Vị Giáo Hoàng của “Vui Mừng và Hy Vọng”:

 

VÔ ĐỊCH THỦ

CỦA HỘI NGHỊ DÂN SỐ CAIRÔ

 

  

 

T

heo dữ kiện được Văn Phòng Đối Chiếu Về Dân Số tư nhân phổ biến hôm Thứ Ba 17/8/2004 thì trong khi dân số thế giới có thể được tăng lên gần 50% vào năm 2050, Nhật Bản lại có thể giảm 20%, Nga 17% và Đức 9% dân số của mình trong thời hạn này. Riêng Hoa Kỳ thì lại là trường hợp ngoại lệ nhất trong các nước tân tiến, vì dân số của quốc gia này có thể sẽ tăng 43%, từ 293 hiện nay tới 420 vào giữa thế kỷ 21, một phần là do thành phần già còn tồn tại (như các nước tân tiến khác) nhất là bởi thành phần di dân.

 

Carl Haub, tác giả của Bản Dữ Kiện Dân Số Thế Giới Năm 2004 của Văn Phòng Đối Chiếu Dân Số được phổ biến hôm Thứ Ba 17/8/2004, cho biết rằng dân số thế giới sẽ tăng gần 50% vào năm 2050, tức tới 9.2 tỉ người. Hầu như việc tăng dân số thế giới này phát xuất từ các nước đang phát triển, mặc dù các quốc gia kém phát triển thường có nhiều tỷ lệ cao bị nhiễm trùng liệt kháng HIV và hội chứng liệt kháng AID cũng như về tình trạng trẻ em chết yểu nhiều.

 

Trong khi dân số của các quốc gia phát triển tăng 4% tức lên tới khoảng 1.2 tỉ người thì dân số ở các quốc gia đang phát triển nhất là ở Á Châu và Phi Châu sẽ tăng 55% tức lên tới khoảng 8 tỉ. Trung Hoa hiện nay với con số 1.3 tỉ, đông nhất thế giới, sẽ tăng khoảng 10% tức lên tới 1.4 tỉ, thế nhưng con số tột đỉnh về dân số của quốc gia này có thể sẽ đạt tới vào năm 2025 rồi sau đó sẽ suy giảm dần. Bởi thế, vào năm 2050 Ấn Độ có thể sẽ qua mặt Trung Hoa về dân số, hiện nay với 1.1 tỉ sẽ tăng tới 1.6 tỉ vào giữa thế kỷ 21. Dân số Nigeria sẽ tăng gần gấp 3 lần lên tới con số 307 triệu, trong khi Bangladesh sẽ tăng gấp đôi tới con số 280 triệu.

 

Những gì được nghiên cứu ở đây của Văn Phòng Qui Chiếu Dân Số này được căn cứ vào các dữ kiện của các chính phủ, của Liên Hiệp Quốc và của Văn Phòng Kiểm Tra Dân Số Hoa Kỳ.

 

Tuy nhiên, con số dự đoán theo chiều hướng hiện nay và quá khứ ấy có thể thay đổi tùy theo việc chữa trị hội chứng liệt kháng và việc sử dụng các phương pháp ngừa thai và thực hiện các thứ kế hoạch hóa gia đình ở các quốc gia đang phát triển hoặc kém phát triển.

 

Phải chăng chính vì cái nguy hiểm của nạn tăng dân số như thế mà đã xẩy ra như vụ phá thai bất hợp pháp ở các quốc gia tân tiến. Chẳng hạn như trường hợp của hai quốc gia Tây Ban Nha và Hiệp Vương Quốc (Great Britian of United Kingdoms).

 

Bác Sĩ Gian Luigi Gigli, chủ tịch Liên Hiệp Thế Giới Chư Hiệp Hội Y Khoa Công Giáo, một tổ chức có 30 ngàn bác sĩ ở trên 50 quốc gia, trong một bản văn gần đây, đã kêu gọi các quốc hội Hiệp Vương Quốc và Tây Ban Nha hãy ngưng các cuộc phá thai bất hợp pháp đã xẩy ra ở Barcelona với “sự đồng lõa” của cả hai xứ sở này.

 

“Âu Châu đang ở đâu đây? Những cuộc phá thai bất hợp pháp vừa rồi xẩy ra ở Catalonia, với sự đồng lõa của các cơ quan Hiệp Vương Quốc và được chính quyền địa phương dung túng”.

 

Hiệp Hội Y Khoa Công Giáo ở Catalonia, một phần tử của Liên Hiệp Thế Giới Chư Hiệp Hội Y Khoa Công Giáo, từ nhiều năm nay đã đặt vấn đề là “có một số bệnh xá ở Barcelona đang thực hiện những cuộc phá thai đã xẩy ra và vừa mới xẩy ra, vượt ra ngoài cả việc kiểm soát của chính quyền dân sự nữa.

 

Nhờ sự hợp tác của hai phóng viên giả dạng của tờ nhật báo Sunday Telegraph ở Hiệp Vương Quốc, Daniel Foggo và Charlotte Edwardes, các bác sĩ Công Giáo ở Catalonia “đã có thể chứng minh bằng cuốn phim hình thâu cả một hệ thống tội ác quốc tế thực hiện những cuộc phá thai đã xẩy ra, những cuộc phá thai do các cơ quan chính phủ gửi nữ giới tới”.

 

Hai ký giả này đã lấy được chứng cớ từ bệnh xá Ginemedex ở Barcelona về “việc ban cấp những giấy tờ giả về những trường hợp khẩn cấp sản phụ khoa để tránh né những khoản về pháp lý mà thực hiện cuộc phá thai một thai nhi lành mạnh 26 tháng”.

