|
Tân Phúc Âm Hóa
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 531 Thứ Sáu 13/11/2010
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II - Tân Phúc Âm Hóa Âu Châu
Trong Tháng Mười 2010, Giáo Hội Hoàn Vũ chẳng những có biến cố Thượng Nghị Giám Mục Trung Đông diễn ra tại Rôma hai tuần, từ Chúa Nhật 10/10 đến Chúa Nhật 24/10, mà còn có một biến cố quan trọng khác nữa, đó là biến cố thành lập một tân Hội Đồng Tòa Thánh, đó là Hội Đồng Tòa Thánh đặc trách việc Cổ Võ Truyền Bá Phúc Âm Hóa (the Pontifical Council for Promoting the New Evangelization). Biến cố này được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI ban hành bằng tự sắc “Ubicumque et Semper - Ở Hết Mọi Nơi và Mãi Mãi" ký ngày 21/9/2010 nhưng chỉ được chính thức công bố tại Vatican ngày Thứ Ba 12/10/2010, khi vừa mở đầu cho Thượng Nghị Giám Mục Trung Đông. Tại sao có sự trùng hợp này? Tại sao Đức Thánh Cha không công bố việc thành lập tân hội đồng tòa thánh ấy ngay sau khi ký ban hành mà phải đợi cho tới sau khi bắt đầu Thượng Nghị Giám Mục Trung Đông? Chúng ta có thể tìm thấy câu giải đáp thỏa đáng nơi đoạn cuối cùng của bài giảng bế mạc Thượng Nghị Giám Mục Trung Đông của ngài nguyên văn như sau:
· “Trong thời gian làm việc của Thượng Nghị này, điều thường được nhấn mạnh đó là nhu cầu cần phải cống hiến Phúc Âm một cách mới mẻ cho những ai chưa biết rõ Phúc Âm lắm hay những ai thậm chí xa rời Giáo Hội. Vấn đề thường được gợi lên đó là nhu cầu cần thực hiện một cuộc tân truyền bá phúc âm hóa cho cả Trung Đông nữa. Đây là một đề tài rất phổ biến, nhất là ở các xứ sở có gốc rễ Kitô giáo lâu đời. Việc mới đây thiết lập Hội Đồng Tòa Thánh Cổ Võ Tân Truyền Bá Phúc Âm Hóa cũng là những gì đáp ứng cho nhu cầu sâu xa này. Đó là lý do, sau khi đã tham vấn hội đồng giám mục toàn thế giới và sau khi đã lắng nghe Hội Đồng Thường Lệ của Văn Phòng Tổng Thư Ký Thượng Nghị Giám Mục, tôi đã quyết định chọn cho Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới Thường Niên năm 2012 đề tài sau đây: ‘Nova evangelizatio ad christianam fidem tradendam – Tân truyền bá phúc âm hóa để truyền đạt đức tin Kitô giáo’”.
Đúng thế, đối tượng của tân hội đồng tòa thánh này không phải là “ad gentes”, tức “cho muôn dân” mà là nội bộ Kitô giáo, là chính những xứ sở đã có gốc rễ Kitô giáo lâu đời. Chẳng hạn ở Trung Đông là nơi bắt nguồn Kitô giáo, nhất là ở Âu Châu là nơi phát triển Kitô giáo và truyền bá Kitô giáo khắp thế giới, qua hoạt động loan truyền Tin Mừng Sự Sống cho muôn dân theo trào lưu thám hiểm các vùng đất Tân Thế Giới từ cuối thể kỷ 16 và đầu thế kỷ 17, nhưng từ thời minh tri (Age of Enlightenment) trong Thế Kỷ 18 đến nay đã bị khủng hoảng đức tin, đến độ dần dần phá sản văn hóa Kitô giáo và trở thành một nơi loan truyền văn hóa sự chết theo chủ nghĩa duy nhân bản thực dụng và tương đối hóa luân thường đạo lý.
