Bài Giáo Lý số 26
BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH
(Bí Tích Thứ Nhất Phục Vụ
Mối Hiệp Thông)
(các số 1533-1600)
CẢM NGHIỆM NHÂN SINH
Lãnh vực tự nhiên cho thấy, để hiện hữu trên trần gian này, con người không phải
có thể tự mình từ “bụi chuối chui lên”, mà phải được sinh ra bởi cha mẹ. Cũng
thế, để trưởng thành cả về phần xác lẫn tinh thần, con người còn phải được cha
mẹ sinh ra mình dưỡng dục cho nữa. Ngoài ra, con người còn cần đến cả lương y
chữa trị bệnh tật về cả phần xác lẫn tâm thần cho mình nữa để có thể bảo trì sức
khỏe mà vui sống. Vai trò sinh dưỡng con cái cùng với vai trò lương y chữa trị
bệnh nhân trong tổ chức xã hội trần thế này, về phương diện của đời sống thiêng
liêng, được thể hiện nơi vai trò tư tế của hàng giáo phẩm, giáo sĩ và phó tế
thuộc Giáo Hội Công Giáo Rôma cũng như Giáo Hội Chính Thống Đông Phương: “Những
ai lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh được thánh hiến để nhân danh Chúa Kitô
‘nuôi dưỡng Giáo Hội bằng lời Chúa và ơn Chúa’ (Lumen Gentium, 11.2)” (GLGHCG số
1535); “Các Chức Thánh là bí tích giúp sứ mệnh Chúa Kitô ủy thác cho các tông đồ
tiếp tục được thực hiện trong Giáo Hội cho đến tận thế, bởi vậy mới được gọi là
bí tích của sứ vụ tông đồ. Bí tích này gồm có ba cấp, đó là cấp giáo phẩm, giáo
sĩ và phó tế” (GLGHCG số 1536). Thế nhưng,
1. Tại sao chức thánh lại được chia làm ba cấp? Phạm vi của mỗi cấp ra sao?
2. Bí tích truyền chức thánh được cử hành ra sao?
3. Công hiệu của bí tích này như thế nào nơi thụ lãnh nhân?
KIẾN THỨC ĐỨC TIN
1. TẠI SAO CHỨC THÁNH ĐƯỢC
CHIA LÀM BA CẤP? PHẠM VI MỖI CẤP RA SAO?
Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, khi được rửa tội thì tất cả mọi Kitô hữu đã
được tham dự vào chức tư tế, vương giả và ngôn sứ của Chúa Kitô (xem GL số
1546). Tuy nhiên, chức tư tế phổ quát (common priesthood) này, về cả bản chất
lẫn cấp độ, thực sự khác hẳn với chức tư tế thừa tác (ministerial priesthood), ở
chỗ, “chức tư tế thừa tác là để phục vụ cộng đồng tư tế phổ quát... Chức tư tế
thừa tác là phương tiện Chúa Kitô dùng để không ngừng xây dựng và dẫn dắt Giáo
Hội của Người. Vì thế chức này mới được truyền đạt bằng một bí tích riêng, đó là
bí tích Truyền Chức Thánh” (GL số 1547). Thành phần chịu chức tư tế thừa tác
lãnh nhận “linh quyền” (sacred power) của Chúa Kitô (xem GL số 1551) để có thể
chẳng những đóng vai của Người là đầu (in persona Christi Capitis) trong việc
phục vụ Giáo Hội (xem GL số 1548), đến nỗi, bất cứ tội lỗi hay yếu hèn nào nơi
bản thân của thừa tác viên cũng không làm cản trở việc thông ban ân sủng (xem GL
số 1550 và xem cả số 1584), mà còn nhân danh toàn thể Giáo Hội trong việc phụng
vụ Thiên Chúa nữa (xem GL số 1552). Thế nhưng, sở dĩ chức tư tế thừa tác có ba
cấp là vì thiên chức này được bắt nguồn từ cơ cấu quản trị và phụng tự trong Cựu
Ước được thể hiện qua “vai trò tư tế của Aaron và vai trò phục vụ của chi Lêvi,
cùng với việc thiết lập 70 vị kỳ lão” (GL số 1548), nhất là vì cấp độ của thiên
chức này trong việc tham dự vào tông đồ tính của mỗi cấp: cấp giáo phẩm lãnh
nhận trọn vẹn chức thánh, cấp giáo sĩ là cộng tác viên của các vị giám mục và
cấp phó tế là để phục vụ.
