Mục tiêu giải phóng của việc truyền bá phúc âm hóa nơi EN:
“Thế nhưng, việc truyền bá phúc âm hóa sẽ không hoàn toàn, nếu nó không nhắm đến việc liên lỉ giao kết giữa Phúc Âm và cuộc sống thực tiễn của con người, cả về phương diện cá nhân cũng như cộng đồng. Đây là lý do tại sao việc truyền bá phúc âm hóa bao gồm một sứ điệp minh nhiên, thích ứng với những hoàn cảnh khác nhau được liên tục hiện thực, về những quyền lợi và nhiệm vụ của mọi con người, về đời sống gia đình mà nhờ đó việc tăng trưởng và phát triển cá nhân được thực hiện (x. Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Gaudium et Spes, 47-52), về đời sống trong xã hội, về đời sống quốc tế, hòa bình, công chính và phát triển - một sứ điệp về việc giải phóng đặc biệt hào hứng hiện nay” (đoạn 29);
“Giữa việc truyền bá phúc âm hóa và việc thăng tiến của con người - việc phát triển và giải phóng - thực sự có những liên hệ sâu xa. Hai việc này bao gồm những liên hệ theo trật tự nhân loại, vì con người được truyền bá phúc âm hóa không phải là một hữu thể trừu tượng, mà là một chủ thể trước những vấn đề xã hội và kinh tế. Hai việc này cũng bao gồm những liên hệ theo trật tự thần học, vì con người không thể nào tách chương trình tạo dựng ra khỏi chương trình Cứu Chuộc được. Chương trình cứu chuộc chạm đến những hoàn cảnh rất thực tiễn của sự bất chính phải được đối chọi cũng như của sự công chính phải được phục hồi. Cả hai việc này bao gồm những liên hệ của trật tự phúc âm cao cả là trật tự của đức ái: thật vậy, người ta làm sao có thể loan báo một giới răn mới mà lại không cổ động, trong công chính và an bình, một mức thăng tiến đích thực của con người được chăng? Chính Chúng Tôi phải để ý đến việc làm sáng tỏ vấn đề này, bằng cách nhắc lại là, không thể nào chấp nhận được vấn đề, ‘nơi việc truyền bá phúc âm hóa, người ta có thể, hay cần phải bỏ qua không để ý tới, tầm quan trọng của những vấn đề được bàn đến rất nhiều hiện nay, liên quan đến công lý, giải phóng, tiến bộ và hòa bình trên thế giới. Làm như thế là quên đi bài học dạy chúng ta trong Phúc Âm về việc quan tâm đến tình yêu thương tha nhân của chúng ta, những người đang chịu khổ đau và thiếu thốn’ (Đức Phaolô VI, Diễn Từ khai mạc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Thường Lệ Lần Thứ Ba, 27/9/1974, AAS 66 – 1974, p. 562)”. (đoạn 31);
“Đối với việc giải phóng mà việc truyền bá phúc âm hóa loan báo và nỗ lực mang ra thực hiện thì người ta phải nói thế này:
® Nó không thể chất chứa trong một chiều kích giản dị và hạn hẹp của lãnh vực kinh tế, chính trị, xã hội hay đời sống văn hóa; nó phải bao gồm toàn thể con người, về tất cả mọi phương diện của họ, cho đến độ bao gồm việc họ vươn tới mức độ tuyệt đối, tới chính Đấng Tuyệt Đối thần linh;
® Vì thế nó gắn liền với một nhân sinh quan mà nó không bao giờ có thể làm vật hy sinh cho những nhu cầu của bất cứ một chiến thuật nào, một ứng dụng nào hay một kiến hiệu ngắn hạn nào cả”. (đoạn 33);
“Vậy, khi rao giảng việc giải phóng và liên kết mình với những ai đang hoạt động và chịu khổ vì việc rao giảng, Giáo Hội nhất định không muốn giới hạn sứ vụ của mình vào lãnh vực tôn giáo mà thôi, cũng như không muốn tách mình ra khỏi những vấn đề trần thế của con người. Tuy nhiên, Giáo Hội tái khẳng định nền tảng của ơn gọi thiêng liêng của mình, và không chịu thay thế việc loan báo vương quốc, bằng việc loan báo những thể thức giải phóng thuộc về nhân loại; Giáo Hội còn nói lên rằng, việc đóng góp của Giáo Hội vào việc giải phóng sẽ không trọn vẹn, nếu Giáo Hội lơ đãng trong việc loan báo ơn cứu độ trong Chúa Giêsu Kitô”. (đoạn 34)
