Những Gì Còn Dang Dở và Ước Nguyện

của Vị Giáo Hoàng “Duc In Altum” 

 

 

Những gì đã hoàn tất:

 

1.       Ban hành Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần Redemptor Hominis ngày 4/3/1979, một thông điệp gồm tóm đường hướng của giáo triều của ngài;

 

2.       Viết Thư Gửi Hàng Linh Mục hằng năm (liên tục cho tới khi qua đời) vào Thứ Năm Tuần Thánh 1979 để củng cố Mầu Nhiệm và Tặng Ân Linh Mục;

 

3.       Tông du Balan lần nhất 2-10/6/1979 (trong 8 lần), chuyến tông du quyết liệt cho Khối Công Đoàn Liên Đới quyết liệt tranh đấu bất bạo động cho tới biến cố sụp đổ của Cộng Sản Đông Âu 10 năm sau, một tổ chức vào ngày 20/8/1980 ngài đã  tỏ dấu hiệu như phất cờ cho họ khởi nghĩa và đã gặp nhân vật lãnh tụ của họ là Lech Walesa ngày 15/1/1981;

4.       Ban hành Bản Hiến Chương Các Quyền Lợi Gia Đình (Charter of Rights of the Family) ngày 24/11/1983;

 

5.       Truyền bá Thần Học Thân Thể (theology of body) qua loạt bài giáo lý đầu tiên trong giáo triều của ngài, về “tình yêu và trách nhiệm” liên quan đến hôn nhân Kitô giáo, loạt bài kéo dài 5 năm trời, từ ngày 5/9/1979 đến 21/11/1984;

 

6.       Ban hành Bộ Tân Giáo Luật ngày 25/1/1983 theo đường hướng Công Đồng Chung Vaticanô II;

 

7.       Mừng Năm Thánh Cứu Chuộc từ ngày 25/3/1983-25/3/1984;

 

8.       Hiến Dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria vào ngày kết thúc Năm Cứu Chuộc 25/3/1984, một biến cố đã làm cho Nước Nga trở lại ngày 25/12/1991 (ngài đã thực hiện việc hiến dâng này ở Đền Thờ Đức Bà Cả ngày 7/6/1981 qua phương tiện truyền thanh, rồi lập lại vào ngày 13/5/1982 tại Linh Đ ịa Fatima và vào ngày 16/10/1983 ở Quảng Trường Thánh Phêrô cùng với các v ị hồng y và giám mục tham dự Thượng Hội Giám Mục Thường Lệ Lần VI về chủ đề thống hối và hòa giải (29/9-29/10/1983);

 

9.       Lập Ngày Giới Trẻ Thế Giới vào Chúa Nhật Lễ Lá năm 1985;

 

10.   Mở Năm Thánh Mẫu (7/6/1986-15/8/1987) vào ngày áp Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 6/6/1986, trong năm này ngài đã ban hành Thông Điệp Mẹ Đấng Cứu Chuộc Redemptoris Mater ngày 25/3/1987;

11.   Ký bản Tuyên Ngôn Chung với Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Hoàn Vũ Dimitrios ngày 3/12/1987; với Đức Teoctist, Thượng Phụ Chính Thống Romania về hòa bình ở Kosovo ngày 8/5/1999; với Đức Karekin II, Thượng Phụ Armenian ngày 8/11/2000 dịp vị này thăm Rôma (4-5/11/2000); với Đức Teoctist, Thượng Phụ Chính Thống Romania ngày 7/10/2002 trong dịp vị này thăm Rôma (1-13/10); với Đức Thượng Phụ Chính Thống Hoàn Vũ Bartolomew I ngày 29/6/2004 dịp vị này thăm Rôma (28/6-2/7/2004);

 

12.   Ban hành Tự Sắc Giáo Hội Chúa Ecclesia Dei ngày 2/71988 về việc những Kitô hữu theo TGM Lefebvre muốn và được trở vê hiệp thông với Giáo Hội Công giáo;

 

13.   Ký vào Bản Tuyên Ngôn Chung với vị giáo chủ Anh Giáo Dr. Robert Runcie ngày 2/10/1989, nhân dịp vị này đã viếng thăm ngài ngày 29/9-2/10/1989;

 

14.   Thành lập Tổ Chức Phát Triển Các Dân Tộc Populorum Progressio Foundation đặc trách Các Dân Bản Xứ ở Mỹ Châu Latinh vào Tháng 2/ 1992;