Đó là lý do, trong giáo triều 26 năm rưỡi của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã có hai cuộc Thượng Nghị Giám Mục Âu Châu, (trong khi các châu khác chỉ có một). Cuộc Thượng Nghị Giám Mục Âu Châu lần đầu diễn ra sau Biến Cố Đông Âu sụp đổ (cuối năm 1989) và ngay trước biến cố Nước Nga từ bỏ chế độ và chủ nghĩa cộng sản (25/12/1991), đó là vào thời khoảng 28/11-14/12/1991, với chủ đề “Để chúng ta có thể làm chứng nhân cho Chúa Kitô là Đấng đã giải thoát chúng ta”. Cuộc Thượng Nghị Giám Mục Âu Châu lần hai 1-23/10/1999 với 179 vị tham dự về chủ đề “Chúa Giêsu Kitô, Sống Động trong Giáo Hội của Người, Nguồn Mạch Hy Vọng cho Âu Châu”. Trong bài khai mạc cho Thượng Nghị Giám Mục Âu Châu này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhắc nhở và kêu gọi Âu Châu về nguồn gốc Kitô giáo của mình như sau:
· “Chúa Kitô đang sống động trong Giáo Hội của Người xuất phát từ lịch sử hai ngàn năm Kitô giáo. Từ những bờ biển phía Đông của Địa Trung Hải, sứ điệp Phúc Âm được truyền bá khắp đế quốc Rôma, rồi trở thành một phần của nhiều lãnh vực về chủng tộc và văn hóa hiện hữu ở lục địa Âu Châu đây. Giáo Hội, với danh xưng chính xác là ‘công giáo’, đã truyền đạt một sứ điệp duy nhất phổ quát của Chúa Kitô cho tất cả những lãnh vực ấy… Tin Mừng đã và đang tiếp tục là nguồn sự sống cho Âu Châu. Nếu thực sự Kitô giáo, một tôn giáo không thuộc về bất cứ một thứ văn hóa nào, nhưng đối thoại với mỗi một văn hóa để hướng dẫn từng văn hóa tiến tới chỗ tốt đẹp nhất nơi mọi lãnh vực về kiến thức và tác hành của con người, thì các thứ căn gốc Kitô giáo đối với Âu Châu là những gì bảo đảm thực sự cho tương lai của nó. Một cây mất gốc có thể nào sống còn và phát triển được hay chăng? Hỡi Âu Châu, đừng quên lịch sử của mình nhé!...”.
Trong Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật XV Thường Niên, 13/7/2003, tại địa điểm nghỉ hè của mình, Castel Gandolfo trên Đồi Anban 25 cây số (15 dặm) phía đông nam Rôma, sau khi ban hành Tông Huấn Giáo Hội Ở Âu Châu nửa tháng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tóm gọn “Những thách đố và dấu hiệu hy vọng cho Giáo Hội Tại Âu Châu” như sau:
· “Trong giây phút lịch sử này, trong giây phút tiến trình quan trọng của vấn đề tái hiệp nhất Âu Châu đang diễn tiến qua việc nới rộng Khối Hiệp Nhất Âu Châu đến các quốc gia khác, Giáo Hội ưu ái nhìn đến lục địa này. Cùng với nhiều thứ sáng sủa cũng có một số những bóng tối. Tình trạng mất đi ký ức Kitô giáo được đi liền với nỗi lo sợ phải đối diện với tương lai. Tình trạng lan tràn khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa cùng với việc càng ngày càng suy yếu tình đoàn kết liên cá thể, và tình trạng mất đi niềm hy vọng gây ra bởi nỗ lực muốn làm cho khoa nhân loại học phi Thiên Chúa và Chúa Kitô. Ngược đời thay, cái nôi nhân quyền này lại đang có nguy cơ bị mất đi nền tảng của mình, một thứ nền tảng đang bị hao mòn bởi trào lưu tương đối và chủ nghĩa thực dụng”.
Thượng Nghị Giám Mục Âu Châu lần hai - Tân Phúc Âm Hóa Âu Châu
Tuy nhiên, để thấy được rõ ràng và đầy đủ một Âu Châu đã đến lúc thật sự cần phải được tân truyền bá phúc âm hóa như thế nào, chúng ta cần ôn lại các nhận định về “Những thách đố và dấu hiệu hy vọng cho Giáo Hội Tại Âu Châu” (các đoạn 7-9) của Thượng Nghị Giám Mục Âu Châu lần hai được đúc kết trong Tông Huấn Giáo Hội Ở Âu Châu, một Tông Huấn được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 28/6/2003. Nguyên văn những nhận định này như sau:
· 7. “Sứ điệp này hôm nay đây cũng được ngỏ cùng các Giáo Hội ở Âu Châu, các giáo hội này thường có khuynh hướng thiên về tình trạng lu mờ hy vọng. Thời đại chúng ta đang sống đây, căn cứ vào những thách đố riêng của nó, có thể được coi là một thời điểm rối loạn. Nhiều con người nam nữ dường như bị lệch lạc, bất ổn, vô vọng là những gì không ít Kitô hữu cũng cảm thấy nữa. Có nhiều dấu hiệu trục trặc ở vào lúc mở màn cho đệ tam thiên kỷ đang vây bủa chân trời của lục địa Âu Châu, một lục địa cho dù có những dấu hiệu cao cả về đức tin và chứng từ cùng với một bầu khí thật sự tự do và hiệp nhất hơn, song vẫn cảm thấy có một cái gì đó hoàn toàn dị thường do các biến cố lịch sử, gần đây cũng như trước đây, thường mang lại thất vọng cho thâm tâm của các dân tộc.
