TRIỆT SINH AN TỬ VÀ TRIỆT SINH TRỢ TỬ
Các Bác Sĩ Kitô Giáo từ chối “trở thành những tay hành quyết”
Những Mưu Mẹo Để Phát Động Vấn Đề Triệt Sinh An Tử
Một Giám Mục Hiệp Vương Quốc Tấn Công Dự Luật “Triệt Sinh Trợ Tử”
Vấn đề những người sống như chết trong tình trạng thực vật: hai trường hợp xẩy ra ở Ý và Mỹ
Viên Chức Tòa Thánh phê bình cuốn phim “Million Dollar Baby”
ĐTC GPII với hội nghị về vấn đề Triệt Sinh An Tử và Trị Liệu Hung Bạo
Các Bác Sĩ Công Giáo Phê Phán Việc Triệt Sinh An Tử Trẻ Em Ở Hòa Lan
Bản Tuyên Cáo của Các Bác Sĩ Công Giáo chống lại Bản Tường Trình về Vấn Đề Trợ An Tử
Luật Triệt Sinh Trợ Tử: Đệ Nhất Quốc Gia Hòa Lan và Đệ Nhị Quốc Gia Bỉ
Các Bác Sĩ Kitô Giáo từ chối “trở thành những tay hành quyết”
Để đáp ứng bản tường trình mới nhất của Tiểu Ban Tham Vấn Đạo Lý Sinh Học ở Catalonia Tây Ban Nha về vấn đề triệt sinh an tử, một hiệp hội các bác sĩ Kitô Giáo đã phổ biến một bản tuyên cáo nói rằng: “Thành phần bác sĩ chúng tôi không muốn trở thành những tay hành quyết”.
Bản tuyên cáo này được viết bởi vị chủ tịch của Hiệp Hội Các Bác Sĩ Kitô Giáo ở Catalonia là Ferran García-Fària đã coi việc triệt sinh an tử “ở ngoài phạm vi cung cấp của thành phần chuyên nghiệp”, và khẳng định rằng mục đích của các vị bác sĩ là để chữa trị và cải tiến thành phần bệnh nhân.
Bản tuyên cáo này cũng đồng thời cảnh báo là việc chấp nhận thực hiện trường hợp triệt sinh an tử đầu tiên “sẽ gây ra cả một làn sóng triệt sinh an tử bao gồm cả thành phần tật nguyền, thành phần loạn óc và thành phần già lão nữa”.
“Khi những gì vốn bị cấm đoán được ban phép thi hành thì nó càng được coi là bình thường, nhất là nếu được nhiều thuận lợi về tài chính chung riêng và được bênh vực bởi một số luồng trào lưu ý hệ”.
Đối với hiệp hội này thì việc hợp pháp hóa vấn đề triệt sinh an tử bao hàm một “thứ sa đọa về đạo lý”, một thứ sa đọa đi từ chỗ trình bày vấn đề triệt sinh an tử như là những gì có thể áp dụng được trong những trường hợp thái quá theo việc kiểm soát chặt chẽ của luật lệ, đến chỗ tổng quát hóa vấn đề áp dụng của nó cho những thành phần bệnh nhân phù hợp với luật lệ, trong đó vấn đề triệt sinh an tử ngoài ý muốn sẽ trở thành một trách nhiệm đối với những ai chấp nhận việc tự nguyện.
Bản tuyên cáo nhấn mạnh đến vấn đề phẩm giá của con người bao giờ cũng có “một giá trị nội tại tuyệt đối”, cũng như đến trách nhiệm cần phải bênh vực nhân phẩm này.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/10/2006
Những Mưu Mẹo Để Phát Động Vấn Đề Triệt Sinh An Tử
Bác sĩ Margaret Somerville, vị giám đốc sáng lập Trung Tâm Y Khoa, Đạo Lý và Luật Lệ ở Đại Học McGill Montreal Gia Nã Đại đã lên tiếng ở cuộc hội luận hằng năm về vấn đề đạo lý sinh học được bảo trợ bởi Tổ Chức Công Giáo Phò Sự Sống và Gia Đình, một cuộc hội luận về vấn đề tiệt sinh an tử và các vấn đề kết liễu sự sống. Theo vị luật sư đạo học dược sĩ này thì trong trận chiến đấu cho vấn đề hợp pháp hóa việc triệt sinh an tử, có hai mưu mẹo được thành phần đề xướng sử dụng, đó là việc tái định nghĩa và gây mập mờ. Trong cuộc phỏng vấn với mạng điện toán toàn cầu Zenit, bà nói về các vấn đề đạo lý và những áp dụng bao rộng trong lãnh vực văn hóa xã hội.
Vấn: Tại sao lại có một áp lực cần tái định nghĩa vấn đề triệt sinh an tử, và việc định nghĩa mới này sẽ bao gồm những gì?
Đáp: Việc tái định nghĩa là một phương sách đặc biệt để phát động vấn đề triệt sinh an tử. Nó gây lẫn lộn vấn đề triệt sinh an tử với các vấn đề can thiệp khả chấp khác của y khoa, chẳng hạn như việc đồng ý thôi không cần đến việc trợ sinh trị liệu (life support treatment).
Thành phần biện hộ cho vấn đề phò triệt sinh an tử (pro-euthanasia) đang sử dụng từ ngữ ‘cái chết được y sĩ trợ giúp’ (physician-assisted death, có thể dịch tắt là triệt sinh trợ tử) – tất cả chúng ta đều đồng ý là chúng ta cần các vị y sĩ chăm sóc cho chúng ta khi chúng ta đang hấp hối chết – và đang cho rằng việc tự vẫn được y sĩ trợ giúp và việc triệt sinh an tử chỉ là những kiểu khác nhau nơi tất cả những loại chữa trị này. Câu nói ‘có tính cách trung lập’ chung nghe thấy lành mạnh đó là việc triệt sinh an tử chỉ là ‘tác động cuối cùng của vấn đề chăm sóc giảm đau tốt đẹp’, và nhiều người đang cho nó như là một giải pháp có thể thực hiện.
Thật vậy, những ai biện hộ cho vấn đề triệt sinh an tử đang phác họa để thực hiện tiếp tục tất cả những gì ra tay kết liễu sự sống, và đang lập luận rằng những việc ra tay này tất cả cũng đều là một thứ, chỉ khác nhau về cấp độ mà thôi. Bởi thế, để nhất trí, chúng ta cần phải, một là chấp nhận tất cả những việc ra tay này, hai là bác bỏ tất cả những việc ra tay ấy. Không ai muốn thực hiện việc bãi bỏ tất cả – có thể hiểu là không còn cách nào để giảm đau cần thiết – bởi vậy chỉ còn một giải pháp duy nhất cần phải chọn lựa đó là chấp nhận tất cả mọi sự.
Thành phần đứng về phíc bên kia của cuộc tranh cãi nói rằng vấn đề triệt sinh an tử và vấn đề tự vẫn được y sĩ trợ giúp là những gì khác nhau về thứ loại chứ không phải về cấp độ, không giồng những biện pháp khác trong việc kết liễu sự sống.
Đối với những lý do tại sao lại có những áp lực này, ở một lãnh vực thì nó là niềm tin riêng tư nơi quyền lợi tự quyết, là nhu cầu kiểm soát, là một phản ứng sau khi chứng kiến cái chết kinh hoàng, là nỗi lo sợ nhiều điều xẩy ra, là việc quản trị ghê sợ v.v.
Vấn: Đối với xã hội nói chung thì đâu là ý nghĩa của việc dự trù hợp thức hóa vấn đề triệt sinh an tử?
Đáp: Đây là một trận chiến quan trọng ở mức độ xã hội nói chung. Trong những trận chiến tranh về văn hóa chúng ta đang trải qua này, có một trận chiến về bản chất của cái kiểu mẫu văn hóa xã hội, một trận chiến về một quan điểm thế giới cần phải chi phối chúng ta trong tương lai, một quan điểm có những thứ giá trị mới chúng ta cần phải chấp nhận và có những giá trị cũ chúng ta cần phải tái xác nhận như thuộc về quan điểm ấy.
Theo tôi có thể có 3 quan điểm tương phản nhau nơi cái quan điểm thế giới mới này, mỗi một quan điểm có một mối liên hệ khác nhau đối với thứ khoa học mới mẻ.