 

15.   Ban hành Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo ngày 11/10/1992, và  sau đó  ngài đã phát động việc hủy bỏ án tử hình trên thế giới sau khi ban hành Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo;

 

16.   Làm sáng tỏ vụ án nhà  bác học Galileo Galilei trong buổi triều kiến của Giáo Hoàng Học Viện Các Khoa Học, căn cứ  vào “Uỷ Ban Nghiên Cứu Cuộc Tranh Luận quan niệm plolemaic-copernican”, một ủy ban do ngài thành lập ngày 3/6/1981, để “cống hiến cho thế giới khoa học và văn hóa câu trả lời hằng mong đợi liên quan đến vụ Gelileo Galilei”;

 

17.   Lập Ngày Thế Giới Bệnh Nhân vào Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2 hằng năm từ năm 1993, (và ngài đã ban hành bức tông thư Salvifici doloris về ý nghĩa đau khổ của loài người theo Kitô giáo ngày 11/2/1984);

 

18.   Mở Năm Gia Đình ngày 26/12/1993: gửi Thư Cho Các Gia Đình ngày 2/2/94, lập Giáo Hoàng Học Viện Về Sự Sống ngày 11/2/94, gửi Thư Cho Các Vị Lãnh Đạo Chư Quốc ngày 19/3/1994 cảnh giác về chiều hướng văn hóa sự chết nơi Hội Nghị Về Dân Số ở Cairo Ai Cập vào tháng 9 năm nay, chủ sự Cuộc Gặp Gỡ Thế Giới của Các Gia Đình lần đầu tiên (8-9/10), và gửi Thư Cho Các Trẻ Em ngày 13/12 để kết thúc Năm Gia Đình;

 

19.   Thiết lập ngoại giao với quốc gia Do Thái ngày 30/12/1993, (Do Thái là 1 trong 174 quốc gia có liên hệ ngoại giao với Tòa Thánh, một con số quốc gia tăng từ 85 vào lúc mở đầu cho giáo triều của vị giáo hoàng 264 này, chưa kể PLO là Tổ Chức Giải Phóng Palestine ngày 15/2/2000);

 

20.   Lập Giáo Hoàng Học Viện Các Khoa Xã Hội Học 1/1/1994;

 

21.   Lập Giáo Hoàng Học Viện đặc trách Sự Sống 11/2/1994;

 

22.   Mở một Đan Viện Nữ Tu Mẹ  Giáo Hội “Mater Ecclesiae” vào ngày 13/5/1994 ngay trong thành Vatican, như biểu hiệu của đời sống nội tâm của Giáo Hội, qua việc các vị đan nữ (thuộc các dòng kín khác nhau thay nhau đến ở với hạn kỳ 5 năm) cầu nguyện cho Giáo Hội, (như  ngài đã  khánh thành Nhà trọ Dono di Maria ở Vatican cho dòng hoạt động xã hội  Chư Thừa Sai Bác Ái của Mẹ  Têrêsa Calcutta ngày 21/5/1987, vị sáng lập dòng này đã được ngài phong chân phước ngày Thế Giới Truyền Giáo 19/10/2003, sau 6 năm qua đời);

 

23.   Ban hành Tông Thư Ordinatio Sacerdotalis ngày 22/5/1994 dứt khoát không có vấn đề linh mục nữ, (sau đó, vào ngày 29/6/1995, ngài đã gửi Thư Cho Nữ Giới nói về phẩm giá và sứ vụ của họ);

 

24.   Vận động của ngài đã thành công trong việc ngăn chặn trào lưu văn hóa sự chết tại Hội Nghị Dân Số Cairô 1994 (5-13/9); ngài đã phải gửi thư cho các vị quốc trưởng trên thế giới vào ngày 19/3/1994, gặp chính nữ tổng thư ký của hội nghị này là Nafis Sadik ngày 18/3 và sau đó còn gửi cho bà một bức thư đề cùng ngày 18/3, rồi còn triệu tập 140 vị khâm sứ trên thế giới về Vatican họp khẩn ngày 25/3, chưa hết, ngài còn dùng 11 bài huấn từ truyền tin suốt 3 tháng liền để nói đến vấn đề nữ giới, hôn nhân và tính dục, từ Chúa Nhật 12/6 đến 28/8, nghĩa là cho tới sát ngày Hội Nghị này;

 

