

 

Vị Giáo Hoàng của “Vui Mừng và Hy Vọng”:

 

NGUYÊN TỐ

GÂY SỤP ĐỔ CỘNG SẢN ĐÔNG ÂU

 

  

  

T

hứ Tư 24/3/2004, áp ngày Lễ Mẹ Thai Lời 25/3 hằng năm, ĐTC đã dùng buổi triều kiến chung hằng tuần này, buổi triều kiến Ngài vẫn chia sẻ giáo lý từ năm 1979 đến bấy giờ, để nhắc lại mục đích của việc Ngài tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ 20 năm trước đây, vào dịp kết thúc Năm Thánh Cứu Chuộc, 25/3/1984. Thật vậy, ĐTC GPII đã mở Năm Thánh Cứu Độ, kỷ niệm 1950 năm Chúa Kitô cứu chuộc loài người vào năm Người 33 tuổi, tức là, nếu lấy 1950 + 33 = 1983; ngày 25/3/1984 là ngày kết thúc Năm Thánh Cứu Chuộc được bắt đầu từ ngày 25/3/1983. Hai mươi năm sau ngày bế mạc Năm Thánh Cứu Chuộc này, Đức Thánh Cha đã nhắc lại những gì ngài đã làm như sau:

·         Tôi đặc biệt nhớ đến ngày 25/3 năm 1984, Năm Thánh Cứu Chuộc. Hai mươi năm đã qua đi từ ngày ở Quảng Trường Thánh Phêrô, hiệp nhất về tinh thần với tất cả các giám mục trên thế giới được ‘triệu tập’ trước đó, Tôi đã hiến dâng tất cả loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria để đáp ứng lời yêu cầu của Đức Mẹ ở Fatima”. 

 

Tuy ở đây ĐTC không nói đặc biệt đến việc hiến dâng Nước Nga cho Mẹ, nhưng Ngài đã xác nhận là Ngài có ý làm điều ấy “để đáp ứng lời yêu cầu của Đức Mẹ ở Fatima”, tức đáp ứng việc hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Đó là lý do trong lời hiến dâng của mình bấy giờ, tức vào ngày 25/3/1984, Đức Thánh Cha đã nói một cách khôn khéo như sau:

 

·         Chúng con hôm nay đặt mình trước nhan Mẹ trong năm mừng kỷ niệm ơn cứu rỗi. Chúng con xin hợp với tất cả mọi chủ chăn trong Giáo Hội làm thành một thân thể và một tập đoàn, đúng như ý của Chúa Kitô muốn các tông đồ hiệp nhất với thánh Phêrô. Trong mối liên kết hiệp nhất này, chúng con đọc những lời hiến dâng mà chúng con muốn bao gồm một lần nữa hy vọng của Giáo Hội cũng như lo âu đối với thế giới ngày nay. Bốn mươi năm về trước, rồi 10 năm sau đó, tôi tớ của Mẹ là Đức Giáo Hoàng Piô XII, chứng kiến cảnh khổ đau của gia đình nhân loại, đã phó thác và hiến dâng cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, đặc biệt là nhân dân mà Mẹ yêu thương và quan tâm cách riêng. Cũng thế giới của mọi người và mọi dân tộc này trước mắt của con hôm nay đây, con xin lập lại việc phó thác và hiến dâng mà vị tiền nhiệm của con đã thực hiện ở Tòa Thánh Phêrô: thế giới của kỷ nguyên thứ hai đang kết thúc, thế giới tân tiến, thế giới của chúng con hôm nay! Một cách đặc biệt, chúng con xin phú thác và hiến dâng cho Mẹ tất cả những người và những dân nước cần được phú thác và dâng hiến. Chúng con chạy đến với sự bảo hộ của Mẹ, Thiên Chúa Thánh Mẫu: xin đừng chê chối lời cầu xin chúng con dâng lên Mẹ trong cơn khẩn trương của chúng con”.

