THIÊN CHÚA DUY NHẤT
LÀ CHA TOÀN NĂNG
(các số 198-278)
CẢM NGHIỆM NHÂN SINH
Lịch sử cho thấy, trước khi “ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế
gian” (Jn 1:9) là “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), thì
hầu hết loài người bấy giờ vẫn còn tôn thờ đa thần (x Wis 13:2-4), kể cả dân Hy
Lạp được coi là trí thức nhất hồi ấy về triết lý đi nữa (x Tông Vụ 17:23). Tuy
nhiên, cho dù người Do Thái là dân theo độc thần bấy giờ đi nữa, qua giòng lịch
sử của mình, họ cũng vẫn tỏ ra khuynh hướng đa thần, vẫn nhiều lúc (nhất là
trong thời các vua từ vua Solomon) tôn sùng những thần ngoại lai, hay tôn sùng
ngẫu tượng không phải thực sự là Thiên Chúa của họ, điển hình nhất là trường hợp
họ đúc thờ bò vàng trong sa mạc (x Ex 32:1,4,8).
Sau Chúa Kitô giáng sinh, lịch sử cũng cho thấy không còn một tôn giáo đa thần
nào xuất hiện nữa. Tuy nhiên, kể từ thời Cách Mạng Kỹ Nghệ vào thế kỷ 17, thay
vào hiện tượng đa thần, lịch sử cho thấy hiện tượng vô thần bắt đầu phát xuất.
Thật ra, về nội dung, vô thần tân tiến cũng là một hình thức đa thần cổ xưa, tức
một hình thức tôn thờ những gì không phải là “Thiên Chúa chân thật duy nhất” (Jn
17:3), chẳng hạn, thế giới tân tiến đã và đang tôn thờ các chủ nghĩa vô thần như
duy vật, duy lý, duy nghiệm, duy nhân v.v. Chính vì thế, chính vì càng chối bỏ
Thiên Chúa, càng phủ nhận Sự Thật Tối Thượng, mà con người, càng về cuối thế kỷ
20, lại càng thấy hiện tượng đầy những “giáo phái” (sects) lan tràn khắp nơi,
nhất là hiện tượng phá sản luân thường đạo lý khắp thế giới, không còn biết tội
là gì nữa, thậm chí còn cho tội là phúc và phúc là tội. Bởi vậy, chúng ta cần
phải nắm vững niềm tin của mình nơi “Thiên Chúa chân thật duy nhất” đúng như
Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo truyền dạy.
Thế nhưng,
1. Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo căn cứ vào đâu để tin tưởng chỉ có một Thiên
Chúa Duy Nhất, và theo Kitô Giáo nói chung cũng như Giáo Hội Công Giáo nói riêng
hiểu thì Thiên Chúa Duy Nhất ở chỗ nào?
2. Nếu chỉ có Một Thiên Chúa Duy Nhất thì tại sao Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo
còn dạy rằng vị Thiên Chúa Duy Nhất này lại có Ba Ngôi (xem SGL số 233), mà Ngôi
nào cũng thực sự là Thiên Chúa (số 253), vậy phải có “ba Thiên Chúa” (số 253)
chứ làm sao lại chỉ có Một Thiên Chúa Duy Nhất được?
3. Nếu chỉ có một Thiên Chúa Duy Nhất và nơi vị Thiên Chúa Duy Nhất này có Ba
Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần, vậy thì tại sao ngay trong câu mở đầu của Kinh
Tin Kính, Giáo Hội lại chỉ tuyên xưng có một mình Ngôi Cha: “Tôi tin kính một
Thiên Chúa là Cha”, mà không tuyên xưng “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha và
Con và Thánh Thần”?
4. Nếu tiếng “cha” theo ý nghĩa của mình thường được gắn liền với yêu thương và
nguồn sống, vậy thì tại sao Kinh Tin Kính lại không tuyên xưng “Thiên Chúa là
Cha yêu thương” mà lại tuyên xưng “Thiên Chúa là Cha toàn năng”?