25.   Ban hành Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống ngày 25/3/1995 để chống lại văn hóa sự chết và chính thức lấy quyền tối cao của mình để lên án vấn đề phá thai và triệt sinh an tử;

26.   Ban hành ngày 22/2/1996 Tông Hiến Universi Dominici gregis về trường hợp trống ngôi giáo hoàng và việc tuyển bầu tân giáo hoàng;

 

27.   Tuyên bố Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là Tiến Sĩ Hội Thánh (thứ 33) ngày 19/10/1997, cùng với hai nữ tiến sĩ Têrêsa Avilla và Catarina Sienna đã được Đức Phaolô VI tuyên nhận trước đây;

 

28.   Viếng thăm Cuba (là một trong những nước Cộng Sản ngoài Đông Âu và Nga Sô), một nước cộng sản đầu tiên ngài viếng thăm ngày 21-26/1/1998 và gặp Tổng Thống Fidel Castro Ruz ngày 22/1 tại Palacio de la Revolucíon, nhân vật đã đến gặp ngài tại Vatican ngày 19/11/1996;

 

29.   Tuyên bố Ba Thánh Nữ Brigita Thụy Điển, Catarina Sienna Ý quốc và Têrêsa Benêđicta Thánh Giá gốc Do Thái (được phong thánh tử đạo ngày 11/10/1998) làm những vị Thánh Đồng Quan Thày của Âu Châu, ngày 1/10/1999, và cả 3 vị thánh nữ này trở thành đồng quan thày Âu Châu với 3 vị thánh nam là Biển Đức, Cyrilô và Methôđiô;

 

30.   Ngỏ  lời cám ơn trước Kinh Truyền Tin về  Bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Điều Công Chính Hóa giữa Liên Hiêp Thế Giới Lutherô và Giáo Hội Công Giáo được hai bên ký nhận vào Chúa Nhật 31/10/1999, (ngài cũng đã gửi thư ngày 5/11/1983 dịp kỷ niệm sinh nhật 500 năm của nhân vật khởi xướng phong trào Thệ Phản Protestant Martin Luthêrô);

 

31.   Mừng Đại Năm Thánh 2000 từ Lễ Giáng Sinh 25/12/1999 đến Lễ Hiển Linh 1/6/2001;

 

32.   Cử Hành Ngày Xin Lỗi “Day of Pardon”, Chúa Nhật I Mùa Chay 12/3/2000, chính thức thay mặt Giáo Hội lên tiếng xin lỗi những lỗi lầm của con cái Giáo Hội;

 

33.   Tuyên bố lập Lễ Kính Chúa Tình Thương dịp phong thánh cho nữ tu Faustina ngày 30/4/2000;

 

34.   Bày tỏ vào ngày 13/6/2000 lòng biết ơn đối với Tổng Thống Ý đã ân xá cho tay ám sát ngài là Ali Agca ngày 13/5/1981 theo lời ngài yêu cầu trước đó, tay ám sát đã được ngài đến thăm trong nhà tù Rebbibica ngày 27/12/1983;

 

35.   Ban Tự Sắc E Santi Thomae Mori ngày 31/10/2001 để công bố Thánh Thomas Moore là quan thày của thành phần chính trị gia;

 

36.   Tổ chức Ngày Liên Tôn Cầu Cho Hòa Bình Thế Giới ở Assisi ngày 24/1/2002 (được ngài loan báo từ ngày 18/11/2001), một biến cố được ngài khởi xướng lần đầu tiên vào ngày 27/10/1986, và đã tái diễn vào ngày 9-10/1/1993 để cầu hòa bình cho Âu Châu, đặc biệt cho các quốc gia vùng Balkins đang bạo loạn bấy giờ (Assisi là một trong hai nơi đặc biệt đầu tiên được ngài đã đến kính viếng sau khi vừa đăng quang giáo hoàng đó là Đền Đức Trinh Nữ Maria ở Mentorella Rôma ngày 29/10/1978 và Assisi ngày 5/11/1978);

 

37.   Ban hành Tông Huấn Giáo Hội Tại Đại Dương Châu Ecclesia in Oceania ngày 22/11/2001 (văn kiện tổng kết Thượng Hội Giám Mục Đại Dương Châu ngày 22/11-12/12/1998) và gửi đi lần đầu tiên bằng máy điện toán cho tất cả mọi giáo phận ở đó;

 