“… Tôi muốn đặc biệt đề cập tới tình trạng mất đi ký ức và gia sản Kitô giáo của Âu Châu, một tình trạng đi liền với một thứ khuynh hướng bất khả tri thực dụng và cảnh dửng dưng lạnh nhạt lòng đạo khiến cho nhiều người Âu Châu sống như không có gốc rễ thiêng liêng và giống như những kẻ thừa hưởng đem phung phá đi cái gia sản được lịch sử ủy thác cho họ. Bởi thế không lạ gì khi thấy có những nỗ lực muốn kiến tạo nên một nhãn quan Âu Châu coi thường gia sản tôn giáo, nhất là coi thường hồn sống Kitô giáo sâu xa của nó, bằng việc chủ trương các thứ quyền lợi của các dân tộc làm nên Âu Châu mà không ghép những quyền lợi ấy vào một thân cây được truyền nhựa Kitô giáo.
“Âu Châu chắc chắn không thiếu những thứ biểu hiệu quí giá về việc hiện hữu của Kitô giáo, tuy nhiên, theo đà phát triển chầm chậm nhưng đều đều của trào lưu tục hóa thì những thứ biểu hiệu này có nguy cơ trở thành một vết tích thuần túy của quá khứ. Nhiều người không còn hội nhập sứ điệp Phúc Âm với cuộc sống hằng ngày của mình nữa; cuộc sống tin tưởng vào Chúa Giêsu càng trở thành khó khăn trong một môi trường xã hội và văn hóa trở thành thách đố và đe dọa cho đức tin. Nơi nhiều cảnh trạng xã hội người ta dễ nhận thấy một kẻ bất khả tri hơn là một tín hữu. Ấn tượng này cho thấy tình trạng vô tín là điều hiển nhiên, trong khi đó niềm tin cần đến một thứ hợp pháp hóa xã hội là những gì vừa không rõ ràng lại chẳng tự dưng mà có”.
8. “Tình trạng mất ký ức Kitô giáo này được đi kèm với một thứ lo sợ tương lai. Ngày mai thường được hiện lên như là một cái gì héo hắt và bất định. Tương lai hiện lên như một cái gì đáng lo hơn là đáng mong. Trong số những dấu hiệu đáng ngại này là tình trạng trống rỗng nội tâm kìm kẹp nhiều người và tình trạng không còn cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa nữa. Những dấu hiệu và hoa trái của tình trạng sầu thảm về sự hiện hữu này bao gồm đặc biệt giảm số sinh sản, giảm số ơn gọi linh mục và tu sĩ, và tình trạng khó khăn, nếu không muốn nói là hoàn toàn chối bỏ việc trọn đời dấn thân, kể cả trong đời sống hôn nhân.
“Chúng ta thấy mình ở trước một tình trạng đầy những phân mảnh về cuộc sống. Cảm giác cô đơn đang làm chủ; những thứ chia rẽ và xung khắc đang nổi lên. Trong số nhiều triệu chứng trong tình trạng này, Âu Châu hiện đang chứng kiến thấy hiện tượng trầm trọng nơi cuộc khủng hoảng về gia đình cùng với tình trạng suy yếu nơi chính quan niệm về gia đình, tình trạng liên tục hay tái diễn những cuộc xung đột về chủng tộc, tình trạng tái xuất trào lưu duy chủng, những căng thẳng về việc đối thoại liên tôn, tình trạng vị kỷ làm cho cá nhân cũng như phái nhóm chỉ biết lấy mình, việc mỗi ngày một thiếu quan tâm tổng quát đến các chủng tộc và việc bận tâm đến các thứ lợi lộc và đặc quyền riêng tư. Đối với nhiều quan sát viên thì tiến trình toàn cầu hóa hiện nay, thay vì dẫn đến chỗ làm cho loài người được hiệp nhất hơn, lại có nguy cơ bị thống trị bởi một đường lối loại trừ thành phần yếu thế và tăng thêm con số nghèo khổ trên thế giới.