KIẾN THỨC ĐỨC TIN
1. GIÁO LÝ CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO CĂN CỨ VÀO ĐÂU ĐỂ TIN
TƯỞNG CHỈ CÓ MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT, VÀ THEO KITÔ GIÁO NÓI CHUNG CŨNG NHƯ GIÁO
HỘI CÔNG GIÁO NÓI RIÊNG HIỂU THÌ THIÊN CHÚA DUY NHẤT Ở CHỖ NÀO?
Niềm tin chỉ có một Thiên Chúa Duy Nhất được Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo căn
cứ vào Mạc Khải Thần Linh, nhất là trong phần Thánh Kinh Cựu Ước, qua việc Thiên
Chúa tỏ cho Moisen biết tên gọi của Ngài:
“Việc tuyên xưng duy nhất tính của Thiên Chúa, một phẩm tính được bắt nguồn từ
mạc khải thần linh trong Cựu Ước, là việc không thể tách biệt khỏi việc tuyên
xưng Thiên Chúa hiện hữu và cả hai đều trọng yếu như nhau”. (số 200)
“Thiên Chúa đã tỏ mình ra là Thiên Chúa Duy Nhất cho dân Yến-Duyên, dân Ngài
tuyển chọn: ‘Hỡi Yến-Duyên, hãy nghe đây: Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa
duy nhất; bởi thế các người phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của các người hết
lòng, hết linh hồn và hết sức mình’ (Deut 6:4-5). Qua các tiên tri, Thiên Chúa
còn kêu gọi dân Yến-Duyên cũng như tất cả mọi dân nước hãy trở về với Ngài là
một Thiên Chúa duy nhất: ‘Hỡi khắp cùng bờ ci trái đất, hãy trở về với Ta để
được cứu độ! Vì Ta là Thiên Chúa, ngoài ra không có Chúa nào khác… Trước nhan
của Ta, mọi đầu gối phải qùi xuống và mọi miệng lưỡi phải thề nguyền. Ta sẽ được
tuyên xưng rằng ‘Công minh chính trực và quyền uy sức mạnh chỉ có ở nơi Chúa’
(Is 45:22-24; x. Phil 2:10-11)”. (số 201)
“Thiên Chúa đã càng ngày càng tỏ mình ra cho dân Ngài dưới nhiều danh xưng, thế
nhưng, mạc khải làm nền tảng cho cả Cựu Ước lẫn Tân Ước là mạc khải tỏ cho
Moisen biết về tên gọi thần linh trong cuộc thần hiển ở bụi gai cháy, trước cuộc
Xuất Ai Cập và trước giao ước Núi Sinai”. (số 204)
Nếu “tên gọi nói lên yếu tính và căn tính của con người cùng với ý nghĩa cuộc
sống của con người ấy. Thiên Chúa có một tên gọi; Ngài không phải là một quyền
lực vô danh” (SGL số 203), thì căn cứ vào mạc khải thần linh về tên gọi của
Thiên Chúa, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo hiểu được Thiên Chúa Duy Nhất chính
là một Vị Thiên Chúa trung thành, một Vị Thiên Chúa hiện hữu, một Vị Thiên Chúa
Chân Thật và là một Vị Thiên Chúa Yêu Thương.
