của Thần Linh trong việc đánh động lòng hoán cải, chữa lành mọi vết thương, thắng vượt mọi chia rẽ, cùng phấn khởi sự sống và niềm tự do mới, chúng ta cần đến tặng ân này biết bao. Và những tặng ân ấy gần gũi biết là chừng nào, đặc biệt là nơi bí tích Thống Hối! Quyền năng giải thoát của bí tích này, nhờ đó việc chân thành xưng thú tội lỗi của chúng ta gặp được lời thứ tha hòa giải nhân hậu của Thiên Chúa, cần phải được mọi người Công Giáo tái cảm nhận và tái chiếm hữu. Việc canh tân  Giáo Hội ở Hoa Kỳ và trên khắp thế giới một phần lớn lệ thuộc vào sự canh tân việc thi hành Thống Hối cùng với việc gia tăng thánh đức là những gì được bí tích này vừa tác động vừa đạt thành.

 

‘Chúng ta được cứu độ nhờ niềm hy vọng’ (Rm 8:24). Trong khi Giáo Hội ở Hiệp Chủng Quốc dâng lời tạ ơn về những ân phúc trong 200 năm qua, tôi mời gọi anh chị em, gia đình của anh chị em, và hết mọi giáo xứ và cộng đồng tu trì, hãy tin tưởng vào quyền năng của ân sủng trong việc kiến tạo một tương lai hứa hẹn cho dân Chúa ở xứ sở này. Trong Chúa Giêsu tôi xin anh chị em hãy dẹp bỏ tất cả mọi chia rẽ và hãy hân hoan hoạt động tông đồ trong việc dọn đường cho Người bằng lòng trung thành với lời của Người và liên lỉ hoán cải về với ý muốn của Người. Trên hết, tôi thiết tha xin anh chị em hãy tiếp tục là men hy vọng Phúc Âm nơi xã hội Hoa Kỳ, nỗ lực mang ánh sáng và chân lý Phúc Âm vào công việc xây dựng một thế giới công chính và tự do hơn bao giờ hết cho các thế hệ mai sau.

 

Những ai hy vọng đều phải sống một cuộc đời khác biệt. Bằng những lời cầu nguyện của mình, bằng chứng từ đức tin của mình, bằng hoa trái bác ái của mình, chớ gì anh chị em vạch ra con đường hướng tới chân trời tràn đầy hy vọng mà cho tới nay được Thiên Chúa mở ra cho Giáo Hội của Người và thực sự cho toàn thể nhân loại: một nhãn quan về một thế giới được hòa giải và canh tân trong Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế của chúng ta. Nguyện cho Người được mọi vinh dự và vinh quang giờ đây và cho đến muôn đời. Amen!

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2008/documents/hf_ben-xvi_hom_20080417_washington-stadium_en.html

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

TOP

 

Xã Hội Mỹ quốc cần phải được Truyền Bá Phúc Âm Hóa về Văn Hóa

Chuyến tông du thứ tám của ĐTC Biển Đức XVI, chuyến tông du ngài đến Hoa Kỳ lần đầu tiên từ ngày 15-20/4/2008, với chủ đề “Chúa Kitô là Niềm Hy Vọng của chúng ta”, chúng ta hãy nghe lại những lời ngài huấn dụ các vị giám mục Hoa Kỳ tối hôm 16/4/2008 ở Vương Cung Thánh Đường Quốc Gia Mẹ Vô Nhiễm, liên quan tới xã hội Hoa Kỳ, một xã hội được Tổng Thống Bush, trong lời nghênh đón ĐTC ở Tòa Bạch Ốc sáng cùng ngày 16/4 đã tỏ ra hết sức hãnh diện, nhưng lại là một xã hội theo ĐTC cần phải được truyền bá phúc âm hóa văn hóa.

Tổng Thống Bush hãnh diện về xã hội Mỹ quốc sống đạo khi ông nói với ĐTC rằng:

Ở Hoa Kỳ đây ngài sẽ thấy một quốc gia đón nhận vai trò của đức tin một cách công khai. Khi những vị lập quốc của chúng tôi tuyên bố quốc gia của chúng tôi độc lập thì các vị đã lên tiếng kêu gọi theo “lề luật tự nhiên, cũng như lề luật của Thiên Chúa”. Chúng tôi tin vào quyền  tự do tôn giáo. Chúng tôi cũng tin rằng lòng yêu thích tự do và lề luật luân lý chung được in ấn nơi hết mọi tâm can con người, và những điều ấy tạo nên nền tảng vững chắc cho bất cứ một xã hội tự do thành đạt nào.

ĐTC Biển Đức XVI lại nhận định về xã hội Mỹ quốc như sau:

Thật sự là xứ sở này được đánh dấu bằng một tinh thần tôn giáo đích thực, song ảnh hưởng tinh quái của chủ nghĩa tục hóa vẫn là những bóng dáng nơi lối sống đức tin chi phối hành vi cử chỉ của dân chúng. Có nhất trí hay chăng trong việc tuyên xưng niềm tin tưởng của mình ở nhà thờ vào Ngày Chúa Nhật để rồi trong tuần lại cổ võ những thực hành thương mại hay những phương pháp y khoa trái ngược với niềm tin tưởng ấy? Có nhất trí hay chăng đối với những người Công Giáo sống đạo trong việc coi thường hay khai thác thành phần nghèo khổ và thành phần sống bên lề xã hội, trong việc phát động hành vi cử chỉ tính dục phản lại vơiù giáo huấn luân lý Công Giáo, hay trong việc vào hùa tán thành những chủ trương tương phản với quyền sống của hết mọi con người từ khi được thụ thai cho tới khi tự nhiên qua đi? Cần phải chống lại với bất cứ một khuynh hướng nào coi tôn giáo là vấn đề tư riêng. Chỉ khi nào đức tin của họ thấm nhập vào hết mọi khía cạnh cuộc sống của mình thì Kitô hữu mới thực sự cởi mở trước quyền năng biến đổi của Phúc Âm mà thôi.

Tổng Thống Bush hãnh diện về xã hội Mỹ quốc tân tiến khi ông nói với ĐTC rằng:

Ở Hoa Kỳ đây, ngài sẽ thấy một quốc gia hoàn toàn tân tiến, tuy nhiên lại là một quốc gia được hướng dẫn bởi những chân lý cổ kính và vĩnh hằng. Hiệp Chủng Quốc là một xứ sở mới mẻ nhất, sáng tạo nhất và năng động nhất trên trái đất này – nó cũng là một quốc gia đạo nghĩa nhất nữa. Trong quốc gia của chúng tôi, đức tin và lý trí cùng nhau đồng hành sánh bước. Đó là một trong những điểm mạnh nhất của xứ sở chúng tôi, và một trong những lý do khiến cho đất nước chúng tôi vẫn là hải đăng hy vọng và là mảng đất cơ hội cho hằng triệu người trên khắp thế giới.

ĐTC Biển Đức XVI lại nhận định về xã hội Mỹ quốc như sau:

Đối với một xã hội thịnh vượng thì có một trở ngại hơn nữa về việc gặp gỡ Vị Thiên Chúa hằng sống xuất phát từ một thứ ảnh hưởng tinh quái của chủ nghĩa duy vật, một chủ nghĩa hết sức dễ dàng chú trọng tới tính cách gấp trăm được Thiên Chúa hứa hẹn ngay ở đời này, không màng gì tới sự sống trường sinh được Ngài hứa ban cho ở đời sau (x Mk 10:30). Dân chúng ngày nay cần phải được nhắc nhở về mục đích tối hậu cuộc đời của họ. Họ cần nhận ra cái được gieo vãi nơi họ là một niềm sâu xa khát khao Thiên Chúa. Họ cần được cung cấp cho có cơ hội để uống từ những nguồn mạch yêu thương vô cùng bất tận của Ngài. Thật là dễ dàng bị mê hoặc bởi những khả năng hầu như vô hạn được khoa học và kỹ thuật bày ra trước mắt chúng ta; thật là dễ dàng lầm lẫn nghĩ rằng chúng ta có thể tự mình chiếm đạt được trọn vẹn những nhu cầu sâu xa nhất của chúng ta. Đó là một ảo vọng. Không có Thiên Chúa, Đấng duy nhất có thể ban cho chúng ta những gì chúng ta tự mình không thể chiếm hữu (x Spe Salvi, 31), đời sống của chúng ta chỉ là những gì rỗng không. Dân chúng cần liên lỉ được nhắc nhủ hãy vun trồng một mối liên hệ với Ngài, Đấng đã đến là để cho chúng ta được sống viên trọn (x Jn 10:10).