“Cùng với trào lưu cá nhân chủ nghĩa, chúng ta còn thấy tình trạng càng ngày càng suy yếu về tình đoàn kết liên cá thể. Trong lúc các tổ chức bác ái tiếp tục thi hành hoạt động đáng ca ngợi thì người ta vẫn nhận thấy xẩy ra tình trạng suy yếu nơi cảm thức đoàn kết, đưa đến chỗ nhiều người không thiếu gì những nhu cầu vật chất mà lại càng cảm thấy cô đơn, khiến họ thấy mình không nơi nương tựa về cảm tình và nâng đỡ”.
9. “Ở tận căn gốc của tình trạng mất hy vọng này là nỗ lực phát động một nhãn quan về con người tách lìa khỏi Thiên Chúa cũng như tác lìa khỏi Chúa Kitô. Loại suy luận này đã dẫn đến chỗ coi con người ‘như là một tâm điểm tối thượng của thực tại, một quan điểm khiến cho họ chiếm chỗ của Thiên Chúa một cách sai lầm, và quên đi rằng không phải con người dựng nên Thiên Chúa mà là Thiên Chúa dựng nên con người. Tình trạng lãng quên Thiên Chúa đã dẫn đến chỗ loại trừ con người’. Bởi thế ‘không lạ gì môi trường này đã mở ra một lãnh vực rộng lớn cho việc phát triển vô chừng về chủ nghĩa bất chấp ở triết lý, về chiều hướng tương đối nơi các thứ giá trị và luân lý, và về chủ nghĩa thực dụng, ngay cả chủ nghĩa hưởng lạc vị kỷ trong đời sống hằng ngày’. Nền văn hóa Âu Châu gây nên cái ấn tượng về việc ‘âm thầm bỏ đạo’ nơi thành phần có được tất cả mọi sự họ cần lại là thành phần sống như thể không có Thiên Chúa.
“Đó là môi trường mà nhiều nỗ lực, bao gồm cả những nỗ lực mới đây nhất, muốn trình bày cho thấy nền văn hóa Âu Châu không hề liên hệ gì với việc góp phần của Kitô giáo là tôn giáo đánh dấu việc phát triển về lịch sử của lục địa này cũng như việc lan tràn khắp thế giới của nó. Chúng ta đang chứng kiến thấy xuất hiện một thứ văn hóa mới, hầu hết bị ảnh hưởng bởi phương tiện truyền thông đại chúng có nội dung và đặc tính thường phản lại Phúc Âm và phẩm giá con người. Loại văn hóa này còn có đặc tính của thứ triết thuyết bất khả tri về tôn giáo đang lan tràn và phát triển, một triết thuyết dính dáng tới khuynh hướng tương đối hóa mạnh mẽ liên quan tới luân lý và pháp lý bắt nguồn từ quan niệm lầm lẫn về sự thật con người, một sự thật là nền tảng cho các thứ quyền lợi bất khả tách biệt của tất cả mọi người. Nhiều lúc có những dấu hiệu yếu kém hy vọng hiện lên rõ ràng qua những dấu hiệu đáng ngại về những gì được gọi là ‘văn hóa sự chết’”.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Tân Phúc Âm Hóa Âu Châu
Trong Tự Sắc “Ubicumque et Semper - Ở Hết Mọi Nơi và Mãi Mãi" được ban hành để thành lập Tân Hội Đồng Tòa Thánh đặc trách Việc Cổ Võ Tân Truyền Bá Phúc Âm Hóa, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nêu lên 5 điểm chính yếu sau đây: Thứ nhất, sứ vụ truyền bá phúc âm hóa xuất phát từ bản chất của Giáo Hội; thứ hai, sứ vụ truyền bá phúc âm hóa trong thời hiện đại với tình trạng bỏ bê đức tin; thứ ba, những quan tâm và giải quyết của các vị tiền nhiệm Phaolô VI và Gioan Phaolô II; thứ bốn, việc quyết định của vị giáo hoàng đương kim Biển Đức XVI; thứ năm, việc thành lập tân hội đồng giáo hoàng.
