III
NỘI DUNG CỦA VIỆC TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA
25. Nội Dung Chính Yếu và các Yếu Tố Phụ Thuộc
Nơi sứ điệp Giáo Hội loan báo chắc chắn có nhiều yếu tố phụ thuộc. Việc trình bày về chúng lệ thuộc rất nhiều vào những hoàn cảnh đổi thay. Tự chúng cũng thay đổi nữa. Thế nhưng, dầu sao vẫn có một nội dung chính yếu, một bản chất sống động, là những gì không thể điều chỉnh hay bỏ qua mà không làm cho bản chất của chính việc truyền bá phúc âm hóa bị loãng nhạt một cách trầm trọng.
26. Làm Chứng cho Tình Yêu của Chúa Cha
Cũng không phải là dư thừa khi nhớ lại những điều sau đây: Truyền bá phúc âm hoá trước hết là việc làm chứng, bằng một đường lối đơn thành và trực tiếp, cho Thiên Chúa được mạc khải nơi Chúa Giêsu Kitô trong Chúa Thánh Linh; là làm chứng rằng, nơi Con của Ngài, Thiên Chúa đã yêu thương thế gian - rằng nơi Lời Nhập Thể, Ngài đã ban tất cả mọi sự và đã kêu gọi con người đến sự sống đời đời. Chứng cớ về Thiên Chúa này, đối với nhiều người, có lẽ Ngài vẫn còn là một vị Thiên Chúa vô danh (x.Acts 17:22-23), Đấng mà họ tôn thờ chẳng có danh tánh gì cả, hay cũng là Đấng họ tìm kiếm theo tiếng gọi âm thầm của con tim, khi họ cảm thấy cái rỗng không nơi các thần tượng. Thế nhưng, việc truyền bá phúc âm hóa trọn vẹn ở nơi việc biểu lộ sự kiện là, đối với con người, Đấng Hóa Công không phải là một quyền lực vô danh và xa vời nào đó; Ngài là một Người Cha: "... mà chúng ta được gọi là con cái của Thiên Chúa; và chúng ta thực sự là thế" (1Jn.3:1; x.Rm.8:14-17). Như vậy thì chúng ta là anh chị em của nhau trong Thiên Chúa.
27. Ơn Cứu Độ nơi Chúa Kitô là Cốt Lõi của Sứ Điệp
Việc truyền bá phúc âm hóa cũng sẽ luôn luôn chất chứa - như nền tảng, trọng tâm và đồng thời cũng là tột đỉnh cơ cấu của nó - một loan báo minh nhiên là, nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết và sống lại từ trong kẻ chết, ơn cứu độ được hiến ban cho tất cả mọi người như một tặng vật của ân sủng và tình thương Thiên Chúa (x.Eph.2:8; Rm.1:16...). Không phải là một ơn cứu độ sẵn có, đáp ứng những nhu cầu thể chất hay ngay cả nhu cầu tâm linh, hạn hữu trong một hoàn cảnh hiện hữu tạm bợ và hoàn toàn đồng nhất với những ước ao, hy vọng, công cuộc và đấu tranh trần thế, mà là một ơn cứu độ vượt trên tất cả mọi giới hạn này, để tiến đến mức hoàn trọn trong sự hiệp thông với Đấng Tối Cao thần linh duy nhất: một ơn cứu độ siêu việt và cánh chung, được khởi sự ở đời này song được nên trọn ở đời đời.