 

Trong “Lời Nguyện Cầu Biến Đổi Thế Giới “ này, chúng ta thấy ĐTC GPII đã nhắc đến 4 sự kiện lịch sử như sau:

 

Sự kiện lịch sử thứ nhất, đó là sự kiện ĐTC GPII quả thực có hợp với các vị giám mục trên thế giới, đúng như cách thức Thiên Chúa muốn thực hiện được Mẹ Maria tỏ cho chị Lucia biết ngày 13/6/1929 và đã được chị đệ trình Đức Thánh Cha Piô XII trong thư đề ngày 24/10/1940. ĐTC GPII đã xác nhận sự kiện hàng giáo phẩm của Giáo Hội Công giáo hiệp dâng như chúng ta đã nghe là: “Chúng con xin hợp với tất cả mọi chủ chăn trong Giáo Hội làm thành một thân thể và một tập đoàn…, Trong mối liên kết hiệp nhất này, chúng con đọc những lời hiến dâng…”.

 

Sự kiện lịch sử thứ hai, đó là hai lần vị tiền nhiệm của ngài là Đức Piô XII đã hiến dâng loài người và thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, hai lần này đã được chúng tôi nhắc đến là ngày 31/10/1942 và ngày 7/7/1952, lần thứ nhất Đức Piô XII chỉ dâng chung loài người, lần thứ hai ngài mới có ý dâng Nước Nga.

 

Sự kiện lịch sử thứ ba, đó là trong lần hiến dâng thứ hai của ĐTC Piô XII, vị giáo hoàng thời thế chiến thứ II này đã quả thực có ý muốn hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria rồi, như ĐTC GPII lập lại trong Lời Nguyện Cầu Biến Đổi Thế Giới của ngài như chúng ta đã nghe: “rồi 10 năm sau đó, tôi tớ của Mẹ là Đức Giáo Hoàng Piô XII, chứng kiến cảnh khổ đau của gia đình nhân loại, đã phó thác và hiến dâng cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, đặc biệt là nhân dân mà Mẹ yêu thương và quan tâm cách riêng”.

 

Sự kiện lịch sử thứ bốn, đó là việc chính ĐTC GPII cũng có ý hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, khi ngài khôn ngoan kín đáo nhắc riêng đến  Nước Nga bằng những lời lẽ chúng ta cũng đã nghe: “Một cách đặc biệt, chúng con xin phú thác và hiến dâng cho Mẹ tất cả những người và những dân nước cần được phú thác và dâng hiến”.

 

Chính vì Nước Nga đã được ĐTC GPII hiệp cùng với hàng giáo phẩm trên thế giới hiến dâng cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ đúng ý muốn và cách thức của trời cao như thế, Thiên Chúa đã thực hiện những gì Ngài hứa, như chị Lucia được Đức Mẹ tỏ cho biết vào ngày 13/6/1929, đó là Ngài sẽ làm cho Nước Nga trở lại, một sự kiện lịch sử đã hoàn toàn xẩy ra được diễn tiến tuần tự như sau:

 

Trước hết là biến cố bất ngờ xuất hiện nhân vật lịch sử Gaborchev, bất ngờ xuất hiện như trường hợp của chính ĐTC GPII trong Giáo Hội Công giáo, một vị giáo hoàng đến từ một nước cộng sản và không phải là người Ý. Nhân vật lãnh tụ Khối Cộng Sản Liên Bang Sô Viết cuối cùng trẻ nhất trong số lãnh tụ trước đó ấy đã xuất hiện vào tháng 3 năm 1985, tức sau đúng 1 năm Nước Nga được hàng giáo phẩm Giáo Hội Công giáo hiến dâng cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.

 

Tiếp theo là Biến Cố Cộng Sản Đông Âu tự động sụp đổ một cách bất ngờ trước con mắt bàng hoàng sửng sốt của cả thế giới, nhất là thế giới tư bản, một khối tư bản chẳng những không thể làm gì nổi họ trong thời chiến tranh lạnh Cold War mà còn bị họ dần dần chiếm đất giành dân khắp nơi trên thế giới. Có cái lạ nữa là Biến Cố Đông Âu này được diễn tiến nói chung hoàn toàn bất bạo động theo đường hướng tranh đấu của Giáo Hội, chứ không phải theo kiểu tranh đấu giai cấp bạo động của cộng sản, và cuộc tranh đấu bất bạo động này đã được bắt nguồn ngay từ quê hương Balan của vị giáo hoàng đã đọc “Lời Nguyện Biến Đổi Thế Giới”.