1- Sứ vụ truyền bá phúc âm hóa xuất phát từ bản chất của Giáo Hội:
· “Giáo Hội có nhiệm vụ loan truyền mãi mãi và ở hết mọi nơi Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Truyền Bá Phúc Âm Hóa tiên khởi và tối cao, vào ngày Người Thăng Thiên về cùng Cha đã sai các Tông Đồ mà rằng: “Vậy các con hãy đi mà tuyển mộ môn đồ nơi tất cả mọi dân nước, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy cho họ tuân giữ tất cả những gì Thày đã truyền cho các con” (Mt 28:19-20). Trung thành với lệnh truyền này, Giáo Hội, thành phần dân được Chúa tuyển chọn để loan báo các công việc kỳ diệu của Ngài (cf. 1Pet 2:9), từ ngày Hiện Xuống, ngày Giáo Hội nhận lãnh tặng ân Thánh Linh (cf Acts 2:14), không bao giờ thôi làm cho thế giới biết đến vẻ đẹp của Phúc Âm, khi Giáo Hội loan truyền Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, “hôm qua, hôm nay và mãi mãi” vẫn là một (Acts 13:8), Đấng mang lại ơn cứu độ nhờ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của mình, và đã hoàn thành lời hứa xưa. Bởi thế, sứ vụ truyền bá phúc âm hóa, một việc tiếp tục công cuộc theo ý muốn của Chúa Giêsu, đối với Giáo Hội là những gì cần thiết: nó không thể bị coi thường; nó là biểu hiện cho chính bản chất của Giáo Hội”.
2- Sứ vụ truyền bá phúc âm hóa trong thời hiện đại với tình trạng bỏ bê đức tin:
· “Sứ vụ này, theo giòng lịch sử, đã từng mặc lấy những hình thức mới mẻ và sử dụng những phương sách mới mẻ tùy theo các địa điểm, hoàn cảnh và thời điểm lịch sử. Trong thời đại của chúng ta, sứ vụ này đặc biệt bị thách đố bởi tình trạng bỏ bê đức tin - một hiện tượng đã càng ngày càng hiện lộ trong các xã hội và các nền văn hóa mà qua các thế kỷ dường như đã được Phúc Âm thấm nhiễm. Những sự đổi thay về xã hội chúng ta vẫn chứng kiến thấy trong các thập niên qua gây ra bởi những nguyên nhân phức tạp lâu dài, và là những đổi thay đã sâu xa thay đổi cách nhận thức của chúng ta về thế giới. Chúng ta chỉ cần nghĩ tới nhiều thứ tiến bộ về khoa học và kỹ thuật, về các khả thể gia tăng đối với sự sống cũng như với những lãnh vực tự do cá nhân, về những thay đổi sâu xa nơi lãnh vực kinh tế, về tình trạng pha trộn về các chủng tộc và văn hóa gây ra bởi hiện tượng di dân có tầm mức toàn cầu, và về mối liên thuộc gia tăng giữa các dân tộc. Tất cả những điều này đã không xẩy ra mà lại không tác dụng đến cả chiều kích về tôn giáo nơi đời sống của con người nữa. Nếu một mặt nhân loại đã có được những lợi ích không thể phủ nhận từ những biến đổi này, và Giáo Hội từ đó cũng được phấn khích hơn trong việc chứng tỏ cho thấy niềm hy vọng nơi bản thân mình (cf. 1Pt 3:15), thì mặt khác lại cho thấy một mất mát đáng ngại về cảm quan của sự linh thánh, một cảm quan thậm chí còn bị đặt vấn đề về những nền tảng dường như đã từng bất khả lay chuyển, chẳng hạn như đức tin vào một Vị Thiên Chúa hóa công quan phòng, vào mạc khải về Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất, và vào ý thức chung về những cảm nghiệm cốt yếu của con người, chẳng hạn như việc sinh sản, chết chóc, cuộc sống trong gia đình, và vấn đề căn cứ vào luật luân lý tự nhiên. Mặc dù tất cả những điều này đã từng được một số người coi như là một thứ giải phóng, chẳng bao lâu đã được nhận thấy như là một thứ sa mạc nội tâm bất cứ khi nào con người, vì muốn trở thành kiến trúc sư duy nhất cho bản tính của mình cũng như cho định mệnh của mình, đã cảm thấy mình bị hụt hẫng mất đi những gì tạo nên nền tảng của tất cả mọi sự”.