Quan điểm thứ nhất là quan điểm ‘thuần khoa học’, một quan điểm chủ trương rằng khoa học thực sự đang và sẽ có thể giải thích được hết mọi sự, bao gồm cả những tính chất như lòng vị tha và luân lý là những gì làm chúng ta phân biệt khỏi các loài thú và hầu như làm cho chúng ta thấy rõ mình là con người.
Quan điểm thứ nhất này tìm kiếm ý nghĩa nơi đời sống con người chính yếu hay chỉ qua khoa học mà thôi, và cũng thế, tìm cách thực hiện việc chế ngự bằng khoa học. Không còn chỗ nào được nhìn nhận cho tinh thần nữa. Nó ủng hộ quan điểm là cái chết của bản thân con người hoàn toàn là một vấn đề cá nhân, chỉ bao gồm những giá trị và việc tùy ý của cá nhân mà thôi.
Ngược lại, quan điểm thứ hai, quan điểm ‘thuần bí nhiệm’, thường chỉ trích khoa học hay công khai phản khoa học. Quan điểm này chấp nhận một chủ trương coi sự sống là những gì rất linh thiêng thánh hảo, một chủ trương có thể được so sánh với việc tôn trọng hay tôn kính sự sống, quan trọng nhất là tôn trọng hay tôn kính sự chết.
Chẳng hạn, nhiều người chủ trương quan điểm này tin rằng tất cả mọi thừ điều trị về y khoa cần phải được tiếp tục cho đến khi không còn một dấu vết sống sót nào tồn tại. Cũng những người này tỏ ra thái độ khó khăn trong việc cung cấp vấn đề điều trị giảm đau cần thiết có thể rút ngắn sự sống lại.
Quan điểm ‘tinh thần khoa học’, quan điểm thứ ba, là quan điểm tìm kiếm một đường lối để chấp nhận cả tinh thần khoa học lẫn tinh thần con người. Đối với một số người thì quan điểm này được thể hiện qua tôn giáo, nhưng nó có thể, và có lẽ đối với hầu hết con người ta, thì nó đang được chủ trương độc lập với tôn giáo, ít là theo một nghĩa truyền thống nào đó.
Nó công nhận rằng sự sống của con người bao gồm không phải chỉ có các yếu tố về sinh học của nó mà thôi, dù các yếu tố này có lạ lùng chăng nữa. Quan điểm này bao gồm một cảm quan về một vị thế cho tinh thần của con người cũng như về cái linh thiêng muôn thuở. Quan trọng nhất ở chỗ nó là một cái cầu nối giữa tất cả mọi con người chú trọng tới vấn đề luân thường đạo lý, dù họ có tín ngưỡng hay chăng.
Quan điểm này cảm thấy cái khoa học mới mẻ của chúng ta như là những gì gợi lên cái diệu kỳ ở cả những gì chúng ta biết và bởi đó những gì chúng ta giờ đây cho rằng chúng ta không biết. Nó tìm kiếm một ý nghĩa qua một thứ bao gồm cả khoa học lẫn tinh thần, một thứ tổng hợp có thể tạo nên một thực tại khác với hai quan điểm kia.
Vấn:
Vấn đề triệt sinh an tử được hợp pháp hóa sẽ thay đổi đường lối chúng ta hiểu
biết về bản thân mình cũng như về ý nghĩa của sự sống con người ra sao?
Đáp: Chúng ta tiến đến gần hơn với việc trở thành những sản phẩm khả dụng: Thái độ của một số người ủng hộ vấn đề triệt sinh an tử đó là “nếu chúng ta đã có được một quá khứ ‘tuyệt vời trước đây’ hay ‘sử dụng cho tới’ hiện đại, thì chúng ta cũng cần phải trang trải nhanh bao nhiêu có thể, rẻ bao nhiêu có thể và hiệu nghiệm bao nhiêu có thể”.
Vấn:
Những yếu tố nào nơi văn hóa Gia Nã Đại đã góp phần vào cuộc xung khắc hiện
nay đối với vấn đề hợp thức hóa việc triệt sinh an tử?
Đáp: Chúng ta đụng đầu phải cái chỉ hoàn toàn dựa vào lý trí – nhất là khi chúng ta coi khoa học như là cách thức duy nhất để hiểu biết, chứ không phải là một đường lối; cá nhân chủ nghĩa mạnh mẽ; mất đi một tín ngưỡng chung; và trào lưu tục hóa.
Quốc Hội của chúng ta và các tòa án tối cao là những ngôi vương cung thánh đường mới mẻ cao vời, trong khi đó giới truyền thông nói chung lại đang bày tỏ việc chấp thuận vấn để triệt sinh an tử và tỏ ra không hài lòng về việc chống đối vấn đề này. Tôi nói dài về đề tài này trong cuốn sách của tôi là ‘Câu Chuyện Chết Chóc: Trường Hợp Chống Lại Vấn Đề Triệt Sinh An Tử và Triệt Sinh Trợ Tử’
Vấn:
Bà có những đề nghị gì cho thành phần dân chúng bình dân khi họ phải đối diện
với vấn đề này? Bà có khuyến khích người ta thực hiện một quyết định quan trọng
để tỏ ra chủ trương của họ về vấn đề triệt sinh an tử hay chăng?
Đáp: Có. Xin quí vị hãy tự hỏi mình là quí vị muốn như thế nào về cái chết của những đứa chắt chút của quí vị nếu chúng ta giờ đây hợp thức hóa vấn đề triệt sinh an tử. Nó thật sự là những gì chi phối tới những thứ giá trị, nhất là tới việc tôn trọng sự sống, mà chúng ta truyền đạt cho các thế hệ tương lai.
Đối với những ai muốn tỏ ra chống lại nó, họ cần phải thực hiện một trường hợp trần thế chống lại vấn đề triệt sinh an tử. Họ phải nói với thành phần không bị thuyết phục đó là một ý nghĩa xấu xa sai lầm, chứ không phải chỉ tái bảo đảm cho nhau rằng họ đúng khi chống lại nó, như tôi thấy những Kitô hữu chống vấn đề triệt sinh an tử nhất thực hiện.
Vấn:
Còn vấn đề gây lẫn lộn như cách thức để hợp thức hóa vấn đề triệt sinh an tử
thì như thế nào?
Đáp: Nếu chữ ‘triệt sinh an tử’ được tái định nghĩa để chất chứa hết những gì tiếp tục thực hiện các giải pháp cho người hấp hối, thì nhiều người sẽ nghĩ rằng hết mọi sự, bao gồm cả vấn đề triệt sinh an tử thực sự, là những gì cần phải được chấp nhận và hợp pháp.
Người ta được đặt ra những vấn nạn trong các cuộc thăm dò về vấn đề triệt sinh an tử là những gì không thể trả lời một cách rõ ràng được – chẳng hạn, quí vị phò hay chống vấn đề triệt sinh an tử đối với người hấp hối đang bị đớn đau khủng khiếp?
Câu trả lời ‘tôi ủng hộ tất cả những trị liệu giảm đau cần thiết và chống lại vấn đề triệt sinh an tử’ là những gì bất khả. Hầu hết người ta sẽ trả lời là ‘phò’ – bởi thế họ tỏ ra ủng hộ vấn đề triệt sinh an tử – vì họ không muốn đứng về phía bên phía trái mà lại gạt bỏ việc trị liệu giảm đau đi.
Vấn:
Như vậy phải chăng bà muốn nói rằng chính vì nỗi hãi sợ khổ đau là những gì
thúc đẩy việc ủng hộ vấn đề triệt sinh an tử?
Đáp: Đúng thế, song để tìm cách chế ngự đớn đau cũng là một đáp ứng bình thường trước đau đớn vậy.
Chúng ta biết rằng khổ đau được giảm nhẹ khi chúng ta cảm thấy chúng ta chế ngự được nó. Chúng ta tìm kiếm những phương cách giảm đau hay những kế sách làm chủ được nỗi khiếp sợ; tôi nghĩ là vấn đề triệt sinh an tử được coi như cả hai điều này.
Chúng ta thấy một nỗi lo âu đang tha hồ chờn vờn nơi các xã hội của chúng ta. Chúng ta lưu ý tới sự chết như nguồn mạch cho các nỗi hãi sợ của chúng ta. Chúng ta tìm cách chế ngự các nỗi sợ hãi này bằng cách tìm cách chế ngự sự chết, và cảm giác chế ngự đó làm giảm bớt đi cảm nghiệm noun đau của chúng ta.