28. Qua Dấu Chỉ Hy Vọng
Như thế, việc truyền bá phúc âm hóa không gồm tóm một cái gì khác ngoài việc loan báo hướng về đời sau, một tiếng gọi tối hậu và sâu xa của con người, trong cả mối liên tục cũng như bất liên tục với hoàn cảnh hiện tại: vượt ra ngoài thời gian và lịch sử, ra ngoài thực tại chuyển tiếp của thế giới này, và ra ngoài cả những sự vật của thế giới này, của một thế giới mà chiều kích sâu nhiệm một ngày kia sẽ được tỏ hiện - ra ngoài chính con người mà định mệnh chân thực của họ không bị hạn chế vào phương diện trần thế của họ, trái lại sẽ được tỏ hiện trong một cuộc sống mai hậu (x.1Jn.3:2; Rm.8:29; Phil.3:20-21...). Thế nên, truyền bá phúc âm hóa cũng gồm tóm cả việc rao giảng về một niềm hy vọng nơi những gì Thiên Chúa hứa hẹn ở Giao Ước mới trong Chúa Giêsu Kitô; việc rao giảng về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta và tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa; việc rao giảng về tình yêu huynh đệ đối với tất cả mọi người - một khả năng của ban phát và thứ tha, của bỏ mình, của giúp đáp anh chị em mình - một tình yêu, xuất phát từ tình yêu Thiên Chúa, là mầm mống của Phúc Âm; việc rao giảng về mầu nhiệm sự dữ và về sự chủ động tìm kiếm sự thiện. Cũng thế, việc rao giảng về cuộc tìm kiếm Chính Thiên Chúa - đây là một việc luôn luôn khẩn trương - qua nguyện cầu, với tác động thiết yếu là tôn thờ và tạ ơn, mà còn qua cả việc hiệp thông với dấu hiệu hữu hình là Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô để gặp gỡ Thiên Chúa; và cuộc hiệp thông này, về phần nó, được diễn đạt bằng việc ứng dụng những dấu hiệu khác của Chúa Kitô sống động và tác hành trong Giáo Hội đó là các bí tích. Để sống các bí tích như thế, làm cho việc cử hành các bí tích này được thực sự nên trọn, thì không phải là, như có một số người chủ trương, làm ngăn trở hay chấp nhận một cái gì sai trệch với việc truyền bá phúc âm hóa: trái lại nó làm hoàn tất việc truyền bá phúc âm hóa. Bởi vì, xét theo toàn diện, việc truyền bá phúc âm hóa - trước hết là việc rao giảng một sứ điệp - bao gồm việc trồng cấy Giáo Hội, một Giáo Hội hiện hữu không thể nào thiếu được động lực là đời sống bí tích, lên đến tuyệt đỉnh nơi Bí Tích Thánh Thể (x.Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, Declaraio circa Catholicam Doctrinam de Ecclisia contra ninnullos errores hodiernos tuendam, 6-24-1973: AAS 65, pp, 396-408).
29. Sứ Điệp Tác Dụng Đời Sống Con Người
Thế nhưng, việc truyền bá phúc âm hóa sẽ không hoàn toàn, nếu nó không nhắm đến việc liên lỉ giao kết giữa Phúc Âm và cuộc sống thực tiễn của con người, cả về phương diện cá nhân cũng như cộng đồng. Đây là lý do tại sao việc truyền bá phúc âm hóa bao gồm một sứ điệp minh nhiên, thích ứng với những hoàn cảnh khác nhau được liên tục hiện thực, về những quyền lợi và nhiệm vụ của mọi con người, về đời sống gia đình mà nhờ đó việc tăng trưởng và phát triển cá nhân được thực hiện (x. Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Gaudium et Spes, 47-52), về đời sống trong xã hội, về đời sống quốc tế, hòa bình, công chính và phát triển - một sứ điệp về việc giải phóng đặc biệt hào hứng hiện nay.
30. Sứ Điệp về Việc Giải Phóng
Đây là một từ ngữ quá quen thuộc mà nhiều vị giám mục ở khắp các đại lục có mặt trong Thượng Hội Giám Mục Thế Giới vừa qua, nhất là các vị giám mục ở Thế Giới Thứ Ba, nhấn mạnh thay cho tiếng nói của triệu triệu con cái nam nữ của Giáo Hội làm nên những dân tộc ấy. Như chúng ta biết, các dân tộc đang tận lực gắng sức và chiến đấu để thắng vượt những gì áp buộc họ cứ phải sống bên lề cuộc đời: như đói khát, bệnh tật kinh niên, nạn mù chữ, bần cùng, những bất công nơi các liên hệ quốc tế và nhất là nơi những giao dịch về thương mại, những trường hợp tân thực dân về kinh tế và văn hóa đôi khi cũng dữ tợn như chủ nghĩa thuộc địa cũ. Như các vị giám mục lập đi lập lại, Giáo Hội có nhiệm vụ phải loan báo việc giải phóng cho triệu triệu con người, trong đó nhiều người là con cái của Giáo Hội – có nhiệm vụ tiếp tay giúp vào việc chào đời của cuộc giải phóng này, giúp vào việc làm chứng cho nó, giúp vào việc bảo đảm đạt thành nó. Đây không phải là một cái gì xa lạ đối với việc truyền bá phúc âm hóa.