3- Những quan tâm và giải quyết của các vị tiền nhiệm Phaolô VI và Gioan Phaolô II:
· “Công Đồng Chung Vaticanô II, trong số những đề tài chính yếu của mình, đã bàn đến vấn đề về mối liên hệ giữa Giáo Hội và thế giới đương thời này. Theo chiều hướng giáo huấn của công đồng, các vị Tiền Nhiệm của tôi đã cho thấy hơn nữa nhu cầu cần phải tìm kiếm những đường lối thích đáng để giúp cho thành phần đương thời của chúng ta có thể tiếp tục nghe thấy Lời sống động và vĩnh hằng của Chúa. Theo viễn quan của mình, Người Tôi Tớ Chúa Phaolô VI đã nhận định rằng việc dấn thân truyền bá phúc âm hóa, ‘do bởi những tình hình thường xuyên thoái hóa Kitô giáo trong thời đại của chúng ta, […] cũng cho thấy cần thiết như thế đối với vô vàn con người đã được rửa tội nhưng sống hoàn toàn ở ngoài đời sống Kitô giáo, đối với những người bình dân là thành phần có một đức tin nào đó nhưng thiếu hiểu biết về những nền tảng của đức tin ấy, đối với những người trí thức là thành phần cảm thấy cần hiểu biết Chúa Giêsu Kitô bằng một thứ ánh sáng khác với sự hướng dẫn họ đã nhận được khi còn nhỏ, và đối với nhiều người khác’ (apostolic exhortation "Evangelii Nuntiandi," No. 52). Hơn thế nữa, lưu ý tới những ai tách lìa đức tin, ngài đã thêm rằng hoạt động truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội ‘cần phải liên lỉ tìm kiếm những phương tiện và ngôn ngữ thích đáng để trình bày hay tái trình bày cho họ về mạc khải của Thiên Chúa và niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô’ (ibid., No. 56)”.
“Người Tôi Tớ Đáng Kính Gioan Phaolô II đã biến công việc khẩn trương này thành điểm chính yếu trong huấn quyền bao rộng của ngài, đề cập đến nó như “việc tân truyền bá phúc âm hóa”, một việc tân truyền bá phúc âm hóa được ngài trong nhiều trường hợp đã phân tích một cách phương pháp hóa – một công việc ngày nay vẫn đang áp đặt trên Giáo Hội, đặc biệt ở những miền được Kitô Giáo hóa ngày xưa. Một công việc, cho dù trực tiếp liên quan tới đường lối của nó đối với những gì là ad extra - bề ngoài, tuy nhiên, trước hết, cũng bao hàm tất cả những gì liên quan tới việc liên lỉ canh tân nội tâm, một việc có thể nói là tiếp tục chuyển từ chỗ được truyền bá phúc âm hóa sang truyền bá phúc âm hóa. Chỉ cần nhắc lại những gì đã được khẳng định trong tông huấn "Christifideles Laici" của hậu thượng nghị giám mục: ‘Tất cả các xứ sở và quốc gia có tôn giáo và đời sống Kitô giáo trước đây nở hoa và có khả năng nuôi dưỡng một cộng đồng đức tin sống động và hoạt động, giờ đây đang trải qua một thử thách gay go, và trong một số trường hợp, thậm chí còn trải qua một cuộc biến đổi toàn diện, gây ra bởi một cuộc liên lỉ lan tràn những gì là dửng dưng lạnh lùng về đạo giáo, những gì là tục hóa và những gì là vô thần. Tình trạng đặc biệt liên quan tới các xứ sở và các quốc gia được gọi là Thế Giới Đệ Nhất này, nơi mà phúc hạnh về kinh tế và chủ nghĩa hưởng thụ, thậm chí đồng hiện hữu với một tình trạng thê thảm về nghèo khổ và khốn khổ, đang phấn khích và ủng hộ một đời sống ‘như thể Thiên Chúa không hiện hữu’. Tình trạng dửng dưng lạnh lùng đối với đạo nghĩa cũng như đối với việc thực hành đạo nghĩa trống rỗng những gì là ý nghĩa đích thực trước những vấn đề rất trầm trọng của đời sống, không phải là những gì ít quan ngại và lo âu so với thứ chủ nghĩa vô thần công khai. Đôi khi cả đức tin Kitô giáo nữa, trong lúc bảo tồn một số những hình thức bề ngoài về truyền thống và nghi lễ của nó lại có khuynh hướng tách lìa khỏi những giây phút có tầm vóc quan trọng nhất của cuộc sống con người, như sinh ra, khổ đau và chết đi. […] Đàng khác, ở những miền đất hay những quốc gia khác, nhiều truyền thống quan trọng về lòng đạo đức và các hình thức phổ thông của đạo Kitô giáo vẫn còn được bảo trì; thế nhưng, ngày nay cái gia sản về luân lý và thiêng liêng này đang có nguy cơ bị phân tán bởi ảnh hưởng của vô số những tiến trình, bao gồm cả việc tục hóa và tình trạng lan tràn các thứ giáo phái. Chỉ duy việc tái truyền bá phúc âm hóa mới có thể bảo đảm việc tăng triển cho một đức tin minh tường và sâu xa, và giúp vào việc làm cho những truyền thống này trở thành một quyền lực cho sự tự do đích thực. Thật sự là cần đến việc tu bổ về tính chất Kitô giáo trong xã hội nơi tất cả mọi phần đất trên thế giới. Thế nhưng, để đạt được điều ấy, trước hết cần phải tái thực hiện tính chất Kitô giáo của chính cộng đồng giáo hội hiện diện nơi những xứ sở và những quốc gia ấy’ (khoản 34)”.