Những gì chúng ta thực sự cần đó là tìm kiếm những cách thức khác để giảm bớt nỗi hấp hối và chết chóc cũng như cống hiến cho dân chúng một cảm quan chế ngự.
Điều gì đã thúc đẩy người ta hướng về vấn đề được giúp tự vẫn? Đó là nỗi sợ hãi bị đớn đau, bị ruồng bỏ và trở thành gánh nặng. Đôi khi người ta thấy việc tự vẫn được y sĩ trợ giúp như là một đáp ứng hợp tình hợp lý cho những nỗi hãi sợ ấy.
Đôi khi vì chán nản. Thế nhưng, có cuộc nghiên cứu được thực hiện đàng hoàng và phổ biến trên tờ Tạp Chí Tân Anh Quốc về Y Học đã thấy nó là một trạng thái được các chuyên viên tâm thần nghiên cứu gọi là thất vọng – tức không còn trông mong gì nữa – một trạng thái họ phân biệt với tình trạng chán chường.
Người hấp hối cần đến niềm hy vọng, một cảm quan liên hệ tới tương lai. Họ có thể có cảm quan này cho dù với một tương lai rất ngắn ngủi để gắn bó – chẳng hạn, mong thấy mặt trời lên hay nghe chim hót líu lo chào mừng bình minh ngày mai.
Như tôi đã viết trong tác phẩm ‘Con Hoàng Yến Đạo Lý’: ‘Hy vọng là dưỡng khí cho tinh thần con người; thiếu hy vọng, tinh thần của chúng ta (bao gồm cả ý muốn sống động) bị tiêu ma’.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 19/5/2006
Một Giám Mục Hiệp Vương Quốc Tấn Công Dự Luật “Trợ Tử”
Theo mạng điện toán toàn cầu ngày 9/11/2005 thì Đức Tổng Giám Mục Peter Smith, chủ tịch Phân Bộ Trách Nhiệm Kitô Hữu và Vai Trò Công Dân thuộc Hội Đồng Giám Mục Anh Quốc và Wales, đã chính thức lên tiếng chống lại dự luật trợ tử: “Không ai được bị ảo tưởng về những gì ở đằng sau Dự Luật mới được điều chỉnh lần cuối bởi Lord Joffe”. Dự luật này, theo BBC, đã được cứu xét bởi House of Lords vào Tháng 10, và là một dự luật cổ võ cho vấn đề trợ tử, cho phép y sĩ được quyền biên toa thuốc để bệnh nhân sử dụng cho việc tự tử.
Trong bản văn của mình, vì giám mục này viết như sau:
“Đây là bước đầu tiên trong chiến dịch có dự tính trong vấn đề hợp thức hóa vấn đề triệt sinh an tử. Một thứ luật cho phép các bác sĩ được giúp bệnh nhân tự sát hại mình chỉ là một bước ngắn trước khi tiến tới luật cho phép các bác sĩ sát hại họ.
“Sẽ có nhiều người thuộc tất cả mọi niềm tin đạo giáo và chẳng theo đạo nào dội lại trước sự hoài nghi về tư tưởng của xã hội chúng ta muốn hợp thức hóa việc cho phép sát hại theo Dịch Vụ Sức Khỏe Toàn Quốc NHS (National Health Service) – một là tự sát hại lấy mình hai là được thực hiện bởi một vi y sĩ. Chắc chắn là ảnh hưởng của một khoản luật như thế sẽ tác dụng trên thành phần bệnh nhân hay già lão dễ bị tổn thương, vào lúc áp lực về tài chính gia tăng đối với các nguồn chăm sóc sức khỏe.
“Những gì chúng ta cần đó là việc chăm sóc dịu đau nhiều hơn nữa và tốt đẹp hơn nữa. Thành phần bị bệnh kịch liệt cần phải được chăm sóc cách xứng hợp, an toàn với ý thức là đời sống của họ là những gì cao quí, và xã hội không muốn họ chết đi. Họ cần được chăm sóc chứ không bị giết chết”.
Những nhà phê bình dự luật này, trong đó có cả ĐTGM Anh Giáo ở Canterbury là Rowan Williams, vị đã viết rằng sự sống là “một tặng ân Chúa ban chúng ta không được hành sử nó như là một sở hữu của riêng mình trong việc muốn giữ lấy hay quẳng đi”.
Vấn đề những người sống như chết trong tình trạng thực vật: hai trường hợp xẩy ra ở Ý và Mỹ
Ở Ý đã xẩy ra một trường hợp là một bệnh nhân tỉnh giấc sau hai năm trời bị hôn mê trùng hợp với quyết định của Tiểu Ban Đạo Lý Sinh Vật Quốc Gia muốn bênh vực việc không đình chỉ vấn đề dinh dưỡng các bệnh nhân sống miên man trong tình trạng “thực vật”.
Thật vậy, bệnh nhân này tên là Salvatore Crisafulli, 38 tuổi, ở Catania, Sicily, bị hôn mê sau một tai nạn xe cộ ngày 11/9/2003, và đã được chăm sóc bởi người anh em của mình là Pietro. Người an hem của nạn nhân cũng yêu cầu và nhận được sự giúp đỡ của vị bộ trưởng sức khỏe là Francesco Storace. Nạn nhân đã tỉnh giấc vào mùa hè năm mới đây. Giờ đây anh ta nói chuyện và nói rằng trong khi anh ta ở trong tình trạng hôn mê, anh ta đã trông thấy và nghe thấy hết mọi sự.
Trong khi đó, vào ngày 4/10/2005, Tiểu Ban Đạo Đức Sinh Vật (NBC: National Bioethics Committee) đại đa số đã chấp thuận một văn kiện bày tỏ “một quyết định không đình chỉ việc dinh dưỡng và thủy dưỡng nhân tạo” cho các bệnh nhân chỉ tự nhiên sinh động theo sự sống và tự động hít thở, cho dù họ không ý thức gì hết.
Nhận định về quyết định này của NBC, Đức Giám Mục Elio Sgreccia, chủ tịch Giáo Hoàng Học Viện về Sự Sống, đã nhấn mạnh trên Đài Phát Thanh Vatican rằng “bệnh nhân sống miên man trong tình trạng thực vật là người bệnh chưa chết. Họ chỉ cần được dinh dưỡng theo nhân tạo bằng không họ sẽ chết đói. Việc dinh dưỡng và thủy dưỡng không phải là một thứ trị liệu tàn ác …. Đây không phải là vấn đề trị liệu, nó là một việc hỗ trợ quan thiết cần phải được cung cấp như một phận vụ đối với bất cứ ai đang sống”.
Quyết định của NBC ở Ý được cho là muốn loại trừ đi một cái chết giống như cái chết của nạn nhân triệt sinh bức tử ở Florida là Terri Schiavo, người nữ trung niên đã qua đời ngay trước ngày (1/4/2005) ĐTC GPII qua đời (2/4/2005).
Để hiểu rõ hơn những chất chứa nơi hai trường hợp này, mạng điện toán toàn cầu Zenit đã phỏng vấn bác sĩ Claudia Navarini, giáo sư Phân Khoa Đạo Đức Sinh Vật của Giáo Hoàng Đại Học Viện Regina Apostolorum, một bài phỏng vấn đã được Zenit phổ biến ngày 10/10/2005 như sau:
Vấn: Giáo sư nghĩ gì về banảvăn kiện vừa được NBC chuẩn nhận?
Đáp: Văn kiện sắp sửa tung ra này có một tầm mức hết sức quan trọng, vì nó làm sáng tỏ mối ngờ vực đã tấn công nhiều người nơi vụ của Terri Schiavo, tức là mối ngờ vực cho rằng việc dinh dưỡng và thủy dưỡng nhân tạo có thể là phương tiện “bất tương xứng” cần phải được đình chỉ ở giai đoạn cuối cùng hay trong những tình trạng trầm trọng như nơi tình trạng thực vật.
Việc cung cấp nước và đồ ăn không phải là những việc làm theo y khoa, và không giống như những trường hợp trị liệu dã man, ít là cho tới khi những việc này hiển nhiên cho thấy hoàn toàn vô bổ, tức là cho tới khi cơ phận của bệnh nhân không thể đáp ứng những việc ấy nữa.