38.   Cũng về vấn đề hòa bình, ngài đã kêu gọi tín hữu Công giáo cử hành Ngày Chay Tịnh cầu cho hòa bình 14/12/2001, sau biến cố 911 ở Hoa Kỳ, Ngày Cầu Nguyện Cho Hòa Bình ở Thánh Địa 7/4/2002, Chúa Nhật Chúa Tình Thương, khi Bêlem bị lực lương Do Thái phong tỏa bởi thành phần khủng bố Palestine đang ở trong Đền Thờ Bêlem, và Ngày Chay Tnh, Thứ Tư Lễ Tro 5/3/2003 cầu cho hòa bình thế giới, nhất là ở Trung Đông, chưa kể ngày 21/1/1994 Thứ Sáu cho hòa bình ở Bosnia;

 

39.   Mở Năm Mân Côi từ ngày 16/10/2002 đến 19/10/2003, với Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, ban hành vào đúng ngày ngài được bầu làm giáo hoàng 24 năm trước, trong đó ngài thêm 5 mầu nhiệm ánh sáng cho Kinh Mân Côi trọn vẹn là tóm lược Phúc Âm;

 

40.   Tái ấn định một số vấn đề cần phải tuân giữ hay tránh lánh liên quan đến Bí Tích Cực Linh, qua Bản Hướng Dẫn (theo ý ngài trong Thông Điệp Giáo Hội  Sống Bởi Thánh Thể, khoản số 52) của Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích soạn dọn và  ban hành ngày 23/4/2004;

 

41.   Trao trả, qua phái đoàn đại biểu do chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Hiệp Nhất Kitô giáo đến gặp Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống giáo Nga là Alexis II ở Nga, Bức Ảnh Mẹ Thiên Chúa Kazan cho Giáo Hội Chính Thống Nga ngày 28/8/2004, bức ảnh đã từng để tại phòng của ĐTC đã lâu; cũng trao trả các Hài Tích của Hai Thánh Giáo Phụ John Chrysostom và Gregory Nazianzen cho Giáo Hội Chính Thống qua vị Thượng Phụ Giáo Chủ Hoàn Vũ Bartholomew I ngày 27/11/2004;

 

42.   Viết 4 tác phẩm (ngoài 1 thi phẩm năm 2003), 1 nhân dịp kỷ niệm 50 năm linh mục: “Tặng Ân và Mầu Nhiệm” (1996), 1 nhân dịp 40 năm chủ chăn: “Đứng lên! Nào chúng ta đi” (2004), 1 về triết lý thời sự “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (1994) và 1 về luân lý thời sự: “Hồi Niệm và Căn Tính” (2005);

 

43.   Mở Năm Thánh Thể từ ngày 10/10/2004 đến 29/10/2005, để đem Giáo Hội, nhờ Mẹ Maria qua Năm Mân Côi, trở về với Nguồn Sống Thần Linh của mình là Thánh Thể, theo chiều hướng “duc in altum”.


 

Những gì còn dở dang:

 

1.       Chưa viếng thăm Iraq, vùng Đất Thánh của Cựu Ước liên quan đến tổ phụ Abraham, nơi Ngài mong đến như ngài diễn tả trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến ở khoản số 24 song đã hụt đến trong Năm Thánh 2000, một biến cố được ngài cử hành cuộc ngưỡng vọng ngày 22/2, trước khi thực hiện cuộc Hành Hương Sinai/Thánh Địa 24-26/2/2000;

 

2.       Chưa viếng thăm Nga Sô, theo lời mời của Tổng Thống Putin ngày 5/6/2000, một quốc gia mở màn chế độ Cộng Sản trên thế giới và truyền bá chủ  nghĩa Cộng Sản khắp thế giới cho đến khi vị lãnh đạo cuối cùng của họ đến gặp ngài lần đầu tiên ngày 1/12/1989 ngay sau Biến Cố Đông Âu sụp đổ và trước khi vị này từ chức ngày 25/12/1991;

 

3.       Chưa viếng thăm hết các giáo xứ Rôma, nơi ngài làm giám mục, (ngài mới thăm 301 trong 325 giáo xứ);

 

4.       Chưa hết Năm Thánh Thể, (10/10/2004-29/10/2005), mới được một nửa năm (10/10/2004-2/4/2005);

 