Cấp giáo phẩm lãnh nhận trọn vẹn chức thánh:
• “Để hoàn tất sứ mệnh cao cả của mình, ‘các tông đồ đã nhận được Thánh Linh do
Chúa Kitô tuôn đổ xuống trên các vị, để rồi, bằng việc đặt tay, các vị thông cho
những người phụ tá của mình tặng ân Thần Linh này, một tặng ân được truyền đạt
cho tới thời của chúng ta đây qua việc thánh hiến để làm giám mục’ (Hiến Chế
Lumen Gentium, 21; x Acts 1:8, 2:4; Jn 20:22-23; 1Tim 4:14; 2Tim 1:6-7)”. (số
1556)
• “Công Đồng Chung Vaticanô II ‘dạy... rằng trọn vẹn bí tích Truyền Chức Thánh
được ban phát qua việc thánh hiến để làm giám mục, một mức độ trọn vẹn, theo
truyền thống phụng vụ của Giáo Hội cũng như theo ngôn từ được các Vị Giáo Phụ
của Giáo Hội sử dụng, được gọi là chức thượng tế, tột đỉnh của thừa tác vụ thánh’
(Hiến Chế Lumen Gentium, 21.2)”. (số 1557)
• “Thật vậy... bằng việc đặt tay và nhờ lời thánh hiến, âu sủng của Chúa Thánh
Thần đã được thông ban và tính chất linh thánh được in ấn đến nỗi làm cho các vị
giám mục đóng vai trò của chính Chúa Kitô một cách trổi vượt và cụ thể trong
việc làm thày, làm mục tử và làm tư tế để tác hành như vị đại diện của Người (in
Eius persona agant)’ (Hiến Chế Lumen Gentium, 21). ‘Do đó, bởi Thánh Linh là
Đấng đã được ban cho mình, các vị giám mục trở thành những thày dạy thực sự và
chuyên chính của đức tin cũng như thành các vị giáo chủ và mục tử’ (Sắc Lệnh về
Giám Mục, 2.2)”. (số 1558)
Cấp giáo sĩ là cộng tác viên của các vị giám mục:
• “... Phận vụ thừa tác của các vị giám mục được thông đạt xuống một phụ cấp cho
các linh mục, để các linh mục này được bổ nhiệm vào hàng tư tế mà trở thành các
cộng sự viên của hàng giáo phẩm trong việc hoàn tất tương xứng với sứ vụ tông đồ
được Chúa Kitô ủy thác cho mình’ (Sắc Lệnh về Linh Mục, 2.2)”. (số 1562)
• “Vì được liên kết với hàng giáo phẩm, vai trò linh mục cũng được thông phần
vào quyền bính Chúa Kitô đã dùng để xây dựng và thánh hóa cùng cai trị Thân Mình
của Người...”. (số 1563)
• “’Mặc dù không ở thượng cấp của vai trò làm giáo chủ, và bất kể sự kiện phải
lệ thuộc vào giám mục trong việc thi hành năng quyền xứng hợp với mình đi nữa,
các linh mục vẫn được liên kết với các giám mục theo phẩm vị linh mục của mình;
và bởi bí tích Truyền Chức Thánh, các vị được thánh hiến theo hình ảnh của Chúa
Kitô, vị linh mục tối cao đời đời, để rao giảng Phúc Âm và chăn dắt tín hữu cũng
như để cử hành việc tôn thờ thần linh như là những vị linh mục đích thực của Tân
Ước’ (Hiến Chế Lumen Gentium, 28; x Heb 5:1-10, 7:24, 9:11-28; Đức Innôcentê I,