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, soạn dọn cho Chương Trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống www.tinmungsusong.org tối Thứ Sáu 13/6/2008)

 

TOP

 

Với Các Vị Giám Mục Hoa Kỳ sau Giờ Kinh Tối Thứ Tư 16/4/2008 tại Đền Thánh Mẫu Quốc Gia Mẹ Vô Nhiễm ở Washington DC

"Hãy chiếu giãi ánh sáng của chư huynh ra trước những người đồng hương của chư huynh cũng như trước thế giới"

Chư Huynh Giám Mục thân mến,

Thật là vui mừng được gửi lời chào đến chư huynh hôm nay đây, vào lúc mở màn cho cuộc thăm viếng của tôi ở xứ sở này, và tôi xin cám ơn Đức Hồng Y George về những lời lẽ tốt lành ngỏ cùng tôi thay cho chư huynh. Tôi muốn cám ơn tất cả mọi chư huynh, nhất là các Viên Chức trong Hội Đồng Giám Mục, về công sức bỏ ra để sửa soạn cho cuộc viếng thăm này. Tôi cũng xin tri ân cảm tạ các nhân  viên cùng tình nguyện viên của Đền Thánh Mẫu Quốc Gia này, những người đã đón nhận chúng ta ở nơi đây tối hôm nay. Người ta thấy Người Công Giáo Hoa Kỳ trung thành dấn thân cho tòa thánh Phêrô. Cuộc viếng thăm mục vụ của tôi ở nơi đây là cơ hội để củng cố hơn nữa những mối liên hệ hiệp thông thắt kết chúng ta ấy. Chúng ta bắt đầu bằng việc cử hành Giờ Kinh Tối nơi Đền Thờ được cung hiến cho Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Tội đây, một đền thánh có một ý nghĩa đặc biệt cho người Công Giáo Hoa Kỳ, ở ngay giữa lòng thành phố thủ đô đây. Cùng hiệp nhau nguyện cầu với Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, chúng ta thiết tha hiến dâng lên  Cha trên trời của chúng ta thành phần dân  Chúa ở khắp nơi ở Hiệp Chủng Quốc này.

Đối với các cộng đồng Công Giáo Boston, Nữu Ước, Philadelphia và Louisville thì đây là năm kỷ niệm đặc biệt vì nó đánh dấu 200 năm thiết lập nên Giáo Phận nơi các Giáo Hội địa phương này. Hiệp cùng chư huynh tôi dâng lời cảm tạ về nhiều hồng ân được ban cho Giáo Hội đây trong 200 năm qua. Năm nay cũng đánh dấu 200 năm agiáo phần đầu tiên Baltimore được nâng lên thành Tổng Giáo Phận, một cơ hội để tôi ca ngợi và tri ân nhắc lại đời sống và thức tác vụ của vị Giám Mục tiên khởi của Baltimore là John Carroll – một vị lãnh đạo cứng đáng của cộng đồng Công Giáo ở xứ sở vừa mới được độc lập của chư huynh bấy giờ. Những nỗ lực không ngừng nghỉ của ngài trong việc truyền bá Phúc Âm ở một lãnh thổ rộng lớn trong thẩm quyền chăm sóc của ngài này đã đặt nền tảng cho đời sống giáo hội của xứ sở chư huynh và giúp cho Giáo Hội ở Hoa Kỳ có thể tăng trưởng đến thành toàn. Ngày nay cộng đồng Công Giáo mà chư huynh phục vụ là một trong những cộng đồng lớn nhất trên thế giới, và là một cộng đồng ảnh hưởng nhất. Vậy thì quan trọng biết bao việc chư huynh hãy chiếu giãi ánh sáng của chư huynh ra trước những người đồng hương của chư huynh cũng như trước thế giới, ‘để họ thấy các việc lành của các con làm mà tôn vinh Cha các con ở trên trời’ (Mt 5:16).

Nhiều người được Đức Giám Mục John Carroll cùng với các vị Giám Mục bạn của ngài thi hành thừa tác vụ hai trăm năm qua đã du hành đến từ các miền đất xa xôi. Tính cách đa dạng về nguồn gốc của họ được phản ảnh nơi cái khác nhau phong phú của đời sống giáo hội nơi Hoa Kỳ hiện nay. Chư huynh Giám Mục, tôi muốn khuyến khích chư huynh và cộng đồng của chư huynh hãy tiếp tục đón nhận những người di dân muốn được thuộc về hàng ngũ của chư huynh ngày nay, muốn được chia sẻ niềm vui và niềm hy vọng của họ, hãy nâng đỡ họ trong những nỗi sầu thương và thử thách của họ, và trợ giúp họ triển  nở nơi ngôi nhà mới này của họ. Thật vậy, đó là những gì đồng bào của chư huynh đã từng làm cho các thế hệ. Từ ban đầu, họ đã mở cửa của mình cho thành phần kiệt quệ, thành phần nghèo khổ, ‘những đám người hỗn độn mong muốn được hít thở tự do’  (cf. Sonnet inscribed on the Statue of Liberty). Đó là những người được Hoa Kỳ biến thành của mình.

Trong số những người đến để xây dựng đời sống ở nơi đây, nhiều người đã có thể hưởng dụng các nguồn lợi cùng với những cơ hội họ thấy được, cũng như có thể đạt được cao độ về sự thịnh vượng. Thật vậy, nhân dân của xứ sở này nổi tiếng về tính cách thật sống động và sáng tạo của mình. Họ cũng nổi tiếng về lòng quảng đại nữa. Sau cuộc tấn công vào Tháp Đôi trong Tháng 9/2001, và một lần nữa sau trận Bão Lụt Katrina vào năm 2005, những người dân Hoa Kỳ đã cho thấy việc họ sẵn sàng trợ giúp anh chị em mình đang thiếu thốn. Ở tầm cấp quốc tế, việc nhân dân Hoa Kỳ đóng góp vào việc cứu trợ cùng với các hoạt động cứu nguy sau cơn biển động sóng thần Tháng 12/2004 là một chứng cớ hơn nữa cho thấy tấm lòng thương cảm này của họ. Xin cho tôi được bày tỏ lòng cảm nhận đặc biệt của tôi về nhiều hình thức trợ giúp nhân đạo do những người Công Giáo Hoa Kỳ thực hiện qua các Hội Bác Ái Công Giáo và các cơ quan khác. Lòng quảng đại của họ đã sinh hoa kết trái nơi việc chăm sóc đối với người nghèo và thiếu thốn, cũng như nơi nỗ lực thực iện việc thiết lập một hệ thống toàn quốc các giáo xứ, bệnh viện, học đường và đại học đường Công Giáo. Hãy hết lòng tạ ơn về tất cả những điều ấy.

Hoa Kỳ cũng là một mảnh đất của niềm tin   tưởng cao cả. Nhân dân của chư huynh đã nổi bật về lòng nhiệt thành với đạo giáo của họ và họ cảm thấy hãnh diện thuộc về một cộng đồng thờ phượng. Họ tin tưởng nơi Thiên Chúa, và họ không ngần ngại mang những lập luận về luân lý có một nền tảng sâu xa nơi đức tin thánh kinh vào cuộc đàm luận công khai. Việc tôn trọng quyền tự do tôn giáo là những gì đang được cắm rễ sâu vào tâm thức của người Hoa Kỳ – một sự kiện góp phần vào tính cách thu hút của xứ sở này đối với các thế hệ của thành phần di dân trong việc họ tìm kiếm một ngôi nhà họ có thể được tự do tôn thờ theo niềm tin tưởng của họ.

Về điều này, tôi hoan hỉ nhận thấy có sự hiện diện giữa chư huynh những vị Giám Mục từ tất cả các Giáo Hội Đông Phương khả kính hiệp thông với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, những vị tôi đặc biệt hân hoàn gửi lời chào. Chư Huynh thân mến, tôi xin chư huynh hãy chuyển tới cộng đồng của chư huynh lòng cảm mến sâu xa của tôi và lời cầu nguyện liên lỉ của tôi cả cho họ cũng như cho nhiều anh chị em của họ vẫn còn ở quê cha đất mẹ. Sự hiện diện của chư huynh ở nơi đây là một nhắc nhở về chứng từ can trường cho Chúa Kitô của rất nhiều phần tử thuộc cộng đồng của chư huynh, thường trải qua thương đau nơi xứ sở riêng của họ. Nó đồng thời cũng là một thứ phong phú hóa dồi dào nơi đời sống giáo hội ở Hoa Kỳ, trong việc cống hiến việc sống động bày tỏ công giáo tính của Giáo Hội và những truyền thống khác nhau về phụng vụ và linh đạo của Giáo Hội.

"Làm thế nào trong thế kỷ 21 này, một vị giám mục có thể hoàn tất hết mình tiếng gọi là ‘hãy canh tân mọi sự trong Chúa Kitô là niềm hy vọng của chúng ta?’"

Chính ở nơi mảnh đất phì nhiêu này, một mảnh đất được nuôi dưỡng bởi rất nhiều nguồn mạnh khác nhau, mà tất cả chư huynh, hỡi Chư Huynh Giám Mục, được kêu gọi để gieo hạt giống Phúc Âm ngày nay. Điều này khiến tôi đặt vấn đề là làm thế nào, trong thế kỷ 21 này, một vị giám mục có thể hoàn tất hết mình tiếng gọi là ‘hãy canh tân mọi sự trong Chúa Kitô là niềm hy vọng của chúng ta?’ Làm thế nào ngài có thể dẫn dân của mình đến chỗ ‘gặp gỡ Vị Thiên Chúa hằng sống’, mạch nguồn của niềm hy vọng biến đổi đời sống này được Phúc Âm nói tới (x Spe Salvi, 4)? Có lẽ ngài cần phải bắt đầu bằng việc dẹp bỏ một số chướng ngại vật làm ngăn trở cho một cuộc hội ngộ như thế. Thật sự là xứ sở này được đánh dấu bằng một tinh thần tôn giáo đích thực, song ảnh hưởng tinh quái của chủ nghĩa tục hóa vẫn là những bóng dáng nơi lối sống đức tin chi phối hành vi cử chỉ của dân chúng. Có nhất trí hay chăng trong việc tuyên xưng niềm tin tưởng của mình ở nhà thờ vào Ngày Chúa Nhật để rồi trong tuần lại cổ võ những thực hành thương mại hay những phương pháp y khoa trái ngược với niềm tin tưởng ấy? Có nhất trí hay chăng đối với những người Công Giáo sống đạo trong việc coi thường hay khai thác thành phần nghèo khổ và thành phần sống bên lề xã hội, trong việc phát động hành vi cử chỉ tính dục phản lại vơiù giáo huấn luân lý Công Giáo, hay trong việc vào hùa tán thành những chủ trương tương phản với quyền sống của hết mọi con người từ khi được thụ thai cho tới khi tự nhiên qua đi? Cần phải chống lại với bất cứ một khuynh hướng nào coi tôn giáo là vấn đề tư riêng. Chỉ khi nào đức tin của họ thấm nhập vào hết mọi khía cạnh cuộc sống của mình thì Kitô hữu mới thực sự cởi mở trước quyền năng biến đổi của Phúc Âm mà thôi.