 

“Việc hoạt động hệ thống tội ác phá thai bất hợp pháp này đã được thấy rõ từ những cuộc trao đổi được ghi nhận, với nhiều phụ nữ mang bầu ở vào thời kỳ chín mùi được thâu hình trong khi đang ngồi chờ phiên của mình. Việc đồng lõa của các cơ quan thuộc chính phủ Hiệp Vương Quốc trong việc gửi các bệnh nhân nữ giới tới Barcelona để thực hiện vấn đề phá thai bất hợp pháp cũng bị lộ chân tướng”.

 

Tờ tường trình của tờ nhật báo Sunday Telegraph “rõ ràng ghi nhận thương vụ phát triển về những cuộc phá thai đã xẩy ra và tình trạng khựng đứng của chính quyền Tây Ban Nha trong việc kiểm soát các cuộc phá thai bất hợp pháp và ‘trào lưu du lịch phá thai’. Tờ tường trình này cũng ghi nhận việc phá thai này là những hành động xẩy ra theo tâm thức của các cơ quan chính thức ở Hiệp Vương Quốc, chẳng hạn như Dịch Vụ Cố Vaân Thai Nghén Hiệp Vương Quốc.

 

Trước những hình ảnh được thu hình cho thấy thật là “kinh hoàng”, Liên Hiệp Thế Giới Chư Hiệp Hội Y Khoa Công Giáo “khẩn trương yêu cầu các quốc hội Hiệp Vương Quốc và Tây Ban Nha hãy can thiệp và làm áp lực chính quyền đương nhiệm của họ để ngưng lại những thứ tội ác này”.

 

Đó, chúng ta thấy, nếu theo dõi Hội Nghị Dân Số ở Cairô Ai Cập năm 1994 (5-13/9), trước đó cũng như vào chính lúc diễn tiến hội nghị này, Kitô hữu nói chung và thành phần phò văn hóa sự sống nói riêng mới cảm thấy rằng nếu không có vị giáo hoàng của Phúc Âm Sự Sống Gioan Phaolô II thì thế giới này đã bị văn hóa sự chết nuốt mất tiêu rồi, và nếu “bóng tối không át được ánh sáng” (Jn 1:5) riêng trong vụ này thì quả thực vị giáo hoàng “đến từ một xứ sở xa xăm” này “là ánh sáng xuất phát từ Balan sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha”.

 

Chúng ta hãy thử tượng tượng mà xem, nếu bấy giờ, trong Hội Nghị Dân Số ở Cairô này, thành phần phò văn hóa sự chết, được tích cực hỗ trợ và thúc đẩy bởi cả Tổng Thống Clinton lẫn Phó Tổng Thống Gore, thắng thế, thì thế giới này đã bị toàn cầu hóa chính sách phá thai, nghĩa là, theo chính sách ấy, nước nào, nhất là các nước nhược tiểu mà lại sinh nhiều, không chịu theo chính sách ấy, sẽ bị trừng phạt về kinh tế, sẽ bị cúp viện trợ v.v. Hậu quả từ đó sẽ ra sao, nếu không phải thay vì mỗi năm có trung bình 30 triệu thai nhi sát hại, thì có cả 300 triệu hay 500 triệu con người không bao giờ được sống trên đời này. Và chẳng mấy chốc xã hội loài người, thay vì chặn đứng được nạn dân số gia tăng lại bị mất giống.

 

Như đang xẩy ra tại Hoa Kỳ là nơi mỗi năm có 1 triệu rưỡi thai nhi bị sát hại, nơi người ta đang lo ngại trẻ sẽ không nuôi nổi già, và tiền hưu trí sẽ không còn đủ cho thành phần trẻ về hưu sau này. Hoặc đang xẩy ra tại Ý, nơi bắt đầu cử hành Ngày Sự Sống từ năm 1979, và vào ngày phò sự sống lần thứ 26, 1/2/2004, các vị giám mục Ý đã phổ biến một sứ điệp với đầu đề “Không có trẻ em không có tương lai”.

 

Thật vậy, trong sứ điệp của mình, các vị đã liên kết hiện tượng giảm sút kinh khủng về nhân số, đến dưới cả mức độ thay thế (giữa chết đi và sinh ra), với cá nhân chủ nghĩa, với cảm quan yếu kém về vấn đề dấn thân xã hội cũng như với những căng thẳng về kinh tế. Đó là lý do các vị chọn đề tài cho Ngày Phò Sự Sống 26 này là không có trẻ em cũng không có tương lai:

 

“Không có trẻ em cũng không có tương lai. Nếu có ít trẻ em thì tương lai biến mất trong một xã hội của người lớn và của thành phần già nua. Chúng ta sẽ truyền lại những gì chúng ta có cho ai đây, những gì cha mẹ của chúng ta đã ban cho chúng ta?

 

“Lập luận nghịch đảo cũng đúng nữa: không có tương lai cũng không có trẻ em. Khi chân trời trở nên bất định hay nguy biến thì người ta nhận thấy sự kiện ít ham muốn để truyền sinh, để can đảm có con cái”.

 

Sứ điệp của các vị giám mục đặc biệt kêu gọi việc thắng vượt cá nhân chủ nghĩa hay cái tôi chủ nghĩa “là những gì thúc đẩy con người cho lòng quảng đại, mối hiệp thông và tình huynh đệ như là những hành động tầm bậy của thành phần bại trận, trong khi lịch sử cho thấy về đường dài thì chúng lại là những nhân đức của kẻ thắng cuộc”.