 

Sau hết là Biến Cố Nước Nga trở lại vào chính Ngày Giáng Sinh 25/12/1991, khi vị lãnh tụ cuối cùng của khối Cộng Sản Liên Bang Sô Viết là Gorbachev từ chức, vị đã chủ trương đường hướng Cởi Mở được gọi là Glasnot và Cải Tổ được gọi là Parestroika là những gì thực sự đã mang lại một biến động hoàn toàn đổi thay cho Khối Cộng Sản Đông Âu.

 

Trong cuốn Trái Tim Mẹ Toàn Thắng, tác phẩm xuất bản nhân dịp kỷ niệm đúng 1 năm sau khi Nước Nga trở lại, ở trang 11-13, tôi đã viết như sau:

 

“Những diễn tiến về sự kiện sụp đổ chớp nhoáng đầy ngoạn mục của chế độ cộng sản ở Âu Châu  vào cuối năm 1989 đã xẩy ra hoàn toàn ngoài mọi dự tưởng của những chính trị gia lỗi lạc nhất thế giới. Không phải hay sao, một chế độ độc tài đảng trị và sắt máu như cộng sản, hầu như, về phương diện loài người, không gì có thể tiêu diệt được nó và chống lại được sự bành trướng của nó. Thế mà, ngay trong lúc mà cả loài người đang lo sợ vì nó đang trở nên một hiểm họa vô cùng nguy hiểm đến vận mệnh cả loài người ở thế kỷ 20 này, thì tự nó lại quay ra chết bất đắc kỳ tử.

 

“Thật ra, đã có ba điều lạ lùng xẩy ra, đúng hơn, ba yếu tố định đoạt trong biến cố qua đời của chế độ cộng sản ở Âu Châu này. Thứ nhất, năm 1978, vị Giáo Hoàng Rôma (Gioan-Phaolô II) được bầu lên xuất thân từ một nước cộng sản. Thứ hai, năm 1980, tổ chức Công Đoàn Liên Đới (Solidarity) được Lech Walesa hình thành ở Ba Lan. Thứ ba, năm 1985, chính sách Cởi Mở (Glasnost) và Cải Tổ (Perestroika) được tân lãnh tụ Mikhail Gorbachev phát động ở Nga Sô.

 

“Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô là yếu tố thứ nhất trong ba yếu tố định đoạt cho hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.

 

“Biến cố này bắt đầu từ khi Ngài về thăm quê hương của Ngài vào ngày 2-10/6/1979. Việc Ngài được phép chính quyền cộng sản Ba- Lan cho về thăm quê hương cũng không phải là chuyện thường. Đầu tiên chính quyền Ba Lan từ chối lời xin phép của Ngài. Sau đó, chính quyền đã tự nhượng bộ vào ngày 7/5/1979, ngày kết thúc bảy ngày và bảy đêm liên tục lần chuỗi trước Mình Thánh Chúa được tổ chức ở Đền Đức Mẹ Czestochowa để cầu nguyện cho việc được phép về thăm quê hương của Đức Giáo Hoàng.

 

Để rồi, với ảnh hưởng của Ngài, Công Đoàn Liên Đới đã được hình thành.

 

“Timothy Garton Ash, một ký giả người Anh, năm 1990 đã viết: ‘Chính tháng Sáu năm 1979 là khởi điểm cho cuộc kết liễu của riêng lịch sử Đông Âu... Tôi tin rằng chuyến công du đầu tiên về Ba-Lan của Đức Thánh Cha là chốt điểm của nó. Chỉ hơn một năm sau cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha là Công Đoàn Liên Đới ra đời, nếu không có cuộc viếng thăm này của Đức Thánh Cha, chưa chắc đã có Công Đoàn Liên Đới. Gương của Công Đoàn Liên Đới là một khai triển tân kỳ. Nó đã đi tiên phong như là một hình thái chính trị mới mẻ ở Đông Âu (và không phải chỉ mới mẻ ở đó mà thôi): chính trị tự tổ hợp nhằm điều giải cho việc chuyển nhượng của cộng sản’ (Catholic International [Vol 3, No 1 & 2, January 1992], 57).

 

“Mikhail Gorbachev, nguyên lãnh tụ Cộng Sản Liên Sô, cho rằng Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã giữ một vai trò rất quan trọng trong việc Cộng Sản Đông Âu sụp đổ. Trong một bài báo được nhiều tờ báo nổi tiếng trên thế giới đăng tải vào tháng 3/1992, Gorbachev đã viết: ‘Những biến cố ở Đông Âu không thể nào xẩy ra nếu không có vai trò quan trọng mà ngài tự biết phải đóng vai trò như thế nào trong hiện tình thế giới... Tôi vẫn tin ở tầm mức quan trọng nơi những hành động của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong những năm ấy’” (Fatima Family Messenger [4-6/1992], trag 21).