Đối với một xã hội thịnh vượng thì có một trở ngại hơn nữa về việc gặp gỡ Vị Thiên Chúa hằng sống xuất phát từ một thứ ảnh hưởng tinh quái của chủ nghĩa duy vật, một chủ nghĩa hết sức dễ dàng chú trọng tới tính cách gấp trăm được Thiên Chúa hứa hẹn ngay ở đời này, không màng gì tới sự sống trường sinh được Ngài hứa ban cho ở đời sau (x Mk 10:30). Dân chúng ngày nay cần phải được nhắc nhở về mục đích tối hậu cuộc đời của họ. Họ cần nhận ra cái được gieo vãi nơi họ là một niềm sâu xa khát khao Thiên Chúa. Họ cần được cung cấp cho có cơ hội để uống từ những nguồn mạch yêu thương vô cùng bất tận của Ngài. Thật là dễ dàng bị mê hoặc bởi những khả năng hầu như vô hạn được khoa học và kỹ thuật bày ra trước mắt chúng ta; thật là dễ dàng lầm lẫn nghĩ rằng chúng ta có thể tự mình chiếm đạt được tronọvẹn những nhu cầu sâu xa nhất của chúng ta. Đó là một ảo vọng. Không có Thiên Chúa, Đấng duy nhất có thể ban cho chúng ta những gì chúng ta tự mình không thể chiếm hữu (x Spe Salvi, 31), đời sống của chúng ta chỉ là những gì rỗng không. Dân chúng cần liên lỉ được nhắc nhủ hẫ vun trồng một mối liên hệ với Ngài, Đấng đã đến là để cho chúng ta được sống viên trọn (x Jn 10:10). Mục đích của tất cả mọi hoạt động mục vụ và giáo lý của chúng ta, đối tượng của việc chúng ta giảng dạy, và mục tiêu cho thừa tác vụ bí tích của chúng ta cần phải là những gì giúp cho dân chúng thiết lập và duy trì mối liên hệ sống động này với “Chúa Giêsu Kitô là niềm hy vọng của chúng ta” (1Tim 1:1).

Trong một xã hội coi trọng quyền tự do và việc tự động thì chúng ta rất dễ quên mất việc chúng ta lệ thuộc vào người khác cũng như trách nhiệm chúng ta phải có đối với họ. Việc đề cao cá nhân chủ nghĩa ấy thậm chí ảnh hưởng cả đến Giáo Hội nữa (x Spe Salvi, 13-15), làm phát sinh một hình thức đạo đức đôi khi chú trọng tới mối liên hệ riêng tư của chúng ta với Thiên Chúa mà không màng gì tới việc chúng ta được kêu gọi trở thành phần tử của một cộng đồng được cứu độ. Tuy nhiên, từ ban đầu, Thiên Chúa đã thấy rằng “con người ở một mình không tốt” (Gen 2:18). Chúng ta được dựng nên như là những hữu thể xã hội, thành phần đạt đến tầm vóc viên trọn của mình nơi yêu thương – đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân của chúng ta. Nếu chúng ta thực sự gắn mắt nơi Ngài là mạch nguồn hoan lạc của chúng ta, thì chúng ta cần thực hiện điều này như là phần tử của dân Chúa (x Spe Salvi, 14). Nếu điều này dường như là một cái gì đó phản văn hóa, thì nó chỉ là một chứng cớ nữa cho thấy nhu cầu khẩn trương cần phải thực hiện một cuộc truyền bá phúc âm hóa văn hóa vậy.  

ào luyện thấu đáo về giáo huấn luân lý của Giáo Hội "

Ở Hoa Kỳ này, chư huynh phúc đức có được một thành phần giáo dân Công Giáo rất khác biệt về văn hóa, những người mang các tặng ân rất khác biệt của mình để phục vụ Giáo Hội và đại đồng xã hội. Họ mong chư huynh cống hiến cho họ sự khích lệ, vai trò lãnh đạo và sự chỉ đạo. Ở một thời đại đầy những tín liệu, thì không thể cho rằng thái quá về tầm quan trọng của việc thực hiện việc huấn luyện lành mạnh. Những người Công Giáo Hoa Kỳ vốn có truyền thống coi trọng việc giáo dục về đạo giáo, cả ở các học đường lẫn ở môi trường của những chương trình huấn luyện cho người lớn. Những điều này cần phải được bảo trì và triển khai. Cần phải giúp đỡ cho nhiều con người nam nữ dấn thân hoạt động bác ái canh tân việc dấn thân của họ bằng một thứ ‘huấn luyện về cõi lòng’, đó là một ‘cuộc hội ngộ với Thiên Chúa trong Chúa Kitô làm khơi động tình yêu của họ và hướng tâm linh của họ về người khác’ (Deus Caritas Est,  31). Ở vào một thời điểm khi mà những tiến triển về khoa y học mang lại niềm hy vọng mới cho nhiều người thì chúng cũng gây ra những thách đố về đạo lý không ngờ trước đây. Điều này lại càng cần thiết hơn bao giờ hết trong việc cống hiến việc đào luyện thấu đáo về giáo huấn luân lý của Giáo Hội cho những người Công Giáo đang làm việc trong lãnh vực chăm sóc sức khỏe. Cần phải cung cấp những chỉ đạo khôn ngoan cho tất cả các thành phần tông đồ này, nhờ đó họ có thể sinh hoa kết quả phong phú; nếu họ thực sự cổ võ sự thiện trọn vẹn của con người thì họ cũng cần phải được canh tân trong Chúa Kitô là niềm hy vọng của chúng ta.

Là những người giảng dạy Phúc Âm và là thành phần lãnh đạo cộng đồng Công Giáo, chư huynh cũng được kêu gọi dự phần vào việc trao đổi những ý nghĩ trước công luận, giúp hình thành những thái độ về văn hóa. Trong một môi trường coi trọng quyền tự do ngôn luận, và được khuyến khích thực hiện việc tranh luận sôi nổi và chân thành, tiếng nói của chư huynh là một tiếng nói trân trọng có thể góp phần nhiều cho vấn đề bàn luận về những vấn đề khẩn trương về xã hội và luân lý ngày nay. Để bảo đảm là Phúc Âm được nghe thấy một cách rõ ràng, chư huynh chẳng những đào luyện người thuộc cộng đồng của chư huynh mà còn, theo chiều hướng vươn rộng toàn cầu của vấn đề truyền thông đại chúng, chư huynh còn cần phải truyền đạt sứ điệp của niềm hy vọng Kitô giáo khắp thế giới nữa.

Hiển nhiên là ảnh hưởng của Giáo Hội đối với việc tranh luận công cộng diễn ra ở nhiều lãnh vực khác nhau. Ở Hiệp Chủng Quốc, cũng như ở các nơi khác, có nhiều vấn đề về lập pháp hiện hành và được dự thảo khiến chúng ta quan tâm về quan điểm luân lý, và cộng đồng Công Giáo, theo sự hướng dẫn của chư huynh, cần phải cống hiến một chứng từ rõ ràng và liên kết về những vấn đề như thế. Tuy nhiên, quan trọng hơn thế nữa là việc cộng đồng xã hội này biết dần dần mở lòng trí ra trước sự thật về luân lý. Còn cần phải làm nhiều hơn nữa ở điểm này. Về vấn đề này thì quan trọng là vai trò của thành phần tín hữu giáo dân trong việc tác hành như ‘men’ trong xã hội. Tuy nhiên, vẫn không thể cho rằng tất cả mọi công dân Công Giáo đều có ý nghĩ hợp với giáo huấn của Giáo Hội về các vấn đề đạo lý chính yếu ngày nay. Một lần nữa, vấn đề lại quay trở về với chư huynh trong việc làm sao để có thể bảo đảm rằng việc huấn luyện về luân lý được cung cấp ở hết mọi tầm cấp trong đời sống Giáo Hội phản ảnh giáo huấn đích thực của Phúc Âm sự sống.