5.       Chưa phong thêm 7 vị chân phước đã được ấn định vào ngày Chúa Nhật V Phục Sinh 24/4/2005, như Wadysław Findysz (1907-1964), María De Los Ángeles Ginard Martí (1894-1936), Léon Dehon (1843-1925), Bronisław Markiewicz (1842-1912), Rita Amada De Jesus (1848-1913), Maria Crocifissa Curcio (1877-1957), Eurosia Fabris (1866-1932); chưa kể 1.339 vị chân phước và 483 vị hiển thánh đã được ngài phong;

 

6.       Chưa đến với  Ngày Giới Trẻ Thế Giới 20 tại Cologne Đức Quốc vào Tháng 8/2005, với chủ đề “Chúng tôi đến triều bái Người”;

 

7.       Chưa chủ sự Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Thường Lệ XI 2-29/10/2005 về chủ đề Thánh Thể để kết Năm Thánh Thể;

 

8.       Chưa xong loạt bài Giáo Lý cầu nguyện bằng Thánh Vịnh bắt đầu từ ngày 28/3/2001, mới tới bài 131 cho Giờ Kinh Tối Thứ Sáu, tuần thứ hai trong 4 tuần Phụng Vụ Giờ Kinh, còn phải mất cả một năm nữa mới xong;

 

9.       Chưa đạt ước nguyện đại kết Kitô giáo, nhất là với Chính Thống giáo, vì theo ngài, Nhiệm Thể của Chúa Kitô cần phải được thở bằng cả hai buồng phổi.

 

10.   Chưa đạt ước nguyện đại kết liên tôn, nhất là với Do Thái giáo là thành phần Dân Chúa cần phải nhận biết Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai, thành phần ngài là vị giáo hoàng đầu tiên đã đến thăm Hội Đường của họ ở Rôma ngày 13/4/1984;

 

11.   Chưa thấy các quốc gia giầu thịnh tích cực đáp ứng lời đề nghị giảm nợ quốc tế, như ngài đề cập tới ở khoản số 51 trong Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba được ban hành ngày 10/11/1994.

 

12.   Chưa thấy Âu Châu hiệp nhất hay ít là thấy châu lục này công nhận căn tính Kitô giáo của họ trong bản Hiến Pháp của Khối Hiệp Nhất Âu Châu.

 

13.   Chưa thấy Iraq được ổn định, vì chính ngài đã trực tiếp nhúng tay vào can thiệp trước khi xẩy ra cuộc chiến, bằng cách sai hai vị sứ giả, một là ĐHY Roger Etchegaray, chủ tịch hưu trí Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình của Tòa Thánh, tới với Tổng Thống Saddam Hussein ngày 10/2/2003, và một là ĐHY Pio Laghi, nguyên Khâm Sứ Tòa Thánh ở Hoa Kỳ, đến với Tổng Thống George Bush ngày 1/3/2003.

 

 

Tân Giáo Hoàng kế vị:

 

Nếu chiều hướng của vị giáo hoàng quá cố là “thả lưới ở chỗ nước sâu - duc in altum”, một chiều hướng ngài phác họa cho cả Giáo Hội vào thời điểm trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba Kitô giáo, như Tông Thư Vào Lúc Mở Màn Cho Một Tân Thiên Niên Kỷ ban hành vào Ngày Lễ Hiển Linh 6/1/2001 để bế mạc Đại Năm Thánh 2000, thì vị giáo hoàng thay ngài phải là vị giáo hoàng nội tâm hơn hoạt động, đau khổ nhiều hơn thành đạt.

 

Có thể nói, nếu giáo triều Gioan Phaolô II là giáo triều huy hoàng nhất lịch sử Giáo Hội Công giáo, chẳng khác nào như Chúa Kitô tiến vào thành thánh Giêrusalem, thì vị giáo hoàng sau ngài sẽ là vị giáo hoàng của Bữa Tiệc Ly (có thể đó là lý do Năm Thánh Thể chưa kết thúc, liên quan đến Hiệp Nhất Kitô giáo, theo lời nguyện kết thúc Bữa Tiệc Ly của Chúa Kitô), vị giáo hoàng của Vườn Nhiệt (với những nhức nhối nội bộ) và của Khổ Nạn (gây ra bởi cả dân Chúa lẫn thế giới).