 

Hơn ai hết, thấy trước được cái nguy cơ của nạn diệt chủng toàn cầu bằng chiến dịch phá thai nhân danh việc kiểm soát dân số của Hội Nghị Dân Số Cairô 1994, vị giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tận dụng mọi sự trong tầm tay và trọng trách lãnh đạo tinh thần của mình để cương quyết phá đổ âm mưu gian ác muốn tiêu diệt loài người của thần dữ bằng chính bộ óc đặc sạn và bàn tay lông lá của con người.

 

Trước hết, ngài đã gặp chính nữ tổng thư ký của hội nghị này là Nafis Sadik ngày 18/3 và sau đó còn gửi cho bà một bức thư đề cùng ngày 18/3. Sau nữa, ngài đã phải gửi thư cho các vị quốc trưởng trên thế giới vào ngày 19/3/1994, rồi còn triệu tập 140 vị khâm sứ trên thế giới về Vatican họp khẩn ngày 25/3. Chưa hết, ngài còn dùng 11 bài huấn từ truyền tin suốt 3 tháng liền để nói đến vấn đề nữ giới, hôn nhân và tính dục, từ Chúa Nhật 12/6 đến 28/8, nghĩa là cho tới sát ngày Hội Nghị này.

 

Riêng về cuộc gặp gỡ riêng 49 phút với người phụ nữ Pakistan Hồi giáo là Nafis Sadik này, nhân vật giữ vai trò lãnh đạo Ngân Quĩ của LHQ cho Các Hoạt Động Về Dân Số, ĐTC GPII sau đó đã bị bà cho rằng “Ông ta không thích nữ giới”. Thái độ của bà và chủ trương của bà tỏ ra khi gặp gỡ vị giáo chủ của một Giáo Hội Công giáo đã mời bà đến, (trong khi các đấng bậc quốc tế cao hơn bà còn phải xin yết kiến ngài), làm cho bà không xứng đáng được lưu lại một tấm hình như thủ tục vẫn thường có đối với những cuộc tiếp kiến riêng với đức giáo hoàng.

 

Vẫn nhẫn nại, vì công lý và vì số mệnh của chung nhân loại cũng như tương lai của các thế hệ trẻ sau này ở khắp nơi trên thế giới, ĐTC đã gửi riêng cho người phụ nữ này một bức thư, “sứ điệp gửi Vị Giám Đốc Ngân Quĩ của LHQ Về Dân Số” đề ngày ngài gặp bà, 18/3/1994. Bức thư này, ngoại trừ phần mở đầu, còn 4 đoạn sau là 4 xác tín theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo như sau, 4 xác tín này là tiểu đề của từng đoạn: Sự Sống của con người từ khi được thụ thai cho tới khi tự nhiên qua đi là những gì thánh hảo; vai trò làm cha mẹ cần phải thoát khỏi những áp chế của xã hội; hết mọi người phụ nữ đều bình đẳng với nam nhân về phương diện nhân vị; và bản thảo Cairô không để ý tới quyền lợi của thai nhi. Sau đây là đoạn cuối cùng của bức thư của ngài liên quan trực tiếp đến bản thảo cho Hội Nghị Dân Số Cairô 1994:

 

“Vấn đề Hội Nghị Thế Giới Về Dân Số ở Mexico City Năm 1984 đã đồng ý với nhau là ‘không bao giờ được cổ võ việc phá thai như là một phương pháp để kể hoạch hóa gia đình’ chẳng hạn là những gì đã hoàn toàn bị bỏ qua trong bản soạn thảo này. Thật vậy, hiện đang có khuynh hướng muốn phát động một thứ quyền được quốc tế nhìn nhận để có thể phá thai theo nhu cầu mà không bị hạn chế gì, bất kể tới quyền lợi của thai nhi, đến nỗi vượt ra ngoài cả những gì hiện nay rất tiếc đã được luật pháp của một số quốc gia chấp nhận. Quan niệm về tính dục viết lên bản văn kiện này là những gì có tính cách cá nhân chủ nghĩa. Vấn đề hôn nhân bị coi thường, như thể nó là một điều gì đó thuộc về quá khứ. Một cơ cấu có tính cách tự nhiên, phổ quát và nồng cốt như cơ cấu gia đình không thể nào lại bị mạo dụng mà không gây ra những thiệt hại trầm trọng cho nền tảng và tính cách bền vững của xã hội.

 

“Cái tính cách hệ trọng của những thách đố khó khăn mà những Chính phủ, nhất là các bậc phụ huynh cần phải đương đầu trong vấn đề giáo dục thế hệ trẻ có nghĩa là chúng ta không thể loại trừ trách nhiệm của mình trong việc dẫn dắt giới trẻ tiến tới chỗ hiểu biết sâu xa hơn về phẩm vị cùng khả năng làm người của chúng. Chúng ta bày ra trước mắt thành phần thanh thiếu niên một tương lai ra sao nếu chúng ta để cho chúng, ở trong tình trạng chưa trưởng thành của chúng, sống theo bản năng của chúng, không để ý gì tới những ngụ ý về liên bản vị cũng như về luân lý nơi hành vi cử chỉ tình dục của chúng như thế? Chẳng lẽ chúng ta không có nhiệm vụ mở mắt chúng ra để chúng thấy được cái tai hại và khổ đau gây ra cho chúng bởi hành vi cử chỉ tình dục vô trách nhiệm hay sao? Chẳng lẽ chúng ta không có trách nhiệm thách đố chúng bằng một thứ đạo lý gắt gao hoàn toàn tôn trọng phẩm vị của chúng và giúp chúng tự chủ là những gì cần thiết để chúng đương đầu với nhiều đòi hỏi của cuộc sống hay sao?