 

Tổng Thống George Bush, trong bài diễn văn dịp Khánh Thành Trung Tâm Văn Hóa Gioan Phaolô II ở Washington DC ngày 22/3/2001, đã nhận định rằng: “Chúng ta hãy nhớ lại cuộc thăm viếng của vị Giáo Hoàng này lần đầu tiên ở Balan năm 1979, một thời điểm đức tin đã trở thành một lực lượng kháng cự và bắt đầu gây biến động đưa đến tình trạng sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản đế quốc”.

 

Chính ĐTC GPII, sau buổi triều kiến chung hằng tuần vào ngày Thứ Tư ngài chia sẻ Giáo Lý về việc cầu nguyện bằng Thánh Vịnh, nhân dịp kỷ niệm 25 năm chuyến tông du lịch sử về quê hương Balan này của mình cũng đã công nhận điều ấy như sau:

 

“Hôm nay là ngày kỷ niệm 25 năm lần đầu tiên với tư cách là Giáo Hoàng Tôi đã hôn đất Balan. Tâm tư của Tôi luôn luôn nghĩ lại những ngày này và Tôi tạ ơn Chúa về ngọn gió Thánh Linh đã thổi qua mảnh đất ấy tạo nên một cuộc thay đổi sâu xa. Tôi cầu xin Chúa chúc lành cho quê hương xứ sở của chúng ta cũng như cho toàn thể nhân dân Balan”.

 

Trong cuộc tông du 2-10/6/1979 của mình, Ngài đã đọc 36 bài diễn từ. Tối thiểu từ 10 trong số 35 triệu người dân đã được đích thân thấy Ngài, ở 9 thành phố, làng mạc và đền thánh Ngài đã đến thăm.

 

Bắt đầu năm 1979, ông Edward Gierek, bí thư đầu tiên của Đảng Lao Động Thống Nhất của Balan, đã nói chuyện điện thoại với lãnh tụ Nga Sô bấy giờ là Leonid Brezhnev, nhân vật đã khuyên can ông hãy cản trở việc viếng thăm của vị giáo hoàng này.

 

Trong tác phẩm “Giáo Hoàng Gioan Phaolô II” của Tad Szulc, Gierek tiết lộ là, khi thấy vị bí thư này bất đồng ý kiến với mình, vị lãnh đạo khối liên bang Nga Cộng liền nói: “Vậy thì đồng chí cứ làm theo ý muốn của mình, miễn là đàng chí và Đảng của đồng chí sau này đừng có mà hối hận”.

 

Đúng thế, theo bài “Gorbachev: Pope was 'example to all of us'” của CNN, phổ biến ngày 3/4/2005, thì Gorbachev người từng nói rằng việc sụp đổ Bức Tường Sắt không thể nào xẩy ra được nếu không có Đức Gioan Phaolô II, đã cho biết vị giáo hoàng này lên án cộng sản ngay vào lần đầu tiên hai người gặp nhau năm 1989, ngay sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ.

 

Vị giáo hoàng này, vị bắt đầu vai trò giáo hoàng của mình vào năm 1978 khi Nga đô hộ quê hương Balan của ngài và Đông Âu, đã chỉ trích gắt gao chủ nghĩa cộng sản và ủng hộ những ai chiến đấu đổi thay tình thế ấy. “Ngài đã nói với tôi rằng ngài… rất, rất kỵ chủ nghĩa cộng sản”.

 

Gorbachev cho biết vị giáo hoàng đã nêu lên vấn đề Bức Tường Bá Linh trong cuộc gặp gỡ của hai người: “Ngài muốn biết ý của tôi về viễn ảnh của một Âu Châu hiệp nhất. Bức Tường Bá Linh dĩ nhiên là một phần của viễn ảnh này, thế nhưng ngài thực sự đã muốn nói đến việc chấm dứt Cuộc Chiến Tranh Lạnh”.