Epist. ad Decentium: PL 20, 554 A; Thánh Gregory of Nazianzus, Oratio 2, 22: PG
35, 432B)”. (số 1564)
• “Linh mục có thể thi hành thừa tác vụ của mình hoàn toàn tùy theo đức giám mục
cũng như trong mối hiệp thông với các ngài. Lời hứa vâng phục các vị tuyên ngôn
với giám mục trong lúc được truyền chức và cử chỉ ôm hôn bình an của các giám
mục vào cuối phụng vụ truyền chức cho thấy các giám mục coi các vị là những cộng
sự viên, con cái, anh em và bạn hữu của mình, đối lại các vị phải yêu kính và
tuân phục các ngài”. (số 1567)
Cấp phó tế là để phục vụ:
• “Ở bậc thấp hơn hàng giáo phẩm là các vị phó tế, thành phần được đặt tay
‘không phải để lãnh chức vị linh mục mà là để phục vụ’ (Hiến Chế Lumen Gentium,
29; x Sắc Lệnh về Giám Mục, 15). Trong việc phong chức phó tế, chỉ có giám mục
mới đặt tay trên tuyển nhân, đã nói lên cho thấy việc gắn bó đặc biệt của vị phó
tế với đức giám mục trong các công việc ‘diakonia’ (phục vụ) của mình (x Thánh
Hippolytus, Trad. ap. 8: SCh 11, 58-62)”. (số 1569)
• “Các phó tế thông phần vào sứ vụ và ân sủng của Chúa Kitô một cách đặc biệt (x
Hiến Chế Lumen Gentium 41; Sắc Lệng về Tông Đồ Giáo Dân, 16). Bí tích Truyền
Chức Thánh ghi dấu nơi họ, một dấu không thể xóa bỏ và làm cho họ nên giống Chúa
Kitô, Đấng đã làm cho mình trở thành ‘phục vụ viên’ hay tôi tớ của tất cả mọi
người (x Mk 10:45; Lk 22:27; Thánh Polycapô, Ad Phil. 5, 2: SCh 10, 182). Trong
các phận sự mình làm, việc của phó tế là phụ giúp giám mục và linh mục trong
việc cử hành mầu nhiệm thánh, nhất là Thánh Lễ, trong việc phân phát Thánh Thể,
trong việc phụ giúp và chúc phúc cho các cuộc hôn phối, trong việc công bố Phúc
Âm và việc giảng dạy, trong việc chủ sự các cuộc an táng, và trong việc dấn thân
vào các thừa tác vụ bác ái khác nhau (x Hiến Chế Lumen Gentium, 29; Hiến Chế
Phụng Vụ Thánh, 35.4; Sắc Lệnh Truyền Giáo, 16)”. (số 1570)
• “Trong lúc các Giáo Hội Đông Phương luôn bảo trì chức phó tế thì kể từ Công
Đồng Chung Vaticanô II, Giáo Hội Latinh đã tái lập chức này ‘như là một cấp vĩnh
viễn riêng biệt của hàng phẩm trật’ (Hiến Chế Lumen Gentium, 29.2). Chức phó tế
vĩnh viễn này, một chức có thể được ban cho nam nhân có gia đình, làm cho sứ
mệnh của Giáo Hội thêm phong phú”. (số 1571)
2. BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC
THÁNH ĐƯỢC CỬ HÀNH RA SAO?
Về việc cử hành bí tích Truyền Chức Thánh, cũng như các bí tích khác, Giáo Lý
Giáo Hội Công Giáo đã nhắc lại những vấn đề chính yếu trực tiếp liên quan đến lễ
nghi, đến thừa tác viên cũng như đến thụ lãnh nhân của bí tích Truyền Chức Thánh
này.