 

Đó là lý do vị tân Giáo Hoàng dù không nổi tiếng như đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II, nhưng việc ngài kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa theo tác động Thánh Thần và chịu đau khổ với Chúa Kitô sẽ còn làm được nhiều hơn cả vị tiền nhiệm lừng danh của mình nữa. Vì Chúa Kitô, sau thời gian rao giảng và vinh hiển vào thành Giêrusalem, chỉ hoàn thành công cuộc cứu độ của mình bằng cuộc khổ nạn mà thôi.

 

 

Ước nguyện cuối cùng ĐTC GPII:

 

Sau đây là sứ điệp của ĐTC GPII đã dọn sẵn cho ngày Chúa Nhật Lễ Chúa Tình Thương 3/4/2005 để đọc vào giờ kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng sau Thánh Lễ Sáng tại Quảng Trường Thánh Phêrô, như mọi Chúa Nhật trong năm, và đây là sứ điệp cuối cùng từ một giáo triều trên 26 năm của vị giáo hoàng Lòng Thương Xót Chúa:

 

Anh Chị Em thân mến!

 

1.     Lời Alleluia Phục Sinh vui lên cũng âm vang vào ngày hôm nay nữa. Bài Phúc Âm của Thánh Gioan hôm nay nói lên rằng Đấng Phục Sinh, vào đêm hôm đó, đã hiện ra với các vị Tông Đồ và “đã tỏ cho các vị thấy đôi tay và cạnh sườn của Người” (Jn 20:20), tức là cho thấy những dấu hiệu của Cuộc Khổ Nạn đau thương còn hằn vết bất khả xóa mờ trên thân xác của Người cả sau khi Người Phục Sinh. Những thương tích hiển vinh này, những thương tích mà 8 ngày sau đó Người đã cho người tông đồ Tôma nghi ngờ chạm tới, đã cho thấy tình thương của Thiên Chúa “vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con duy nhất của mình” (Jn 3:16).


Mầu nhiệm yêu thương này là tâm điểm của phụng vụ hôm nay, Chúa Nhật ‘in Albis’, được giành để tôn thờ Lòng Thương Xót Chúa.


2.     Chúa Kitô phục sinh đã hiến ban cho nhân loại, một nhân loại có những lúc dường như bị lạc mất và bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, cái tôi và sợ hãi, tặng ân tình ngài yêu thương, một tình yêu tha thứ, hòa giải và phục hồi tinh thần hy vọng. Đó là một tình yêu hoán cải tâm can và ban phát an bình. Thế giới này cần phải hiểu biết và chấp nhận Lòng Thương Xót Chúa biết bao!


Lạy Chúa, Đấng đã tỏ tình yêu thương của Chúa Cha qua Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa ra, chúng con tin tưởng vào Chúa và tin tưởng lập lại cùng Chúa hôm nay rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Chúa, xin thương xót chúng con và toàn thế giới.


3.     Phụng vụ trọng thể của Lễ Truyền Tin là lễ sẽ được cử hành ngày mai, đưa chúng ta đến việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm vĩ đại của tình yêu nhân hậu xuất phát từ thánh tâm Chúa Giêsu này bằng ánh mắt của Mẹ Maria. Nhờ Mẹ giúp đỡ, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa đích thực của niềm vui phục sinh là niềm vui được căn cứ vào niềm tin tưởng rằng Đấng được Đức Trinh Nữ cưu mang trong lòng, Đấng đã khổ nạn và tử giá vì chúng ta, đã thực sự phục sinh. Alleluia Hãy Vui Lên

 

Tóm lại, theo người viết, di chúc hay ước nguyện cuối cùng ĐTC GPII, vị giáo hoàng của “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần – Redemptor Hominis” (Thông Đi ệp mở màn cho giáo triều của ngài được ban hành vào Chúa Nhật I Mùa Chay ngày 4/3/1979) thực sự muốn để lại cho cả Giáo Hội lẫn toàn thể nhân loại,một nhân loại có những lúc dường như bị lạc mất và bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, cái tôi và sợ hãi”, đó làthế giới này cần phải hiểu biết và chấp nhận Lòng Thương Xót Chúa biết bao! Thế nhưng, để được như vậy, để nhân loại có thể “chấp nhận Lòng Thương Xót Chúa”, Giáo Hội nói chung và vị tân giáo hoàng nói riêng, phải trở thành Tông Đồ của Lòng Thương Xót Chúa, nhờviệc chiêm ngưỡng mầu nhiệm vĩ đại của tình yêu nhân hậu xuất phát từ thánh tâm Chúa Giêsu này bằng ánh mắt của Mẹ Maria”.