Theo đó, một vấn đề được tất cả chúng ta hết sức quan tâm đó là tình trạng gia đình trong xã hội. Thật vậy, ĐHY George đã đề cập đến trước đây là chư huynh đã bao gồm việc kiên cường hôn nhân và gia đình vào những thứ ưu tiên cần chú trọng trong mấy năm tới đây.  Trong Sứ Điệp Ngày Thế Giới Hòa Bình năm nay, tôi đã nói về việc đóng góp thiết yếu của được gia đình lành mạnh cho hòa bình trong các quốc gia và giữa các quốc gia. Trong ngôi nhà của gia đình, chúng ta cảm nghiệm thấy ‘một số những yếu tố trọng yếu của hòa bình, đó là công lý và yêu thương nhau giữa anh chị em với nhau, vai trò về quyền bính được cha mẹ bày tỏ, việc quan tâm ưu ái đối với các phần tử yếu kém hơn vì tuổi trẻ, đau yếu hay già lão, việc giúp đỡ lẫn nhau nơi các nhu cầu của cuộc sống, việc sẵn sàng chấp nhận kẻ khác, và nếu cần, thứ tha cho họ’ (khoản 30). Gia đình cũng là nơi căn bản để truyền bá phúc âm hóa, để truyền đạt đức tin, để giúp giới trẻ cảm nhận được tầm quan trọng của việc sống đạo và giữ ngày Chúa Nhật. Làm sao chúng ta không cảm thấy nản lòng khi chúng ta thấy được tình trạng suy thoái kinh khủng của gia đình là yếu tố nền tảng của Giáo Hội và xã hội được chứ? Tình trạng ly dị và bất trung vẫn gia tăng, và nhiều người Công Giáo nam nữ trẻ đang muốn trì hoãn vấn đề hôn nhân hay kiêng cữ hôn nhân. Đối với một số người trẻ Công Giáo thì mối liên kết bí tích hôn nhân dường như khó phân biệt được với thứ ràng buộc về dân sự, hay thậm chí chỉ là một ước hẹn bán chính thức và có lối thoát trong việc sống với người khác. Bởi thế, chúng ta thấy được một thứ giảm sút đáng lo ngại nơi con số hôn nhân Công Giáo ở Hiệp Chủng Quốc cùng với sự gia tăng nơi việc ăn ở với nhau, một việc ăn ở hoàn toàn thiếu vắng tính cách hiến thân cho nhau như Chúa Kitô nơi vợ chồng, một cuộc hiến thân được niêm ấn bằng một lời hứa hẹn công khai sống trọn những đòi hỏi của việc dấn thân trọn đời bất khả phân ly. Trong những trường hợp như thế, trẻ em là thành phần bị hụt hẫng môi trường an toàn chúng cần để thực sự phát triển nẩy nở làm người, và xã hội cũng bị thiếu mất những khối cơ sở vững chắc cần thiết nếu bảo toàn được mối liên kết và tầm vóc luân lý của cộng đồng này.

"Công việc của chư huynh là mạnh mẽ công bố những luận cứ theo đức tin và lý trí thuận lợi cho cơ cấu hôn nhân"

Như vị tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dạy, ‘Con người chính yếu có trọng trách trong Giáo Phận về mục vụ chăm sóc gia đình là vị Giám Mục… ngài cần giành cho nó sự chú trọng, việc chăm sóc, thời giờ, nhân viên và các phương tiện của mình, nhất là việc bản thân ngài nâng đỡ các gia đình cũng như tất cả những ai … giúp ngài lo việc chăm sóc mục vụ gia đình’ (Familiaris Consortio, 73). Công việc của chư huynh là mạnh mẽ công bố những luận cứ theo đức tin và lý trí thuận lợi cho cơ cấu hôn nhân là cơ cấu được hiểu là một cuộc dấn thân trọn đời giữa một người nam và một người nữ hướng đến việc truyền đạt sự sống. Sứ điệp này cần phải vang vọng nơi dân chúng ngày nay, vì nó chính yếu là một ‘chấp nhận’ vô điều kiện và hoàn toàn cho sự sống, một ‘chấp nhận’ cho những khát vọng ở tâm điểm của chung nhân loại chúng ta, khi chúng ta nỗ lực để hoàn thành niềm mong mỏi sống thân tình với người khác cũng như với Chúa.

Trong số những dấu hiệu phản khắc với Phúc Âm sự sống xuất hiện ở Hòa Kỳ và ở những nơi khác nữa đó là những gì gây ra một nỗi hết sức nhục nhã xấu hổ: việc làm dụng tình dục vị thành niên. Nhiều người trong chư huynh đã nói với tôi về nỗi đớn đau cả thể mà cộng đồng của chư huynh phải chịu khi những vị giáo sĩ đã phản bội những trách nhiệm và nghĩa vụ linh mục của mình bằng hành vi cử chỉ vô luân nặng nề ấy. Khi chư huynh nỗ lực để loại trừ đi sự dữ này ở bất cứ nơi nào xẩy ra, chư huynh cần phải được bảo đảm bởi sự hỗ trợ nguyện cầu của dân Chúa khắp thế giới. Chư huynh thực sự tỏ ra ưu tiên trong việc tỏ ra thương cảm và chăm sóc cho thành phần nạn nhân. Trách nhiệm bởi trời của chư huynh là những vị mục tử là để băng bó những thương đau gây ra bởi mọi thứ rạn nứt về lòng tin tưởng, để bồi dưỡng việc chữa lành, để cổ võ việc hòa giải và để ưu ái vươn tới những ai bị xúc phạm nặng nề.

Vấn đề đáp ứng cho tình trạng này không phải là dễ, và như vị Chủ Tịch của Hội Đồng Giám Mục của chư huynh đã xác nhận, ‘đôi khi thật là khổ sở đương đầu’. Giờ đây, vì cái tầm mức và tính cách trầm trọng của vấn đề được hiểu biết rõ ràng hơn nữa, mà chư huynh đã có thể chú trọng hơn tới những biện pháp chữa trị và kỷ luật cũng như cổ động một môi trường an toàn để bảo vệ hơn cho giới trẻ. Trong khi cần phải nhớ rằng đại đa số giáo sĩ và tu sĩ ở Hoa Kỳ thực hiện việc làm xuất sắc để mang lại sứ điệp giải phóng của Phúc Âm cho dân chúng tin tưởng vào sự chăm sóc của họ, thì vấn đề rất quan trọng ở đây là thành phần bị tổn thương bao giờ cũng bị che giấu đi bởi những kẻ muốn gây tác hại. Về vấn đề này, nỗ lực của chư huynh trong việc chữa lành và bảo vệ đang mang lại nhiều hoa trái chẳng những cho những ai trực tiếp thuộc trách nhiệm chăm sóc mục vụ của chư huynh mà còn cho tất cả xã hội nữa.

Tuy nhiên, để đạt được trọn vẹn mục đích của mình, những chính sách và chương trình được chư huynh phê chuẩn cần phải được đặt vào một bối cảnh rộng lớn hơn. Trẻ em là thành phần đáng được lớn lên theo tầm hiểu biết lành mạnh về tính dục cùng với vị trí thích hợp của nó nơi các mối liên hệ của con người. Chúng cần phải được bao che trước những biểu lộ hạ cấp và việc mạo dụng sống sượng về tình dục quá thịnh hành ngày nay. Chúng có quyền được giáo dục theo những giá trị đích thực về luân lý đối với phẩm vị của con người. Điều này mang chúng ta trở về với việc chúng ta quan tâm đến vai trọ chủ yếu của gia đình và nhu cầu cần phải cổ võ Phúc Âm sự sống. Còn ý nghĩa gì nữa khi nói về việc bảo vệ trẻ em mà hình ảnh khiêu dâm và vấn đề bạo lực lại được nhìn thấy nơi rất nhiều gia đình qua truyền thông rất phổ biến ngày nay? Chúng ta cần phải tái thẩm định một cách khẩn trương những giá trị chống đỡ xã hội ấy, để cống hiến cho cả giới trẻ lẫn người lớn một cuộc huấn luyện lành mạnh về luân lý. Tất cả mọi người đều có trách nhiệm trong công việc này – chẳng những là cha mẹ, các vị lãnh đạo tôn giáo, các thày cô và giáo lý viên, mà còn giới truyền thông và tiêu khiển nữa. Thật vậy, hết mọi phần tử trong xã hội có thể góp phần vào việc canh tân về luân lý và nhận được phúc lợi từ đó. Việc thực sự chăm sóc cho giới trẻ và tương lai cho nền văn minh của chúng ta nghĩa là việc chúng ta nhìn nhận trách nhiệm của mình trong việc cổ võ và sống theo các thứ giá trị đích thực về luân lý là những gì có thể giúp cho con người triển nở mà thôi. Là những vị mục tử theo gương Chúa Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành, chư huynh có trách nhiệm loan báo sứ điệp này cả tiếng và rõ ràng minh bạch, nhờ đó giải quyết tội lạm dụng này trong bối cảnh rộng lớn hơn của những thứ mores về tình dục. Ngoài ra, trong việc nhìn nhận và đương đầu với vấn đề này khi nó xẩy ra ở môi trường của một giáo phận, chư huynh có thể trở thành một người mở đường cho những người khác, vì hoạn nạn này không phải chỉ xẩy ra trong các Giáo Phận của chư huynh mà còn ở hết mọi lãnh vực xã hội nữa. Nó cần đến một đáp ứng chung dứt khoát.