31. Cần Phải Liên Quan tới Việc Tiến Bộ của Con Người
Giữa việc truyền bá phúc âm hóa và việc thăng tiến của con người - việc phát triển và giải phóng - thực sự có những liên hệ sâu xa. Hai việc này bao gồm những liên hệ theo trật tự nhân loại, vì con người được truyền bá phúc âm hóa không phải là một hữu thể trừu tượng, mà là một chủ thể trước những vấn đề xã hội và kinh tế. Hai việc này cũng bao gồm những liên hệ theo trật tự thần học, vì con người không thể nào tách chương trình tạo dựng ra khỏi chương trình Cứu Chuộc được. Chương trình cứu chuộc chạm đến những hoàn cảnh rất thực tiễn của sự bất chính phải được đối chọi cũng như của sự công chính phải được phục hồi. Cả hai việc này bao gồm những liên hệ của trật tự phúc âm cao cả là trật tự của đức ái: thật vậy, người ta làm sao có thể loan báo một giới răn mới mà lại không cổ động, trong công chính và an bình, một mức thăng tiến đích thực của con người được chăng? Chính Chúng Tôi phải để ý đến việc làm sáng tỏ vấn đề này, bằng cách nhắc lại là, không thể nào chấp nhận được vấn đề, “nơi việc truyền bá phúc âm hóa, người ta có thể, hay cần phải bỏ qua không để ý tới, tầm quan trọng của những vấn đề được bàn đến rất nhiều hiện nay, liên quan đến công lý, giải phóng, tiến bộ và hòa bình trên thế giới. Làm như thế là quên đi bài học dạy chúng ta trong Phúc Âm về việc quan tâm đến tình yêu thương tha nhân của chúng ta, những người đang chịu khổ đau và thiếu thốn” (Đức Phaolô VI, Diễn Từ khai mạc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Thường Lệ Lần Thứ Ba, 27/9/1974, AAS 66 – 1974, p. 562).
Cũng có những lời phát biểu nhiệt tình, khôn ngoan và can đảm nói lên trong Thượng Hội Giám Mục về đề tài nóng bỏng này, làm cho chúng tôi hết sức vui mừng, đã cung cấp những nguyên tắc minh tường để hiểu biết xác đáng tầm quan trọng và ý nghĩa sâu xa của việc giải phóng, như nó đã được Chúa Giêsu Nazarét loan báo và chiếm đạt, cũng như nó đã được Giáo Hội rao giảng.
32. Không Suy Giảm hay Mập Mờ
Chúng ta không được bỏ qua sự kiện là có nhiều Kitô hữu, thậm chí những Kitô hữu phóng khoáng, thành phần nhậy cảm trước những thảm trạng cần đến vấn đề giải phóng, theo ý họ muốn Giáo Hội dấn thân cho nỗ lực giải phóng, thường có chiều hướng giảm thiểu sứ mệnh của Giáo Hội xuống tới những chiều kích của một dự án thuần túy trần gian. Họ muốn kéo đích điểm của Giáo Hội xuống mục tiêu lấy con người làm chính; họ muốn giảm ơn cứu độ do Giáo Hội là sứ giả xuống tầm mức phúc hạnh về thể chất. Họ muốn hoạt động của Giáo Hội, dẹp đi tất cả những bận tâm về phần thiêng liêng và đạo nghĩa, trở thành những công cuộc sáng tạo về phương diện chính trị và xã hội. Thế nhưng, nếu vậy thì Giáo Hội sẽ mất đi ý nghĩa trọng yếu của mình. Sứ điệp giải phóng của Giáo Hội không còn tính chất nguyên tuyền và sẽ dễ dàng trở thành độc đoán và áp đảo bởi những ý hệ cùng những đảng phái chính trị. Giáo Hội sẽ không còn thẩm quyền để nhân danh Chúa loan báo tự do nữa. Đó là lý do tại sao chúng tôi, trong cùng bài diễn từ khai mạc Thượng Hội Giám Mục, muốn nhấn mạnh đến “việc cần phải nói lại cho rõ mục đích đặc biệt về tôn giáo nơi việc truyền bá phúc âm hoá. Việc truyền bá phúc âm hóa sẽ mất đi lý do hiện hữu nếu nó lìa khỏi cái trục tôn giáo xoay vần nó: vương quốc của Thiên Chúa, trước hết, là ở ý nghĩa hoàn toàn thần học…” (ibid.)
33. Việc Giải Phóng theo Phúc Âm
Đối với việc giải phóng mà việc truyền bá phúc âm hóa loan báo và nỗ lực mang ra thực hiện thì người ta phải nói thế này:
® Nó không thể chất chứa trong một chiều kích giản dị và hạn hẹp của lãnh vực kinh tế, chính trị, xã hội hay đời sống văn hóa; nó phải bao gồm toàn thể con người, về tất cả mọi phương diện của họ, cho đến độ bao gồm việc họ vươn tới mức độ tuyệt đối, tới chính Đấng Tuyệt Đối thần linh;
® Vì thế nó gắn liền với một nhân sinh quan mà nó không bao giờ có thể làm vật hy sinh cho những nhu cầu của bất cứ một chiến thuật nào, một ứng dụng nào hay một kiến hiệu ngắn hạn nào cả.