Lễ nghi của bí tích Truyền Chức Thánh:
• “Vì tầm quan trọng của việc truyền chức giám mục, linh mục hay phó tế đối với
đời sống của Giáo Hội riêng biệt mà vấn đề cử hành việc này cần phải có nhiều
người tham dự bao nhiêu có thể. Hay nhất là cử hành vào Chúa Nhật, ở vương cung
thánh đường, một cách long trọng xứng với hoàn cảnh của việc này... trong phụng
vụ Thánh Thể”. (số 1572)
• “Lễ nghi chính yếu của bí tích Truyền Chức Thánh cho cả ba cấp là ở việc vị
giám mục đặt tay trên đầu của người lãnh chức, cũng như ở lời vị giám mục nguyện
cầu thánh hiến xin Thiên Chúa tuôn đổ Thánh Linh cùng các tặng ân của Ngài xuống
hợp với thừa tác vụ tuyển viên đang thụ lãnh (x Đức Piô XII, tông hiến
Sacramentum Ordinis: DS 3858)”. (số 1573)
Thừa tác viên của bí tích Truyền Chức Thánh:
• “Vì bí tích Truyền Chức Thánh là bí tích của thừa tác vụ tông đồ mà các giám
mục là thừa kế của các vị tông đồ cần phảithực hiện việc truyền đạt ‘tặng ân
Thần Linh’ (Hiến Chế Lumen Gentium, 21.2), truyền đạt ‘hàng ngũ tông đồ’ (cùng
nguồn vừa dẫn, 20). Các vị giám mục đã được thụ phong thành hiệu, như những vị
theo hàng ngũ thừa kế tông đồ chẳng hạn, có thực quyền ban phát ba cấp của bí
tích Truyền Chức Thánh”. (số 1576)
Thụ lãnh nhân của bí tích Truyền Chức Thánh:
• “’Chỉ có nam nhân đã chịu phép rửa mới lãnh nhận chức thánh thành hiệu mà thôi’
(Giáo Luật khoản 1024). Chúa Giêsu đã chọn nam nhân để làm nên tông đồ đoàn, và
các vị tông đồ cũng làm như vậy khi các vị chọn các cộng tác viên để truyền lại
cho họ thừa tác vụ của mình (x Mk 3:14-19; Lk 6:12-16; 1Tim 3:1-13; 2Tim 1:6;
Titus 1:5-9; Thánh Clement of Rome, Ad Cor. 42, 4, 44, 3: PG 1, 292-293, 300)...
Giáo Hội nhìn nhận mình buộc phải làm theo việc đã được chính Chúa định đoạt này.
Ví lý do ấy, không thể nào truyền chức cho nữ giới (x Đức Gioan Phaolô II,
Mulieris Dignitatem, 26-27; Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, tuyên ngôn Inter
Insigniores: AAS 69 năm 1977, 98-116)”. (số 1577)
• “Tất cả mọi thừa tác viên thánh chức của Giáo Hội Latinh, ngoại trừ các phó tế
vĩnh viễn, thường được chọn trong số nam nhân sống đức tin còn độc thân và có ý
sống độc thân ‘vì nước trời’ (Mt 19:12)... Được kêu gọi hiến mình cho Chúa cũng
như cho ‘các việc của Chúa’ (1Cor 7:32) bằng một con tim không phân chia, họ
hoàn toàn hiến thân cho Thiên Chúa và cho con người. Sống độc thân là dấu hiệu
của đời sống mới để phục vụ ấy, một đời sống phục vụ mà vị thừa tác viên của
Giáo Hội được thánh hiến để thực hiện; chấp nhận với một tấm lòng hoan hỉ, cuộc
sống độc thân này là việc hiển nhiên loan báo Triều Đại Thiên Chúa (x Sắc Lệnh
về Linh Mục, 16)”. (số 1579)
• “Các Giáo Hội Đông Phương theo một qui luật khác đã từng được thi hành qua
nhiều thế kỷ, ở chỗ, các giám mục chỉ được chọn trong số các người độc thân, còn
các người có gia đình có thể lãnh chức phó tế và linh mục. Tập tục này từ lâu
vốn được coi là hợp pháp; những vị linh mục ấy thi hành thừa tác vụ của mình
cách tốt đẹp trong cộng đồng của họ (x Sắc Lệnh về Linh Mục, 16). Tuy nhiên,
việc sống đời linh mục độc thân vẫn được coi trọng ở các Giáo Hội Đông Phương
này và nhiều vị linh mục tình nguyện sống như vậy vì Nước Thiên Chúa. Ở cả Đông
lẫn Tây, người nào đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh thì không được lập gia
đình nữa”. (số 1580)
3. CÔNG HIỆU CỦA BÍ TÍCH
NÀY NHƯ THẾ NÀO NƠI THỤ LÃNH NHÂN?