“Vấn đề giải phóng mà việc truyền bá phúc âm hoá loan báo và sửa soạn là vấn đề giải phóng được chính Chúa Kitô công bố và hiến ban cho con người bằng hy tế của Người” (đoạn 38.3)
Þ Mục tiêu hiệp thông của Vương Quốc Thiên Chúa nơi RM:
“Vương Quốc của Thiên Chúa nhắm đến toàn thể nhân loại, và tất cả mọi dân tộc đều được kêu gọi trở nên công dân của vương quốc này. Để nhấn mạnh đến sự kiện ấy, Chúa Giêsu đã đặc biệt đến gần những ai sống bên lề xã hội, và tỏ ra ưu ái loan truyền Tin Mừng cho họ. Khi bắt đầu mở màn cho tác vụ của mình, Người đã công bố rằng, Người được ‘xức dầu... để rao giảng tin mừng cho người nghèo khó’ (Lk 4:18). Đối với tất cả những ai là nạn nhân bị ruồng bỏ và khinh miệt, Chúa Giêsu tuyên bố: ‘Phúc cho người nghèo các con’ (Lk 6:20). Hơn thế nữa, Người còn cho những người ấy cảm nghiệm thấy họ được giải phóng ngay lúc bấy giờ, bằng việc Người ở gần họ, đến ăn uống tại nhà của họ (x Lk 5:30, 15:2), đối xử với họ ngang vai với mình và như bạn hữu của mình (x. Lk 7:34), khiến cho họ cảm thấy họ được Thiên Chúa yêu thương, nhờ đó, Người tỏ cho họ thấy việc Thiên Chúa dịu dàng chăm sóc thành phần nghèo khó và tội nhân (x Lk 15:1-32). (đoạn 14.2);
“Việc giải phóng và ơn cứu độ từ Vương Quốc của Thiên Chúa đến với con người theo cả chiều kích thể lý cũng như tâm linh. Có hai cử chỉ nói lên đặc tính nơi sứ vụ của Chúa Giêsu, đó là chữa lành và tha thứ. Nhiều vụ chữa lành của Chúa Giêsu tỏ cho thấy rõ ràng lòng Người hết sức thương cảm đối với tình trạng thảm não của con người, nhưng chúng cũng nói lên rằng, nơi Vương Quốc của Thiên Chúa sẽ không còn bệnh tật hay khổ đau, và sứ vụ của Người, ngay từ ban đầu, là giải phóng con người khỏi những sự dữ ấy. Đối với Chúa Giêsu, các vụ chữa lành còn là dấu hiệu cứu độ về tâm linh nữa, tức là dấu hiệu của việc giải phóng khỏi tội lỗi. Bằng việc chữa lành, Người mời gọi con người tin tưởng, hoán cải và xin ơn tha thứ (x. Lk 5:24). Một khi đã tin tưởng, thì việc chữa lành lại là một thôi thúc tiến xa hơn nữa: nó dẫn đến ơn cứu độ (x. Lk 18:42-43). Những vụ giải thoát cho khỏi bị quỉ ám – là sự dữ trên hết và là biểu hiệu cho tội lỗi cũng như cho việc phản chống Thiên Chúa – là những dấu hiệu thật sự cho thấy ‘Vương Quốc của Thiên Chúa đã đến với các người’ (Mt 12:28). (đoạn 14.3);
“Vương Quốc của Thiên Chúa nhắm đến việc biến đổi các mối liên hệ loài người; Vương Quốc này dần dần phát triển ở chỗ con người từ từ biết yêu thương, tha thứ và phục vụ nhau. Chúa Giêsu tóm tắt cả Lề Luật bằng việc tập trung vào giới răn yêu thương (x. Mt 22:34-40; Lk 10:25-28): ‘Các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con’ (Jn 13:34, x.15:12). Tình Chúa Giêsu yêu thương nhân loại được bộc lộ đến tuyệt đỉnh ở chỗ Người hiến mạng sống mình vì nhân loại (x. Jn 15:13), một tình yêu cho thấy Chúa Cha yêu thương thế gian (x. Jn 3:16). Bởi thế, bản chất của Vương Quốc Thiên Chúa là một bản chất hiệp thông tất cả loài người – hiệp thông với nhau cũng như với Thiên Chúa.