34. Tập Trung vào Vương Quốc của Thiên Chúa
Vậy, khi rao giảng việc giải phóng và liên kết mình với những ai đang hoạt động và chịu khổ vì việc rao giảng, Giáo Hội nhất định không muốn giới hạn sứ vụ của mình vào lãnh vực tôn giáo mà thôi, cũng như không muốn tách mình ra khỏi những vấn đề trần thế của con người. Tuy nhiên, Giáo Hội tái khẳng định nền tảng của ơn gọi thiêng liêng của mình, và không chịu thay thế việc loan báo vương quốc, bằng việc loan báo những thể thức giải phóng thuộc về nhân loại; Giáo Hội còn nói lên rằng, việc đóng góp của Giáo Hội vào việc giải phóng sẽ không trọn vẹn, nếu Giáo Hội lơ đãng trong việc loan báo ơn cứu độ trong Chúa Giêsu Kitô.
35. Vào Quan Niệm của Phúc Âm về Con Người
Giáo Hội liên kết việc giải phóng thuộc về con người với ơn cứu độ trong Chúa Giêsu Kitô, song Giáo Hội không bao giờ đồng hóa chúng, vì nhờ mạc khải, kinh nghiệm lịch sử và ý thức đức tin, Giáo Hội biết rằng, không phải mọi quan niệm về việc giải phóng đều cần phải gắn liền và tương hợp với quan điểm phúc âm về con người, về các sự vật và về các sự việc; Giáo Hội cũng biết rằng, để vương quốc của Thiên Chúa trị đến thì việc kiến tạo giải phóng, thiết lập an sinh và phát triển mà thôi cũng chưa đủ.
Hơn thế nữa, Giáo Hội còn có một xác tín vững mạnh là, tất cả mọi giải phóng có tính cách trần thế, tất cả mọi giải phóng có tính cách chính trị - cho dù nó có nỗ lực tìm kiếm chứng cớ này nọ trong Cựu Ước hay Tân Ước, cho dù nó có dựa vào những kết luận và dữ kiện thần học cho các giả thiết suy tưởng và những tiêu chuẩn hành động của mình, cho dù nó cứ tưởng mình là một thứ thần học thời nay - cũng mang trong mình một mầm mống chối bỏ chính mình, và không thể nào tiến đến lý tưởng mà nó phác họa cho mình, vì những thúc đẩy sâu xa của nó không phải là những thúc đẩy của công lý trong đức ái, vì lòng nhiệt thành của nó thiếu chiều kích linh thiêng chân thực, và vì mục tiêu tối hậu của nó không phải là ơn cứu độ và hạnh phúc trong Thiên Chúa.
36. Bao Gồm Việc Hoán Cải Thiết Yếu
Giáo Hội chắc chắn lấy làm quan trọng trong việc xây dựng những cơ cấu nhân bản hơn, chính trực hơn, tôn trọng nhân quyền hơn, ít bị đàn áp và cầm buộc hơn, thế nhưng, Giáo Hội cũng nhận thức rằng, các cơ cấu hay nhất và những tổ chức lý tưởng nhất chẳng bao lâu sẽ trở thành vô nhân bản, nếu những bản năng vô nhân bản của tâm can con người không được lành mạnh hoá, nếu những ai sống trong những cơ cấu này, hay những ai quản trị chúng, không chịu hoán cải cõi lòng và quan niệm của mình.