4- Việc quyết định của vị giáo hoàng đương kim Biển Đức XVI:
· Khi coi các mối quan tâm của những vị Tiền Nhiệm trên đây như là của mình, tôi coi đó là một cơ hội để cống hiến những giải đáp thích đáng hầu toàn thể Giáo Hội, khi để mình được tái sinh bởi quyền phép Thánh Thần, hiện lên trước thế giới đương đại với một tác lực truyền giáo trong việc phát động một cuộc tân truyền bá phúc âm hóa. Việc tân truyền bá phúc âm hóa trước hết liên quan tới các Giáo Hội có gốc gác xa xưa, những giáo hội đang sống trong các hoàn cảnh khác nhau cũng như có những nhu cầu khác nhau, và vì thế, cần đến các loại tác lực khác nhau cho việc truyền bá phúc âm hóa: thật vậy, ở một số lãnh thổ, mặc dù gia tăng về hiện tượng tục hóa, việc thực hành Kitô giáo vẫn phấn chấn và cho thấy một nền tảng sâu xa nơi linh hồn của toàn thể dân chúng; ở những vùng khác, trái lại, đang thấy xẩy ra một thứ tách biệt đức tin ở mọi khía cạnh nơi toàn thể xã hội, cùng với tính chất yếu mềm về giáo hội, cho dù không thiếu vắng các yếu tố của sự linh hoạt được Thần Linh không ngừng làm bừng lên; tiếc thay, chúng ta còn biết được có những miền dường như hoàn toàn loại trừ Kitô giáo, nơi mà ánh sáng đức tin được ký thác cho chứng từ của các cộng đồng nhỏ bé: những vùng đất ấy, những vùng đất cần tái diễn việc loan báo tiên khởi của Phúc Âm, dường như đặc biệt chống lại với nhiều khía cạnh của sứ điệp Kitô giáo.
Tính chất đa dạng của
những hoàn cảnh này đòi phải được cẩn thận nhận thức: nói về “việc tân truyền bá
phúc âm hóa”, thật vậy, không có nghĩa là áp dụng một công thức như nhau duy
nhất cho tất cả mọi trường hợp. Tuy nhiên, không khó cho lắm khi nhận thức được
những gì tất cả Giáo Hội đang sống ở các lãnh thổ Kitô giáo truyền thống ấy cần
đến, đó là một động lực truyền giáo mới mẻ, việc bày tỏ cho thấy những gì là cởi
mở rộng rãi mới đối với tặng ân của ơn sủng. Thật vậy, chúng ta không thể quên
rằng công việc đầu tiên đó là trở nên dễ dậy với hoạt động nhưng không Thần Linh
của Đấng Phục Sinh thực hiện, Đấng hỗ trợ tất cả những ai là thành phần loan báo
Phúc Âm và là Đấng mở lòng của những ai muốn lắng nghe. Trên hết, cần có một cảm
nghiệm sâu xa về Thiên Chúa cho việc loan báo Lời của Phúc Âm một cách sâu xa.
Như tôi đã nói trong bức thông điệp đầu tiên “Thiên Chúa là Tình Yêu” của mình: “Là Kitô hữu không phải là kết quả của một thứ chọn lựa về đạo lý hay là kết quả của một ý nghĩ cao vời, mà là cuộc gặp gỡ với một biến cố, một con người, cuộc gặp gỡ làm hồn sống cho một chân trời mới và một hướng đi quyết liệt” (đoạn 1). Cũng một đường lối như thế, ở mạch nguồn của tất cả mọi việc truyền bá phúc âm hóa không phải là mưu cơ lan rộng của con người, mà là ước muốn chia sẻ tặng ân vô giá Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, làm cho chúng ta thành những kẻ thông phần vào sự sống của Ngài.