“Vương Quốc của Thiên Chúa là một mối bận tâm của mọi người: cá nhân, xã hội và thế giới. Hoạt động cho Vương Quốc này tức là nhìn nhận và đề cao hoạt động của Thiên Chúa đang hiện diện trong lịch sử loài người và biến đổi lịch sử loài người. Xây dựng Vương Quốc này tức là hoạt động để giải phóng con người khỏi tất cả mọi hình thức của sự dữ. Tóm lại, Vương Quốc của Thiên Chúa là trọn vẹn dự án cứu độ của Thiên Chúa được biểu lộ và hiện thực”. (đoạn 15)
2. Tính chất nổi bật của RM là gì?
Vì là một văn kiện ra đời sau Sắc Lệnh Ad Gentes của Cộng Đồng Chung Vaticanô II 25 năm và sau Tông Huấn Evangelii Nuntiandi do Đức Thánh Cha Phaolô VI ban hành đúc kết Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Lần Ba 15 năm (xem RM 2.3), RM đã có một nhận định khẩn trương về tình hình hiện tại để phóng tầm mắt lạc quan của mình đến một viễn tượng cho các dân nước hết sức phấn khởi bằng những lời kêu gọi cùng với những chủ trương hết sức nóng bỏng như sau:
Nhận định khẩn trương về tình hình hiện tại của RM:
- “Việc truyền giáo mà Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc đã ủy thác cho Giáo Hội cần phải hoàn tất thì còn rất xa vời. Trong lúc đệ nhị Thiên Niên kể từ khi Chúa Kitô giáng sinh sắp qua đi, tình hình nhân loại tổng quan cho thấy rằng việc truyền giáo ấy mới chỉ là bắt đầu, nên chúng ta cần phải hết sức dấn thân cho công việc này” (ngay câu mở đầu của cả bức Thông Điệp nói chung và của riêng đoạn 1).
- “Con số những người không biết Chúa Kitô và không thuộc về Giáo Hội tăng liên tục. Thật vậy, nó đã tăng gần như gấp đôi kể từ khi kết thúc Công Đồng. Nếu chúng ta để ý đến phần nhân loại rất đông được Chúa Cha yêu thương và sai Con Ngài đến vì họ này, thì mới thấy rõ được tính cách khẩn thiết của việc Giáo Hội truyền giáo.” (đoạn 3.2)
- “Ngày nay, hoạt động truyền giáo vẫn cho thấy đó là cả một thách đố lớn lao nhất đối với Giáo Hội. Đã gần kết thúc đệ nhị Thiên Niên của Công Cuộc Cứu Chuộc rồi mà vẫn thấy rõ là nhiều người trong đa số nhân loại vẫn chưa được nghe rao giảng về Chúa Kitô lần đầu tiên gì cả. Các thành quả của hoạt động truyền giáo trong thời đại tân tiến hết sức là tốt đẹp. Giáo Hội đã được thiết lập trên mọi lục địa; thật thế, ngày nay đa số tín hữu và các Giáo Hội riêng không còn phải chỉ có nguyên ở Âu Châu nữa, mà là ở trên các lục địa được các nhà truyền giáo gieo vãi đức tin.