 

Những việc cải cách về kinh tế của Gorbachev, được gọi là perestroika, đã góp phần vào việc giải phóng xã hội Sô Viết Nga trong thập niên 1980.

 

Vị nguyên lãnh đạo Sô Viết Nga này, vị bị ép buộc phải từ nhiệm khi quốc gia của ông bùng nổ vào năm 1991, đã nói rằng vị giáo hoàng cũng phê bình cả chủ nghĩa tư bản nữa trong cuộc gặp gỡ năm 1989.

 

“Ngài nói ‘tôi không phục vụ bất cứ một đảng phái chính trị nào hết, tôi phụng sự Thiên Chúa. Bởi thế tôi ủng hộ cũng những điều ông đang cố gắng chiếm đạt bằng chính sách cải tổ kinh tế perestroika của ông’”

 

Sau cuộc gặp gỡ này, Gorbachev nói, ông đã bay đến Malta để gặp tổng thống George H.W. Bush. Sau đó cả hai tuyên bố rằng Hiệp Chủng Quốc và Liên Bang Sô Viết không còn là kẻ thù của nhau nữa: “Bởi vậy, thấy không, tất cả đều có liên hệ với nhau”.

 

Cũng theo mạng điện toán toàn cầu CNN, trong bài “World mourns Pope John Paul II”, ngày 3/4/2005, người ta còn đọc thấy những cảm nhận của hai nhân vật quốc tế về vị giáo hoàng vừa nằm xuống như sau:

 

Trước hết là ông Lech Walesa, vị lãnh đạo phong trào Liên Đới Balan cũng là cựu Tổng Thống Balan đầu tiên nói rằng Đức Gioan Phaolô II đã tác động việc kết thúc chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu. “Không có ngài sẽ không có vấn đề chấm dứt chủ nghĩa cộng sản, hay ít là mãi sau này và việc chấm dứt sẽ xẩy ra đẫm máu.

 

Sau nữa là bà Margaret Thatcher, nguyên thủ tướng Hiệp Vương Quốc: Hằng triệu người mắc nợ ngài về sự tự do và tự trọng của họ. Toàn thế giới được đánh động bởi gương lành của ngài. Đời sống của ngài là một cuộc chiến đấu lâu dài chống lại những thứ gian dối được lợi dụng để hành ác. Bằng việc chiến đấu với những thứ sai lạc của cộng sản và loan truyền phẩm giá thực sự của cá nhân con người, cuộc đời của ngài là một quyền lực luân lý bên trong cuộc chiến thắng ở Cuộc Chiến Tranh Lạnh”.

 

Ngay trước khi khối Cộng Sản Đông Aâu bắt đầu theo nhau sụp đổ một cách bất ngờ và tức tưởi ngoài dự tưởng của chính trị gia hay kinh tế gia lỗi lạc nhất thế giới, khởi đi từ chính quê hương Ba-Lan của vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vào ngày 19-8-1989, thì chị Lucia đã chính thức lên tiếng tuyên bố vào ngày 1-8-1989 như sau: “Chúa chúng ta đã chấp nhận việc hiệp dâng năm 1984”, cũng trong ngày này, chị còn lập lại câu chị trả lời vị Sứ Thần Tòa Thánh ở Lisbon là “Vâng, giờ đây nước Nga đã được hiến dâng… Thiên Chúa sẽ giữ lời của Ngài”. Những lời của chị Lucia khẳng định ngay trước Biến Cố Đông Âu xẩy ra này được tờ Tam Cá Nguyệt San Fatima Family Messenger ở New Hope, tiểu bang Kentuckey, Hoa Kỳ, số tháng 10-12/1989, (trang 7 và 9), ghi nhận và phổ biến, là bằng chứng cho thấy việc tự động giải thể của khối Cộng Sản Đông Aâu hoàn toàn do việc can thiệp lạ lùng của Nữ Vương Toàn Thắng Mân Côi Fatima.