“Bằng việc mạc khải danh tính của mình, Thiên Chúa cũng muốn mạc khải cả lòng
trung thành của mình ra nữa, một lòng trung thành từ muôn đời đến muôn kiếp, đã
xẩy ra trong cả quá khứ (‘Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi’) lẫn tương lai
(‘Ta sẽ ở với ngươi’) (Ex 3:6,12). Thiên Chúa, Đấng tỏ danh tính ‘Ta Hiện Hữu’
của mình ra, cũng tỏ mình cho thấy Ngài như là một Vị Thiên Chúa luôn luôn có
đó, luôn luôn hiện diện nơi dân của Ngài để giải cứu họ”. (số 207; xem cả cuối
các số 205 và 212)
“Bởi thế, mạc khải về danh tính ‘Ta là Đấng Hiện Hữu’ không thể phai mờ này chất
chứa chân lý cho thấy rằng chỉ một mình Thiên Chúa là CÓ. Bản Bảy Mươi dịch các
Cuốn Sách Thánh Do Thái ra tiếng Hy Lạp, cũng như Truyền Thống của Giáo Hội dựa
theo bản dịch này, đã hiểu ý nghĩa danh tính thần linh ấy thế này: Thiên Chúa là
toàn hữu và toàn hảo, vô thủy và vô chung. Tất cả mọi tạo vật đều lãnh nhận mọi
sự chúng là và chúng có từ Ngài; thế nhưng, chỉ có duy một mình Ngài là chính
bản thân Ngài và Ngài tự mình có mọi sự Ngài là”. (số 213)
“Thiên Chúa, ‘Đấng hiện hữu’, đã mạc khải mình ra cho dân Yến-Duyên thấy Ngài
như là một Đấng ‘đầy lòng yêu thương bền vững và trung thành’ (Ex 34:6). Hai từ
ngữ này (biệt chú của người biên soạn: “yêu thương” và “trung thành”) tóm tắt
cho thấy tính chất phong phú của danh tánh thần linh ấy. Trong tất cả mọi việc
làm của mình, Thiên Chúa chẳng những cho thấy lòng nhân từ, thiện hảo, sủng ái
và tình yêu bền vững của mình, mà còn cho thấy cả tính cách khả tín, nhất trí,
trung thành và chân thật của Ngài nữa. ‘Tôi tạ ơn danh tánh của Ngài vì tình yêu
Ngài bền vững và vì lòng trung thành của Ngài’ (Ps 138:2; x. 85:11). Thánh Tông
Đồ Gioan dạy, Ngài là Sự Thật: ‘Thiên Chúa là ánh sáng, trong Ngài không có tối
tăm’, và ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Jn 1:5, 4:8)”. (số 214)
“Thiên Chúa là chính Sự Thật” (số 215): ở “những lời Ngài không lừa dối” (số
215), ở “đức khôn ngoan của Ngài chi phối toàn thể lãnh vực tạo sinh và cai quản
thế giới“ (số 216), cũng như ở “việc Ngài tỏ mình ra… ‘Chúng ta biết rằng Con
Thiên Chúa đã đến để làm cho chúng ta hiểu để nhận biết Ngài là Đấng chân thật’
(1Jn 5:20; x. Jn 17:3)” (số 217).
“Thiên Chúa là tình yêu”: vì Ngài đã nhưng không yêu thương tỏ mình ra cho dân
Do Thái và đã tuyển chọn họ (số 218), vì tình yêu của Ngài vượt trên việc họ bất
trung và còn ban cho họ tặng ân cao quí nhất (số 219), vì tình yêu của Ngài đối
với dân Ngài là một tình yêu vĩnh viễn (số 220), và nhất là vì chính bản thân
Ngài là tình yêu (số 221).
2. NẾU CHỈ CÓ MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT THÌ TẠI SAO GIÁO LÝ
CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO CÒN DẠY RẰNG VỊ THIÊN CHÚA DUY NHẤT NÀY LẠI CÓ BA NGÔI
(xem SGL số 233), MÀ NGÔI NÀO CŨNG THỰC SỰ LÀ THIÊN CHÚA (số 253), VẬY THEO LÝ
THÌ PHẢI CÓ “BA THIÊN CHÚA” (số 253) CHỨ LÀM SAO LẠI CHỈ CÓ MỘT THIÊN CHÚA DUY
NHẤT ĐƯỢC?
