Bài Giáo Lý số 9

 


CON NGƯỜI ĐƯỢC TẠO DỰNG VÀ SA NGÃ

(các số 355-421)

 


CẢM NGHIỆM NHÂN SINH


Có một sự thật không ai có thể chối cãi, dù là thành phần vô thần, đó là con người là loài “linh ư vạn vật”, tức là loài cao trọng hơn mọi sinh vật trên mặt đất này. Bởi thế, dù chỉ còn là một cái xác vô hồn, là một tử thi đi nữa, con người vẫn có một cái gì đó linh thiêng, đến nỗi người ta chẳng những phải đem chôn cất đàng hoàng, chứ không để cái tử thi đó lăn lóc ở ngoài đường hay bị vùi dập ở một xó rừng nào đó như một con thú vật, mà còn tưởng nhớ và viếng mộ sau đó nữa.

Con người “linh ư vạn vật” như thế phải chăng đó là vì thái độ tự tôn mặc cảm của con người vốn có khuynh hướng vươn mình lên trên hết mọi sự kể cả Thiên Chúa (xem SGL 392, 397), hay bởi vì con người thấy rằng, trong khi con vật không bao giờ thoát được tình trạng hoang rợ “ăn lông ở lỗ” của chúng, tình trạng sống theo luật rừng rú “mạnh được yếu thua”, hay sống theo luật hải hà “cá lớn nuốt cá bé”, thì con người lại không ngừng tiến bộ về hết mọi phương diện, được thể hiện qua các thứ văn minh vật chất cũng như qua các nền văn hóa nhân bản của con người?

Thế nhưng, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo chủ trương ra sao về sự thật con người “linh ư vạn vật” này?

1. Nếu “Con người là tột đỉnh của việc Thiên Chúa tạo dựng” (SGL số 343), thì họ tột đỉnh ở chỗ nào và ra sao?

2. “Thiên Chúa vô cùng thiện hảo và tất cả mọi việc Ngài làm đều tốt đẹp. Thế mà không ai lại không cảm thấy khổ đau hay cảm thấy các sự dữ trong thiên nhiên, như thể chúng có dính dáng tới những giới hạn thuộc về tạo vật, nhất là dính dáng đến vấn nạn về sự dữ luân lý. Sự dữ từ đâu mà có?” (SGL số 385)

3. “Tội của Adong làm sao lại trở thành tội của tất cả con cháu ông được?” (SGL số 404)

4. “Tại sao Thiên Chúa không ngăn chặn con người đầu tiên cho khỏi sa ngã phạm tội?” (SGL số 412)


KIẾN THỨC ĐỨC TIN


1- NẾU “CON NGƯỜI LÀ TỘT ĐỈNH CỦA VIỆC THIÊN CHÚA TẠO DỰNG” (SGL số 343), THÌ HỌ TỘT ĐỈNH Ở CHỖ NÀO VÀ RA SAO?

Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo thì con người “linh ư vạn vật” ở chính thân phận làm người “được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa”, ở vai trò “làm chủ trái đất” của con người, cũng như ở ơn gọi tham phần vào sự sống thần linh của Thiên Chúa.

Trước hết, con người “linh ư vạn vật” ở chính thân phận “được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa” của họ.

• “Là hình ảnh Thiên Chúa, mỗi người chiếm được phẩm giá của một con người, thành phần không phải chỉ là một cái gì đó mà là một người nào đó. Con người có khả năng tự nhận thức, tự làm chủ lấy mình và tự do hiến bản thân mình để tiến đến việc hiệp thông với những người khác. Con người được ân sủng kêu gọi đến với việc giao ước cùng Đấng Hóa Công, để đáp ứng Ngài bằng đức tin và lòng yêu mến, những tác động mà không một tạo vật nào thay thế được họ”. (số 357)

• “Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, con người là một hữu thể vừa vật chất vừa tinh thần. Trình thuật thánh kinh diễn tả thực tại này bằng một ngôn ngữ tiêu biểu, khi xác nhận là ‘bấy giờ Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn nên con người, rồi thổi vào mũi con người hơi thở sự sống, và con người đã trở thành một hữu thể sống’ (Gen 2:7). Như thế là Thiên Chúa đã muốn dựng nên một con người hoàn toàn và trọn vẹn” (số 362)