Trái lại, những việc ấy là việc chăm sóc căn bản, bình thường cần phải được bảo đảm cho tất cả mọi bệnh nhân, không bao giờ được bỏ đi một hình thức nào để bảo tồn sự sống con người. Về vấn đề này, bản văn kiện của tiểu ban ấy đã được đại đa số đồng ý.
Ai không muốn tham dự vào phán đoán này có lẽ bị ảnh hưởng bởi quan niệm “sự sống toàn vẹn” hay “phẩm chất của sự sống”, một quan niệm dẫn đến chỗ phân biệt giá trị của một số mạng sống con người với mạng sống của những người khác bằng sự chỉ đạo kỳ thị là những gì, thẳng thắn mà nói, tôi thấy nó bất xứng với một xã hội muốn tự xưng mình là văn minh.
Vấn đề này có những chiều kích hệ trọng, vì, như vị chủ tịch của NBC là Francesco D’Agostino nói, việc cải tiến các thứ kỹ thuật về y khoa sinh vật giúp cho con số của những bệnh nhân này càng ngày càng nhiều hơn nữa, thành phần có thời đã không thể được nâng đỡ.
Bởi thế, vấn đề sức khỏe, an sinh và cấ phương thức của xã hội là những gì khẩn thiết cho những con người này hợp với phẩm giá nội tại của họ, dần dần hợp với việc phát triển vấn đề chăm sóc tại gia, một việc chăm sóc rất cần cho những người bệnh nhân này: vì được chăm sóc bởi gia đình của họ, họ cảm thấy có nhiều cơ hội phục hồi hơn, hay dù sao cũng được lợi ích bởi việc gần gũi của những người thân yêu họ.
Chính vị bộ trưởng y tế là Storace, khi nhận định về câu truyện hay của Salvatore, đã nói rằng “chính gia đình của anh ta đã chữa cho anh ta”.
Những chủ trương của NBC dầu sao cũng đã được chuẩn nhận bởi Giáo Hoàng Học Viện về Sự Sống và Liên Hiệp Quốc Tế Các Hiệp Hội Y Khoa Công Giáo năm trước đây, trong một văn kiện chung được phổ biến khi kết thúc hội nghị Tháng Ba về tình trạng thực vật.
Vấn:
Có những điểm tương đồng nào giữa trường hợp của Salvatore Crisafulli và
Terri Schiavo hay chăng?
Đáp: Khó lòng thấy được những điểm tương đồng, vì những vụ vô thức – hôn mê, tình trạng thực vật, khuyết tật tâm thần trầm trọng – có thể khác nhau tùy theo từng người, cho tới độ cần phải được chẩn bệnh và lượng bệnh hoàn toàn riêng biệt; ngoài ra, tín liệu tôi có được thực ra chỉ là của báo chí mà thôi.
Dĩ nhiên Terri Schiavo không bị hôn mê: thời gian đã qua đi quá lâu. Không biết chắc là cô ta ở trong tình trạng thực vật theo kiểu “cổ điển”, hay trong tình trạng bị tật nguyền về tâm thần có những lúc có thể nhận thức và thông đạt.
Nơi trường hợp của người Ý đây thì 2 năm tiêu biểu cho một thời gian vẫn còn tương xứng với một cuộc hôn mê, và tất cả mọi tờ nhật báo thực sự nói về anh ta như là một trường hợp, may mắn nhưng hiếm hoi, ra khỏi tình trạng hôn mê.
Tuy nhiên, có một số nguồn tin – và một số người lên tiếng, những chứng từ của gia đình mấy tháng trước đây (ở vụ Terry Schiavo) – nói về tình trạng thực vật, tức là về tình trạng kinh niên hay tình trạng “hôn mê mắt mở”.
Nếu quả là thế thì chúng ta sẽ phải đối diện với một tình tiết cho thấy một lần nữa về phận vụ phải làm hết sức có thể trong việc bảo đảm thành phần bệnh nhân bị hôn mê và những bệnh nhân trong tình trạng thực vật được hưởng việc chăm sóc trị liệu trọn vẹn – không phải chỉ là một việc chăm sóc căn bản mà thôi.
Cũng thế, bất cứ khi nào thực sự còn hy vọng phục hồi thì chân lý nền tảng và bất khả tránh vẫn là ở chỗ sự sống của con người, cho dù bệnh tậït hay tật nguyền đến đâu chăng nữa, hay tình trạng của họ có mong manh bấp bênh đến mấy đi nữa – nó bao giờ cũng có một giá trị lớn lao, một giá trị mà ý muốn của con người phải chào thua.
Ở Hoa Kỳ, tất cả cuộc tranh cãi được rút lại thành vấn đề Terri có muốn chết hay không muốn chết. Thế nhưng, ở đây, NBC nhấn mạnh rằng, nó là một quyết định sống hay chết. Thậm chí ngay cả trường hợp bệnh nhân yêu cầu nó, chúng ta cũng không được phép đình chỉ việc dinh dưỡng và thủy dưỡng, vì giá trị nội tại của sự sống con người cũng vượt quá giá trị được qui cho nó bởi cá nhân này. Nói cách khác, chúng ta không phải là chủ nhân ông của sự sống mình.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
Nhóm Tín Hữu thuộc các Tôn Giáo khác nhau Liên kết Lực Lượng Chống Trợ Tử và Triệt Sinh An Tử
Chín nhân vật lãnh đạo thuộc sáu nhóm tôn giáo chính đã liên kết lực lượng để cảnh báo về bất cứ dự án thay đổi nào nơi luật lệ của Hiệp Vương Quốc cho phép trợ tử và muốn được triệt sinh an tử. Biến cố chưa từng có này xẩy ra mấy ngày trước hôm Thứ Hai vừa rồi 10/10/2005, thời điểm tranh luận gay go nơi Quốc Hội về bản tường trình của Tiểu Ban Tuyển Lựa về Việc Trợ Tử của Lord Joffe cho Dự Luật Bệnh Tình Nguy Tử.
Thật vậy, hôm Thứ Năm 13/10/2005, 9 vị lãnh đạo, đại diện cho nhiều triệu tín đồ, bao gồm Kitô giáo, Ấn giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo, đã ký kết và phổ biến một bức thư ngỏ được gửi cho tất cả mọi phần tử của cả Lưỡng Viện Quốc Hội. Văn Phòng Liên Hệ Truyền Thông của Hội Đồng Giám Mục Anh Quốc và Wales đã phổ biến bức thư diễn tả cho thấy biến chuyển ấy.
Theo bức thư chung này thì việc lập pháp vấn đề trợ tử và tình nguyện muốn được triệt sinh an tử “sẽ hoàn toàn làm thay đổi nền tảng luân lý của xã hội chúng ta vì việc suy thoái hóa cách trầm trọng vấn đề tôn trọng sự sống”.
Các vị lãnh đạo tôn giáo đã “cùng nhau tái khẳng định niềm tin của mình về tính cách linh thánh của sự sống con người là những gì đang được củng cố bởi những tiến bộ mau chóng nơi việc chăm sóc xoa dịu để có thể cứu giúp thành phần bệnh nhân bị nguy tử và gia đình của họ”.
Vấn đề cung cấp “việc chăm sóc tốt đẹp không đòi một đổi thay nào nơi luật lệ mà chỉ là việc tái ưu tiên hóa những phương tiện về Dịch Vụ Sức Khỏe Quốc Gia (NHS: National Health Service), để bảo đảm là thành phần y sĩ và y tá được huấn luyện một cách thích đáng, và bảo đảm rằng các trung tâm chăm sóc xoa dịu chuyên môn hiện diện thuận lợi cho những ai cần đến chúng. Lập luận cho rằng việc trợ tử hay triệt sinh an tử là những gì cần thiết để giải quyết vấn đề khổ đau của cơn bệnh nguy tử là sai lầm”.
Các vị lãnh đạo ghi nhận việc phản chống của đại đa số thành phần chuyên gia về y khoa đối với việc trợ tử. Các vị này cũng nêu lên các vấn đề trục trặc mà các quốc gia hợp pháp hóa vấn đề triệt sinh an tử và trợ tử phải đối diện. Theo các vị, ở Hòa Lan, cứ mỗi 32 người chết có 1 người bị chết vì trợ tử hay triệt sinh an tử được phép theo luật pháp. Các vị ước lượng rằng nếu ở Hiệp Vương Quốc có một luật lệ như thế sẽ có khoảng 13 ngàn mạng người chết hằng năm bởi thứ luật này.