“Tuy nhiên, sự kiện về ‘tận cùng trái đất’ là nơi Phúc Âm phải được mang đến vẫn càng ngày càng xa cách hơn bao giờ hết. Lời của giáo phụ Tertullianô về việc Phúc Âm được loan truyền khắp cùng trái đất và cho tất cả mọi dân tộc (xem De Praescriptione Haereticorum, XX: CCL I, 201f) vẫn còn rất xa vời với thực tại. Việc truyền giáo ad gentes vẫn còn trong tình trạng non nớt của mình. Các dân tộc mới xuất hiện trên khung cảnh thế giới, và cả họ nữa cũng có quyền để nghe loan báo về ơn cứu độ. Việc phát triển dân số nơi các đất nước không phải Kitô giáo ở Miền Nam và Miền Đông đang không ngừng tăng nhân số, thành phần vẫn chưa biết gì đến Việc Cứu Chuộc của Chúa Kitô cả.
“Thế nên, chúng ta cần hướng chú ý của mình tới những miền đất và những môi trường văn hóa còn đang ở ngoài ảnh hưởng của Phúc Âm. Tất cả mọi người tin tưởng nơi Chúa Kitô phải cảm thấy, như một phần nguyên vẹn thuộc đức tin của mình, mối quan tâm tông đồ trong việc truyền đạt cho những người khác ánh sáng và niềm vui của đức tin. Mối quan tâm này phải trở nên thực sự là một niềm đói khát trong việc làm cho Chúa được nhận biết, được trao ban cho cả một thế giới lớn rộng ngoài Kitô giáo”. (đoạn 40)
Viễn tượng ad gentes hết sức phấn khởi của RM:
- “Công Đồng đã gặt hái được nhiều hoa trái trong lãnh vực hoạt động truyền giáo. Hoạt động truyền giáo đã tăng tiến tại các Giáo Hội địa phương, bao gồm Giám Mục, giáo sĩ và các nhân viên làm việc tông đồ. Việc hiện diện của các cộng đồng Kitô hữu lại càng rõ ràng hơn trong sinh hoạt của các quốc gia, và việc hiệp thông giữa các Giáo Hội đã dẫn tới một cuộc trao đổi sống động những lợi ích và tặng ân thiêng liêng. Việc dấn thân của thành phần giáo dân trong việc truyền bá phúc âm hóa đang làm thay đổi sinh hoạt của giáo hội, trong khi đó, các Giáo Hội riêng lại càng mong muốn gặp gỡ các phần tử của những Giáo Hội Kitô giáo khác, cũng như của những tôn giáo khác, để đối thoại và hợp tác với họ. Nhất là đang có một ý thức mới về hoạt động truyền giáo là một vấn đề của tất cả mọi Kitô hữu, của hết mọi giáo phận và giáo xứ, của các tổ chức và đoàn thể trong Giáo Hội” (ĐTC Gioan Phaolô II đã đặt tên cho hiện tượng truyền giáo ad gentes từ sau Công Đồng Vaticanô II ấy là “’mùa xuân mới’” này của Kitô giáo” ở ngay đầu đoạn 2.2 tiếp đoạn 2.1 trên đây).