Sở dĩ chỉ có Một Thiên Chúa Duy Nhất mà lại có Ba Ngôi, Ngôi nào cũng thực sự là
Thiên Chúa, song không phải là ba Thiên Chúa, thật ra chỉ là Một Thiên Chúa Duy
Nhất, bởi vì “Ba Ngôi đồng bản thể”:
“Ba Ngôi là Một. Chúng ta không tuyên xưng ba Thiên Chúa, mà tuyên xưng một
Thiên Chúa có ba ngôi, ‘Ba Ngôi đồng bản thể’ (Công Đồng Chung Contantinôpôli II
năm 553: DS 421). Các ngôi vị thần linh không thông phần cùng một thần tính mà
mỗi ngôi là Thiên Chúa hoàn toàn và trọn vẹn: ‘Ngôi Cha là tất cả những gì Ngôi
Con là, Ngôi Con là tất cả những gì Ngôi Cha là, Ngôi Cha và Ngôi Con là tất cả
những gì Ngôi Ba là, tức là, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất theo bản tính’ (Công
Đồng Tolêđô XI năm 675: DS 530: 26). Theo lời của Công Đồng Chung Latêranô IV
năm 1215 thì ‘Mỗi ngôi là chính thực tại cao cả, tức là chính bản thể, yếu tính
hay bản tính thần linh’ (DS 804)”. (số 253)
Tuy Ba Ngôi chỉ là Một Thiên Chúa Duy Nhất vì “đồng bản thể”, chứ không phải là
Ba Thiên Chúa, thế nhưng, theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, Ba Ngôi vẫn hoàn
toàn khác biệt nhau theo liên hệ về nguồn gốc:
“Các ngôi vị thần linh thực sự khác biệt nhau. ‘Thiên Chúa duy nhất nhưng không
đơn độc’ (Fides Damasi: DS 71). ‘Cha’, ‘Con’ và ‘Thánh Thần’ không phải chỉ là
các danh xưng tiêu biểu cho những thể thức của hữu thể thần linh, vì các danh
xưng này thực sự khác biệt nhau: ‘Con không phải là Cha cũng như Cha không phải
là Con, và Thánh Thần không phải là Cha hay là Con’ (Công Đồng Tolêđô XI năm
675: DS 530:25). Các danh xưng này khác biệt nhau theo liên hệ về nguồn gốc :
‘Cha là Đấng phát sinh, Con là Đấng được sinh ra và Thánh Thần là Đấng được xuất
phát’ (Công Đồng Chung Latêranô IV năm 1215: DS 804). Thiên Chúa Duy Nhất là
Thiên Chúa Ba Ngôi”. (số 254)
Cũng chính vì Ba Ngôi chỉ là Một Thiên Chúa Duy Nhất bởi “đồng bản thể”, song Ba
Ngôi lại hoàn toàn khác biệt nhau về nguồn gốc như thế, mà Ba Ngôi cùng làm
chung một việc song theo cách thức khác nhau tùy vai trò xứng hợp riêng với Ngôi
Vị mình.
“Toàn thể công cuộc thần linh là công việc chung của cả ba ngôi vị thần linh.
Bởi vì Ba Ngôi chỉ có cùng một bản tính nên cũng chỉ có cùng một hoạt động:
‘Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần không phải là ba nguyên lý của việc tạo
thành mà chỉ là một nguyên lý duy nhất’ (Công Đồng Chung Florence năm 1442: DS
1331; xem Công Đồng Chung Contantinôpôli II năm 553: DS 421)”. (số 258)
“Tuy nhiên, mỗi một ngôi vị thần linh góp phần vào công việc chung này theo đặc
tính riêng tư đặc thù của mình (biệt chú của người biên soạn: như trong Mầu
Nhiệm Tạo Dựng, Ngôi Cha đóng vai trò tác nhân, Ngôi Con đóng vai trò khôn ngoan
và Ngôi Ba đóng vai trò động lực, hay trong Mầu Nhiệm Cứu Chuộc, Ngôi Cha đóng
vai trò nguyên nhân, Ngôi Con đóng vai trò tác nhân và Ngôi Ba đóng vai trò tác
động, hoặc trong Mầu Nhiệm Thánh Hóa, Ngôi Cha đóng vai trò đích điểm, Ngôi Con
đóng vai trò mô thức và Ngôi Ba đóng vai trò tác nhân). Bởi thế, dựa vào Tân
Ước, Giáo Hội tuyên xưng ‘Tất cả mọi sự có bởi một Thiên Chúa cũng là Cha duy
nhất, tất cả mọi sự có nhờ một Chúa Giêsu Kitô duy nhất, và tất cả mọi sự có
trong một Thánh Thần duy nhất’ (Công Đồng Chung Contantinôpôli II năm 553: DS
421). Sứ vụ Nhập Thể của Ngôi Con và sứ vụ ban tặng của Ngôi Thánh Thần trước
hết là để chứng tỏ cho thấy đặc tính của các ngôi vị thần linh”. (số 258, xem
thêm câu đầu của số 259)
3. NẾU CHỈ CÓ MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT VÀ NƠI VỊ THIÊN CHÚA
DUY NHẤT NÀY CÓ BA NGÔI LÀ CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN, VẬY THÌ TẠI SAO NGAY TRONG
CÂU MỞ ĐẦU CỦA KINH TIN KÍNH, GIÁO HỘI LẠI CHỈ TUYÊN XƯNG CÓ MỘT MÌNH NGÔI CHA:
“TÔI TIN KÍNH MỘT THIÊN CHÚA LÀ CHA” MÀ KHÔNG TUYÊN XƯNG “TÔI TIN KÍNH MỘT THIÊN
CHÚA LÀ CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN”?