Các vị ký tên vào bức thư ngỏ này, trong đó có ĐTGM Công giáo Peter Smith ở Cardiff, Wales, vạch ra rằng các nhóm phò triệt sinh an tử ở Hòa Lan giờ đây đang vận động nới rộng luật này ra, bao gồm cả thành phần bị chứng mất trí nữa. Ở lời cảnh báo cuối cùng của mình, các vị viết rằng “thứ quyền được gọi là quyền được chết đi như thế chắc chắn sẽ trở thành phận sự cần phải chết, và có thể những áp lực về kinh tế cũng như sự thuận lợi là những gì chi phối việc quyết định”.
Bức thư này được phổ biến dưới dạng PDF (không copy được) ở trang điện toán toàn cầu www.catholic-ew.org.uk/cn/05/documents/FaithleadersletterPDF3.pdf.
Viên Chức Tòa Thánh phê bình cuốn phim “Million Dollar Baby”
Cuốn phim “Million Dollar Baby”, cuốn phim, trong đêm Academy Award Spotlight Chúa Nhật 27/2/2004, đã đoạt 4 giải Oscar (trong 7 thứ được đề nghị lĩnh giải) về hình ảnh đẹp nhất, đạo diễn hay nhất, nữ vai chính hay nhất và vai nữ phụ hay nhất. Tuy nhiên, theo ĐGM Elio Sgreccia, phó chủ tịch Giáo Hoàng Học Viện Về Sự Sống của Tòa Thánh, hôm Thứ Sáu 25/2/2005, đã nhận định trên Đài Phát Thanh Vatican về câu truyện tiểu thuyết đấm bốc của Clint Eastwood được diễn thành phim.
Vai chính trong câu truyện này là một người nữ mê chơi đấm bốc Maggie Fitzgerald, được nữ tài tử Hilary Swank đóng. Nữ vai chính này đã tìm thấy nơi người huấn luyện viên của mình, do Eastwood đóng, những gì cần về thể thao và thuật đấm bốc, một người huấn luyện viên coi cô như đứa con của mình. Tuy nhiên, giấc mộng của vai chính này đã không thành vì một tai nạn thê thảm.
Về phần tích cực, Đài Phát Thanh Vatican cũng phải ca ngợi nghệ thuật quay phim và cách diễn đạt cảm xúc của cuốn phim này. Tuy nhiên, về phương diện luân lý, vị GM trên đây cho biết cuốn phim sử dụng việc triệt sinh an tử để giải quyết vấn đề khổ đau của con người. Ngài nói:
“Làm sao để phản ứng khi đối diện với sự sống bị hư hoại và cái chết ước mong?
“Trước hết, bằng một thái độ cảm thương đối với tình trạng khổ đau của một sự sống trẻ trung như sự sống của trường hợp chúng ta đang nói tới. Đi từ một tình trạng hết sức năng động về thể thao và tràn đầy hy vọng thành đạt đến tình trạng bị bại liệt hạ phần thân thể, hoàn toàn không thể vận động được nữa, là một tình trạng cuực kỳ khổ đau.
“Trong trường hợp này, phán đoán chủ quan về những gì xẩy ra nơi một cuộc sống đòi tự tử, hay về những gì xẩy ra nơi con người đáp lại lời yêu cầu của cô ta, chúng ta cần phải phó mặc trong bàn tay Thiên Chúa, vì khó lòng mà hiểu được những gì đã xẩy ra cũng như những cảm xúc cùng cảm thương đã chi phối những con người ấy (cả người muốn tự tử lẫn người giúp thực hiện việc triệt sinh an tử này) đến mức nào.
“Thế nhưng, theo quan điểm luân lý và sự thật, chúng ta phải tự hỏi mình là phải chăng đây là giải quyết tốt đẹp nhất. Giải quyết tốt đẹp nhất không phải là hướng đến cái chết và chấm dứt một sự sống quằn quại, mà là cho thấy được những lý do hy vọng và ý nghĩa của khổ đau”.
ĐTC GPII với hội nghị về vấn đề Triệt Sinh An Tử và Trị Liệu Hung Bạo
Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Các Cán Sự Chăm Sóc Sức Khỏe đã tổ chức một hội
nghị quốc tế lần thứ 19 ba ngày, kể từ Thứ Năm 11/11/2004, về vấn đề thực hiện
việc chăm sóc tạm dịu đớn đau cho bệnh nhân kịch liệt, liên quan tới các khía
cạnh vệ sinh, pháp lý, văn hóa và liên tôn cũng như truyền thông.
Có hơn 600 tham dự viên đến từ 74 quốc gia, trong đó có các chuyên viên đến từ Á
Châu, Âu Châu và Mỹ Châu, cùng với việc hợp tác của Phi Châu, có cả 17 vị lãnh
sự và viên chức thuộc các quốc gia chính thức ngoại giao với Tòa Thánh. Hội nghị
này được chia ra làm 3 phần chính, thứ tự như sau: tình trạng về việc chăm sóc
tạm dịu trong thế giới ngày nay, việc chăm sóc này theo chiều hướng Phúc Âm và
vấn đề đối thoại liên tôn, và việc áp dụng thực hành chiều hướng này.
ĐHY chủ tịch của hội đồng này là Javier Lozano Barragán, trong bài mở đầu, khi
nói về lý do tổ chức cuộc hội nghị này, cho biết rằng có những trường hợp triệt
sinh an tử cùng với việc trị liệu tàn bạo xẩy ra hằng ngày đang càng ngày càng
gia tăng, “cần đến việc Giáo Hội Công Giáo hữu hiệu đáp ứng”.
Bởi vì, theo Đài Phát Thanh Vatican tường trình lời của vị hồng ý chủ tịch này,
vì Giáo Hội hiểu được tình trạng khổ đau là những gì liên hệ tới Chúa Kitô đau
khổ, nên Giáo Hội xác tín rằng giai đoạn cuối cùng của cuộc sống con người cần
phải được thực hiện một cách chuyên nghiệp về y khoa cũng như được nâng đỡ bằng
tình huynh đệ.
Theo ngài, không được mạo hành giai đoạn cuối cùng của cuộc sống con người, nhất
là trường hợp của những bệnh nhân bất tỉnh nhân sự, bằng những quyết định hung
bạo hay bất khả chấp, như việc sử dụng vấn đề triệt sinh an tử, hay việc chăm
sóc thiếu cân xứng với tình trạng của bệnh nhân, chẳng hạn sử dụng vấn đề trị
liệu hung bạo.
“Vấn đề trị liệu hung bạo nhắm tới việc kéo dài sự sống một cách vô ích, tức là
kéo dài một cách đớn đau tình trạng quằn quại bất khả phục hồi sự sống”, trong
khi đó, việc chăm sóc tạm dịu “cố gắng để phục hồi sự sống”, song “đồng thời
cũng nhắm đến chỗ làm cho bệnh nhân có thể sống tốt đẹp hơn về tâm thần, xã hội
và thiêng liêng một cách xứng hợp nhất trong giây phút cuối cùng của cuộc đời là
giây phút quan trọng nhất”.
Hôm Thứ Sáu 12/11/2004, ĐTC GPII đã tiếp 600 tham dự viên hội nghị này, thành
phần, như ĐTC nói: “dấn thân về phương diện khoa học và nhân bản cho những ai
đang sống trong tình trạng khổ đau”. Sau đây là những điểm chính yếu tiêu biểu
trong bài huấn từ của ĐTC:
“Y khoa bao giờ cũng phải dấn thân phục vụ sự sống. Cả khi nó biết rằng mình
không thể khắc phục được căn bệnh trầm trọng, nó cũng cố gắng sử dụng khả năng
của mình để làm giảm bớt khổ đau. Việc nhiệt tình hoạt động để giúp bệnh nhân
trong mọi trường hợp tức là việc ý thức phẩm giá bất khả vi phạm của hết mọi
người, cho dù là những người ở trong những tình trạng cực kỳ kịch liệt sau cùng.
“Thật vậy, có một mối trực hệ cân xứng giữa khả năng chịu khổ và khả năng giúp
đỡ cho những ai chịu khổ”. Ở chỗ, những ai nhậy cảm với nỗi đớn đau của người
khác và giúp đỡ người khác “thì cũng sẵn sàng, với ơn Chúa giúp, chấp nhận đớn
đau của bản thân mình”.