- “Ngoài ra, thời điểm của chúng ta đây còn hiến cho Giáo Hội những cơ hội mới trong lãnh vực này: đó là cơ hội sụp đổ của những triết thuyết áp đảo và những thể chế chính trị, như chúng ta chứng kiến thấy; cơ hội thế giới mở mang ranh giới và xích lại gần gũi nhau hơn, nhờ vấn đề phát triển phương tiện truyền thông; cơ hội con người biết xác nhận các giá trị Phúc Âm, được Chúa Giêsu thể hiện trong cuộc sống của Người (như bình an, công chính, tình huynh đệ, quan tâm đến thành phần nghèo); và cơ hội phát triển của một thứ kinh tế và kỹ thuật vô hồn chỉ thúc đẩy con người tìm kiếm chân lý về Thiên Chúa, về con người và về ý nghĩa của chính cuộc sống. (đoạn 3.2)
“Thiên Chúa đang mở ra trước mắt Giáo Hội một chân trời nhân loại hết sức thuận lợi cho việc gieo vãi Phúc Âm. Tôi cảm thấy rằng đã đến lúc tất cả năng lực của Giáo Hội cần phải dấn thân vào một việc truyền bá phúc âm hóa mới, cũng như vào việc truyền giáo ad gentes. Không một tín hữu nào tin tưởng vào Chúa Kitô, không một tổ chức nào của Giáo Hội được phép tránh né nhiệm vụ trên hết này: đó là nhiệm vụ phải loan truyền Chúa Kitô cho tất cả mọi dân nước.” (đoạn 3.3)
- “Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta bị dội lại bởi nhiều yếu tố tiêu cực có thể làm cho chúng ta bi quan. Thế nhưng, cảm giác này không chính đáng: chúng ta tin vào Thiên Chúa là Cha và là Chúa của chúng ta, vào lòng tốt và tình thương của Ngài. Trong lúc Ngàn Năm thứ ba của ơn cứu chuộc gần đến, Thiên Chúa đang sửa soạn một mùa xuân rất tươi đẹp cho Kitô giáo, và chúng ta đã thấy được các dấu hiệu le lói của nó. Thật vậy, cả nơi thế giới ngoài Kitô giáo lẫn nơi thế giới Kitô giáo lâu đời, con người đang dần dần tiến gần tới những lý tưởng và giá trị Phúc Âm hơn, một đà phát triển Giáo Hội đang tìm cách phấn khích. Thật vậy, ngày nay, các dân tộc có một cảm nhận chung về những giá trị sau đây: việc loại trừ bạo lực và chiến tranh; việc tôn trọng con người và các quyền lợi của con người; niềm mong ước được tự do, công chính và tình yêu huynh đệ; việc thắng vượt các hình thức khác nhau về chủng tộc và dân tộc; việc công nhận phẩm vị và vai trò của nữ giới. (đoạn 86.1);
“Còn thật nhiều người đang đợi chờ Chúa Kitô, đó là những nhóm người và những khối văn hóa chưa biết đến Phúc Âm, hay những người hầu như chưa biết đến có Giáo Hội, nhiều đến nỗi cần phải liên kết tất cả nguồn lợi của Giáo Hội lại. Vào thời điểm sửa soạn cử hành Cuộc Mừng Kỷ Niệm năm 2000, toàn thể Giáo Hội lại càng dấn thân cho một mùa vọng truyền giáo mới. Chúng ta phải tăng thêm lòng nhiệt thành tông đồ của chúng ta để truyền sang cho các người khác ánh sáng và niềm vui của đức tin, và toàn thể Dân Chúa phải được giáo huấn theo lý tưởng cao cả này.” (Đoạn 86.3)
Chúng ta không thể bằng lòng khi thấy cả triệu triệu anh chị em của mình, cũng như chúng ta, được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô, mà lại sống chẳng biết gì về tình yêu của Thiên Chúa cả. Bởi vì, đối với mỗi một tín hữu, cũng như đối với toàn thể Giáo Hội, công việc truyền giáo vẫn phải là một việc làm trên hết, vì công việc này liên quan đến định mệnh đời đời của con người, cũng là công việc hợp với dự án nhiệm mầu và nhân hậu của Thiên Chúa.” (đoạn 86.4)
- “Ngày hôm nay, Giáo Hội được một cơ hội, như chưa bao giờ có trước đây, dùng chứng từ và lời rao giảng của mình để mang Phúc Âm đến cho tất cả mọi dân tộc và mọi quốc gia. Tôi thấy được rạng đông của một thời truyền giáo mới, một rạng đông sẽ trở thành một ngày sống rạng ngời mang lại cả một mùa màng phì nhiêu, nếu tất cả mọi Kitô hữu, nhất là các nhà truyền giáo và các Giáo Hội trẻ, quảng đại và thánh thiện đáp ứng những mời gọi và thách đố trong thời đại của chúng ta đây. (đoạn 92.1)
“Vào thời điểm sát cận Ngàn Năm thứ ba, toàn thể Giáo Hội được mời gọi sống tha thiết với mầu nhiệm của Chúa Kitô hơn nữa, bằng việc cộng tác với một lòng tri ân cảm mến vào công cuộc cứu độ. Giáo Hội làm việc này cùng với Mẹ Maria và theo gương Mẹ Maria, Mẹ của Giáo Hội và là mô phạm của Giáo Hội: Mẹ Maria là mô phạm của một thứ tình yêu mẫu tử làm cho tất cả mọi người hứng khởi cộng tác vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội trong việc tái sinh nhân loại”. (đoạn 92.3).