 

Trong nguyệt san The Catholic World Report, 10/1993, trang 45-46, chính Gorbachev, lãnh tụ cuối cùng của đảng Công Sản Liên Sô, và Lech Walesa, chủ tịch Công Đoàn Liên Kết Ba-Lan chống cộng cũng là vị tổng thống đầu tiên thời hậu Cộng Sản, đã phải công nhận vai trò then chốt của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong riêng Biến Cố Đông Âu và của chung lịch sử Âu Châu hiện đại này như sau. Gorbachev cảm nhận: “Tôi xin nói rằng mọi sự ở Đông Âu không thể nào xẩy ra nếu thiếu vị giáo hoàng này, thiếu tư tưởng của ngài – kể cả tư tưởng chính trị – và thiếu việc ngài nắm vững tình hình thế giới. Một cuộc thay đổi tận gốc rễ đã thực hiện nơi lịch sử Châu Âu, và Gioan Phaolô đã đóng một vai trò quyết liệt”. Walesa cũng xác nhận: “Năm 1979, Đức Giáo Hoàng đã nói ở Balan: ‘Không thể nào có một Châu Âu chân chính mà lại không có một Balan tự do’. Ngày nay đây, Âu Châu đã trở thành các quốc gia tự do, tôi nghĩ rằng nhiều người tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã ban Gioan Phaolô II cho thế giới”.

 

Về phần mình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lại qui mọi sự thay đổi phi thường ngoài sức tự nhiên, cả trong lãnh vực quyền lực chính trị, kinh tế và quân sự này về cho Mẹ Fatima, như ngài đã không ngần ngại tỏ ra cảm nhận thần linh của mình trong cuốn “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của ngài, khi trả lời cho vấn đề “Thiên Chúa có nhúng tay vào việc sụp đổ của Cộng Sản hay không?” thế này: “Chúng ta nói thế nào về ba trẻ ở Fatima là những người, ngay trước cuộc bùng nổ Cách Mạng Tháng Mười, bỗng nhiên nghe thấy rằng: ‘Nước Nga sẽ trở lại’ và ‘Cuối cùng Trái Tim Mẹ sẽ thắng’…? Chúng không thể nào tạo tĩnh ra được những tiên đoán này. Chúng không đủ hiểu biết về lịch sử hay địa dư, lại càng mù tịt về các biến động trong xã hội cũng như các phát triển về ý thức hệ. Thế mà, việc đã xẩy ra đúng như lời chúng nói. Có lẽ đó là lý do tại sao… cần phải có một cuộc ám sát ở Công Trường Thánh Phêrô vào đúng ngày 13-5-1981, ngày kỷ niệm lần hiện ra thứ nhất ở Fatima…”.

 

Trong bài “Bush: 'A hero for the ages'”, được CNN phổ biến ngày 2/4/2005, thì Tổng Thống Bush đã 3 lần gặp vị giáo hoàng này trong cuộc đời của ông. Vào tháng 6/2001, khi đến viếng thăm Vatican, Tổng Thống Bush đã kính tặng vị giáo hoàng Huy Chương Tự Do của Tổng Thống, vinh dự cao cả nhất của Hoa Kỳ ban tặng cho dân sự.

 

Sau đây là bản văn của tổng thống phát biểu vào buổi chiều Thứ Bảy 2/4:

 

“Giáo Hội Công giáo đã mất đi vị chủ chăn của mình. Thế giới đã mất đi một con người chiến đấu cho tự do của con người, và một người tôi tớ nhân lành và tín trung của Thiên Chúa đã được gọi về.

 

“Đức Gioan Phaolô II đã rời bỏ ngai tòa Phêrô cũng cùng một cách như ngài đã đăng quang, với tư cách là một chứng nhân cho phẩm giá của sự sống con người. Ở quê hương Balan của mình, vị chứng nhân này đã tung ra một cuộc cách mạng dân chủ làm rung chuyển cả Đông Âu và thay đổi giòng lịch sử.

 

“Ở khắp Tây Phương, chứng từ Đức Gioan Phaolô nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm của chúng ta trong việc xây dựng một nền văn hóa sự sống, một nền văn hóa mà kẻ mạnh phải bảo vệ kẻ yếu.

 

“Và trong những năm cuối đời của vị Giáo Hoàng này, chứng từ của ngài thậm chí còn mãnh liệt hơn nữa bằng việc can đảm hằng ngày đương đầu với bệnh nạn và nhiều khổ đau.

 

“Tất cả mọi vị giáo hoàng đều thuộc về thế giới, thế nhưng những người Hoa Kỳ có lý do đặc biệt để yêu mến con người từ Krakow này. Trong những cuộc ngài viếng thăm quê hương của chúng ta, vị giáo hoàng này đã nói về Bản Hiến Pháp thiên định của chúng ta, đến các sự thật hiển nhiên về phẩm vị con người nơi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của chúng ta, và nói đến những phúc hạnh tự do xuất phát từ những sự thật này.