"Việc sâu xa nên giống Chúa Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành, là cốt lõi cho việc thừa tác mục vụ của chúng ta"

 

Cả các vị linh mục nữa cũng cần đến việc hướng dẫn và gần gũi của quí huynh trong lúc khốn khó này. Họ cảm thấy xấu hổ về những gì đã xẩy ra, và có một số cảm thấy họ bị mất đi niềm tin tưởng và trọng kính mà họ đã từng có được. Không phải là ít vị đang cảm thấy gần gũi với Chúa Kitô hơn trong cuộc Khổ Nạn của Người khi họ phải đối chọi để có thể chấm dứt những hậu quả của cuộc khủng hoảng ấy. Là cha, là anh và là bạn đối với thành phần linh mục của mình, Vị Giám mục có thể giúp họ cho họ gặt hái được hoa trái thiêng liêng từ mối hiệp nhất này với Chúa Kitô, bằng việc làm cho họ nhận ra sự hiện diện ủi an của Chúa Kitô giữa nỗi đau khổ của họ, cũng như bằng việc khuyến khích họ hãy bước đi với Chúa Kitô trên con đường hy vọng (x Spe Salvi, 39). Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhận địch 6 năm trước đây là ‘chúng ta cần phải tin tưởng rằng thời gian thử thách này sẽ mang lại việc thanh tẩy toàn thể cộng đồng Công giáo’, dẫn tới ‘một thiên chức linh mục thánh hảo hơn, một hàng giáo phẩm thánh đức hơn và một Giáo Hội thánh thiện hơn’ (Address to the Cardinals of the United States, 23 April 2002, 4). Có nhiều dấu hiệu cho thấy trong giai đoạn can thiệp này đã diễn ra tình trạng thanh tẩy ấy. Việc hiện diện ủi an của Chúa Kitô giữa nỗi đớn đau của chúng ta dần dần đang biến đổi tối tăm của chúng ta thành ánh sáng: tất cả mọi sự thật sự được làm nên mới trong Chúa Giêsu Kitô là niềm hy vọng của chúng ta”. 

 

Ở vào giai đoạn này, phần quan trọng trong công việc của chư huynh là làm kiên cường những mối liên hệ với hàng giáo sĩ của chư huynh, nhất là ở những trường hợp xẩy ra căng thẳng giữa những vị linh mục và giám mục của họ sau cuộc khủng hoảng này. Vấn đề quan trọng ở đây là chư huynh cần phải tiếp tục tỏ cho họ thấy mối quan tâm của chư huynh, tiếp tục nâng đỡ họ, và nêu gương sáng. Nhờ đó chư huynh chắc chắn sẽ giúp họ gặp gỡ vị Thiên Chúa hằng sống, và hướng họ đến với niềm hy vọng biến đổi cuộc đời được Phúc Âm nói tới. Nếu chính chư huynh sống một cách thật giống Chúa Kitô là Mục Tử Nhân Lành, Đấng đã hiến mạng sống mình vì chiên của mình, thì chư huynh sẽ tác động chư huynh linh mục của mình trong việc họ tái dấn thân phục vụ đàn chiên của mình bằng lòng quảng đại như Chúa Kitô. Thật vậy, việc chú trọng rõ ràng hơn nữa trong vấn đề bắt chước Chúa Kitô sống thánh thiện chính là những gì cần thiết để chúng ta tiến lên. Chúng ta cần tái khám phá ra niềm vui sống một cuộc đời có Chúa Kitô làm chủ, van trồng các nhân đức, và dìm mình vào việc cầu nguyện. Khi tín hữu biết rằng vị mục tử của mình là một con người cầu nguyện và dấn thân phục vụ họ thì họ đáp ứng bằng một lòng ân cần và ưu ái là những gì nuôi dưỡng và bảo trì đời sống của cả cộng đồng.

 

 Không bao giờ được bỏ thời gian cầu nguyện, cho dù có bề bộn với đủ thứ phận vụ khẩn trương. Việc tôn thờ Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh là những gì kéo dài và gia tăng mối hiệp nhất với Người từ việc cử hành Thánh Thể (cf. Sacramentum Caritatis, 66). Việc chiêm ngắm các mầu nhiệm Mân Côi là việc làm xuất phát ra tất cả quyền năng cứu độ của những mầu nhiệm này, và việc chiêm ngắm ấy làm cho chúng ta nên giống, hiệp nhất và thánh hiến cho Chúa Giêsu Kitô (cf. Rosarium Virginis Mariae, 11, 15). Việc trung thành với Phụng Vụ Giờ Kinh là những gì bảo đảm rằng tất cả ngày sống của chúng ta được thánh hóa và tiếp tục nhắc nhở chúng ta về việc caân phải tập trung vào việc hoạt động cho công cuộc của Thiên Chúa, cho dù công việc đang làm gây ra đầy những áp đặt và chia trí. Như thế, lòng đạo hạnh của chúng ta giúp cho chúng ta nói năng và tác hành nhân danh Chúa Kitô -  in persona Christi, trong việc giảng dạy, quản trị và thánh hóa tín hữu nhân danh Chúa Giêsu, trong việc mang ơn hòa giải của Người, việc chữa lành của Người và tình yêu thương của Người cho tất cả mọi anh chị em yêu dấu của Người. Việc sâu xa nên giống Chúa Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành, là cốt lõi cho việc thừa tác mục vụ của chúng ta, và nếu chúng ta mở lòng ra trước quyền năng của Thần Linh, bằng việc nguyện cầu, ngài sẽ ban cho chúng ta những tặng ân chúng ta cần để thi hành công việc gay go này, nhờ đó chúng ta không bao giờ được ‘lo lắng về cách thức phải nói và những gì  cần nói’ (Mt 10:19).

 

Để kết thúc nhng li tôi ngỏ cùng chư huynh tối hôm nay, tôi xin trao phó Giáo Hội ở xứ sở của chư huynh đặc bit cho vic chăm sóc từ mẫu và li chuyn cu ca Mẹ Maria Vô Nhiễm, Vị Quan Thày của Hip Chng Quc. Chớ gì Mẹ là Vị đã cưu mang trong cung lòng Mẹ niềm hy vng ca tt cả mọi quc gia chuyn cu cho nhân dân ca xứ sở này, nhờ đó tt cả mọi người được canh tân trong Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ. Chư Huynh Giám Mục thân mến, tôi ha vi tng người trong chư huynh hiện din nơi đây mi thân tình sâu xa ca tôi cùng vi vic tôi tham phn vào nhng quan tâm mục vụ của chư huynh. Tôi thân ái ban Phép Lành Tòa Thánh của tôi cho tt cả chư huynh cũng như cho hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân của chư huynh, như một bo chng ca nim vui và an bình trong Chúa Phc Sinh.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện tốn tồn cầu của Tịa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2008/april/documents/hf_ben-xvi_spe_20080416_bishops-usa_en.html
(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

TOP

 

Diễn Từ ngỏ Tổng Thống Hoa Kỳ ở Tòa Bạch Ốc Thứ Tư 16/4/2008

Thưa Tổng Thống,

Xin cám ơn ông về những lời lẽ ông thay cho nhân dân Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ ưu ái chào mừng tôi.Tôi hết lòng cám ơn việc ông mời mọc tới thăm xứ sở lớn lao này. Việc viếng thăm của tôi trùng hợp với một thời điểm quan trọng nơi đời sống của cộng đồng Công Giáo ở Hoa Kỳ, đó là việc mừng kỷ niệm 200 việc nâng Giáo Phận đầu tiên của xứ sở này là Baltimore lên thành một giáo tỉnh Tổng Giáo Phận, và việc thiết lập những Giáo Phận Nữu Ước, Boston, Philadelphia và Louisville. Tuy nhiên, tôi cảm thấy hân hoan ở nơi đây như là một vị khách của toàn thể nhân dân Hoa Kỳ. Tôi đến như là một người bạn, một người rao giảng Phúc Âm và là một người hết sức trân trọng xã hội thật đa dạng này. Những người Công Giáo của Hoa Kỳ đã thực hiện và tiếp tục thực hiện việc góp phần tuyệt hảo vào đời sống nơi xứ sở của họ. Để bắt đầu chuyến viếng thăm của mình, tôi tin tưởng là việc hiện diện của tôi sẽ là một mạch nguồn canh tân và hy vọng cho Giáo Hội ở Hiệp Chủng Quốc, và kiên cường quyết tâm của người Công Giáo trong việc đóng góp một cách hữu trách hơn bao giờ hết vào đời sống của đất nước mà họ cảm thấy hãnh điện được làm công dân này.

Từ lúc rạng đông của nền Cộng Hòa này, việc người Hoa Kỳ tìm kiếm tự do đã được hướng dẫn bởi niềm xác tín là những nguyên tắc chi phối đời sống chính trị và xã hội là những gì sâu xa gắn liền với một lãnh vực về luân lý dựa trên việc thống trị của Vị Thiên Chúa Hóa Công. Những vị hình thành nên các văn kiện nền tảng của quốc gia này đã rút ra từ niềm xác tín này khi họ công bố ‘sự thật hiển nhiên’ là hết mọi người được dựng nên bình đẳng và được phú cho những quyền lợi bất khả tước đoạt bắt nguồn từ luật lệ tự nhiên cũng như từ Vị Thiên Chúa của thiên nhiên.