Những lời kêu gọi ad gentes của RM:
- “Tôi muốn kêu mời Giáo Hội hãy canh tân lại việc dấn thân truyền giáo của mình. Văn kiện này nhắm đến việc canh tân nội tâm về đức tin và đời sống Kitô giáo. Vì hoạt động truyền giáo giúp vào việc canh tân Giáo Hội, vào việc làm tái sinh động đức tin cũng như căn tính Kitô giáo, và vào việc làm bừng lên lòng nhiệt thành và niềm phấn khởi mới. Đức tin được tăng cường khi đức tin được ban phát cho kẻ khác! Chính trong khi dấn thân thực hiện việc truyền giáo đại đồng của Giáo Hội lại chính là lúc làm cho việc truyền bá phúc âm hóa mới mẻ của dân Kitô giáo được khởi sắc và đỡ nâng” (đoạn 2.3).
- “Hỡi các dân tộc khắp mọi nơi, hãy mở cửa cho Chúa Kitô! Phúc Âm của Người không bao giờ làm mất đi tự do của con người, mất đi việc tôn trọng cần phải có đối với mọi nền văn hóa cũng như với bất cứ những gì tốt lành nơi mỗi một tôn giáo. Bằng việc chấp nhận Chúa Kitô là quí vị tự mở lòng mình ra cho Lời tối hậu của Thiên Chúa, cho Đấng mà trong Người Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình ra và đã chỉ cho chúng ta đường lối đến cùng Ngài”. (đoạn 3.1)
- “Về phần mình, Giáo Hội hướng về con người bằng tất cả lòng tôn trọng quyền tự do của họ (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo Dignitatis Humanae, đoạn 3-4; ĐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 79-80: loc. cit., 71-75; ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptor Hominis, đoạn 12: loc. cit., 278-281). Sứ mệnh của Giáo Hội không làm hạn chế quyền tự do mà trái lại còn cổ động cho nó nữa. Giáo Hội tôn trọng cá nhân cũng như văn hóa, và Giáo Hội tôn kính thánh cung lương tâm của con người. Với những ai chống lại hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, vì những lý do khác nhau nào đó, Giáo Hội lập lại là Xin hãy mở cửa cho Chúa Kitô!” (đoạn 39.2)
- “Tôi kêu gọi tất cả mọi Giáo Hội, Giám Mục, linh mục, tu sĩ và các phần tử giáo dân, hãy hướng về tính cách đại đồng của Giáo Hội, và hãy tránh hết mọi hình thức khuynh hướng thiển cận chỉ biết lấy mình hay độc quyền, hoặc những cảm giác tự mãn. Các Giáo Hôïi địa phương, mặc dầu được ăn sâu vào dân tộc và văn hóa riêng của mình, cũng phải luôn luôn giữ được cảm thức sống động về tính cách đại đồng của đức tin, về việc cho đi và nhận lãnh các tặng ân thiêng liêng, về các kinh nghiệm của hoạt động mục vụ trong việc truyền bá phúc âm hóa và việc loan báo lúc ban đầu, cũng như về nhân lực cho việc tông đồ và các nguồn lợi vật chất.” (đoạn 85.2)
- “Thế nên, Tôi muốn ngỏ lời với những phần tử mới được rửa tội nơi các cộng đồng trẻ cũng như nơi các Giáo Hội trẻ. Hôm nay, các con là niềm hy vọng của Giáo Hội hai ngàn tuổi của chúng ta đây: là con người trẻ trung về đức tin, các con phải như những Kitô hữu tiên khởi, chiếu tỏa nhiệt tình và lòng can đảm, trong việc quảng đại hiến thân cho Thiên Chúa và tha nhân. Tóm lại, các con phải dấn thân trên con đường thánh thiện. Chỉ có thế các con mới là dấu chứng của Thiên Chúa trên thế giới này, và mới làm sống lại nơi quê hương xứ sở của các con truyền sử của Giáo Hội sơ khai. Các con cũng mới là men tinh thần truyền giáo cho các Giáo Hội lâu đời.” (đoạn 91.1)
- “Tôi muốn kêu mời Giáo Hội hãy canh tân lại việc dấn thân truyền giáo của mình” (đoạn 2.3).