 

“Ngài nói, chính những sự thật này, những sự thật khiến tất cả mọi người trên thế giới hướng về Hoa Kỳ với niềm hy vọng và trọng kính. Bản thân Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là một nguồn cảm hứng cho hằng triệu người Hoa Kỳ cũng như cho nhiều người nữa trên khắp thế giới.

 

“Chúng ta sẽ luôn nhớ đến vị linh mục khiêm tốn, khôn ngoan và can đảm này, vị đã trở thành một trong những vị đại lãnh đạo về luân lý trong lịch sử. Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa về việc gửi đến một con người như thế, một người con của Balan trở thành vị giám mục Rôma và là anh hùng của các thời đại”.

 

Trong bài  ‘Bush praises pope's 'profound impact', được CNN phổ biến ngày 9/4/2005, người ta còn đọc thấy những điều sau đây:

 

Tổng Thống Bush từ lễ an táng đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II về đêm Thứ Sáu, ông đã tỏ lòng trọng kính vị cố lãnh đạo của Giáo Hội Công giáo Rôma trong bài diễn văn phát thanh hằng tuần của mình.

 

Ông nói những việc cử hành đã lôi kéo các vị quốc vương, tổng thống và hành hương từ khắp nơi trên thế giới về Rôma là “một nhắc nhở mãnh liệt và tác động về cái ảnh hưởng sâu xa vị giáo hoàng này có được trên thế giới của chúng ta”.

 

“Hết mọi nơi ngài đến, vị giáo hoàng này đều rao giảng rằng tiếng gọi tự do là tiếng gọi giành cho hết mọi phần tử thuộc gia đình nhân loại, vì tác giả của sự sống đã viết nó vào bản tính loài người chung của chúng ta. Nhiều người ở Tây phương đã đánh giá nhẹ tầm mức ảnh hưởng của vị giáo hoàng này. Thế nhưng, những ai ở sau Bức Màn Sắt đã biết rõ hơn, và sau cùng ngay cả Bức Tường Bá Linh cũng không đứng vững quyền lực mãnh liệt của vị giáo hoàng Balan này”.

 

Vị tổng thống này đang tìm cách phổ biến nền dân chủ cho các quốc gia khác, ông thường nói về tự do là tặng ân của Thiên Chúa. Ông nói rằng Đức Gioan Phaolô II đã dấn thân cho lý tưởng này từ khi còn trẻ ở Balan, khi ngài tránh né cơ quan mật vụ Đức Quốc xã để tham dự chủng viện chui.

 

“Sau đó, khi ngài được bổ nhiệm là vị giám mục trẻ nhất Balan, ngài đã phải đối diện với một chế độ chuyên chế lớn khác của thế kỷ 20 là cộng sản. Và ngài đã sớm dạy cho các kẻ cầm quyền cộng sản ở Warsaw và Moscow rằng sự thật về luân lý có các đạo quân của nó và có một quyền lực còn lớn hơn cả những thứ quân đội và công an mật vụ của họ”.

 

Vị tổng thống này là tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên tham dự một lễ an táng giáo hoàng. Trong chuyến bay về nước, ông đã cho biết lễ an táng đã tác động ông hơn ông tưởng và sẽ ảnh hưởng đến vai trò làm tổng thống của ông.

 

“Cuộc cử hành hôm nay, tôi dám nói là đối với hằng triệu người, là một sự tái quyết tâm cho nhiều người”.

 

 

 

 

Vị Giáo Hoàng “Vui Mừng và Hy Vọng” hiến dâng Thế Giới và riêng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria ngày Lễ Mẹ Thai Lời 25/3/1984 tại Giáo Đô Rôma, kết Năm Thánh Cứu Chuộc, đúng như ý và cách Thiên Chúa muốn được Mẹ tỏ cho nữ tu Lucia biết ngày 13/6/1929. Vào Tháng 3/1985, đúng 1 năm sau, vị lãnh tụ cuối cùng của khối cộng sản Liên Bang Nga là Gaborchev xuất hiện ... cho đến khi Đông Âu sụp đổ cuối năm 1989 và Nước Nga trở lại ngày 25/12/1991.