 

“Thưa Bà Tổng Thư Ký, tôi tin rằng, trong thời gian sửa soạn còn lại cho Hội Nghị Cairô, bà và quí vị cộng tác viên của bà, cũng như các quốc gia tham dự vào Hội Nghị này, sẽ chú trọng một cách thích đáng tới những vấn đề sâu xa ấy.

 

“Không một vấn đề nào trong số các vấn đề ấy hoàn toàn là quan tâm đến kinh tế hay việc tử sinh, thế nhưng, tự bản chất, mỗi một vấn đề là những gì có một ý nghĩa luân lý sâu xa, đầy những hàm ý vươn lên. Bởi đó mà việc đóng góp của Tòa Thánh là ở chỗ cống hiến một quan điểm về đạo lý đối với các vấn đề được bàn tới, bao giờ cũng bằng niềm xác tín là các nỗ lực của con người tỏ ra tôn trọng và tuân hợp với dự án quan phòng của Thiên Chúa là đường lối duy nhất để thành đạt trong việc xây dựng một thế giới thực sự bình đẳng, hiệp nhất và an bình.

 

“Xin Thiên Chúa toàn năng soi sáng cho tất cả mọi người tham dự vào Cuộc Hội Nghị này”.

 

Để có thể cảm nhận được sức bung phá và hận thù như thế nào phát ra từ những con người văn minh đang có thế hoạt động trên bình diện quốc tế qua Hội Nghị này, trước hết chúng ta hãy nghe cảm tưởng của Đức Tổng Giám Mục Renato Martino, vị đại biểu của Tòa Thánh tham dự Hội Nghị, cho biết như sau:

 

“Tôi lãnh đạo phái đoàn đại biểu của Tòa Thánh ở Cairô (năm 1994). Tôi có thể cho quí vị (phóng viên nguyệt san Inside The Vatican 8-9/1999, trang 67) biết là ở Hội Nghị Cairô chúng tôi có rất nhiều người, nhiều vị đại biểu, nhiều phái đoàn đại biểu và nhiều người khác nữa chống lại chúng tôi. Chúng tôi thật là đau khổ khi thấy được tình trạng hận thù này. Tôi sẽ không đề cập đến thành phần thù hận chúng tôi làm gì, mà chỉ cho quí vị biết những gì đã xẩy ra tại Hội Nghị Cairô thôi.

 

“Trong việc thương thuyết vào lúc cuối cùng của cuộc Hội Nghị Cairô, nhóm phác họa vấn đề đã đi đến kết luận thiên về việc phá thai, và vị chủ tọa của nhóm này bắt đầu kêu gọi các phái đoàn đại biểu mà ông biết là thích phá thai. Thế rồi, chỉ vào phút cuối cùng – chỉ vào phút cuối cùng mà thôi – ông mới nhường lời cho Tòa Thánh. Dĩ nhiên là Tòa Thánh nói ‘Không đồng ý!’ – chống lại việc phá thai.

 

Sau đó, ông ta cho giải tán phiên họp. Thế nhưng ông đã không thèm đếm xỉa gì tới 17 chữ ký của các phái đoàn đại biểu cùng chí hướng với Tòa Thánh yêu cầu được trình bày để chống lại việc phá thai. Và cái gì đã xẩy ra? Ngày hôm sau, các đầu đề của tất cả mọi tờ báo trên thế giới đăng là ‘Toàn Thánh Vatican Cản Trở Hội Nghị Cairô’, ‘Tòa Thánh Vatican Bị Cô Lập’, ‘Tòa Thánh Vatican Đơn Thân Độc Mã’ v.v.

 

“Hôm sau, vị chủ tọa ấy đã xin lỗi về đường lối ông điều khiển buổi họp cũng như về việc ông phải cho các phái đoàn đại biểu yêu cầu đêm hôm trước được phát biểu. Đây là những mưu mô và là những phương pháp – những mưu mô bẩn thỉu – họ chơi chúng tôi. Từ bấy giờ họ đã cố gắng cho tới cùng, trong các cuộc họp khác, để đẩy mạnh ý tưởng phá thai.

 

“Một mình chúng tôi phải chịu trận, nếu cần, để chỉ cần bảo vệ những gì Đức Giáo Hoàng đã nói. Chúng tôi thấy có một số nước, mặc dù đồng ý với những nguyên tắc được chúng tôi bênh vực, song vào phút chót, đã rút lui khỏi vị thế bênh vực của Tòa Thánh, chỉ vì những ý tứ về chính trị, mặc dù họ hoàn toàn chấp nhận nguyên tắc được Tòa Thánh bênh vực. Thế nhưng, vào giây phút cuối cùng họ lại nói: ‘Này, chúng tôi không muốn làm phiền đến người này, người kia hay người nọ’.

 

“Thế là, vì ý tứ chính trị, họ chấp nhận đứng ở vị thế mập mờ, và họ bảo vệ một vai trò mập mờ.”

 

Để theo dõi kỹ lưỡng hơn tiến trình chống lại “Phúc Âm Sự Sống” cũng là chống lại Giáo Hội, thẩm quyền bảo vệ lề luật Thiên Chúa, chúng ta hãy theo dõi bài tường thuật “Những Gì Đã Xẩy Ra Ở Hội Nghị Cairô” của Dale O’Leary được phổ biến trong tờ Nguyệt San Inside The Vatican 2/1999 (trang 85-87) sau đây.