• “Trong Thánh Kinh, chữ ‘linh hồn’ thường được ám chỉ về sự sống con người hay ám chỉ về toàn thể con người (xem Mt 16:25-26; Jn 15:13; Acts 2:4). Thế nhưng, ‘linh hồn’ cũng ám chỉ về cả lãnh vực nội tâm của con người, là cái sáng giá nhất nơi con người (xem Mt 10:28, 26:38; Jn 12:27; 2Mac 6:30), cái làm cho con người đặc biệt giống hình ảnh Thiên Chúa nhất, ở chỗ, ‘linh hồn’ biểu hiệu cho nguyên lý linh thiêng nơi con người”. (số 363)

• “Thân xác của con người thông phần vào phẩm giá được làm ‘hình ảnh Thiên Chúa’, ở chỗ, thân xác là thân xác của con người chính là bởi vì nó được hồn thiêng làm cho sinh động, và chính toàn thể con người được ấn định, theo như thân thể Chúa Kitô, trở nên đền thờ của Thần Linh (xem 1Cor 6:19-20, 15:44-45)”. (số 364)

• “Tình trạng duy nhất của hồn thiêng và xác thể rất sâu xa chặt chẽ đến nỗi người ta phải coi hồn thiêng là ‘mô thể’ của xác thể (xem Công Đồng Vienne năm 1312: Ds 902), tức là, chính vì hồn thiêng của mình mà xác thể, bởi vật chất mà có, trở nên một xác thể sống động của con người; nơi con người, tinh thần và thể chất không phải là hai bản tính hiệp nhất nên một, mà là việc hiệp nhất của chúng đã làm nên một bản tính duy nhất”. (số 365)

• “Giáo Hội dạy rằng, hết mọi hồn thiêng đều được Thiên Chúa trực tiếp dựng nên – chứ không phải do cha mẹ ‘sinh ra’ – và hồn thiêng cũng bất tử nữa, ở chỗ nó không chết đi khi lìa khỏi xác vào trong giờ con người lâm tử, rồi nó sẽ được tái hiệp nhất với xác thể trong cuộc Phục Sinh sau hết (xem Đức Piô XII, Humani Generis: DS 3896; Paul VI, CPG # 8; Công Đồng Latêranô V năm 1513: DS 1440)”. (số 366)

• “… Cả người nam lẫn người nữ cũng chỉ có cùng một phẩm giá ‘theo hình ảnh Thiên Chúa’. Họ phản ánh khôn ngoan và thiện hảo của Hóa Công, nơi ‘hữu thể nam nhân’ hay ‘hữu thể nữ nhân’ của mình”. (số 370)

Sau nữa, con người “linh ư vạn vật” ở vai trò làm chủ trái đất của con người.

• “’Thiên Chúa đã dựng nên hết mọi sự cho con người’ (xem Gaudium et Spes: 12.1, 24.3, 39.1), thế nhưng, về phần mình, con người được dựng nên là để phụng sự và yêu mến Thiên Chúa cùng hiến dâng tất cả mọi tạo vật về lại cho Ngài”. (số 358)

• “Theo dự án của Thiên Chúa, con người nam nữ được ơn gọi ‘làm chủ’ trái đất (Gen 1:28) với tư cách là quản lý của Thiên Chúa. Quyền chủ trì này không phải là một quyền thống trị chuyên chế và phá hoại. Thiên Chúa kêu gọi con người nam nữ, được dựng nên theo hình ảnh Hóa Công, ‘Đấng yêu thích hết mọi sự hiện hữu’ (Wis 11:24), để thông phần vào việc quan phòng của Ngài đối với các tạo vật khác; bởi thế Thiên Chúa mới ủy thác cho họ trách nhiệm trông coi thế giới”. (số 373)