NHỮNG CHỦ TRƯƠNG HẾT SỨC NÓNG BỎNG CỦA RM:
- “Động lực truyền giáo bao giờ cũng là dấu chỉ sinh động trong lịch sử của Giáo Hội thế nào, thì việc yếu kém truyền giáo là dấu hiệu khủng hoảng đức tin như vậy (xem ĐTC Phaolô VI, Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Giáo, 1972, Insegnamenti X – 1972 – 522)” (đoạn 2.2).
- “Hoạt động truyền giáo giúp vào việc canh tân Giáo Hội, vào việc làm tái sinh động đức tin cũng như căn tính Kitô giáo, và vào việc làm bừng lên lòng nhiệt thành và niềm phấn khởi mới. Đức tin được tăng cường khi đem đức tin ban phát cho kẻ khác! Chính trong khi dấn thân thực hiện việc truyền giáo đại đồng của Giáo Hội lại chính là lúc làm cho việc truyền bá phúc âm hóa mới mẻ của dân Kitô giáo được khởi sắc và đỡ nâng”. (đoạn 2.3)
- “Thiên Chúa đang mở ra trước mắt Giáo Hội một chân trời nhân loại hết sức thuận lợi cho việc gieo vãi Phúc Âm. Tôi cảm thấy rằng đã đến lúc tất cả năng lực của Giáo Hội cần phải dấn thân vào một việc truyền bá phúc âm hóa mới, cũng như vào việc truyền giáo ad gentes. Không một tín hữu nào tin tưởng vào Chúa Kitô, không một tổ chức nào của Giáo Hội được phép tránh né nhiệm vụ trên hết này: đó là nhiệm vụ phải loan truyền Chúa Kitô cho tất cả mọi dân nước”. (đoạn 3.4)
- “Việc truyền giáo của Giáo Hội phát xuất chẳng những từ lệnh Chúa truyền, mà còn từ những đòi hỏi sâu xa nơi sự sống của Thiên Chúa ở trong chúng ta nữa. Những ai được tháp nhập vào Giáo Hội Công Giáo phải cảm nhận được đặc ân này, và chính vì lý do đó, họ càng buộc phải làm chứng cho đức tin cũng như cho đời sống Kitô giáo, như là một việc phục vụ anh chị em của mình và như là một đáp ứng tương xứng với Thiên Chúa. Họ luôn luôn phải nhớ rằng, ‘họ có được vị trí nổi nang không phải là do công lênh của họ, mà là do ân sủng đặc biệt của Chúa Kitô; và nếu họ không đáp ứng ân sủng này trong tư tưởng, lời nói và việc làm, thì chẳng những họ sẽ không được cứu độ, họ còn bị phán xét nghiêm ngặt hơn nữa’ (Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 14)” (đoạn 11.4).