Về vấn đề triệt sinh an tử, ĐTC đã gọi vấn đề này là một trong những “thảm kịch
gây ra bởi một thứ đạo lý tìm cách ấn định ai có thể sống và ai cần phải chết. …
Ngay cả khi được tác động bởi những cảm xúc thương hại kém ý thức, … thì việc
triệt sinh an tử, thay vì cứu chuộc con người khỏi khổ đau lại chà đạp họ”.
Ngài nói rằng, khi lòng thương cảm được hiểu một cách sai lệch thì “dẫn đến chỗ
dập tắt sự sống để làm nhẹ bớt đau thương, như thế là lật ngược nguyên tắc luân
thường đạo lý của khoa y học…. Trái lại, lòng thương cảm đích thực là cổ võ thực
hiện hết mọi nỗ lực để chữa lành bệnh nhân”.
Về vấn đề trị liệu kéo dài, ĐTC đã làm sáng tỏ vấn đề như thế này: “Vấn đề quyết
định tối hậu không muốn thực hiện hay bỏ việc trị liệu được coi là xác đáng về
phương diện luân thường đạo lý khi (việc trị liệu như thế) không còn công hiệu
hay rõ ràng là bất cân xứng với mục đích trợ sinh hay phục hồi sức khỏe. Bởi thế,
việc từ chối vấn đề trị liệu kéo dài là hành động tỏ ra một tấm lòng tôn trọng
cần phải có đối với người bệnh nhân ở trong mọi trường hợp”.
Ngài nhấn mạnh đến tính cách quan trọng của việc ở bên bệnh nhân cho tới giây
phút cuối cùng của họ, một cách yêu thương với hết tình chăm sóc trong việc làm
nhẹ bớt nỗi khổ đau của họ, nhất là chú ý tới vần đề sửa soạn cho bệnh nhân để
“linh hồn họ được gặp gỡ Cha trên trời”.
Ngài nhận định là những thứ chăm sóc tạm dịu có mục đích làm nhẹ bớt những triệu
chứng đớn đau về thể lý cũng như về tâm thần ở giai đoạn cuối cùng của một chứng
bệnh, do đó cần đến nhân viên chuyên môn. Việc cung cấp các thứ triệt đau “cần
phải xứng hợp với tính cách trầm trọng và chữa trị đớn đau, tránh đi hết mọi
hình thức triệt sinh an tử”, bằng việc cung cấp một lượng thuốc có thể gây chết
chóc.
“Dù sao, khoa học và kỹ thuật vẫn không bao giờ có thể cung cấp một giải đáp
thỏa đáng cho những vấn nạn căn bản của lòng người. Chỉ có đức tin mới có thể
giải đáp những vấn nạn này thôi. Giáo Hội muốn cống hiến việc đóng góp đặc biệt
của mình bằng cách hỗ trợ về nhân bản và thiêng liêng của người bệnh”.
Một nhóm đại diện cho 35 trung tâm và học viện sinh thể học khắp thế giới đã lên tiếng kết án việc nới rộng vấn đề triệt sinh an tử trẻ em và thơ nhi ở Hòa Lan, nơi cho phép thực hiện việc triệt sinh an tử các trẻ em sơ sinh và dưới 12 tuổi.
Trong một văn kiện được phổ biến đề ngày 15/9/2004, tổ chức IFBIBI này (International Federation of Centers and Institutes of Bioethics of Personalist Inspiration) cũng yêu cầu Khối Hiệp Nhất Âu Châu can thiệp vào việc bảo vệ nhân quyền ấy.
Bản văn kiện này bày tỏ “một nhận định hoàn toàn tiêu cực” về việc nới rộng này, cũng như chống lại việc triệt sinh an tử và trợ giúp tự tử được Hòa Lan chấp thuận từ năm 2002. Tổ chức quốc tế lên tiếng này khẳng định là không một ai có thể hủy hoại sự sống con người, kể cả của chính bản thân mình, vì sự sống của con người là một “sự thiện chính yếu đối với cá nhân cũng như xã hội”.
Tuy nhiên, “việc nới rộng vấn đề hợp thức hóa (áp dụng vào việc triệt sinh an tử cả) trẻ em và sơ sinh là thành phần không thể bày tỏ sự đồng ý của mình là một thứ bất công không thể nào chấp nhận được”.
“Đây không phải chỉ là cảm thức về tôn giáo, nhất là cảm thức Kitô Giáo, một cảm thức dẫn đến chỗ bài bác cái tệ hại có tính cách tiêu cực của lề luật này, nhưng chính lý lẽ tự nhiên và cảm thức của nhân loại cũng ngăn cản việc tái diễn vấn đề tranh luận đối với cái thực sự méo mó nơi các qui tắc về dân sự cũng như về sức khỏe”.
“Chúng tôi nghĩ rằng Âu Châu, qua các cơ cấu tổ chức của mình, có quyền can thiệp để ngăn chặn một thứ thích nghĩa về tinh thần và chữ nghĩa liên quan các các quyền lợi của con người được thừa nhận trong ‘Bản Hiệp Ước Nhân Quyền và Các Quyền Tự Do Chính Yếu’ (Pact of Rome, khoản 2)”.
Bản văn kiện này được các vị thuộc Hội Đồng Điều Hành đại diện tổ chức IFCIBPI ký tên, đó là giáo sư Maria Luisa di Pietro của Đại Học Công Giáo Rôma; linh mục Gonzalo Miranda, khoa trưởng Khoa Sinh Thể Học ở Giáo Hoàng Học Viện Regina; ĐGM Elio Sgreccia, phó chủ tịch Học Viện Tòa Thánh Về Sự Sống, và giáo sư Patricio Venrura-Junca thuộc Đại Học Công Giáo Chí Lợi.
Chủ thuyết ngôi vị con người là nền tảng về văn hóa đã là những gì tự nhiên liên kết các trung tâm và học viện khoa sinh thể học lại với nhau một năm trước đây thành một tổ chức liên hiệp quốc tế, một tổ chức đón nhận các tham dự viên thuộc các tôn giáo và truyền thống khác nhau, dù tổ chức này đặc biệt căn cứ vào giáo thuyết của Giáo Hội Công Giáo.
Các Bác Sĩ Công Giáo Phê Phán Việc Triệt Sinh An Tử Trẻ Em Ở Hòa Lan
Liên Hiệp Thế Giới Các Hiệp Hội Y Khoa Công Giáo đã phổ biến một bản tuyên cáo, với chữ ký của vị bác sĩ chủ tịch là Gian Luigi Gigli, để tỏ thái độ với quyết định cho phép Bệnh Viện Đại Học Groningen triệt sinh an tử trẻ em dưới 12 tuổi khi các em không thể chịu đựng khổ đau hay nếu các em có một chứng bệnh bất khả trị.
Bản tuyên cáo nói rằng sáng kiến này “là một hành động xé rách dữ dội khác chính những cái nền tảng cho cuộc chung sống xã hội của chúng ta. Thật vậy, chính vì muốn chấm dứt tình trạng ‘đau khổ bất khả chịu đựng’ mà nó cho phép sát hại con người không cần biuết họ có đồng ý hay chăng. Điều này xẩy ra trong một xã hội, như xã hội Hòa Lan, nơi mà vấn đề triệt sinh an tử nơi trường hợp người lớn đã được hợp pháp thi hành thậm chí cho cả trường hợp của những người bị buồn thảm, cũng là nơi, như được ghi nhận bởi những nghiên cứu chính thức, đã xẩy ra những vụ triệt sinh an tử bất hợp pháp nhưng chấp nhận được do các bác sĩ thi hành” đối với trường hợp những bệnh nhân không đồng ý, bản tuyên cáo tố giác.
“Quyết định này đưa ra giải pháp chết chóc trong những trường hợp có thể giải quyết bằng việc chăm sóc giảm đau tân tiến. Quyết định này còn khơi lên vấn đề lợi lộc về tài chánh của chính phủ nữa, vì nó làm giảm bớt ‘gánh nặng’ của việc chăm sóc kéo dài và tốn kém nơi những tình trạng bệnh lý được coi là vô bổ nếu cứ tiếp tục kéo dài sự sống”.