 

Hội Nghị Quốc Tế Liên Hiệp Quốc về Vấn Đề Dân Số và Phát Triển năm 1994 đã được tổ chức tại Cairô trong việc đối đầu với những đe dọa của nhóm Hồi Giáo cực đoan và trách Tòa Thánh Vatican đã hợp tấu việc đàn áp nữ giới. Các tham dự viên chia rẽ nhau một cách dữ dội về vấn đề phá thai. Bên được dẫn đầu bởi phái đoàn đại biểu Hoa Kỳ thì tranh đấu về từ ngữ có thể đưa đến việc chấp nhận phá thai như một phần của vấn đề sức khỏe sinh sản. Bên kia chống lại bất cứ một áp đặt nào về việc phá thai đối với các nước đang coi phá thai là việc bất hợp pháp. Các vị đại biểu của Tòa Thánh đóng vai chủ động trong cuộc tranh luận, bênh vực sự sống và gia đình, bênh vực người nghèo và các quyền lợi đích thực của nữ giới.

 

“Hội Nghị Cairô không phải là hội nghị đầu tiên về vấn đềø dân số. Năm 1974 Liên Hiệp Quốc đã tổ chức một hội nghị về dân số tại Bucharest chấp nhận một Dự Án Thực Hiện Dân Số Thế Giới, đến năm 1984, hội nghị về dân số ở Thánh Phố Mễ-Tây-Cơ đẩy mạnh 88 đề nghị để thực hiện dự án này hơn nữa.

 

“Ở Hội Nghị Mễ-Tây-Cơ, phái đoàn đại biểu Hoa Kỳ dẫn đầu tranh đấu việc thêm chữ nghĩa vào các đề nghị để làm cho sáng tỏ vấn đề không được cổ võ phá thai như là một phương tiện kế hoạch hóa gia đình.

 

“Trong thập niên giữa Hội Nghị Mễ Tây Cơ và Cairô, Liên Hiệp Quốc Tế Hoạch Định Vai Trò Phụ Huynh (IPPF International Planned Parenthood Federation), các nhóm muốn kiểm soát dân số, và các nhóm phụ nữ cố gắng gây thêm ảnh hưởng của mình ở Liên Hiệp Quốc. Thay thế chính phủ Reagan và Bush, chính phủ Clinton đã ủng hộ vấn đề phá thai. Nắm được cơ hội này, những nhóm ấy chống lại ‘ngôn ngữ của Hội Nghị Mễ Tây Cơ’, thứ ngôn ngữ cần phải được bãi bỏ ở Hội Nghị Cairô.

 

Ngoài ra, còn có những thay đổi thật nhiều trong giới những người để ý tới vấn đề kiểm soát dân số. Thành phần nữ giới ở các nước đang phát triển đã chống lại những chương trình kiểm soát dân số do các viên chức chính quyền bắt buộc họ nỗ lực đạt tới chỉ tiêu về việc thực hành ngừa thai hay hủy hoại bộ phận sinh sản. Những chương trình mới đã đề cao sức khỏe và quyền lợi phụ nữ. Theo bản tin tức chính thức của Hội Nghị Cairô thì ‘những mục tiêu của hội nghị này là tăng thêm quyền cho nữ giới – một tiến trình bao gồm việc cải tiến các khía cạnh về vị thế, sức khỏe, kiến thức và công ăn việc làm của họ – và bảo đảm quyền chọn lựa đối với vấn đề kế hoạch hóa gia đình’.

 

“Các cuộc hội nghị của Liên Hiệp Quốc được sửa soạn bằng những phiên họp dọn đường để soạn thảo sẵn các dự án thực hiện. Một cuộc họp như thế đã được tổ chức tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước vào tháng Ba năm 1994. Như đã dự định, ngôn ngữ được sử dụng trong Hội Nghị Mễ Tây Cơ đã được loại bỏ. Trong khi bản thảo không minh nhiên kêu gọi quyền phổ quát trong việc phá thai, nó cũng nói đến ‘vai trò làm mẹ an toàn’, đến ‘vấn đề phá thai không an toàn’, đến ‘vấn đề sức khỏe sinh nở và sinh dục’, đến ‘những quyền sinh sản và sinh dục’, đến ‘việc điều hòa thai nghén’ và đến ‘những dịch vụ kế hoạch hóa gia đình toàn diện’ – những từ ngữ có trường hợp được xác định bao gồm cả trường hợp được phép phá thai. Có đoạn trong bản thảo viết như sau: ‘Những chương trình chăm sóc sức khỏe sinh dục và sinh sản, bao gồm cả các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, phải giúp cho việc tự do chọn lựa tối đa bao nhiêu có thể’. Một đoạn khác viết: ‘Để giúp cho các cặp vợ chồng và cá nhân đạt được mục tiêu sinh sản’. Cụm từ ‘các cặp vợ chồng và cá nhân’ gợi lên cho thấy bản chương trình này khích lệ sinh hoạt dục tính ngoài hôn nhân. Bản văn cũng có các câu ‘các hình thức khác nhau của gia đình” và “các cuộc phối hợp khác” là những gì được một số nước Hồi Giáo cho rằng đó là nỗ lực của Tây phương trong việc cổ động vấn đề đồng tính luyến ái.