• “Thiên Chúa đã dựng nên người nam và người nữ cùng với nhau và muốn mỗi người họ sống cho nhau… Người nam khám phá ra người nữ như là một ‘Cái Tôi’ khác có cùng một nhân tính với mình” (số 371)

• “Người nam và người nữ được dựng nên ‘cho nhau’ – không phải bởi Thiên Chúa để họ ở trong một tình trạng lưng chừng và bất hoàn bị, mà Ngài đã dựng nên họ là một cộng đồng con người, trong đó, mỗi người có thể trở thành ‘trợ hữu’ của nhau, vì họ là những con người bình đẳng (‘xương bởi xương tôi…’) và làm cho nhau, với nam tính và nữ tính của mình, được nên trọn. Thiên Chúa đã kết hợp họ vào đời sống hôn nhân, ở chỗ là, bằng việc nên ‘một xác thịt’, họ có thể sinh sản sự sống con người: ‘Hãy sinh sôi nẩy nở tràn đầy mặt đất’ (Gen 1:28). Bằng việc thông truyền sự sống con người cho con cháu của mình, người nam và người nữ, với tư cách là vợ chồng và là cha mẹ, đã đặc biệt cộng tác vào công cuộc của Đấng Hóa Công (xem Gaudium et Spes: 50.1)” (số 372)

Sau hết, con người “linh ư vạn vật” ở ơn gọi thông phần vào sự sống thần linh của Thiên Chúa.

• “Trong tất cả mọi tạo vật hữu hình, chỉ có con người mới ‘có thể nhận biết và yêu mến Đấng Hóa Công của mình’ (Gaudium et Spes: 12.3). Con người là ‘tạo vật duy nhất trên trái đất được Thiên Chúa muốn dựng nên cho họ’ (Gaudium et Spes: 24..3), và chỉ có một mình con người được kêu gọi đến thông phần với sự sống riêng của Thiên Chúa, bằng việc họ nhận biết và yêu mến. Chính vì mục đích này con người đã được dựng nên và đó cũng là lý do làm nền tảng cho phẩm giá của họ”. (số 356)

• “Con người đầu tiên chẳng những được dựng nên tốt lành mà còn được thiết định trong mối thân tình với Đấng Hóa Công, trong mối hòa hợp với bản thân mình cũng như hòa hợp với tạo vật chung quanh họ, ở một tình trạng chỉ có vinh quang của cuộc tân tạo trong Chúa Kitô mới hơn được”. (số 374)

• “Giáo Hội… dạy rằng cha mẹ đầu tiên của chúng ta là Adong và Evà được cấu tạo nên trong một ‘tình trạng thánh thiện và công chính’ (xem Công Đồng Triđentinô năm 1546: DS 1511) nguyên thủy. Ân sủng của sự thánh thiện nguyên thủy này là ‘được thông phần vào… sự sống thần linh’ (xem Lumen Gentium: 2)”. (số 375)

• “Tất cả mọi chiều kích nơi cuộc sống của con người đều được ánh quang của ân sủng này làm cho sáng tỏ. Bao lâu họ còn ở trong mối thân tình thần linh ấy thì con người sẽ không phải khổ đau hay chết chóc (xem Gen 2:17, 3:16, 19). Tình trạng hòa hợp nội tâm nơi con người, tình trạng hòa hợp giữa người nam và người nữ (xem Gen 2:25), cũng như tình trạng hòa hợp sau hết giữa đôi vợ chồng đầu tiên với tất cả mọi tạo vật, làm thành một tình trạng gọi là ‘tình trạng công chính nguyên thủy’”. (số 376).

• “Việc ’làm chủ’ trái đất Thiên Chúa trao phó cho con người ngay từ ban đầu, trước hết, được thể hiện nơi chính bản thân của con người, ở chỗ họ làm chủ bản thân mình. Con người tiên khởi không bị hư hại và cả con người họ có thứ tự trên dưới, vì họ không bị vướng mắc bởi một thứ đam mê tam đầu chế nào (xem 1Jn 2:16) có thể xui khiến họ tìm kiếm khoái lạc giác quan, ham mê của cải trần thế và tự cao tự đại, là những gì phản ngược với tiếng nói của lý trí” (số 377).