Tệ hơn nữa, “nó mở cửa cho vấn đề ‘sát hại xót thương’ ở cấp độ quốc gia nơi những người khác không có khả năng về tâm trí, thành phần cần bị loại trừ mà không cần họ đồng ý, căn cứ vào việc định lượng bề ngoài đối với phẩm chất sự sống của họ”.
Theo bản tuyên cáo này
thì quyết định ấy cũng theo chiều hướng của quyết định ngày 26/8 của Tối Cao
Pháp Viện Kentucky cho phép tiểu bang có quyền kết thúc sự sống người công dân
của mình.
“Trường hợp ở đây liên quan đến một nam nhân da đen bị chậm trí khôn nhẹ tên
là Matthew Woods, người thở bằng ống sau khi bị nghẹn tim ở vào tuổi 54. Tiểu
bang này đã xin phép được lấy đi các thứ trợ sinh, hoàn toàn trái với ý muốn
của người giám hộ ad litem”.
Bản tuyên cáo kêu gọi “các bác sĩ y khoa vẫn còn quyết giữ Lời Thề Hippocratic hãy cảm thấy trách nhiệm về luân lý đối với tình trạng đang từ từ tuột dốc cho phép chính quyền quyết định về những sự sống nào là những sự sống còn đáng sống”.
Bản tuyên cáo còn cho biết thêm rằng “bước kế tiếp sẽ là dự luật về khả năng tâm thần theo sự khảo sát của Quốc Hội Hiệp Vương Quốc, cùng với nỗ lực của các nhà thẩm quyền địa phương muốn thay đổi luật lệ về đạo lý của các bác sĩ Bỉ.
“Những nguy cơ của một thái độ như thế, liên quan đến vấn đề bạo lực và kỳ thị, phải là những gì hiển nhiên trước mắt các vị ý sĩ và kêu gọi họ chống lại và chiến đấu”.
Hội Đồng Giám Mục Bulgaria hoan
hô việc Quốc Hội nước này cấm vấn đề triệt sinh an tử và vấn đề tạo sinh sao
bản phi tính dục
Sofia Bulgaria ngày 2/6/2004, sau một tuần lễ nẩy lửa tranh luận, quốc hội
Bulgaria đã bỏ phiếu chống lại việc hợp thức hóa vấn đề triệt sinh an tử.
Trong số 107 phần tử quốc hội, có 93 vị bỏ phiếu thuận.
Cũng thế, cuộc tranh luận về vấn đề tạo sinh sao bản phi tính dục, một cuộc
tranh luận đã kết thúc hôm 8/6/2004, cũng đã được kết thúc với quyết định cấm
tạo sinh sao bản nhắm mục đích sản sinh, bao gồm cả việc hiến bào và hiến mô.
“Quốc Hội đã tiến một bước quan trọng, và tôi phải nói rằng nhiều vị đại biểu
đã cùng nhau bênh vực sự sống từ khi thụ thai cho tới giây phút cuối cùng”. Vị
giám mục ở Sofia theo lễ nghi Byzantine đã cho cơ quan SIR của hội đồng giám
mục Ý biết như thế.
Giáo Hội Chính Thống Bulgaria đã bày tỏ chủ trương tương tự như thế. Nước này
có 8 triệu dân, trong đó có 83.5% là Chính Thống Giáo, 13% là Hồi Giáo, 1.7%
là Công Giáo và .8% là Do Thái.
Bản Tuyên Cáo của Các Bác Sĩ Công Giáo chống lại Bản
Tường Trình về Vấn Đề Trợ An Tử
Vào Ngày Thứ Ba 20/1/2004, tổ chức Quốc Tế Liên Hiệp Các Hiệp Hội Y Khoa Công
Giáo (FIAMC: International Federation of Catholic Medical Associations) đã phổ
biến một bản tuyên cáo liên quan đến việc bỏ phiếu tới đây về vấn đề trợ an tử
của Hội Đồng Âu Châu. Sau đây là nguyên văn bản tuyên cáo này:
Vào ngày Thứ Năm 29/1/2004, Cuộc Họp Quốc Hội của Hội Đồng Âu Châu sẽ gặp nhau
để bàn luận về Bản Tường Trình Marty về Vấn Đề Trở An Tử (Doc. 9898), một văn
kiện được soạn thảo bởi Nhà Tường Trình Người Thụy Sĩ Dick Marty trong Tiểu Ban
Công Vụ Xã Hội, Sức Khỏe và Gia Đình.
Ông Kevin McNamara, Tường Trình Viên của Tiểu Ban về Pháp Vụ và Nhân Quyền đối
với Hiệp Vương Quốc cũng sẽ trình bày ý kiến của ông về cùng một vấn đề.
Bản tường trình Marty là văn kiện nhằm mục đích phác họa những thứ luật lệ, nơi
những Xứ Sở chưa có những thứ luật lệ này, cho phép các vị y sĩ đang giúp cho
các bệnh nhân bất trị được kết thúc sự sống của những bệnh nhân ấy (nếu được các
bệnh nhân này yêu cầu) mà không bị pháp luật truy tố. Nói cách khác, Bản Tường
Trình Marty sẽ yêu cầu tất cả mọi Quốc Gia Âu Châu hãy cổ võ việc phác họa một
thứ luật trợ an tử, tương tự như những gì đã được thực hiện ở Hòa Lan và Bỉ Quốc.
Mặc dù không áp bức các quốc gia địa phương, vấn đề giải quyết này, nếu được
chấp thuận, cũng sẽ tạo nên một yếu tố áp lực rất mạnh trên các Quốc Hội quốc
gia địa phương, trên các vị bác sĩ ý khoa cũng như trên quần chúng, và trong
tương lai, nó có thể dẫn đến chỗ khuyến khích các quốc gia cho phép thực hiện
vấn đề trợ an tử và giới hạn những ai chống lại việc làm này.
Là Những Bác Sĩ Công Giáo, chúng tôi phản đối bản tường trình Marty cùng với
những hậu quả khả dĩ về pháp lý của nó.
1.- Trước hết, chúng tôi sợ rằng bản tường trình này sẽ gây áp lực trên các vị y
sĩ (cả về tư cách cá nhân lẫn nghề nghiệp) tác hành phản lại niềm tin tưởng của
họ, cũng như phản lại với Qui Ước Nhân Quyền Geneva là văn kiện xác định rằng y
sĩ có nhiệm vụ “bảo trì lòng tôn trọng hết sức đối với sự sống con người từ khi
nó bắt đầu, cho dù có bị đe dọa, và tôi sẽ không sử dụng kiến thức y học của
mình phạm đến các luật lệ của nhân loại”.
Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy xuất hiện một nguy cơ là việc thi hành nghề y khoa
sau này sẽ bị loại trừ đối với những vị y sĩ không chấp nhận thi hành việc trợ
an tử hay việc tự tử được bác sĩ hộ giúp, như đã từng xẩy ra ở một số thể loại
tại vài xứ sở liên quan đến vấn đề phá thai.
Chúng tôi yêu cầu là trong tất cả mọi thứ luật lệ liên quan đến các vấn đề đạo
lý y khoa, các vị ý sĩ và y tá được bảo đảm quyền hợp pháp tránh những hành động
phản lại với niềm tin tôn giáo và/hay với các niềm xác tín về luân lý của họ.
2. Việc nghiên cứu ý khoa gần đây đã chứng tỏ cho thấy rằng những vị y sĩ đồng
nghiệp nào ít được học hỏi về ngành y khoa giảm đau và những y sĩ đồng nghiệp
nào quá bận rộn đều là những y sĩ được cho rằng họ thấy vấn đề trợ an tử và vấn
đề tự tử được bác sĩ hộ giúp thuộc về những trường hợp khó có thể khách quan
(1,2). Không kể đến vấn đề chính của việc trợ an tử và việc tự tử được bác sĩ hộ
giúp, cũng cần phải được coi là quá quắt khi các bệnh nhân bị sát hại hay được
giúp đỡ để kết liễu sự sống của họ chỉ vì việc làm kém cỏi về y khoa.