Về công hiệu của bí tích Truyền Chức Thánh, Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo xác nhận
bí tích này in ấn nơi thụ lãnh nhân một dấu không thể xóa bỏ và ban cho họ ân
sủng của Thánh Linh.
In ấn nơi thụ lãnh nhân một dấu không thể xóa bỏ:
• “... Như bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, bí tích Truyền Chức Thánh in ấn một dấu
thiêng liêng không thể xóa bỏ và không thể tái ban hay tạm ban (x Công Đồng
Chung Triđentinô: DS 1767; Hiến Chế Lumen Gentium, 21, 28, 29: Sắc Lệnh về Linh
Mục, 2)” (số 1581). “Thật vậy, người đã chịu chức thánh hiệu, vì lý do chính
đáng, chỉ có thể bị bãi nhiệm khỏi những trọng trách và phận vụ liên quan đến
thánh chức, hay chỉ có thể bị cấm không được thi hành các trách vụ này mà thôi;
chứ họ không thể trở lại làm giáo dân theo nghĩa hẹp (x Giáo Luật các khoản
290-293, 1336.1, 1338.2; Công Đồng Chung Triđentinô: DS 1774), vì dấu do chức
thánh in ấn là dấu vĩnh viễn. Ơn gọi và sứ vụ họ nhận được trong ngày lãnh chức
thì vĩnh viễn ghi dấu nơi họ” (số 1583).
Ban cho thụ lãnh nhân ân sủng của Thánh Linh:
• “Ân sủng của Thánh Linh hợp với bí tích này là làm cho thụ lãnh nhân nên giống
Chúa Kitô Tư Tế, Thày Dạy và Mục Tử, Đấng họ được chịu chức để làm thừa tác viên
của Người”. (số 1585)
TÓM LẠI:
Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, khi được rửa tội thì tất cả mọi Kitô hữu đã
được tham dự vào chức tư tế, vương giả và ngôn sứ của Chúa Kitô (xem GL số
1546). Tuy nhiên, chức tư tế phổ quát (common priesthood) này, về cả bản chất
lẫn cấp độ, thực sự khác hẳn với chức tư tế thừa tác (ministerial priesthood), ở
chỗ, “chức tư tế thừa tác là để phục vụ cộng đồng tư tế phổ quát... Chức tư tế
thừa tác là phương tiện Chúa Kitô dùng để không ngừng xây dựng và dẫn dắt Giáo
Hội của Người. Vì thế chức này mới được truyền đạt bằng một bí tích riêng, đó là
bí tích Truyền Chức Thánh” (GL số 1547). Thành phần chịu chức tư tế thừa tác
lãnh nhận “linh quyền” (sacred power) của Chúa Kitô (xem GL số 1551) để có thể
chẳng những đóng vai của Người là đầu (in persona Christi Capitis) trong việc
phục vụ Giáo Hội (xem GL số 1548), đến nỗi, bất cứ tội lỗi hay yếu hèn nào nơi
bản thân của thừa tác viên cũng không làm cản trở việc thông ban ân sủng (xem GL
số 1550 và xem cả số 1584), mà còn nhân danh toàn thể Giáo Hội trong việc phụng
vụ Thiên Chúa nữa (xem GL số 1552). Thế nhưng, sở dĩ chức tư tế thừa tác có ba
cấp là vì thiên chức này được bắt nguồn từ cơ cấu quản trị và phụng tự trong Cựu
Ước được thể hiện qua “vai trò tư tế của Aaron và vai trò phục vụ của chi Lêvi,
cùng với việc thiết lập 70 vị kỳ lão” (GL số 1548), nhất là vì cấp độ của thiên
chức này trong việc tham dự vào tông đồ tính của mỗi cấp: cấp giáo phẩm lãnh
nhận trọn vẹn chức thánh (GL số 1556-1558), cấp giáo sĩ là cộng tác viên của các
vị giám mục và cấp phó tế là để phục vụ. Về việc cử hành bí tích Truyền Chức
Thánh, cũng như các bí tích khác, Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo đã nhắc lại những
vấn đề chính yếu trực tiếp liên quan đến lễ nghi (GL số 1572-1573), đến thừa tác
viên (GL số 1576), cũng như đến thụ lãnh nhân (GL số 1578-1580) của bí tích
Truyền Chức Thánh này. Về công hiệu của bí tích Truyền Chức Thánh, Giáo Lý Giáo
Hội Công Giáo xác nhận bí tích này in ấn nơi thụ lãnh nhân một dấu không thể xóa
bỏ (GL số 1581, 1583) và ban cho họ ân sủng của Thánh Linh (GL số 1585).