Tiến trình của lịch sử Hoa Kỳ cho thấy những cái khó khăn, những cuộc tranh đấu, và việc quyết tâm lớn lao về tri thức cũng như về luân lý cần thiết để hình thành một xã hội trung thành hiện thực những nguyên tắc cao quí ấy. Trong tiến trình này, một tiến trình đã khuôn đúc linh hồn của xứ sở này, các niềm tin về tôn giáo đã liên lỉ là một khởi động và là thứ lực đẩy, chẳng hạn như trong cuộc tranh đấu chống tình trạng nô lệ cũng như trong phong trào các quyền lợi về dân sự. Cả ở trong thời đại của chúng ta nữa, nhất là trong những lúc khủng hoảng, nhân dân Hoa Kỳ tiếp tục tìm thấy sức mạnh của mình nơi cuộc dấn thân cho gia sản của những lý tưởng và khát vọng chung này.

Trong mấy ngày tới đây, tôi mong được gặp gỡ chẳng những cộng đồng Công Giáo ở Hoa Kỳ, mà với cả các cộng đồng Kitô hữu khác cùng với những vị đại diện của nhiều truyền thống tôn giáo hiện diện ở xứ sở này. Theo lịch sử thì chẳng những người Công Giáo, mà là tất cả mọi tín hữu đã được hoan hưởng ở nơi đây quyền tự do tôn thờ Thiên Chúa hợp với tiếng gọi của lương tâm mình, đồng thời lại còn được chấp nhận như là một phần của toàn khối nhân dân, trong đó, mỗi cá nhân và nhóm hội đều có thể góp tiếng nói của mình. Đang khi quốc gia này đương đầu đối diện với những vấn đề phức tạp về chính trị và đạo lý thuộc thời đại của chúng ta đây, tôi tin tưởng rằng nhân dân Hoa Kỳ sẽ tìm thấy nơi những niềm tin tưởng đạo giáo của mình một nguồn minh thức quí báu và một niềm hứng khởi để theo đuổi thực hiện cuộc đối thoại hợp lý, hữu trách và trân  trọng để cố gắng xây dựng một xã hội nhân bản và tự do hơn.

Tự do không những là một tặng ân, mà còn là một lời kêu gọi trách nhiệm cá nhân. Nhân dân Hoa Kỳ đã biết được điều này qua kinh nghiệm của mình – hầu như ở hết mọi tỉnh thành của xứ sở này đều có những tượng đài để tôn vinh những ai hy hiến mạng sống mình để bênh vực tự do, cả ở quốc nội lẫn hải ngoại. Việc bảo trì tự do ấy cần đến việc vun trồng nhân đức, tự chế, hy sinh cho công ích và cảm thức trách nhiệm đối với thành phần bất hạnh kém may mắn. Nó cũng đòi phải can đảm để tham gia vào sinh hoạt dân sự cũng như để mang những niềm tin cùng với những giá sâu xa nhất của mình vào cuộc tranh luận hợp lý chung. Tóm lại, tự do là những gì luôn mới mẻ. Nó là một thách đố đối với mỗi một thế hệ, và nó cần phải được liên lỉ phục vụ cho thiện ích (x Spe Salvi, 24). Ít người đã hiểu được điều này rõ ràng như Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Khi chia sẻ về cuộc chiến thắng thiêng liêng của tự do trên chủ nghĩa chuyên  chế độc tài ở quê hương Balan của mình cũng như ở Đông Âu, ngài đã nhắc nhở chúng ta rằng lịch sử cho thấy đi thấy lại rằng ‘trong một thế giới không có chân  lý thì tự do mất gốc của mình’, và một nền dân chủ phi các thứ giá trị thì mất đi chính hồn sống của mình (cf. Centesimus Annus, 46). Những lời lẽ ngôn sứ này ở một nghĩa nào đó âm vang niềm xác tín của Tổng Thống Washington được diễn tả trong Bài Từ Biệt của ông, đó là tôn giáo và luân lý là những gì tiêu biểu cho ‘những gì hỗ trợ bất khả thiếu’ cho tình trạng thịnh vượng về chính trị.

Về phần mình, Giáo Hội muốn đóng góp vào việc xây dựng một thế giới xứng đáng hơn bao giờ hết với con người được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa (x Gen 1:26-27). Giáo Hội thâm tín rằng đức tin là những gì chiếu giãi  ánh sáng mới trên tất cả mọi sự, và Phúc Âm là những gì tỏ cho thấy ơn gọi cao cả và định mệnh cao quí của hết mọi con người nam nữ (x Gaudium et Spes, 10). Đức tin cũng hiến cho chúng ta sức mạnh để đáp ứng ơn gọi cao cả của chúng ta, cũng như cống hiến cho chúng ta niềm hy vọng làm cho chúng ta phấn khởi hoạt động cho một xã hội công chính và huynh đệ hơn bao giờ hết. Nền dân chủ chỉ có thể nẩy nở, như các vị cha ông thành lập của anh chị em đã nhận thức, khi các nhà lãnh đạo chính trị và những ai họ đại diện được hướng dẫn bởi chân lý và áp dụng đức khôn ngoan xuất phát từ nguyên tắc luân lý vững chắc vào những quyết định ảnh hưởng tới đời sống và tương lai của quốc gia này.

Hơn một thế kỷ nay, Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã đóng một vai trò quan trọng trong cộng đồng quốc tế. Vào Thứ Sáu này, nếu Thiên Chúa muốn, tôi sẽ được hân hạnh ngỏ lời cùng Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, nơi tôi hy vọng phấn khích các nỗ lực đang được thực hiện để làm cho cơ cấu này trở thành một tiếng nói hiệu nghiệm hơn bao giờ hết đối với những khát vọng hợp lý của tất cả mọi dân tộc trên thế giới. Vào dịp mừng kỷ niệm 60 năm Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền, thì việc cần phải đoàn kết toàn cầu là những gì khẩn trương hơn bao giờ hết, nếu tất cả mọi người được sống xứng với nhân phẩm của mình – như anh chị em ở trong cùng một nhà và vây quanh cùng một bàn được lòng lành Thiên Chúa dọn ra cho tất cả mọi người con cái của Ngài. Người Hoa Kỳ có truyền thống tỏ lòng quảng đại trong việc đáp ứng những nhu cầu khẩn trương của con người, nâng dỡ việc phát triển và thực hiện việc cứu trợ các nạn nhân của thiên tai. Tôi tin rằng mối quan tâm cho đại gia đình nhân loại này sẽ tiếp tục được bày tỏ trong việc hỗ trợ những nỗ lực nhẫn nại của việc ngoại giao quốc tế để giải quyết những cuộc xung đột và cổ võ tình trạng tiến bộ. Có thế, những thế hệ mai hậu mới có thể sống trong một thế giới là nơi sự thật, tự do và công lý được triển nở – một thế giới mà phẩm vị Trời ban cùng với những quyền lợi của hết mọi con người nam nữ và trẻ em được quí chuộng, bảo vệ và tăng tiến một cách tốt đẹp.

Thưa Tổng Thống, các bạn thân mến: để bắt đầu cuộc viếng thăm Hiệp Chủng Quốc của tôi, một lần nữa tôi xin bày tỏ lòng tri ân về lời mời của ông, về niềm vui của tôi được ở giữa các bạn, và về những lời cầu nguyện thiết tha của tôi xin Thiên Chúa Toàn Năng củng cố quốc gia này và nhân dân của nó bằng những đường lối công chính, thịnh vượng và an bình. Xin Chúa chúc phúc cho Hoa Kỳ! 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2008/april/documents/hf_ben-xvi_spe_20080416_welcome-washington_en.html

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

TOP

 

 

Tổng Thống Bush Ngỏ Lời Chào Mừng Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Thứ Tư 16/4/2008

 

Trọng Kính Đức Thánh Cha, Laura và tôi được diễm hạnh đón tiếp ngài ở Tòa Bạch Ốc này. Chúng tôi chào mừng ngài bằng những lời xưa được Thánh Âu Quốc Tinh yêu thích, đó là “Pax Tecum”. Bình an ở cùng ngài.

 

Ngài đã muốn viếng thăm Hoa Kỳ vào dịp sinh nhật của ngài. Mà những ngày sinh nhật theo truyền thống là những dịp sống với bạn bè thân thiết của mình, bởi thế cả quốc gia của chúng tôi cảm kích và hân hạnh ngài đã quyết định chia sẻ ngày này với chúng tôi. Chúng tôi chúc ngài được dồi dào sức khỏe và hạnh phúc – hôm nay và nhiều năm tới. (vỗ tay).

 

Đây là chuyến bay đầu tiên của ngài đến Hiệp Chủng Quốc tuư khi ngài lên Ngai Tòa Thánh Phêrô. Ngài sẽ viếng thăm hai trong những thành phố lớn nhất của chúng tôi và gặp gỡ vô số người Hoa Kỳ, bao gồm nhiều người đến từ khắp đất nước này để được nhìn thấy ngài và thông phần vào niềm vui của chuyến viếng thăm này.

 

Ở Hoa Kỳ đây, ngài sẽ thấy một quốc gia của nguyện cầu. Mỗi ngày hằng triệu người công dân của chúng tôi tiến đến với Đấng Tạo Dựng trên hai đầu gối của mình, tìm kiếm ân sủng của ngài và tạ ơn về nhiều tặng ân Người đã ban cho chúng tôi. Hằng triệu người Mỹ vẫn cầu nguyện cho chuyến viếng thăm này của ngài, và hằng triệu người Mỹ mong đưoơc cầu nguyện với ngài trong tuần này.