Sở dĩ Thiên Chúa Duy Nhất có Ba Ngôi, song ngay trong câu mở đầu Kinh Tin Kính,
Giáo Hội Chúa Kitô chỉ tuyên xưng “tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha”, chứ
không phải “là Cha và Con và Thánh Thần”, là vì vai trò khởi nguyên (về thần
tính cũng như việc tạo thành) và tính cách yêu thương nơi danh xưng Cha của
Thiên Chúa. Thật vậy:
“Giáo Hội nhìn nhận Ngôi Cha là ‘nguồn gốc và khởi thủy của toàn thể thần tính’
(Công Đồng Tôlêđô VI năm 638: DS 490)”. (số 245)
“Nhiều tôn giáo kêu cầu Thiên Chúa như một ‘Người Cha’. Thần tính thường được
coi là ‘cha của các thần cũng như của con người’. Thiên Chúa được gọi là ‘Cha’
trong dân Yến-Duyên, vì Ngài là Đấng tạo thành nên thế gian (xem Deut 32:6; Mal
2:10). Hơn thế nữa, Thiên Chúa là Cha vì giao ước và vì đã ban lề luật cho dân
Yến-Duyên, ‘trưởng tử của Ngài’ (Ex 4:24). Thiên Chúa cũng được gọi là Cha của
các vua dân Yến-Duyên. Đặc biệt Ngài là ‘Cha của kẻ nghèo khổ’, của kẻ mồ côi và
kẻ góa bụa, thành phần được Ngài yêu thương che chở (xem 2Sam 7:14; Ps 68:6)”.
(số 238)
“Gọi Thiên Chúa là ‘Cha’, ngôn ngữ đức tin muốn nói lên hai điều: Thiên Chúa là
nguồn gốc trước hết của mọi sự và có một quyền hạn siêu việt; đồng thời Ngài
cũng có lòng nhân hậu và yêu thương săn sóc cho tất cả mọi con cái của Ngài…”.
(số 239)
4. NẾU TIẾNG “CHA” THEO Ý NGHĨA CỦA MÌNH THƯỜNG ĐƯỢC GẮN
LIỀN VỚI YÊU THƯƠNG VÀ NGUỒN SỐNG, NHƯ VẤN ĐÁP 2 TRÊN ĐÂY VỪA CHO THẤY, VẬY THÌ
TẠI SAO KINH TIN KÍNH LẠI KHÔNG TUYÊN XƯNG “THIÊN CHÚA LÀ CHA YÊU THƯƠNG” MÀ LẠI
TUYÊN XƯNG “THIÊN CHÚA LÀ CHA TOÀN NĂNG”?