THÂM TÍN SỐNG ĐẠO
1. Vì tội lỗi và yếu hèn nơi con người của các vị có chức thánh, nhất là trong
hàng giáo phẩm và giáo sĩ, không làm các vị mất đi quyền linh thay thế Chúa Kitô
trong việc thông ban ân sủng qua các bí tích mà giáo dân vẫn phải trọng kính các
vị. Nếu các vị làm điều gì thực sự gây ra gương mù gương xấu có hại đến cộng
đồng dân Chúa, giáo dân nên khôn ngoan và trọng kính cho các vị biết. Nếu các vị
nhất định không chịu sửa sai, sự việc bấy giờ mới nên trình lên thẩm quyền của
các vị để được giải quyết trong phạm vi của nó.
2. Phần các vị tư tế đã được “bí tích Truyền Chức Thánh thông cho một ‘linh
quyền’ chính là linh quyền của Chúa Kitô’. Bởi thế, việc thi hành quyền bính này
phải dựa theo gương của Chúa Kitô, Đấng vì yêu thương tự mình trở nên nhỏ mọn
nhất và làm tôi tớ mọi người (x Mk 10:43-45; 1Pt 5:3)”. (GL số 1551)
Trắc
Nghiệm
Xin đọc bài Giáo Lý lược tóm tổng ôn dưới đây, rồi dùng các chữ ở cuối trang để
điền vào những chỗ gạch trống các câu Sách Giáo Lý vừa học hỏi cho đúng nguyên
văn ý nghĩa của nó. Trong vòng 10 phút.
Qua bài Giáo Lý 26 về Bí Tích Truyền Chức, Giáo Hội Công Giáo đã cho con cái của
mình thấy những điểm chính sau đây: Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, khi được
rửa tội thì tất cả mọi Kitô hữu đã được tham dự vào chức tư tế, vương giả và
ngôn sứ của Chúa Kitô (GL 1546). Tuy nhiên, chức tư tế phổ quát này, về cả bản
chất lẫn cấp độ, thực sự khác hẳn với chức tư tế thừa tác, ở chỗ, “chức tư tế
thừa tác là để phục vụ cộng đồng tư tế phổ quát... Chức tư tế thừa tác là phương
tiện Chúa Kitô dùng để không ngừng xây dựng và dẫn dắt Giáo Hội của Người. Vì
thế chức này mới được truyền đạt bằng một bí tích riêng, đó là bí tích Truyền
Chức Thánh” (GL 1547). Thành phần chịu chức tư tế thừa tác lãnh nhận “linh quyền”
của Chúa Kitô (GL 1551) để có thể chẳng những đóng vai của Người là đầu trong
việc phục vụ Giáo Hội (GL 1548), đến nỗi, bất cứ tội lỗi hay yếu hèn nào nơi bản
thân của thừa tác viên cũng không làm cản trở việc thông ban ân sủng (GL 1550 và
cả số 1584), mà còn nhân danh toàn thể Giáo Hội trong việc phụng vụ Thiên Chúa
nữa (GL 1552). Thế nhưng, sở dĩ chức tư tế thừa tác có ba cấp là vì thiên chức
này được bắt nguồn từ cơ cấu quản trị và phụng tự trong Cựu Ước được thể hiện
qua “vai trò tư tế của Aaron và vai trò phục vụ của chi Lêvi, cùng với việc
thiết lập 70 vị kỳ lão” (GL số 1548), nhất là vì cấp độ của thiên chức này trong
việc tham dự vào tông đồ tính của mỗi cấp: cấp giáo phẩm lãnh nhận trọn vẹn chức
thánh (GL 1556-1558), cấp giáo sĩ là cộng tác viên của các vị giám mục (GL