 

Ở Hoa Kỳ này ngài sẽ thấy một quốc gia của lòng thương cảm. Những người Hoa Kỳ tin rằng tầm vóc của một xã hội tự do đó là việc làm sao chúng ta biết đối xử với thành phần hèn kém nhất và dễ bị tổn thương nhất. Bởi thế mà mỗi ngày nhiều người công dân khắp đất nước Hoa Kỳ đáp ứng tiếng gọi chung trong việc chăm nuôi kẻ đói khổ và an ủi kẻ yếu đau và chăm sóc cho kẻ bệnh nạn. Hằng ngày khắp nơi trên thế giới Hiệp Chủng Quốc đang làm việc để nhổ tận gốc rễ bệnh nạn, làm giảm bớt tình trạng nghèo khổ, cổ vỏ hòa bình và mang ánh sáng hy vọng đến cho những nơi vẫn còn bị chìm trong tối tăm bạo tàn và thất vọng.

 

Ở Hoa Kỳ đây ngài sẽ thấy một quốc gia đón nhận vai trò của đức tin một cách công khai. Khi những vị lập quốc của chúng tôi tuyên bố quốc gia của chúng tôi độc lập thì các vị đã lên tiếng kêu gọi theo “lề luật tự nhiên, cũng như lề luật của Thiên Chúa”. Chúng tôi tin vào quyền  tự do tôn giáo. Chúng tôi cũng tin rằng lòng yêu thích tự do và lề luật luân lý chung được in ấn nơi hết mọi tâm can con người, và những điều ấy tạo nên nền tảng vững chắc cho bất cứ một xã hội tự do thành đạt nào.

 

Ở Hoa Kỳ đây, ngài sẽ thấy một quốc gia hoàn toàn tân tiến, tuy nhiên lại là một quốc gia được hướng dẫn bởi những chân lý cổ kính và vĩnh hằng. Hiệp Chủng Quốc là một xứ sở mới mẻ nhất, sáng tạo nhất và năng động nhất trên trái đất này – nó cũng là một quốc gia đạo nghĩa nhất nữa. Trong quốc gia của chúng tôi, đức tin và lý trí cùng nhau đồng hành sánh bước. Đó là một trong những điểm mạnh nhất của xứ sở chúng tôi, và một trong những lý do khiến cho đất nước chúng tôi vẫn là hải đăng hy vọng và là mảng đất cơ hội cho hằng triệu người trên khắp thế giới.

 

Trọng kính Đức Thánh Cha, trên hết, ngài sẽ thấy nơi nhân dân Hoa Kỳ trái tim rộng mở trước sứ điệp hy vọng của ngài. Hoa Kỳ và thế giới cần đến sứ điệp này.

 

Trong một thế giới là nơi đang có một số người nhân danh Thiên Chúa để biện minh cho những hành động khủng bố, sát hại và hận thù của mình, chúng tôi cần đến sứ điệp ‘Thiên Chúa là tình yêu’ của ngài. Và viiệc chấp nhận tình yêu này là con đường vững chắc nhất để cứu con người khỏi “trở thành mồi ngon cho giáo huấn của chủ nghĩa cuồng tín và khủng bố”.

 

Trong một thế giới là nơi đang có một số người coi sự sống như một cái gì đê hèn và sa thải, chúng tôi cần đến sứ điệp ngài nói rằng tất cả mọi sự sống của con người là linh thánh, và “mỗi một người trong chúng ta đều được ước muốn, mỗi người chúng ta đều được yêu thương” – (vỗ tay) – và sứ điệp ngài nói rằng “mỗi một người trong chúng ta đều được ước muốn, mỗi một người trong chúng ta đều được yêu thương, mỗi một người trong chúng ta đều cần thiết”.

 

Trong một thế giới là nơi đang có một số người tin rằng chúng ta có thể dễ dàng phân biệt giữa đúng và sai, chúng tôi cần đến sứ điệp của ngài để loại trừ ‘cái độc tài của chủ nghĩa tương đối’ này, mà theo đuổi một nền văn hóa của công lý và chân lý. (vỗ tay).

 

Trong một thế giới là nơi đang có một số người coi tự do thuần túy như là một quyền lợi để làm những gì họ muốn, chúng tôi cần đến sứ điệp của ngài là tự do đích thực đòi chúng ta phải sống tự do của mình không phải chỉ cho bản thân mình mà ‘trong một tinh thần hỗ tương’.

 

Trọng kính Đức Thánh Cha, xin cám ơn ngài về việc thực hiện cuộc hành trình đến Hoa Kỳ đây. Quốc gia của chúng tôi chào mừng ngài. Chúng tôi cảm nhận tấm gương ngài tỏ cho thế giới thấy, và chúng tôi xin ngài luôn cầu nguyện cho chúng tôi. (vỗ tay).



 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/4/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

TOP

 

 

Sứ Điệp gửi Nhân Dân Hiệp Chủng Quốc về Cuộc Viếng Thăm Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước Hoa Kỳ 15-20/4/2008

 

Anh Chị Em thân mến ở Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ,

 

Xin ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha của chúng ta ờ cùng tất cả anh chị em! Chỉ trong vài ngày nữa, tôi sẽ bắt đầu chuyến tông du tới xứ sở thân yêu của anh chị em. Trước khi lên đường, tôi xin gửi đến anh chị em lời chào thân ái của tôi và lời mời gọi cầu nguyện. Như anh chị em biết, tôi sẽ chỉ có thể viếng thăm 2 thành phố là Hoa Thịnh Đốn và Nữu Ước. Ý hướng sâu xa của việc tôi viếng thăm mặc dù thiêng liêng hướng tới tất cả mọi người Công Giáo ở Hiệp Chủng Quốc. Đồng thời tôi cũng thiết tha hy vọng rằng sự hiện diện của tôi nơi anh chị em sẽ được thấy như là một cử chỉ huynh đệ đối với mọi cộng đồng Kitô hữu, và là dấu hiệu của tình thân hữu đối với các phần tử thuộc những truyền thống tôn giáo khác cũng như đối với tất cả mọi người nam nữ thiện tâm. Chúa Kitô Phục Sinh đã ủy thác cho các Tông Đồ và Giáo Hội Phúc Âm yêu thương và bình an của Người, và ý nguyện  của Người khi làm như thế là để sứ điệp này được truyền đạt cho tất cả mọi dân nước.

 

Về vấn đề này tôi muốn thêm vào những lời lẽ cám ơn, vì tôi biết rằng nhiều người đang vất vả làm việc lâu dài, cả trong nội bộ Giáo Hội cũng như nơi các dịch vụ công cộng, để sửa soạn cho cuộc hành trình của tôi. Tôi đặc biệt tri ân tất cả những ai đang cầu nguyện cho việc thà nh đạt của chuyến viếng thăm này, vì cầu nguyện là yếu tố quan trọng nhất trong tất cả mọi yếu tố. Các bạn thân mến , tôi nói điều này là vì tôi xác tín rằng không có quyền lực của lời cầu nguyện, không có việc thân mật hiệp nhất cới Chúa, thì nỗ lực loài người của chúng ta sẽ đạt được rất ít ỏi. Thật thế, đó là những gì đức tin của chúng ta dạy cho chúng ta biết. Chính Thiên Chúa là Đấng cứu độ chúng ta, Ngài cứu độ thế giới và toàn thể lịch sử. Ngài là Vị Mục Tử của dân Ngài. Tôi được Chúa Giêsu sai đến để mang lại cho anh chị em lời sự sống của Người.

 

Cùng với các vị Giám Mục của anh chị em, tôi đã chọn đề tài cho cuộc hành trình của tôi ba lời giản dị nhưng thiết yếu, đó là “Chúa Kitô là Niềm Hy Vọng của chúng ta” (Christ our hope). Theo chân của các vị tiền nhiệm khả kính của mình là Đức Phaolô VI và Gioan Phaolô II, tôi sẽ đến Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ với tư cách là Giáo Hoàng lần đều tiên, để loan báo sự thật cao cả này: Chúa Kitô là niềm hy vọng cho con người nam nữ thuoôc mọi ngôn ngữ, chủng tộc, văn hóa và thân phận xã hội. Phải, Chúa Kitô là dung nhan của Thiên Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Nhờ Người, đời sống của chúng ta tiến đến chỗ viên trọn, và cùng nhau, cả cá nhân  lẫn chư dân, chúng ta có thể trở thành một gia đình đưoơc liên kết với nhau bằng tình yêu huynh đệ, theo dự án đời đời của Thiên Chúa là Cha. Tôi biết rằng sứ điệp Phúc Âm đã sâu xa cắm rễ nơi xứ sở của anh chị em. Tôi đến để chia sẻ với anh chị em, qua một loạt những cuộc cử hành và gặp gỡ. Tôi cũng mang sứ điệp của niềm hy vọng Kitô Giáo cho đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, cho các vị đại diện của tất cả mọi dân tộc trên thế giới.