 

Một bản văn thẩm quyền mang tựa đề ‘Việc Hoạch Định Sức Khỏe Sinh Sản và Gia Đình là Quyền Lợi của Con Người’ do Văn Phòng Tổng Thư Ký chính thức của Hội Nghị Quốc Tế về Dân Số và Phát Triển viết: ‘bước đầu tiên để tiến đến việc cải tiến sức khỏe của thành phần vị thành niên là cất đi những ngãng trở về pháp lý cũng như về qui lệ làm cản bước đường của họ đến với những dịch vụ ấy’. Điều này được coi như là một cuộc tấn công quyền làm cha làm mẹ.

 

“Chính quyền Clinton hết lòng ủng hộ chủ trương của bản thảo ấy. Năm 1994, chính quyền Hoa Kỳ đã tăng ngân khoản tài trợ cho các chương trình dân số quốc tế lên tới 600 triệu Mỹ kim. Trong cuộc họp sửa soạn cho Hội Nghị, các đại biểu Hoa Kỳ làm áp lực bắt các đại biểu Châu Mỹ Latinh không được chống đối. Marta Casco, một đại biểu ở Honduras, đã đứng lên phản đối áp lực của Hoa Kỳ và tỏ ra không ưng thuận với việc dùng từ ngữ của bản thảo.

 

Trong khi chờ đợi, Cơ Quan Thông Tin Hoa Kỳ cho phổ biến một tập tổng hợp các bài viết mang tựa đề ‘Dân Số, Phát Triển và Vai Trò Nữ Giới: Cần Được Đồng Lòng Thỏa Thuận’, với lời giới thiệu của Tổng Thống Bill Clinton và Phó Tổng Thống Al Gore. Hai trong các bài viết này được trích từ cuốn ‘Vượt Ra Ngoài Những Con Số: Một Dẫn Giải về Dân Số, về Việc Tiêu Thụ và Môi Sinh’ (Island Press, 1994), do Laurie Ann Mazur duyệt thảo. Một trong những bài viết ấy, ‘Cứu Xét Các Vấn Đề Đạo Lý’, Ruth lập luận rằng, việc từ chối không cho nữ giới có thể phá thai một cách an toàn hợp pháp vì những ‘niềm tin và thói tục lâu đời’ là điều bất nhân vô đạo’. Một bài viết khác, ‘Việc Cân Bằng Những Mức Độ: Chính Sách về Dân Số và Sức Khỏe của Phụ Nữ’, Adrienne Germain và Jane Ordway lập luận: ‘Việc ngăn ngừa trẻ vị thành niên có thai đòi phải được xã hội chấp nhận vấn đề giáo dục về tình dục và các dịch vụ về ngừa thai đối với đám tuổi từ 13 tới 19’ và ‘các dịch vụ hoạch định gia đình, bao gồm cả việc phá thai an toàn, phải làm sao cho thuận lợi, tính chất của nó phải được cải tiến và mục tiêu của nó phải được mở rộng’.

 

 “Điều đáng để ý ở đây là chính phủ Hoa Kỳ xuất bản  những bài viết chọn lọc này, những bài viết ăn rễ sâu vào trào lưu nữ giới, vào văn từ phản lại gia đình, tức là chính phủ Clinton đã tự đặt mình vào tư thế tương khắc đối nghịch với những quan tâm của Tòa Thánh.

 

“Ủy ban chính phát xuất ra việc sử dụng từ ngữ được bàn cãi này lại nằm dưới quyền chủ tọa của Fred Sai ở Ghana, chủ tịch của cơ quan Liên Hiệp Quốc Tế Kế Hoạch Hóa Vai Trò Phụ Huynh, một tổ chức đã hết mình vận động cho việc hợp thức hóa vấn đề phá thai.

 

Ngày 30 tháng 6 năm 1994, trên nhật báo Thời Điểm Trái Đất, tờ tổng hợp các cuộc hội nghị của Liên Hiệp Quốc, đã xuất hiện một nhan đề ‘Tòa Thánh Vatican Cương Quyết Giữ Vững Lập Trường Đối Với Hội Nghị Dân Số’. Trong số nhật báo này, Carla Shea, tay viết của tờ New York, đã thực hiện một cuộc phỏng vấn Sai, mang tựa đề ‘Việc Sửa Soạn Cho Hội Nghị Cairô Bị Trầm Trọng’. Shea hỏi Sai: ‘Tôi có sai hay không khi đi đến kết luận rằng mục tiêu của hội nghị này là đặt lại vấn đề với chính những giả thiết và nền tảng ý hệ nơi trật tự xã hội cổ kính?’ Sai đã trả lời: ‘Đúng. Xác nhận ấy đúng. Đúng là như thế’…

 

“Việc Đức Thánh Cha phê phán về bản thảo (theo tác giả lần 1 ngày 19/3/1994, qua bức thư riêng gửi cho mọi vị quốc trưởng, và 3 lần sau qua các Buổi Nguyện Kinh Truyền Tin hay Triều Yết Chung vào tháng 3, 4 và 8) đã làm bùng lên hàng loạt cuộc tấn công Tòa Thánh Vatican cũng như tấn công giáo huấn Công Giáo đối với vấn đề tính dục, sự sống và nữ giới. Mặc dầu Đức Thánh Cha đã kêu gọi nhiều lần việc tôn trọng nữ giới và việc bênh vực nữ giới, Tòa Thánh cũng vẫn bị tố cáo là chống lại việc giải phóng nữ giới.