Sở dĩ trong Kinh Tin Kính, tiếng “Cha” không đi liền với yêu thương hay với
nguồn sống, mà lại được ghép với “toàn năng”, là vì phẩm tính “toàn năng” của
“Thiên Chúa là Cha” ở đây chẳng những chỉ có ý nghĩa “Thiên Chúa là Đấng tạo
dựng nên mọi sự cũng như cai quản mọi sự và có thể làm được mọi sự” (SGL số
268), mà còn bao gồm cả ý nghĩa yêu thương nữa:
“Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng mà vai trò làm cha của Ngài và việc
Ngài có quyền năng cả hai đều hỗ trợ cho nhau, ở chỗ, Thiên Chúa tỏ quyền toàn
năng làm cha của mình ra bằng việc chăm sóc các nhu cầu của chúng ta; bằng việc
làm cho chúng ta trở nên dưỡng tử của Ngài (“Ta sẽ là cha của các ngươi và các
ngươi sẽ là con cái nam nữ của Ta, Chúa Toàn Năng phán” – 2Cor 6:18; x. Mt
6:32); sau hết, bằng tình thương vô biên của mình, vì Ngài bộc lộ quyền năng của
Ngài ra đến tột đỉnh khi tự động thứ tha tội lỗi”. (số 270, và xem cuối số 272
về quyền năng nơi việc Chúa Kitô phục sinh)
TÓM LẠI:
Khi tin tưởng và tuyên xưng “tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng”, Giáo
Lý của Giáo Hội Công Giáo dạy rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất (SGL số 200,
201), ở chỗ Ngài là Đấng trung thành (SGL số 207) và là “Đấng Hiện Hữu” (SGL số
213). Thế nhưng, Vị Thiên Chúa duy nhất này lại có Ba Ngôi là Cha và Con và
Thánh Thần, tuy đồng bản thể (SGL số 253), tức đều là Thiên Chúa, song Ba Ngôi
vẫn khác biệt nhau về ngồn gốc (SGL số 254), và tuy cùng làm chung một việc song
mỗi ngôi làm theo thể thức riêng của mình (SGL số 258). Trong Ba Ngôi, Ngôi Cha
là chính, cả về đối nội (SGL số 245) cũng như đối ngoại (SGL số 238), được thể
hiện qua quyền toàn năng của Ngài (SGL số 270).
THÂM TÍN SỐNG ĐẠO
Một khi tin vào Một Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất là Cha Toàn Năng, Kitô hữu
chúng ta phải tỏ ra:
ở “Nhận biết sự cao cả và uy nghi của Thiên Chúa” (SGL số 223);
ở “Sống trong niềm cảm tạ tri ân” (số 224);
ở “Công nhận niềm hiệp nhất và phẩm giá thực sự của tất cả mọi người” (số 225);
ở “Lợi dụng mọi tạo vật để mưu ích” (số 226);
ở “Tin tưởng vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh” (số 227).
TRẮC NGHIỆM
Qua bài Giáo Lý 7 về Ý Nghĩa của Niềm Tin Thiên Chúa Duy Nhất Là Cha Toàn Năng,
Giáo Hội Công Giáo đã cho con cái của mình thấy những điểm chính yếu sau đây:
Khi tin tưởng và tuyên xưng “tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng”, Giáo
Lý của Giáo Hội Công Giáo dạy rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất (SGL số 200,
201), ở chỗ Ngài là Đấng trung thành (SGL số 207) và là “Đấng Hiện Hữu” (SGL số
213). Thế nhưng, Vị Thiên Chúa duy nhất này lại có Ba Ngôi là Cha và Con và
Thánh Thần, tuy đồng bản thể (SGL số 253), tức đều là Thiên Chúa, song Ba Ngôi
vẫn khác biệt nhau về ngồn gốc (SGL số 254), và tuy cùng làm chung một việc song
mỗi ngôi làm theo thể thức riêng của mình (SGL 258). Trong Ba Ngôi, Ngôi Cha là
chính, cả về đối nội (SGL 245) cũng như đối ngoại (SGL 238), được thể hiện qua
quyền toàn năng của Ngài (SGL 270).