• “Dấu chỉ tình trạng con người được thân tình với Thiên Chúa đó là việc họ được Thiên Chúa đặt vào ở trong vườn địa đường (xem Gen 2:8). Ở đó họ sống cuộc sống ‘để canh tác và giữ vườn’. Việc làm bấy giờ chưa phải là một gánh nặng (Gen 2:15, xem 3:17-19), mà là tác động con người nam nữ hợp tác với Thiên Chúa trong việc làm hoàn hảo loài tạo vật hữu hình”. (số 378)



2- “THIÊN CHÚA VÔ CÙNG THIỆN HẢO VÀ TẤT CẢ MỌI VIỆC NGÀI LÀM ĐỀU TỐT ĐẸP. THẾ MÀ KHÔNG AI LẠI KHÔNG CẢM THẤY KHỔ ĐAU HAY CẢM THẤY CÁC SỰ DỮ TRONG THIÊN NHIÊN, NHƯ THỂ CHÚNG CÓ DÍNH DÁNG TỚI NHỮNG GIỚI HẠN THUỘC VỀ TẠO VẬT, NHẤT LÀ DÍNH DÁNG ĐẾN VẤN NẠN VỀ SỰ DỮ LUÂN LÝ. SỰ DỮ TỪ ĐÂU MÀ CÓ?” (SGL số 385)

Để thấu hiểu, nhất là để giải đáp, vấn nạn về sự dữ bởi đâu mà có hóc búa và nan giải đối với lý trí hạn hữu của con người này, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã phải căn cứ vào dự án thần linh của Thiên Chúa, vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô, cũng như vào ảnh hưởng của thần dữ tác dụng trên con người.

Trước hết, vấn nạn sự dữ liên quan đến dự án thần linh của Thiên Chúa:

• “Để hiểu tội lỗi là gì, người ta trước hết phải nhận thức được mối liên hệ sâu xa giữa con người và Thiên Chúa, vì chỉ ở trong mối liên hệ này sự dữ về tội lỗi mới bị lột trần bộ mặt thật của mình ra như là việc con người phủ nhận Thiên Chúa và là việc con người chống lại Ngài, thậm chí nó vẫn còn tiếp tục đè nặng trên cuộc sống và lịch sử nhân loại”. (số 386)

• “Chỉ có ánh sáng Mạc Khải thần linh mới có thể làm sáng tỏ thực tại tội lỗi, nhất là tội lỗi con người vấp phạm ngay từ đầu. Không được Mạc Khải tỏ cho biết về Thiên Chúa, chúng ta không thể nhận thức được tội lỗi một cách rõ ràng, và có chiều hướng cắt nghĩa nó thuần túy như là một hụt hẫng về phương diện phát triển, một yếu kém về mặt tâm lý, một sai lầm hay là một hậu quả tất yếu của cơ cấu tổ chức què quặt nơi xã hội v.v. Chỉ khi nào nhận thức được dự án của Thiên Chúa đối với con người, chúng ta mới có thể thấu triệt được rằng, tội lỗi là việc lạm dụng tự do Thiên Chúa ban cho con người tạo vật, một tự do nhờ đó họ có thể yêu mến Ngài và yêu thương nhau”. (số 387)

• “Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh Ngài và đã đặt họ vào trong mối thân hữu với Ngài. Là một tạo vật thuộc linh, con người có thể sống mối thân hữu này chỉ bằng việc tự do thuận phục Thiên Chúa mà thôi. Việc cấm ăn ‘trái cây biết lành biết dữ’ có ý là: ‘ngày mà các ngươi ăn nó các ngươi sẽ bị chết’ (Gen 2:17). ‘Cây biết lành biết dữ’ (Gen 2:17) tiêu biểu gợi lên cho thấy các giới hạn không thể vượt qua, các giới hạn, là một thụ tạo, con người phải tự ý chấp nhận và tôn trọng bằng một lòng tin tưởng. Con người phải lệ thuộc vào Đấng Hóa Công và phải chấp nhận các lề luật của thiên nhiên cũng như các qui luật về luân lý chi phối việc con người sử dụng tự do của mình”. (số 396)