 

“Trong khi có một số người ủng hộ bản thảo cho rằng Tòa Thánh Vatican đã hiểu lầm nó và cho rằng văn kiện này không tấn công gia đình hay vấn đề phá thai, thì lần nào các vị đại biểu yêu cầu các câu định nghĩa loại trừ vấn đề phá thai ra cần phải cho vào bản thảo họ đều bị chống đối kịch liệt.

 

“Ngày 5 tháng 9 năm 1994, ngày khai mạc hội nghị, Gro Brundtland, Thủ Tướng nước Na-Uy, kêu gọi ‘việc tha phép cho phá thai’ như là ‘một phương thế cần thiết trong việc bảo vệ sự sống của nữ giới’.

 

“Những phần tử của Các Tổ Chức Ngoài Chính Quyền (NGO: Non-Government Organizations) được phép phát biểu trong hội nghị cũng như được phép vận động các đại biểu. Một số đã cổ võ ‘quyền’ cho nữ giới phá thai. Francis Kissling, chủ tịch tổ chức Các Người Công Giáo Tự Do Chọn Lựa, một nhóm bị các giám mục Hoa Kỳ cho de, đã lợi dụng vị thế là một tổ chức ngoài chính quyền của mình để tấn công Tòa Thánh Vatican. Muthgard Toewe, thuộc nhóm Linh Động Truyền Thông với Nữ Giới theo Văn Hóa của Họ, tuyên bố rằng: ‘Mọi người phụ nữ đều có quyền – vì đó là một phần thuộc phẩm vị cũng như nhân quyền của họ – trong việc phá bất cứ một cái thai nào không cần thiết’.

 

“Tuy nhiên, có một vài đại diện của các tổ chức ngoài chính quyền thuộc các Đệ Tam Quốc Gia đã phê bình việc Liên Hiệp Quốc đang nhấn mạnh đến vấn đề ngừa thai đối với người nghèo. Margaret Ogla, một bác sĩ nhi đồng ở Kenya, đã nói đến những nạn ở xứ sở của mình: ‘Chúng tôi đang hết cả thuốc chính ngừa. Chúng tôi không có lấy cả ống tiêm, cả mũi chích, cả thuốc khử trùng, cả thuốc trụ sinh, thế mà các Trung Tâm An Sinh Gia Đình của chúng tôi lại không bao giờ thiếu các đồ dự trữ cho việc kiểm soát sinh sản. Nữ giới chết  xuất huyết bởi các thứ thuốc IUD’

 

“Zainab Sa’id Kabir, một giáo sư của Đại Học Bayero ở Nigeria, cũng phàn nàn rằng việc quá chú trọng tới ‘sức khỏe sinh sản’ đã đưa đến việc chểnh mảng chăm sóc sức khỏe căn bản: ‘Ở Châu Phi chúng tôi không chăm sóc về y tế cho lắm, chúng tôi không có các thứ thuốc kháng tố, song lại có đầy những thứ ngừa thai… Chúng tôi không thể nào không nghĩ rằng các thành phần viện trợ đã có những mưu đồ bí ẩn nào đó’.

 

“Henri Boulad, Giám Đốc của tổ chức Caritas Ai Cập, đã thách thức thuyết chủ trương dân số tăng gây ra nghèo khổ rằng: ‘Các trường hợp ở Ai Cập, Ấn Độ và Trung Hoa cho thấy việc tăng nhân số thực sự giúp cho các xứ sở ấy thoát được cảnh nghèo khổ. Vì tình trạng phong phú của một xứ sở là chính dân chúng của mình, nên việc tăng dân số lên thực sự không nguy hiểm bằng việc giảm dân số xuống… nạn dân số tăng quá nhiều là chuyện hoang đường, một chuyện vì được lập đi lập lại và tuyên truyền mới trở thành một tín điều vậy thôi’.

 

“Cuộc tranh cãi giữa những vị đại biểu xẩy ra dữ dội. Đến lúc căng thẳng nhất thì Dr. Sai đã đổ lỗi cho Tòa Thánh Vatican là gây cản trở cho việc đồng lòng thỏa thuận với nhau. Vào ngày 8 tháng 9 năm 1994, nhật báo Terra Viva, tờ tường thuật về các hoạt động của Liên Hiệp Quốc, đăng một đầu đề: ‘Các quyền của nữ giới bị giữ làm con tin: Nạn nhân của tình trạng thiếu đồng ý về việc phá thai’. Một bức tranh hí họa vẽ một đấng bậc Công giáo đang cau mày giữ chặt lấy cây thập giá và quay lưng lại với một đám đông đa văn hóa đang cầm các bảng hiệu yêu cầu ‘cùng nhau đồng thỏa thuận lòng’ và ‘dung hòa’.

 

“Thật ra, không có một sự thỏa thuận nào cả, vì các đại biểu của các nước Hồi Giáo và Công Giáo lo ngại là, nếu ngôn từ đang tranh luận về sức khỏe sinh dục và sinh sản được chấp nhận, thì việc ngoại quốc viện trợ sẽ dính liền với việc chấp nhận các chương trình cổ võ phá thai hay làm băng hoại các giá trị tôn giáo. Hội nghị đã đi đến chỗ tắc nghẽn.

 

“Bấy giờ phái đoàn đại biểu Ai Cập mới đề nghị dung hòa: vấn đề ngôn từ về sức khỏe sinh dục và sinh sản vẫn để nguyên trong bản văn, nhưng sẽ được thêm vào ở đầu văn kiện một chapeau (đoạn rào đón) là vấn đề thực hiện Chương Trình Thực Hiện là quyền tối hậu của mỗi quốc gia đối với việc hoàn toàn tôn trọng các giá trị đạo giáo và luân thường khác nhau của dân chúng.