 

Thật vậy, thế giới rất cần đến niềm hy vọng hơn bao giờ hết: niềm hy vọng được hòa bình, công lý và tự do, thế nhưng, niềm hy vọng này không thể nên  trọn nếu không biết tuân theo lề luật của Thiên Chúa, một lề luật được Chúa Kitô hoàn trọn nơi giới luật yêu thương nhau. Hãy làm cho người khác những gì anh chị em muốn họ làm cho anh chị em, và tránh làm những gì an h chị em không muốn họ làm. “Luật vàng” này được Thánh Kinh nói tới, thế nhưng nó có giá trị với tất cả mọi người, bao gồm cả những người vô tín ngưỡng. Nó là thứ luật được viết trên tâm can của con người; tất cả chúng ta đều đồng ý về điều ấy, nhờ đó khi chúng ta cần phải giải quyết các vấn đề khác, chúng ta có thể làm như vậy một cách tích cực và xây dựng cho toàn thể cộng đồng nhân loại.

 

Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.

 

Biển Đức XVI

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 8/4/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng) 

 

 

TOP

 

 

Dư Luận và Cảm Nghĩ của dân chúng Hoa Kỳ về ĐTC Biển Đức XVI trước chuyến tông du của ngài

 

 

Thành quả của cuộc thăm dò được thực hiện bởi Maris College Institute for Public Opinion được phổ biến hôm 25/3 cho thấy:

 

65% có thiện cảm với Giáo Hội Công Giáo và 28% tỏ ra nhận định tiêu cực về giáo hội này.

 

42% cho biết họ sẽ tham dự một trong những cuộc xuất hiện của ĐTC và 66% Công Giáo cho biết họ sẽ tham dự 1 trong những biến cố của ngài.

 

70% hay hơn muốn nghe ĐTC nói về việc để cho Thiên Chúa tham dự vào đời sống của mình (73%), tìm kiếm tầm vóc viên trọn thiêng liêng bằng việc chia sẻ thời giờ và tài năng (71%) và làm sao họ có thể thực hiện những gì khác biệt tích cực trên thế giới, ở quốc gia và trong các cộng đồng (70%). Gần 2/3 (64%) bày tỏ ý muốn nghe ngài nói làm sao họ có thể có một xã hội mà trong đó những giá trị thiêng liêng đóng một vai trò quan trọng.

 

Ngoài ra, còn một cuộc thăm dò nữa được thực hiện vào Tháng 2/2008 bởi the Center for Applied Research in the Apostolate có trụ sở ở Đại Học Georgetown cho thấy thành quả nghiên cứu với 1,007 người Công Giáo là hơn 8 trong 10 người Công Giáo Hoa Kỳ hài lòng với vai trò lãnh đạo của Đức Thánh Cha.

 

 

TOP

Tổng Thống Bush nói về Cuộc Viếng thăm của ngài

 

 

Sau đây là cuộc phỏng vấn của phóng viên Đài Truyền Hình EWTN Raymond Arroyo với Tổng Thống Bush hôm Thứ Sáu mgày 11/4/2008.

 

Vấn: Thưa Tổng Thống, đây là vị lãnh đạo đầu tiên của một quốc gia, tức Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI, mà Tổng Thống sẽ chào mừng ở trên một sân bay. Tôi cảm thấy giật mình khi biết được điều này. Tại sao Tổng Thống đến chào mừng ngài ở một bãi đáp chứ? Thường thì các vị lãnh đạo quốc gia đến đây mà. 

 

Đáp: Vì ngài thật sự là một nhân vật quan trọng mang nhiều ý nghĩa. Thứ nhất là ngài nói với hằng triệu triệu con người ta. Thứ hai là ngài không đến như là một chính trị gia; ngài đến như là một con người của niềm tin. Và thứ ba, tôi rất đồng ý với quan niệm của ngài là trong vấn đề đúng sai trong đời sống thì chủ nghĩa tương đối về luân lý là những gì nguy hiểm làm suy yếu khả năng để có được những xã hội tốt đẹp và tự do hơn, nên tôi muốn trân trọng những xác tín ấy của ngài nữa.

 

Vấn: Tôi nghe nói là Tổng Thống đã đọc tác phẩm của ngài về Âu Châu thì phải.

 

Đáp: Đúng thế, tôi đã đọc những phần của cuốn sách này.

 

Vấn: Tổng Thống nói chung nghĩ sao về việc ngài thẩm định về Âu Châu và thế giới? Và tại sao mối liên hệ giữa Hiệp Chủng Quốc với Tòa Thánh này lại rất quan trọng đối với Tổng Thống?

 

Đáp: Trước hết nó quan trọng đối với tôi là vì  Đức Thánh Cha là tiêu biểu và chủ trương một số giá trị mà tôi nghĩ là quan trọng cho tính chất lành mạnh của xứ sở này, và khi ngài đến Hoa Kỳ thì hằng triệu triệu đồng bào của tôi sẽ lắng nghe lời của ngài. Và đó là lý do tại sao nó quan trọng. Tôi thực sự không muốn đi sâu vào vấn đề – bỏ giờ ra nhận định về Âu Châu. Mục tiêu chính của tôi đó là làm sao bảo đảm được rằng xứ sở của chúng ta là một quốc gia hùng cường, vững chắc và tiếp tục đóng vai trò lãnh đạo. Một trong những xác tín của tôi về chính sách ngoại giao đó là có một Đấng Toàn Năng, và điều Đấng Toàn Năng này ban cho hết mọi con người nam nữ và trẻ em đó là tự do. Và quí vị cũng biết rằng Đức Thánh Cha nói rất rõ ràng về điều ấy. Như quí vị biết tôi cũng là một người chấp nhận giá trị về sự sống của con người, một sự sống như quí vị thấy, là những gì bị tổn thương nhất nơi chúng ta. Và ngài nói rõ ràng về vấn đề này nữa. 

 

Vấn: Phải, tôi muốn nói về vấn đề này một chút sau này, vì Tổng Thống – như ông rõ đấy, ngài đã khen ngợi và chắc chắn ngài còn lập lại, vì Tổng Thống rất cương quyết với các vấn đề phò sự sống. Tôi muốn nói tới một số vấn đề mà chắc chắn được ngài nêu lên. Một trong những vấn đề này là Phi Châu. Tôi đã rất hào hứng theo dõi chuyến viếng thăm của Tổng Thống ở Phi Châu. Tổng Thống giống như Đức Giáo Hoàng ở Tanzania khi Tổng Thống tới đó. (cười). Tôi có ý nói là cả thành phố bừng nở. Tôi không nghĩ rằng dân chúng đã cống hiến cho Tổng Thống chỉ là những món tráng miệng hay lời khen về những gì Tổng Thống làm ở đó. Tổng Thống đã tăng gấp 4 lần mức viện trợ cho Phi Châu. Dự Án Tổng Thống Cứu Trợ Hội Chứng Liệt Kháng của Tổng Thống hiện nay đang chữa trị cho 1.4 triệu người. Việc chữa trị bệnh sốt rét là những gì không thể nào ngờ được – khoảng 50 triệu người hiện nay đang được giúp đỡ. Khi Tổng Thống nhìn đến việc này – tôi được một nhóm người đến đây gặp Tổng Thống ở Tòa Bạch Ốc, Tổng Thống đã nói rằng ai được ban nhiều thì cũng bị đòi nhiều. Phải chăng có một động lực thúc bách về đức tin ở đây theo phương diện cá nhân?

 

Đáp: Chắc chắn là thế.

 

Vấn: Phải chăng bằng việc hỗ trợ ấy?

 

Đáp: Nó là một liên kết giữa niềm tin và việc thực hành. Theo quan điểm về thực hành, đối với thành phần ý hệ nhân sát hại kẻ vô tội thì niềm vô vọng là cách duy nhất để có thể tuyển mộ những kẻ theo mình. Không ai có một nhãn quan tối tăm mù mịt như nhóm al Qaeda lại có thể nói với một người nào đó rằng hãy theo tôi, vì nhãn quan của tôi là những gì hy vọng hay tích cực. Khi quí vị ở vào tình trạng quá vô vọng thì dường như đó là lối thoát duy nhất của quí vị. Bởi thế mà việc giải quyết vấn đề bệnh tật và đói khổ cùng trạng thái thất vọng là những gì giúp vào vấn đề khống chế được tình trạng vô vọng ấy – chế ngự được cả khối thành phần ý hệ nhân. Thế rồi, thứ đến, tôi tin rằng vì lợi ích chung riêng của mình chúng ta cần phải sử dụng những ân phúc cao cả của chúng ta để giúp đỡ kẻ khác, dù là quốc nội hay quốc ngoại. Đó là lý do một trong những gì tôi tin tưởng đó là “ai được ban cho nhiều thì bị đòi hỏi nhiều”. Và tôi luôn nói với dân chúng rằng nó vì ích lợi của quốc gia chúng tôi – vì ích lợi về luân lý chúng tôi. Linh hồn của chúng ta cảm thấy kiêm cường khi biết rằng chúng ta đã cứu được một em bé có thể bị chết bởi bị muỗi cắn. Tôi đang mong nói chuyện với Đức Thánh Cha, và tôi sẽ nhắc nhở ngài đó không phải là chuyện của George W. Bush này; đó là chuyện của Hoa Kỳ. Đó là những gì sáng giá nhất ở Hoa Kỳ. Thế nhưng, đúng thật là ngỡ ngàng khi thấy được những người công dân tỏ ra hết sức cảm phục vì chúng ta – với chúng ta – hay về chúng ta. 

 

Vấn: Chúng ta hãy nói qua về Iraq. Đức Giáo Hoàng chắc chắn sẽ đề cập tới vấn đề này.

 

Đáp: Chắc chắn rồi.

 

(còn tiếp)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 13/4/2008

 

TOP