5- Việc thành lập tân hội đồng giáo hoàng.
· Bởi thế, theo chiều hướng của những suy tư ấy, sau khi đã cẩn thận xem xét hết mọi sự và đã bàn hỏi với các chuyên gia, tôi muốn thiết lập và chỉ thị những điều sau đây:
Khoản 1
Tiết 1. Hội Đồng Tòa Thánh đặc trách Cổ Võ Việc Tân Truyền Bá Phúc Âm Hóa được thiết lập như một Phân Bộ của Tòa Thánh Rôma, hợp với Tông Hiến Pastor Bonus.
Tiết 2. Hội Đồng này thực hiện mục đích của mình bằng cách khuyến khích việc suy niệm về các đề tài của việc tân truyền bá phúc âm hóa, cũng như ớ việc xác định cùng phát động các cách thức và phương tiện thích đáng để hoàn thành nó.
Khoản 2
Hoạt động của Hội Đồng này, một hoạt động được thực hiện trong sự hợp tác với các Phân Bộ và Cơ Cấu khác của Tòa Thánh Rôma, hợp với thẩm quyền xứng hợp của các Phân Bộ và Cơ Cấu ấy, đó là phục vụ các Giáo Hội riêng, nhất là ở những lãnh thổ thuộc truyền thống Kitô giáo có chứng cớ rõ ràng cho thấy đang xẩy ra hiện tượng tục hóa.
Khoản 3
Các công việc chuyên biệt của Hội Đồng này được phác họa như sau:
1- khảo sát sâu xa ý nghĩa về thần học và mục vụ của việc tân truyền bá phúc âm hóa;
2- phát động và duy trì, trong sự hợp tác chặt chẽ với các Hội Đồng Giám Mục liên hệ - những hội đồng có thể lập một cơ cấu đặc vụ - việc học hỏi, phổ biến và hiện thực Huấn Quyền của giáo hoàng liên quan tới các đề tài về việc tân truyền bá phúc âm hóa;
3- trình bày và nâng đỡ những sáng kiến liên hệ tới việc tân truyền bá phúc âm hóa đang được thực hiện ở các Giáo Hội riêng khác nhau, và cổ võ việc hiện thực những dự án mới của các Giáo Hội này, bằng việc chủ động bao gồm cả những nguồn sẵn có ở nơi các Tổ Chức Sống Đời Tận Hiến và Các Hội Sống Tông Đồ, cũng như nơi các nhóm thành phần tín hữu và nơi các cộng đồng mới;
4- nghiên cứu và phấn khích việc sử dụng các hình thức tân tiến nơi ngành truyền thông làm phương tiện cho việc tân truyền bá phúc âm hóa;
5- cổ võ việc sử dụng Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo như là một trình bày xác đáng rõ ràng một cách thiết yếu và đầy đủ về nội dung của đức tin cho con người trong thời đại chúng ta.
Khoản 4
Tiết 1. Hội Đồng này được lãnh đạo bởi một vị Chủ Tịch Tổng Giám Mục, vị được trợ giúp bởi Thư Ký, bởi một Phó Bí Thư và bởi một số thích đáng Viên Chức, theo các tiêu chuẩn được ấn định trong Tông Hiến Pator Bonus cũng như bởi Qui Định Tổng Quan của Tòa Thánh Rôma.
Tiết 2. Hội Đồng này sẽ có các Phần Tử riêng và có thể có các Tham Vấn riêng của mình.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian
như Hạt Lúa Miến được gieo xuống đất nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể,
và đã mục nát đi nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua
để sinh nhiều hoa trái nơi Mầu Nhiệm Giáo Hội lãnh nhận quyền lực từ trên cao
khi từ Cha Chúa sai Thánh Thần xuống trên các Thánh Tông Đồ.
Xin Chúa hãy tiếp tục canh tân bộ mặt trái đất là văn hóa của các dân tộc,
bằng men Phúc Âm sự sống của Chúa được dậy lên trong ba đấu bột giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ
là thành phần môn đệ của Chúa qua chứng từ truyền giáo của họ cho tới khi Chúa lại đến.
Amen.