 

“Bản Chương Trình Thực Hiện cũng nói rõ ràng là hội nghị không có thẩm quyền ban bố các thứ nhân quyền mới, như thế là phủ nhận chủ trương ‘các quyền sinh sản và sinh dục’. Ngôn từ của Hội Nghị ở Mễ Tây Cơ không bị bãi bỏ. Thay vào đó, thành ngữ đã được chấp nhận ở Hội Nghị Mễ Tây Cơ – ‘không có một trường hợp phá thai nào được cổ võ như phương pháp kế hoạch hóa gia đình’ – xuất hiện ở hai phần tách biệt. Chương Trình Thực Hiện cũng xin tài trợ 17 tỉ rưỡi Mỹ kim cho các chương trình kiểm soát dân số.

 

“Cả hai phía đều cho rằng mình thắng. Một nữ phát ngôn viên cho Tổ Chức Đại Đa Số Nữ Giới cho rằng Bản Chương Trình Thực Hiện được chấp thuận là ‘cái tát vào nỗ lực của Tòa Thánh Vatican trong việc làm trật đường rầy tình trạng phát triển của giới phụ nữ’.

 

“Olivia Gans, đại diện tổ chức Liên Hiệp Quyền Sống Quốc Tế cho rằng bên mình thắng, vì ngôn từ của Hội Nghị ở Mễ Tây Cơ vẫn còn giữ nguyên.

 

“Một số người ủng hộ bản thảo nguyên thủy công nhận là họ không thắng nổi ở những vấn đề then chốt. Jan Pronk, một đại biểu ở Nertherlands phàn nàn rằng: Câu ‘quyền sinh dục’ bị loại bỏ thật là đáng tiếc”.

 

Trong Văn Kiện “Vấn Đề Bênh Vực Sự Sống Liên Quan tới Các Chính Sách và Qui Tắc Quốc Tế” ngày 11/2/2000, Đức Ông Jean-Louis Tauran đã nhận định về Hội Nghị Dân Số ở Cairô 1994 và Hội Nghị Nữ Giới ở Bắc Kinh 1995 có liên hệ với Hội Nghị Dân Số ở Cairô 1994 như sau:

 

“Theo chiều hướng ấy, Hội Nghị Quốc Tế về Dân Số và Phát Triển (Cairô, 5-13/9/1994) đã nhấn mạnh đến việc kiểm soát dân số hơn là phát triển, và đã bị áp lực mãnh liệt trong việc tập trung vào ‘vấn đề sức khỏe sản sinh của nữ giới’. Do đó, việc phá thai đã được coi như là một khía cạnh thuộc chính sách về vấn đề tử sinh và vấn đề phục vụ sức khỏe (‘việc phục vụ sức khỏe sản sinh’). Trái lại, mặc dù bị áp đảo mãnh liệt, và cũng nhờ việc cương quyết dấn thân của phái đoàn Đại Biểu của Tòa Thánh, Hội Nghị đã tiến tới chỗ tái khẳng định về nguyên tắc đã được đồng ý ở Mexicô City năm 1984, tức là vấn đề phá thai không bao giờ được coi là phương tiện cho việc kế hoạch hóa gia đình, và đã không chấp thuận cái được gọi là ‘quyền phá thai’. Những vấn đề này cũng đã được xác nhận một năm sau đó ở Hội Nghị Thế Giới Lần Bốn Về Nữ Giới (Bắc Kinh, 4-15/9/1995), nơi các áp lực trước đó ở Cairô đã tái xuất hiện, thậm chí còn dữ dội hơn nữa, đến nỗi đã đi đến chỗ đưa vào ở khắp các văn kiện đúc kết một thứ ngôn từ đã bị Tòa Thánh nghiêm chỉnh bác bỏ hồi năm 1994. Tuy nhiên, việc thẩm định quân bình về những cuộc hội nghị quốc tế này cần phải nhìn nhận rằng những đúc kết khác, như những đúc kết của Thượng Nghị Thế Giới 1995 về Vấn Đề Phát Triển Xã Hội ở Copenhagen hay Thượng Nghị Thế Giới Về Thực Phẩm 1996 ở Rôma, đã cho thấy rõ ràng là gần hơn với những chủ trương của Tòa Thánh, nhất là những gì liên quan tới các vấn đề xã hội. Những khuynh hướng diễn ra ở Cairo và Bắc Kinh đã tái xuất đầu lộ diện khi LHQ tím cách thẩm định, 5 năm sau Hội Nghị Cairô, việc áp dụng Chương Trình Hành Động đã được hội nghị Cairô chấp thuận. Hiện đang có một khuynh hướng muốn sử dụng lời phát biểu mới mẻ có tính cách nước đôi là ‘vấn đề ngừa thai khẩn cấp’ như một cái cớ cho việc phá thai về y khoa ngay từ đầu (bằng liều thuốc). Tòa Thánh, được các quốc gia Á Căn Đình, Nicaragua và một số các nước khác ủng hộ, đã vận động để lời phát biểu này không được chuẩn nhận. Tòa Thánh cũng bài bác khuynh hướng chấp nhận những thứ liên hệ tình dục ngoài hôn nhân, thậm chí cho cả thành phần thanh thiếu niên, và khuynh hướng coi vấn đề phá thai như là một khía cạnh của các chính sách tử sinh và như là một phương pháp được quyền chọn làm”.