- “Những gì được thực hiện ngay từ ban đầu của Kitô Giáo trong việc trải rộng sứ vụ truyền giáo đại đồng của mình vẫn còn hiệu lực và trở nên khẩn thiết vào lúc này đây. Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo, vì lệnh truyền của Chúa Kitô không phải là một cái gì ngẫu nhiên hay bề ngoài, mà là những gì chạm đến chính con tim của Giáo Hội. Thế nên, Giáo Hội hoàn vũ và mỗi một Giáo Hội mới được sai đến với các dân nước. Chính vì ‘để cho lòng nhiệt thành truyền giáo này có thể nở hoa nơi dân tộc của mình’, mà việc các Giáo Hội trẻ rất cần phải ‘chia sẻ vào công việc truyền giáo đại đồng của Giáo Hội sớm bao nhiêu có thể. Họ phải tự sai các nhà truyền giáo đi loan truyền Phúc Âm khắp thế giới, cho dù họ có bị thiếu hụt giáo sĩ chăng nữa’ (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 20)”. (đoạn 62.1)
Để tổng kết toàn bộ cuốn “Mùa Xuân Gieo Tin Mừng Cứu Độ” này, chúng ta hãy lắng nghe lời của vị Giáo Hoàng đương kim Gioan Phaolô II ngay trước ngưỡng cửa của Ngàn Năm Thứ Ba sau đây:
- “Trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Tôi đã phác họa một chương trình cho Giáo Hội trong việc nghênh đón ngàn năm thứ ba Kitô Giáo, một chương trình tập trung vào những thách đố của việc tân truyền bá phúc âm hóa. Đặc điểm quan trọng của dự án này là việc tổ chức các Cuộc Thượng Hội Giám Mục đại lục, để các vị Giám Mục có thể nói lên vấn đề truyền bá phúc âm hóa tùy theo hoàn cảnh và nhu cầu riêng nơi lục địa của mình. Loạt Thượng Hội Giám Mục này, gắn liền với nhau bằng một đề tài chung về việc tân truyền bá phúc âm hóa, đã cho thấy một phần quan trọng trong việc Giáo Hội sửa soạn cử hành Cuộc Mừng Kỷ Niệm Long Trọng Năm 2000”.
(ĐTC Gioan Phaolô II, Tông Thư Giáo Hội Tại Á Châu Ecclesia In Asia, 6/11/1999, đoạn 2: tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 10/11/1999)
- “Đề tài chung của các Cuộc Thượng Hội Giám Mục ‘đại lục’, biến cố giúp vào việc Giáo Hội sửa soạn Mừng Kỷ Niệm Long Trọng Năm 2000, là đề tài về một cuộc tân truyền bá phúc âm hóa. Cần phải có một tân kỷ nguyên loan báo Phúc Âm, chẳng những vì sau hai thiên niên kỷ một phần lớn nhân loại vẫn chưa nhận biết Chúa Kitô, mà còn vì tình hình trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba cả Giáo Hội và thế giới đang đặc biệt phải đối đầu với niềm tin về đạo nghĩa cũng như với những sự thật về luân lý gắn liền với niềm tin này. Hầu như ở mọi nơi đều có khuynh hướng xây dựng một tình trạng phát triển và thịnh vượng ngoài Thiên Chúa, và hạ chiều kích đạo nghĩa của con người xuống lãnh vực cá nhân. Xã hội tách lìa chân lý nền tảng nhất về con người, tức là khỏi mối liên hệ với Đấng Hóa Công cũng như với ơn cứu chuộc do Chúa Kitô và Thánh Linh thực hiện, chỉ làm cho mình càng xa nguồn sự sống, yêu thương và hạnh phúc hơn mà thôi. Thế kỷ bạo lực đang kết thúc mau chóng đây là một bằng chứng kinh hoàng về những gì có thể xẩy ra, khi sự thật và sự thiện bị loại bỏ để nhường chỗ cho tham vọng về quyền lực và tự cường. Việc tân truyền bá phúc âm hóa, một tiếng gọi hoán cải, sủng ái và khôn ngoan, là niềm hy vọng duy nhất thực sự cho một thế giới tốt đẹp hơn và một tương lai rạng ngời hơn. Vấn đề không phải là Giáo Hội có gì cần để nói với con người nam nữ của thời đại chúng ta đây, mà là cách thức để làm sao Giáo Hội có thể nói lên một cách rõ ràng và thu phục được lòng người!”.
(ĐTC Gioan Phaolô II, Tông Thư Giáo Hội Tại Á Châu Ecclesia In Asia, 6/11/1999, đoạn 29: tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 10/11/1999)
Cùng Mẹ “ngợi khen” Chúa!
Hoàn tất tại TGP/LA, Lễ Các Thánh 1-11-1999
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL