Những Kiến Trúc Sư

xây dựng Nền Văn Hóa Sự Chết

 

Ông Donald DeMarco, đồng tác giả với ông Benjamin Wiker, viết tác phẩm “Những Kiến Trúc Sư xây dựng Nền Văn Hóa Sự Chết” do Ignatius xuất bản, một tác phẩm trình bày về cuộc sống và lý thuyết của một số tư tưởng gia góp phần gieo mầm văn hóa sự chết. Ông này là phụ giáo sư triết học ở Đại Học và Chủng Viện Các Thánh Tông Đồ Connecticut, và là giáo sư hồi hưu ở Đại Học Thánh Jerome, Ontario. Sau đây là những vấn đề được ông trả lời trong cuộc phỏng vấn với Zenit.

Vấn:     Tại sao ông quyết định tổng hợp vào tác phẩm này “Những Kiến Trúc Sư Xây Dựng Nền Văn Hóa Sự Chết”?

Đáp: Đầu đề này là tư tưởng đầu tiên của Benjamin Wiker, người cùng viết với tôi. Khi tôi mới đọc thấy đầu đề liên quan của ông ấy trong một bài viết cho tờ National Catholic Register, tôi đã cảm thấy rất mạnh mẽ là tôi có theê viết một loạt những bài về đề tài này và ông Ben với tôi có thể hợp tác viết một cuốn sách mang tựa đề “Các Kiến Trúc Sư Xây Dựng Nền Văn Hóa Sự Chết”.

Tôi nghĩ rằng chún g tôi có một cái gì đó giống nhau khiến chúng tôi có thể chia sẻ quan điểm này, tức là chia sẻ một niềm xác tín được cảm nhận một cách sâu xa rằng có một điều gì đó hết sức sai trái đã xẩy ra trong thế giới tân tiến này mà người ta cần phải biết nó đã xẩy ra thế nào cũng như cần có một câu giải đáp cho những thứ nan giải hiện tại của chúng ta.

Tôi đã từng dạy về triết học luân lý và lịch sử triết lý hiện đại ở Đại Học Thánh Giêrônimô ở Waterloo, Ontario, rất nhiều năm. Bởi thế, đây là việc làm dễ dàng đối với tôi để đúc kết 15 vị trong số những kiến trúc sư này và giải thích làm thế nào tư tưởng hết sức ảnh hưởng của họ đã góp phaân một cách mạnh mẽ vào việc hình thành nền văn hóa sự chết hiện nay.

Tôi đã viết 5 cuốn sách về đề tài đức hạnh. Con người ta thường nói về tầm quan trọng của yêu thương, thế nhưng không có đức hạnh thì cũng chẳng có thứ giây chuyền điện để yêu thương có thể được diễn đạt một cách hiệu nghiệm hay thỏa đáng.

Tôi cho rằng những gì tôi nghĩ tưởng không thể nào trách khỏi việc biến từ một điều gì đó tích cực sang cái phản lại nó. Người ta chỉ bênh vực sự thật nửa vời nếu họ không phơi bày những thứ gian mang xảo quyệt tấn công sự thật và che đậy sự thật.

Như tôi đã nói, tôi không gặp khó khăn gì trong việc nêu lên 15 “kiến trúc sư”, và mặc dù còn có thể đưa ra hơn thế nữa, tôi cũng lấy làm mãn nguyện với những kiến trúc sư tôi đã lựa ra. Ngoài ra, những kiến trúc sư này thuộc vào những phân loại ngoạn mục, đó là những người tôn thờ ý muốn, những hiện sinh vô thần, những lý tưởng gia trần thế, những kẻ tìm cầu khoái lạc và những tay rao vặt chết chóc. Vị đồng tác giả của tôi là ông Ben trình bày về 8 tư tưởng gia sáng giá khác trong tác phẩm của chúng tôi.

Vấn:     Đời sống của những cá nhân này ra sao mà lại được nói tới nhiều như thế?

Đáp:     Là một triết gia theo nghề nghiệp, tôi thường viết về những kiến trúc sư này liên quan đến những gì “nói” về họ nhiều nhất, đó là những gì họ nghĩ cho thấy bất khả vững chắc. Quan niệm của họ về đời sống và thế giới không đứng vững trước bất cứ hình thức phân tích hữu lý nào. Không có một kiến trúc sư nào đã từng cho rằng họ có một quan niệm quân bình về những gì tạo nên một con người.

Arthur Schopenhauer, Friedrich Nietzsche và Ayn Rand đã quá đề cao ý muốn đến nỗi chỉ giành cho lý trí một chút xíu thôi. Các sử gia đã nói đến bộ ba này như là”những tay nhiệt sinh phi lý trí”.

Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir và Elisabeth Badinter lại tuyệt đối hóa tự do đến độ không còn một chút gì là trách nhiệm, nhất là trách nhiệm cộng đồng.

Chủ nghĩa mộng tưởng của Karl Marx, Auguste Comte và Judith Jarvis Thomson là một thứ lẩn lánh trong mơ màng.

Sigmund Freud, Wilhelm Reich và Helen Gurley Brown đặt khoái lạc, chứ không phải yêu thương, làm trọng tâm nơi đời sống của con người.

Sau hết, Jack Kevorkian, Derek Humphry và Peter Singer hoàn toàn không còn thấy được phẩm vị của con người và tính chất linh thánh của sự sống.

Một đặc tính khác nói về những cá nhân này đó là đời sống của họ bị xáo trộn. Ít là 3 người trong số họ - Auguste Comte, Wilhelm Reich và Friedrich Nietzsche, theo những sử gia khác nhau về triết học, là những người khùng. Một số khác cho thấy những dấu hiệu rõ ràng là bị chứng loạn thần kinh chức năng. Trong nhiều trường hợp, và điều này cũng đúng đối với các kiến trúc sư được người cùng viết tác phẩm này với tôi đề cập tới, họ tham gia những hoạt động thực là rùng mình.

Có lần Thánh Âu Quốc Tinh đã nói rằng việc biện minh thực sự duy nhất đối với triết lý đó là nó có thể làm cho con người ta hạnh phúc. Cần phải có một thứ hòa hợp giữa triết lý về đời sống của một con người với những thỏa mãn của đời sống do việc áp dụng nó mang lại. Những tư tưởng đều có những thành quả của chúng. Những tư tưởng thực tiễn phải là dự án chính cho một đời sống hạnh phúc. Những tư tưởng không thực tiễn không thể nào dẫn đến hạnh phúc được. Triết lý được cho rằng đó là lòng mến yêu sự khôn ngoan, chứ không phải là một thứ thuốc an thần cho nỗi khốn cùng.

Vấn:     Ông nghĩ điều gì làm cho độc giả ngạc nhiên nhất về các tư tưởng gia được đề cập đến trong tác phẩm của ông?

Đáp:     Đây là một câu hỏi khó trả lời vì khó lòng mà đoán được phản ứng của thành phần độc giả.

Thế nhưng, sẽ có nhiều độc giả lấy làm ngạc nhiên khi thấy cái bất nhất giữa những mục tiêu trị liệu của những kiến trúc sư ấy cũng như khi thấy rằng họ đã góp phần khủng khiếp xây dựng nền văn hóa sự chết.

Wilhelm Reich đã nghĩ mình là một Đấng Thiên Sai trần thế đến để chữa lành thế giới về chứng loạn thần kinh chức năng của cá nhân cũng như của xã hội. Ông ta coi mình như là tay Freudo-Marxist tiên khởi trên thế giới. Hơn bất cứ một ai khác, ông nhận được tước hiệu là “Cha Đẻ của Cuộc Cách Mạng về Tình Dục”.

Tuy nhiên, ông ta đã chết ở một trại cải tạo nhân phẩm của liên bang, vì tội lừa gạt quần chúng Hoa Kỳ bằng việc bán cho họ những thứ hộp rỗng bị tố cáo là được làm để chất chứa một hình thức quí báu của thứ năng lực được gọi là “orgone”. Một nhà phê bình của ông ta đã nói rằng khó mà có thể chấp nhận được bất cứ ai nói một cách trịnh trọng rằng “tôi nhìn nhận rằng tôi không thể nào sống cho nổi nếu không có một ổ điếm”.

Trước khi chết mấy năm ở vào tuổi 56, Friedrich Nietzche đã được chứng kiến thấy đang tấn công một cái đàn dương cầm bằng khuỷu tay và ông đã được đưa vào một nhà thương điên. Ông đã nói về tác phẩm “Zarathustra” chính của ông là “Tác phẩm này là một tác phẩm nổi bật nhất. Nếu tất cả mọi tinh thần và sự thiện hảo của hết mọi linh hồn cao cả được thu tích lại với nhau thì tất cả cũng không thể làm nên được một trong những bài viết của Zarathustra”.

Freud đã cho rằng ông là một tân Moisen.

Karl Marx nghĩ rằng ông là một Prometheus mới.

Ayn Rand cho mình là một triết gia cao cả nhất lịch sử loài người, sau Aristote. Bà lập luận rằng: “Altruism là căn nguyên của tất cả mọi sự dữ”. Bà muốn rằng trên quan tài của bà phải được trưng bày một dấu hiệu Mỹ kim dài 6 bộ. Khi bà chết bà đã khó lòng kiếm được một người bạn trên thế gian này.

Những kiến trúc sư này có một cái tôi vĩ đại, thế nhưng cũng khó có thể nói rằng họ có những phương sách cụ thể để chữa lành tất cả mọi bệnh hoạn của xã hội.

Tất cả những kiến trúc sư ấy cho rằng họ là thành phần nhân bản gia và là những kẻ giải phóng không cách này thì cách khác. Tuy nhiên, những gì họ giảng dạy đều là chủ nghĩa nhân bản sai lầm vì coi con người hoàn toàn theo một chiều mà thôi.

Bởi vậy, nhiều người có thể lấy làm ngạc nhiên là các tư tưởng gia có quyền lực và gây ảnh hưởng như thế mà lại thấy bản tính con người là một cái gì khó nắm giữ. Chúng ta cũng đang cố gắng, thường với những thành quả thảm khốc, trong việc giải đáp vấn nạn miên viễn “Con người là gì?”

Vấn:     Theo ông, trong 23 “kiến trúc sư xây dựng nền văn hóa sự chết” được bàn đến đã tác hại nhiều nhất cho xã hội?

Đáp:     Về thiệt hại chết chóc và tác hại đến đời sống của con người trên khắp thế giới thì dẫn đầu và chịu trách nhiệm hơn hết là Karl Marx.

Arthur Schopenhauer là một kiến trúc sư quan trọng vì ông là người đầu tiên coi ý muốn của con người, một ý muốn gian ác và phi lý trí, như yếu tố nồng cốt của thực tại. Ông đã ảnh hưởng rất nhiều trên Friedrich Nietzsche là người đã đặt ý muốn vào cái tôi, và Sigmund Freud đã đặt nó vào “id”. Ayn Rand cũng chịu ảnh hưởng bởi quan niệm về ý muốn nền tảng ấy.

Sartre đã gây được một ảnh hưởng rất nhiều về việc tuyệt đối hóa tự do của con người là những gì cuối cùng dẫn đến thứ triết lý chỉ biết đến “quyền tự quyết”.

Vấn:     Làm thế nào Karl Marx đã có thể khai thác được những tác lực về tôn giáo nơi các đồ đệ của mình, và làm sao ông ta có thể đã bóp méo được giáo điều của Kitô giáo theo những mục đích phản Kitô giáo của mình?

Đáp:     Khi Marx loại bỏ tôn giáo bằng những câu đáng ghi nhớ như “thuốc phiện làm mê hoặc dân chúng”, “hào quang tỏa hoạn nạn” và “tiếng thở dài của tạo vật bị áp đảo, con tim của một thế giới vô tâm”, thì ông ta không phê phán việc hành đạo chân chính mà là cái vỏ tôn giáo. Theo Jacques Maritain phân biệt, Marx phản ứng lại với “thế giới Kitô giáo”, chứ không phải với “Kitô giáo”.

Nói như thế có nghĩa là ông hiểu lầm bức hí họa phác tả cái nguyên mẫu của nó, là nhạo cười châm biếm những gì là mô mẫu. Nếu hiểu rộng cho Marx thì như ông ta nói rằng “Thật là hết sức bất hạnh khi con người đôi khi lạm dụng tôn giáo bằng cách sử dụng tôn giáo như là một liều thuốc làm cùn nhụt đi những cảm thức về luân lý và lý trí của họ”.

Nếu thế thì ông đã suy nghĩ và hiểu được cái khác nhau giữa những thứ hành đạo gian tà và chân thực. Song ông đã loại trừ tất cả mọi tôn giáo vì ông phán đoán cái chính thống bằng cái giả tạo bất chính thống. Bởi thế ông đã làm mọi sự có thể để ngăn ngừa tình trạng phát triển của tôn giáo chân chính.

Marx tuyên bố rằng “thật là dễ dàng để làm một thánh nhân nếu bạn không muốn làm người”. Ông thấy tôn giáo chẳng là gì khác hơn một thứ ánh sáng tiêu cực. Tôn giáo chỉ có một chút giá trị đối với bố mẹ của ông. Bố của ông, để thành đạt trong nghề làm luật sư, đã trao đổi Do Thái giáo lấy Tin Lành. Cha sao con vậy. Gia đình ông đã sống như những tín hữu Tin Lành cấp tiến, chẳng có một niềm tin tôn giáo căn bản nào hết.

Không cần nói ai cũng biết rằng chẳng có một ai lại xứng hợp làm thánh mà lại không hoàn toàn làm người đã. Marx đã sử dụng ý hệ sai lầm của mình như một thứ đo lường tôn giáo. Kitô giáo, tự bản chất, đã bác bỏ nỗ lực nên thánh mà trước hết không làm người. Kitô giáo gán cho việc thực hành như thế là thứ “Pharisiêu giả hình”.

Marx đã vội vàng hấp tấp trong việc làm biến đổi thế giới mà ít quan tâm đến một số điểm thiết yếu hơn nơi ý nghĩ luận bình của mình: “Các triết gia chỉ giải thích về thế giới qua những cách thức khác nhau; nhưng vần đề vẫn là làm đổi thay thế giới”.

Vấn:     Ông ghi nhận là Đức Gioan Phaolô II diễn tả Marx, Nietzsche và Freud như là “những tổ sư của sự ngờ vực”. Ngài nói như thế có nghĩa gì và tại sao ngài lại nhắm tới những con người đặc biệt đó thôi?

Đáp:     Trong loạt bài “thần học về thân thể” của mình, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề cập đến “các tổ sư của sự ngờ vực”, một diễn từ ngài mượn từ Paul Ricoeur là người áp dụng diễn từ ấy cho Sigmund Freud, Karl Marx và Friedrich Nietzsche.

Đối với ĐTC này thì các thứ triết lý của bộ ba này tiêu biểu cho những gì được Thánh Ký Gioan diễn tả trong Bức Thư thứ nhất của thánh nhân ở đoạn 2 câu 15 và 16 liên quan đến “ham muốn về xác thịt”, “ham muốn của con mắt” và “vinh vang của đời sống”.
Freud muốn giải thoát bản năng tình dục khỏi những giam hãm của “cái siêu ngã”; Marx khuyến khích các phần tử thuộc giai cấp vô sản nổi loạn để họ có thể thỏa mãn những ước muốn chiếm hữu về vật chất; và Nietzsche truyền bá một thứ thần tôi quá sức mãnh liệt không thể bị luân lý kiềm chế.

Nhục dục, tham lam và cao ngạo được ba nhân vật cách mạng vô thần này hồ hởi đã không mang đến cho con người tầm vóc viên mãn bản thân. Trái lại, chúng đã dẫn đến một tình trạng phân hóa nhân cách con người. Những hoa trái của nhục dục, tham lam và cao ngạo là những gì tương ứng với tâm trạng cô đơn buồn tủi, bất mãn thiêng liêng và khốn khổ đê hèn.

Đức Gioan Phaolô II giải thích rằng “những tay tổ của sự ngờ vực” là cụm từ diễn tả chính xác nhất, vì cụm từ này muốn nói rằng một con tim tự nhiên tỏ mình ra nơi hình thức nhục dục, tham lam hay cao ngạo là một con tim không thể nào tin tưởng được. Con tim của con người, như được Freud, Marx và Nietzche diễn tả, là con tim nổ tung mình ra, do đó, nó trở thành một đối tượng cho mối ngờ vực sâu xa. Một con tim kỳ dị với chính mình như thế mà nó không thể nào có thể tin tưởng nổi.

Yếu tố tối yếu đã bị thiếu hụt nơi tư tưởng của ba tư tưởng gia vô thần này là mối liên hệ với Chúa Cha. Như Thánh Gioan viết “Nếu ai yêu mến thế gian thì tình yêu của Chúa Cha không ở trong họ; vì tất cả mọi sự ở trong thế gian này là ham mê xác thịt, ham mê của con mắt và cái vinh vang của đời sống; những gì không phải từ Chúa Cha mà là từ thế gian”.

Hình ảnh trong tâm trí của nhà thơ William Butler Yeats được diễn tả trong cuốn “Lần Đến Thứ Hai” đó là “Chim ưng không nghe tiếng người luyện chim cắt … tình trạng hỗn loạn lan tràn khắp thế giới”. Con người trong thế giới tân tiến, theo gương “các tay tổ sư của sự ngờ vực”, đã trở nên quá xa lạ Thiên Chúa đến nỗi họ không còn nghe thấy sứ điệp nhất thống của Chúa Cha nữa. Không có Chúa Cha thì chỉ có hỗn loạn mà thôi.
Freud, Marx và Nietzche, những con người gây ảnh hưởng rất nhiều trên thế giới tân tiến, đặc biệt cương quyết chối bỏ khía cạnh vai trò Thân Phụ của Thiên Chúa. Tất cả 3 người họ đều tin tưởng và dạy rằng điều kiện để con người được tự do đó là Vị Thiên Chúa là Cha phải chết đi.

Đối với Freud, có lẽ yếu tố căn bản nhất trong phương pháp phân tâm học của ông ta đó là chứng loạn thần kinh chức năng xẩy ra khi có quá nhiều những điều nghiêm khắc của cái siêu ngã. Bởi thế ông tìm cách giải thoát con người khỏi Lề Luật và tối hậu là khỏi Đấng Ban Lề Luật làm nên siêu ngã. Freud thấy mình như là một tân Moisen, hay là một phản Moisen, nhắm mục đích hủy bỏ vai trò Thân Phụ của Thiên Chúa là vai trò chiị trách nhiệm về việc áp đặt dồn nén tâm lý con người.

Marx là người công khai xưng mình là kẻ thù của bất cứ những gì là thần linh. Ông đã tuyên bố “tôi ghét tất cả mọi thứ thần linh”. Tâm tính của thần Prometheus (biệt chú của người dịch: Prometheus là con trai của Tiran Iapetus và là anh em với Atlas, đã ăn cắp lửa của các vị thần linh để ban cho nhân loại. Zenus đã trừng phạt Prometheus bằng cách xích trói Prometheus vào một tảng đá và sai một con đại bàng ban ngày đến ăn gan của Prometheus nhưng ban đêm gan của Prometheus được hồi phục. Dần dần Prometheus được Heracles giải cứu) làm cho ông phản lại những gì ông tin tưởng là một vị thần linh hư cấu, vị thần linh thoạt tiên thôi miên rồi áp đảo các thứ khối lượng. Ông thấy cái khúm núm quị lụy trước hình ảnh Chúa Cha như là một thứ sát hại cái bản ngã của con người. Đối với ông thì không có một hy sinh nào là quá đắt đỏ trong việc hạ bệ thần linh vì lợi ích của việc giải phóng con người. Ông hãnh diện chủ trương rằng: “Tôi thà bị cột vào một tảng đá còn hơn là tên đầy tớ dễ bảo của Zeus Cha”.

Nietzsche đã viết bản văn đều tiên về luân thường đạo lý khi ông mới lên 13 tuổi. Trong bài văn này, ông đã nghĩ rằng ông giải quyết được vấn đề sự dữ. Ông viết “việc tôi giải quyết vấn đề này đó là tôn vinh Thiên Chúa như là Đấng công chính duy nhất và làm cho ngài trở thành cha đẻ của sự dữ”. Nietzche đặt vấn đề “tại sao ngày nay lại có vô thần?”. “Người cha nơi Thiên Chúa đã hoàn toàn bị bác bỏ mất rồi”. Ông khuyên răn rằng: “Bằng ân sủng các bạn hãy yêu bản thân mình; rồi các bạn không còn cần gì tới Thiên Chúa của các bạn nữa, và các bạn có thể tự mình trình diễn toàn bộ thảm kịch Sa Ngã và Cứu Chuộc cho đến màn kết thúc”.

Vấn:     Một số người có khuynh hướng qui trách cho thập niên 1960 về tất cả những rắc rối hiện nay trong xã hội. Nhìn lại vấn đề, phải chăng thập niên 1960 cho thấy cái tột đỉnh của một thứ luyện tập về lý lẽ của các biến cố cũng như của các thứ tư tưởng?

Đáp:     Thập niên 1960 tiêu biểu cho, trong nhiều sự khác, cuộc cách mạng về tình dục theo chiều hướng tách tình dục ra khỏi trách nhiệm; điều này có thể quan niệm xác đáng hơn như là một thứ thoái hóa.

Thập niên này cũng tiêu biểu cho tình trạng phủ nhận quyền bính, kể cả việc bác bỏ vai trò làm cha, tức phủ nhận quan niệm về văn hóa cũng như quan niệm về tôn giáo nơi vai trò làm cha. Các quan điểm của Sigmund Freud, Wilhelm Reich, Jean-Paul Sartre và Simone de Beauvoir là những gì hết sức hiển nhiên trong giai đoạn này.

Nó cũng là một giai đoạn được nhiều người có óc tôn giáo cố gắng tạo nên một tổng hợp giữa Kitô giáo và chủ nghĩa Marxist. Một số người tin rằng Kitô giáo có được yêu thương, chủ nghĩa Marxist có cấu trúc để đổi thay xã hội. Tuy nhiên, Kitô giáo và chủ nghĩa Marxist thực sự là những cơ cấu tin tưởng biệt phân, không thể dung hòa với nhau được.

Đúng vậy, thập niên 1960 là một giai đoạn chao đảo hỗn độn, tiêu biểu cho việc qui hội về tư tưởng của một số “kiến trúc sư” được chúng tôi bàn đến. Thế nhưng nó không phải là khởi nguyên của vấn đề. Trái lại, nó là hoa trái của vấn đề, người ta có thể nói là như thế.

Có những căn nguyên bắt nguồn từ những Cuộc Đại Chiến, thậm chí từ Thời Minh Tri, khi con người bắt đầu nghĩ rằng họ có thể sống hết sức ngon lành mà không cần đến Thiên Chúa hay đạo giáo gì cả. Câu nói của Albert Camus vẫn tiếp tục ám ảnh thế giới tân tiến cũng như đến thái độ con người cứ tưởng rằng mình tự mãn, đó là “Làm thế nào Minh Tri lại dẫn đến tình trạng vô minh được chứ?”
 

Vấn:     Làm sao “các kiến trúc sư xây dựng nền văn hóa sự chết có thể tiếp tục chiếm được địa vị cao trong nền văn hóa thịnh hành này?

 

Đáp:    Tôi nghĩ rằng lời kêu gọi chính yếu được 23 kiến trúc sư này phổ biến, và nó là một lời mời gọi đã tác động ngay từ ban đầu, đó là họ cống hiến cho thế giới một thứ hứa hẹn sống cuộc đời thoải mái hơn.

 

Con đường đi ít bị vướng trở nhất, hay ngõ tắt, bao giờ cũng là một lời mời mọc thu hút. Thế giới tân tiến thích phân sự chết ra khỏi sự sống để được hoan hưởng một sự sống không bị chết chóc. Đó là lời hứa hẹn của các Vị Thiên Sai giả tạo, thành phần giảng dạy những gì đạo đức còn hơn là hầu hết con người ta có thể nhận thấy được.

 

Karl Marx, Friedrich Nietzsche, Sigmund Freud và những kiến trúc sư khác tỏ ra một thứ giận dữ chính trực theo kiểu Cựu Ước. Họ thực sự là những luân lý gia. Và họ muốn làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn là thế giới chúng ta đã cảm thấy chán chường.

 

Ortega y Gasset đã viết một tác phẩm tiên tri tuyệt vời vào năm 1931 được gọi là “Cuộc Nổi Dậy của Các Thứ Hỗn Mang”. Một trong những thành ngữ tôi ưa thích trong tác phẩm này, một tác phẩm có vô khối thành ngữ đáng nhớ, đó là “chủ quyền của thành phần bất xứng”. Ortega đã cho thấy rằng cái kim tự tháp của xã hội đang bị đảo lộn, ở chỗ con người xứng đáng đã bị tụt xuống đáy, còn đám hổ lốn bất xứng đã nhẩy lên hàng đầu và nắm quyền kiểm soát văn hóa.

 

Hiện nay chúng ta đang sống trong một thứ văn hóa hổ lốn với cảm giác hỗn mang, với những qui chuẩn lộn xộn cùng với cuộc sống lung tung được chuẩn tắc hóa. Triết lý và tôn giáo là những gì được coi như đáng ngờ vực nhất. Sự khôn ngoan được coi là không có hay bất khả đạt. Việc giải trí về truyền thông là những gì chính đáng, một thứ làm phân tâm khỏi thực tại song lại rất hiếm có những gì là minh tri khôn sáng.

 

Văn hóa của chúng ta là một thứ văn hóa rất nông nổi và chúng ta đang sống với một thứ yêu thương theo tính cách của bộ ba phàm tục là tức thời, thủ đoạn và hời hợt. Chúng ta để cho mình bị ảnh hưởng bởi một thứ những triết lý nông cạn nghèo nàn như chúng tôi thấy nơi các kiến trúc sư xây dựng nền văn hóa sự chết.

 

Thật là dễ dàng cho người nào trồi theo giòng nước, thậm chí cả kẻ chết cũng làm được điều này. Thế nhưng, để bơi ngược giòng, để khám phá ra căn tính đích thực của chúng ta là những con người yêu thương, cần phải nỗ lực, can đảm và nhân đức được biểu lộ qua nhiều hình thức.

 

Truyền thông tiếp tục ru ngủ chúng ta, khêu gợi lên trước mắt chúng ta những thứ hấp dẫn của việc hưu trí sớm, của tình trạng độc lập về tài chính, của một tuần làm việc ít ngày, của những chương trình nghỉ hè hào hứng, của vấn đề dễ dàng về vật chất và của cả ngàn hình thức khác của tình trạng ngáp ngủ tiêu biểu cho cái thoải mái của sự chết hơn là sinh lực của sự sống. Bởi thế mà chúng ta dễ bị khai thác bởi các thứ triết lý tệ hại.

 

Vấn:     Nếu nền văn hóa sự chết là ở chỗ có một quan điểm phân mảnh về con người và mất ý thức về Thiên Chúa như ông nhận định thì văn hóa sự sống là ở chỗ nào? Có một hy vọng nào cho tương lai hay chăng?

 

Đáp:    Câu trả lời hiển nhiên đó là nền văn hóa sự sống được đặt nền tảng trên việc thành phần công dân của nó là những con người nhất thống và có những liên hệ chân thực với Thiên Chúa và tha nhân. Câu trả lời thì rõ ràng là như thế, song việc áp dụng nó hay thực hiện nó lại là vấn đề hoàn toàn khác.

 

Chúng ta cần hứng khởi để chấp nhận những thách đố thực sự của đời sống. Khốn khó không được làm chúng ta nản chí. Nhà thơ Anh quốc John Keats thực sự là một nhân vật anh hùng. Trong một bức thư gửi cho anh chị em của mình ở nhà tại các Hải Đảo Hiệp Vương Quốc, thi sĩ đã giải thích lý do tại sao chúng ta cần đến những khó khăn để thăng hóa việc làm và khám phá ra chúng ta thực sự là ai.

 

“Anh chị em không thấy một thế giới của những nỗi đớn đau và rắc rối cần thiết hay sao để giáo dục trí thức và làm cho nó có một hồn sống? Đời sống của con người khác nhau ra sao thì hồn sống của những cuộc sống này cũng khác nhau như vậy, do đó mà Thiên Chúa đã dựng nên các hữu thể cá biệt”.

 

Keats sống lưu đầy ở Rôma và chết vào năm 23 tuổi bởi bệnh lao phổi. Mặc dù chết sớm nhưng anh cuũg để lại cho hậu sinh một số bài thơ đáng kể đầy minh thức và duyên dáng. Chúng ta cần phải chú ý hơn nữa tới những con người như Keats và ít lưu tâm hơn nữa tới Howard Sterns trên thế giới.

 

Nếu tôi muốn độc giả có được một điều gì đó duy nhất từ tác phẩm của chúng tôi thì đó là cái ý nghĩa nống cốt của thực tại thuyết về nhân loại học. Tất cả vấn đề là ở chỗ chúng ta cần hiểu một cách thực sự, chứ không phải theo những ảo tưởng lôi cuốn, làm người có nghĩa là gì, rồi cố can đảm sống theo những gì thấu hiểu, tức là sống một cách chân thực. 

 

Con người là gì? Họ là một con người đồng một lúc vừa là một cá thể chuyên biệt vừa là một hữu thể cộng đồng mang trách nhiệm yêu thương đối với tha nhân của mình. Trong cái căng thẳng năng động giữa hai cực cá nhân tính và cộng đồng tính ấy xuất phát một con người thực sự có thể sống cuộc đời hôn nhân tốt đẹp và giúp vào việc đặt nền tảng để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

 

Khi Fyodor Dostoevsky nộp cuốn đại tiểu thuyết của mình là “Tội Ác và Trừng Phạt”, ông đã đính kèm mấy chữ sau đây: “Đây là một câu truyện của một sinh viên đại học có một trí khôn bị lây nhiễm những tư tưởng bất toàn đang trôi nổi theo chiều gió”.

 

Nền văn hóa sự sống được đặt căn bản trên những ý nghĩ trọn vẹn về con người. Ngôi vị thuyết của Đức Gioan Phaolô II là một vị trí tốt đẹp để bắt đầu nếu chúng ta muốn hiểu khá hơn về những gì để làm một con người. Đối với vấn đề thách đố trong việc sống như một con người hoàn toàn, thì cần phải có thách đố như thế nếu chúng ta muốn tránh được những lôi kéo của nền văn hóa sự chết cũng như nếu chúng ta muốn sống hợp với những nguyên tắc của nền văn hóa sự sống.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Zenit ngày 11-12,14/11/2004