1. “Thiên Chúa đã càng ngày càng tỏ mình ra cho dân Ngài dưới nhiều danh xưng,
thế nhưng, mạc khải làm nền tảng cho cả Cựu Ước lẫn Tân Ước là mạc khải tỏ cho
Moisen biết về ____________ thần linh trong cuộc thần hiển ở bụi gai cháy, trước
cuộc Xuất Ai Cập và trước giao ước Núi Sinai”. (số 204)
2. “Bằng việc mạc khải danh tính của mình, Thiên Chúa cũng muốn mạc khải cả lòng
__________ của mình ra nữa, một lòng trung thành từ muôn đời đến muôn kiếp, đã
xẩy ra trong cả quá khứ (“Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi”) lẫn tương lai
(“Ta sẽ ở với ngươi”) (Ex 3:6,12). Thiên Chúa, Đấng tỏ danh tính ‘Ta Hiện Hữu’
của mình ra, cũng tỏ mình cho thấy Ngài như là một Vị Thiên Chúa luôn luôn có
đó, luôn luôn ____________ nơi dân của Ngài để giải cứu họ”. (số 207)
3. “Bởi thế, mạc khải về danh tính ‘Ta là Đấng Hiện Hữu’ không thể phai mờ này
chất chứa chân lý cho thấy rằng chỉ một mình Thiên Chúa là ______. Bản Bảy Mươi
dịch các Cuốn Sách Thánh Do Thái ra tiếng Hy Lạp, cũng như Truyền Thống của Giáo
Hội dựa theo bản dịch này, đã hiểu ý nghĩa danh tính thần linh ấy thế này: Thiên
Chúa là ___________ và ___________, __________ và ___________. Tất cả mọi tạo
vật đều lãnh nhận mọi sự chúng là và chúng có từ Ngài; thế nhưng, chỉ có duy một
mình Ngài là chính bản thân Ngài và Ngài tự mình có mọi sự Ngài là”. (số 213)
4. “Ba Ngôi là Một. Chúng ta không tuyên xưng ba Thiên Chúa, mà tuyên xưng một
Thiên Chúa có ba ngôi, ‘Ba Ngôi ____________’. Các ngôi vị thần linh không thông
phần cùng một thần tính mà mỗi ngôi là ___________ hoàn toàn và trọn vẹn: ‘Ngôi
Cha là tất cả những gì Ngôi Con là, Ngôi Con là tất cả những gì Ngôi Cha là,
Ngôi Cha và Ngôi Con là tất cả những gì Ngôi Ba là, tức là, chỉ có một Thiên
Chúa duy nhất theo bản tính’. Theo lời của Công Đồng Chung Latêranô IV năm 1215
thì ‘Mỗi ngôi là chính thực tại cao cả, tức là chính ___________, yếu tính hay
bản tính thần linh’”. (số 253)
5. “Toàn thể công cuộc thần linh là công việc chung của cả ba ngôi vị thần linh.
Bởi vì Ba Ngôi chỉ có cùng một bản tính nên cũng chỉ có cùng một ___________:
‘Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần không phải là ba nguyên lý của việc tạo
thành mà chỉ là một ____________ duy nhất’”. (số 258)
6. “Gọi Thiên Chúa là ‘Cha’, ngôn ngữ đức tin muốn nói lên hai điều: Thiên Chúa
là ____________ trước hết của mọi sự và có một quyền hạn siêu việt; đồng thời
Ngài cũng có lòng nhân hậu và ____________ săn sóc cho tất cả mọi con cái của
Ngài…” (số 239)
7. “Thiên Chúa là Cha Toàn Năng… ở chỗ, Thiên Chúa tỏ quyền toàn năng làm cha
của mình ra bằng việc _____________ các nhu cầu của chúng ta; bằng việc làm cho
chúng ta trở nên ___________ của Ngài; sau hết, bằng tình thương vô biên của
mình, vì Ngài bộc lộ quyền năng của Ngài ra đến tột đỉnh khi tự động___________
tội lỗi”. (số 270)
(tha thứ, tên gọi, trung thành, dưỡng tử, chăm sóc, hiện diện, có, yêu thương,
nguồn gốc, toàn hữu, toàn hảo, nguyên lý, hoạt dộng, vô thủy, vô chung, bản thể,
Thiên Chúa, đồng bản thể)