37. Loại Trừ Bạo Lực
Giáo Hội không thể chấp nhận bạo lực, nhất là chấp nhận võ lực – là cái một khi bất khả kiềm chế tự nhiên sẽ bùng nổ – cũng như không chấp nhận việc giết hại bừa bãi, như là một đường lối giải phóng, vì Giáo Hội biết rằng, bạo lực bao giờ cũng khiêu khích bạo lực, và chắc chắn sẽ làm phát sinh ra những hình thức đàn áp và cầm buộc, là những hình thức thường khó chịu đựng hơn là những hình thức họ cho rằng chúng sẽ mang lại tự do. Chúng Tôi đã minh bạch nói đến điều này trong cuộc tông du của mình ở Columbia: “Chúng tôi kêu gọi quí vị đừng đặt lòng tin tưởng vào bạo lực và cách mạng phản lại tinh thần Kitô hữu, có thể làm trì trệ thay vì phát triển việc thăng tiến xã hội như quí vị vẫn được phép mong ước” (ĐTC Phaolô VI, Bài Diễn Từ cho Campesinos ở Columbia, 23/8/1968: AAS 60 – 1968 – p. 623). “Chúng Tôi phải nói lên và tái xác nhận rằng, vấn đề bạo lực không hợp với Phúc Âm, không phải là Kitô giáo; những thay đổi đột ngột hay vũ bão về các cơ cấu tự chúng là những gì lừa dối, vô hiệu và chắc chắn không hợp với phẩm vị của con người” (ĐTC Phaolô VI, Bài Diễn Từ cho “Ngày Tiến Bộ” ở Bogotà, 23/8/1968: A A S 60, 1968, p. 627; xem Thánh Âu-Quốc-Tinh, Epistola 229, 2: PL 33, 1020).
38. Việc Đóng Góp Đặc Biệt của Giáo Hội
Khi nói đến điều này, chúng tôi vui mừng thấy rằng Giáo Hội càng ngày càng ý thức hơn về cách thức xứng hợp và phương tiện hoàn toàn theo phúc âm Giáo Hội có được, để hợp tác vào việc giải phóng nhiều người. Vậy Giáo Hội đang làm gì? Giáo Hội đang cố gắng càng ngày càng khuyến khích số đông Kitô hữu dấn thân vào việc giải phóng con người. Giáo Hội đang cung cấp cho các Kitô hữu “giải phóng gia” này tác động của đức tin, động lực của tình yêu huynh đệ, học thuyết xã hội mà một Kitô hữu đích thực không thể nào không biết đến và là một học thuyết họ phải lấy làm nền tảng cho sự khôn ngoan cũng như cho kinh nghiệm của mình, để nhờ đó chuyển dịch nó ra thành những thể thức tác hành, tham gia và dấn thân. Tất cả những điều này phải là đặc tính của một người Kitô hữu dấn thân, không lẫn lộn với các thái độ mánh khoé hay công việc theo đường lối chính trị. Giáo Hôïi luôn nỗ lực đưa việc Kitô hữu tranh đấu cho vấn đề giải phóng vào dự án cứu độ phổ quát được chính Giáo Hội loan báo.
Những gì Chúng Tôi vừa nhắc lại ở đây đã hơn một lần được mang ra tranh luận trong cuộc Thượng Hội Giám Mục. Thật vậy, Chúng Tôi đã hiến cho đề tài này một số lời để làm sáng tỏ vấn đề trong bài diễn từ kết thúc cuộc Thượng Hội Chúng Tôi ngỏ cùng các vị Nghị Phụ (xem ĐTC Phaolô VI, Bài Diễn Từ kết thúc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Lần Thứ Ba, 26/10/1974: AAS 60, 1974, p. 637).
Cần phải hy vọng là tất cả những suy xét này sẽ giúp loại trừ đi cái mập mờ của chữ “giải phóng” thường xuất hiện nơi các ý hệ, các thể chế hay phái nhóm chính trị. Vấn đề giải phóng mà việc truyền bá phúc âm hoá loan báo và sửa soạn là vấn đề giải phóng được chính Chúa Kitô công bố và hiến ban cho con người bằng hy tế của Người.
39. Tự Do Tôn Giáo
Việc cần phải bảo toàn các quyền lợi của con người không thể tách khỏi việc giải phóng chính đáng này, một việc giải phóng gắn chặt với việc truyền bá phúc âm hóa, và là việc giải phóng cố gắng bảo toàn các cơ cấu trong việc canh chừng các thứ tự do của con người. Trong các quyền lợi căn bản của con người ấy, quyền tự do tôn giáo chiếm điạ vị quan trọng nhất. Mới đây chúng tôi đã nói về sự liên quan đến vấn đề này, khi nhấn mạnh rằng, “hôm nay đây, có biết bao Kitô hữu, vì họ là Kitô hữu, vì họ là người Công Giáo, đang bị sống vùi dập bởi mưu đồ bắt bớ! Thảm kịch về lòng trung thành với Chúa Kitô và về quyền tự do tôn giáo vẫn tiếp diễn, cho dù nó được ẩn nấp sau chiếc mặt nạ của các thứ loại tuyên ngôn đề cao quyền lợi con người và sự sống trong xã hội!” (Bài Diễn Từ phát biểu ngày 15-10-1975: tuần san L’Osservatore Romano, 17/10/1975).