Bởi thế, chúng tôi yêu cầu Hội Đồng Âu Châu hãy cố gắng phấn khích các chính
quyền địa phương cung cấp việc huấn luyện cho các vị y sĩ về lãnh vực y khoa
giảm đau, cả trong thời gian họ được huấn luyện căn bản về y khoa cũng như trong
thời gian huấn luyện về nghề nghiệp của họ. Chúng tôi cũng thấy cần phải thiết
lập môn y học giảm đau như là một chuyên khoa về y học ở tất cả mọi xứ sở Âu
Châu trong cùng một cách thức như đã được thực hiện, chẳng hạn như ở Hiệp Vương
Quốc.
3. Vai trò của y nghiệp không bao giờ lại là một thứ nghề sát hại các bệnh nhân.
Những điều khoản về việc chăm sóc giảm đau tối đa vào lúc cuối đời, nhất là đối
với bệnh nhân yếu nhược, là điều buộc làm đối với một xã hội muốn được cho rằng
mình là một xã hội tiến bộ. Việc chăm sóc giảm đau này cần phải được cống hiến
trong một hoàn cảnh yêu thương, làm sao cho bệnh nhân không cảm thấy mình trở
thành gánh nặng cho họ hàng thân quyến của mình hay cho xã hội. Xã hội có trách
nhiệm bảo đảm những cơ sở chăm sóc loại này.
4. Trong khi chúng tôi phản đối bất cứ việc tham phần của các vị bác sĩ y khoa
vào vấn đề trợ an tử hay vào vấn đề tự tử được bác sĩ hỗ trợ, chúng tôi đồng
thời cũng phản đối bất cứ một việc cứ cố kéo dài vấn đề trị liệu không thể chữa
trị bệnh nhân mà chỉ kéo dài thêm tiến trình chết chóc mà thôi.
5. Chúng tôi chống lại hành động sử dụng các vị y sĩ vào việc cung cấp vấn đề
giải quyết y khoa phi luân và không cần thiết cho một vấn đề có bản chất thuần
xã hội, đó là vấn đề quan tâm về người già và việc chăm sóc kém cỏi vào lúc cuối
đời của họ. Chính vì những vấn đề này mới đưa đến những đòi hỏi trợ an tử và vấn
đề tự tử được bác sĩ hỗ trợ.
Những văn liệu gần đây được nghiên cứu bởi các tổ chức chuyên nghiệp quan trọng,
như EAPC (European Association of Palliative Care), đã làm cho quan niệm này
sáng tỏ rất nhiều. (3)
Chúng tôi thiết tha xin Các Phần Tử thuộc Phiêp Họp Quốc Hội của Hội Đồng Âu
Châu hãy bỏ phiếu chống lại bản thảo định được đề ra trong bản Tường Trình Marty
và hãy cương quyết chống lại bất cứ một nỗ lực nào trong việc cổ võ vấn đề trợ
an tử và vấn đề tự tử được bác sĩ hỗ trợ ở Âu Châu.
Các Phần Tử này cũng cần phải cảm thấy mình có trách nhiệm về luân lý cần phải
hiện diện trong buổi tranh luận vào ngày 29/1/2004 cũng như cần phải nêu lên
những tu chính cho Bản Tường Trình Marty trước ngày hẹn Thứ Tư 28/1 vào lúc 3
giờ chiều.
Thay mặt tổ chức Quốc Tế Liên Hiệp Các Hiệp Hội Y Khoa Công Giáo (FIAMC:
International Federation of Catholic Medical Associations)
Bác Sĩ Gian Luigi Gigli, MD
(Chủ tịch)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài
liệu được Zenit phổ biến ngày 20/1/2004.
Luật Trợ An Tử: Đệ Nhất Quốc Gia Hòa Lan và Đệ Nhị
Quốc Gia Bỉ
Hôm qua Thứ Tư 15/5/2002, luật trợ an tử cần phải được cứu xét lại kỹ hơn nữa
đã thắng phiếu. Cuộc vận động này là công lao của đảng Dutch Christian
Democratic (CDA). Luật này đã được Thượng Viện năm ngoái chấp thuận ngày
10/4/2001. Luật trở an tử này thực tế đã được phép làm mà không bị tội vạ
trước pháp luật từ năm 1993, khi Thượng Viện chấp nhận một khoản luật liệt kê
28 điều kiện được phép thi hành, trong đó có trường hợp “bệnh nhân ở trong
tình trạng tận mạng” và phải trải qua những tình trạng “đớn đau quá sức mình”.
Năm ngoái bị thua về khoản luật này, năm nay, Đảng CDA chỉ cố gắng làm sao để
giới hạn kỹ hơn nữa việc thi hành khoản luật này thôi. Đảng này hy vọng loại
trừ luật trợ an tử khỏi hai loại bệnh nhân, đó là trẻ em và những ai bất khả ý
thức, vì hiện nay luật này bao gồm cả hai thành phần này.
Hôm nay, Thứ Năm 16/5/2002, Quốc Hội Bỉ đã phê chuẩn luật trợ an tử, với 86
phiếu thuận, 51 chống và 10 phiếu trống. Thế là, dự luật đã được Thượng Viện
chấp nhận 7 tháng trước đây, nay được Chamber of Deputies chấp nhận thành pháp
luật.
Các Vị Giám Mục Bỉ đã lên tiếng như sau: “Nơi khoản luật này, phẩm giá con người bị treo lơ lửng, như thể nó chẳng dính dáng gì đến việc hiện hữu của họ, mà chỉ gắn liền với những gì được gọi là ‘tính chất của sự sống’. Bởi thế, điều này có nghĩa là Chính Phủ Bỉ Quốc cho rằng sự sống con người ít giá trị hơn những thứ khác”. Các Vị Giám Mục nghĩ rằng giá mà “vị bác sĩ có thể làm ngược lại luật này và không chấp nhận ý muốn của người ngỏ ý muốn được trợ an tử (và) các nhà thương chối từ thi hành việc trợ an tử trong khu vực của mình vẫn yên hàn”.
Thật ra, luật trợ an tử ở Bỉ nhẹ hơn ở Hòa Lan, vì ở Bỉ khoản luật này còn được kèm theo việc áp dụng chữa trị giảm đau cho bệnh nhân và bệnh nhân phải được chết một cách xứng đáng. 16 điều trong khoản luật này nói rõ bác sĩ được phép kết liễu sự sống con người nếu hội đủ một loạt những điều kiện như luật ấn định. Bệnh nhân được trợ an tử phải trên 18 tuổi, có khả năng hiểu biết, và được đồng ý trên giấy tờ. Lời yêu cầu xin được trợ an tử phải được viết thành văn trước khi bệnh nhân mất đi ý thức, và phải hoàn toàn tự nguyện chứ không bị một áp lực nào ngoại tại.
Ngoài ra, khoản luật này còn minh định rằng vị bác sĩ
“không thể bị bắt buộc” phải thi hành việc trợ an tử. Điều khoản này được thêm
vào để đề phòng bác sĩ bị bệnh nhân hay người nhà bệnh nhân làm áp lực, như đã
xẩy ra ở Hòa Lan. Thêm vào đó, bác sĩ hành sử việc này còn phải hỏi ý kiến của
một bác sĩ chuyên môn khác không dính dáng đến bệnh nhân và hiểu biết về bệnh
trạng của bệnh nhân, cũng như phải bàn với toàn bộ nhân viên chăm sóc cho bệnh
nhân ấy nữa. Phải giành ra một tháng để suy nghĩ từ lúc nhận được yêu cầu cho
đến ngày thi hành việc trợ an tử. Bốn ngày trước khi thi hành việc trợ an tử,
vị bác sĩ phải nộp văn bản cho Federal Commission of Control and Evaluation,
một ủy ban gồm có các bác sĩ, bồi thẩm viên và chuyên viên về các vấn đề luân
lý đạo đức, để họ xem xét kỹ lưỡng các chi tiết nộp trình có đúng như luật
pháp ấn định hay chăng. Nếu hai phần ba trong ủy ban này không đồng ý thì
trường hợp này phải được đệ trình lên Magistrate để được tòa tội hình thẩm xét.
Dự luật này đã được cứu xét hai năm trời, cuối cùng đã được chấp nhận, bất
chấp sự chống đối của những đảng Xã Hội Kitô Giáo nói tiếng Pháp (PSC) và nói
tiếng Flemish (CDV). Joelle Milquet, chủ tịch của PSC nói rằng sẽ khiếu nại
lên Tòa Án Âu Châu về Nhân Quyền để yêu cầu thực hiện “những điều chỉnh quan
trọng” nơi khoản luật mới này.