1562-1564, 1567), và cấp phó tế là để phục vụ (GL 1569-1571). Về việc cử hành bí
tích Truyền Chức Thánh, cũng như các bí tích khác, Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo đã
nhắc lại những vấn đề chính yếu trực tiếp liên quan đến lễ nghi (GL 1572-1573),
đến thừa tác viên (GL 1576), cũng như đến thụ lãnh nhân (GL 1578-1580) của bí
tích Truyền Chức Thánh này. Về công hiệu của bí tích Truyền Chức Thánh, Giáo Lý
Giáo Hội Công Giáo xác nhận bí tích này in ấn nơi thụ lãnh nhân một dấu không
thể xóa bỏ (GL 1581, 1583) và ban cho họ ân sủng của Thánh Linh (GL 1585).
1. “Trọn vẹn bí tích Truyền Chức Thánh được ban phát qua việc thánh hiến để làm
_________, một mức độ trọn vẹn, theo truyền thống phụng vụ của Giáo Hội cũng như
theo ngôn từ được các Vị Giáo Phụ của Giáo Hội sử dụng, được gọi là chức
__________, tột đỉnh của thừa tác vụ thánh’”. (số 1557)
2. “’Mặc dù
không ở thượng cấp của vai trò làm giáo chủ, và bất kể sự kiện phải lệ thuộc vào
giám mục trong việc thi hành năng quyền xứng hợp với mình đi nữa, các linh mục
vẫn được liên kết với các giám mục theo phẩm vị linh mục của mình; và bởi bí
tích Truyền Chức Thánh, các vị được thánh hiến theo hình ảnh của Chúa Kitô, vị
linh mục tối cao đời đời, để _________ Phúc Âm và ________ tín hữu cũng như để
cử hành việc tôn thờ thần linh như là những vị _________ đích thực của Tân Ước’”.
(số 1564)
3. “Trong các
phận sự mình làm, việc của phó tế là phụ giúp giám mục và linh mục trong việc cử
hành mầu nhiệm thánh, nhất là ________, trong việc phân phát _________, trong
việc phụ giúp và chúc phúc cho các cuộc hôn phối, trong việc công bố Phúc Âm và
việc giảng dạy, trong việc chủ sự các cuộc an táng, và trong việc dấn thân vào
các thừa tác vụ ________ khác nhau”. (số 1570)
4. “Lễ nghi
chính yếu của bí tích Truyền Chức Thánh cho cả ba cấp là ở việc vị giám mục
________ trên đầu của người lãnh chức, cũng như ở lời vị giám mục nguyện cầu
___________ xin Thiên Chúa tuôn đổ Thánh Linh cùng các tặng ân của Ngài xuống
hợp với thừa tác vụ tuyển viên đang thụ lãnh”. (số 1573)
5. “’Chỉ có
__________ đã chịu phép rửa mới lãnh nhận chức thánh hiệu thành mà thôi’. Chúa
Giêsu đã chọn nam nhân để làm nên tông đồ đoàn, và các vị tông đồ cũng làm như
vậy khi các vị chọn các cộng tác viên để truyền lại cho họ thừa tác vụ của mình...
Giáo Hội nhìn nhận mình buộc phải làm theo việc đã được chính Chúa _________ này.
Ví lý do ấy, không thể nào truyền chức cho ________”. (số 1578)
(nữ giới, giám mục, thượng tế, định đoạt, nam nhân, rao
giảng, chăn dắt, thánh hiến, đặt tay, linh mục, thánh lễ, bác ái, Thánh Thể)