Sau nữa, vấn nạn sự dữ liên quan đến công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô:

• “… Chúng ta phải biết Chúa Kitô là nguồn mạch của ân sủng thì mới biết được Adong là nguồn mạch của tội lỗi. Vị Thần Linh Huấn Dụ, được Chúa Kitô phục sinh sai đến là để ‘làm cho thế gian nhận thức được tội lỗi’ (Jn 16:8), bằng việc Ngài tỏ ra cho thế gian thấy Đấng Cứu Chuộc của nó”. (số 388)

• “Như thế, tín lý về nguyên tội là ‘mặt trái’ của Tin Mừng về Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế của tất cả mọi người, về việc tất cả mọi người cần được cứu độ, và về việc ơn cứu độ được hiến ban cho tất cả mọi người qua Chúa Kitô…” (số 389)

• “Thánh kinh đã chứng tỏ cho thấy ảnh hưởng khiếp khủng của một tên được Chúa Giêsu gọi là ‘tay sát nhân ngay từ ban đầu’, thậm chí hắn muốn lái cả Chúa Giêsu đi trệch ra khỏi sứ vụ do Cha ủy thác cho Người nữa (Jn 8:44; xem Mt 4:1-11). ‘Lý do Con Thiên Chúa xuất hiện là để hủy hoại các việc làm của ma quỉ’ (1Jn 3:8). Việc làm gây tai hại nhất của ma quỉ là việc dụ dỗ dối trá khiến cho con người bất phục tùng Thiên Chúa”. (số 394)

Sau hết, vấn nạn sự dữ liên quan đến ảnh hưởng của thần dữ tác dụng trên con người:

• “Ở đằng sau việc hai vị cha mẹ tiên khởi của chúng ta tự ý tỏ ra bất phục tùng là một tiếng nói, phát xuất từ nỗi ghen tuông, đã cám dỗ họ chống lại Thiên Chúa, làm cho họ rơi vào sự chết (xem Gen 3:1-5; Wis 2:24). Thánh Kinh và Thánh Truyền của Giáo Hội thấy được nơi sự kiện này việc có mặt của vị thiên thần sa ngã được gọi là ‘Satan’ hay là ‘ma quỉ’ (xem Jn 8:44; Rev 12:9)…”. (số 391)

• “Thánh Kinh đã nói đến tội lỗi của các vị thiên thần này (xem 2Pt 2:4). Việc ‘sa phạm’ ấy hệ tại việc tự quyết của các vị thần thụ tạo này, thành phần đã nhất định và dứt khoát phủ nhận Thiên Chúa cùng với vương quốc của Ngài. Chúng ta thấy cuộc phản loạn ấy phản ánh nơi những lời của tên cám dỗ nói với hai vị cha mẹ tiên khởi của chúng ta: ‘Các ngươi sẽ nên giống như Thiên Chúa’ (Gen 3:5). Ma quỉ ‘đã phạm tội ngay từ ban đầu’; hắn là ‘tên gian trá và là cha của các sự giả dối’ (1Jn 3:8; Jn 8:44)” (số 392)

• “Bị ma quỉ cám dỗ, con người để cho lòng tin tưởng của mình nơi Tạo Hóa chết đi trong tâm hồn của mình, và đã lạm dụng tự do để tỏ ra bất phục tùng mệnh lệnh của Thiên Chúa. Đó là điều gói ghém nơi tội lỗi đầu tiên của con người (Xem Gen 3:1-11; Rm 5:19). Tất cả tội lỗi sau này đều là việc tỏ ra bất phục tùng Thiên Chúa, cũng như tỏ ra thiếu tin tưởng vào lòng thiện hảo của Ngài”. (số 397)

• “Nơi tội lỗi ấy, con người coi trọng mình hơn Thiên Chúa, và chính vì thế đã tỏ ra khinh dể Ngài. Họ đã lấy mình hơn Thiên Chúa và đặt mình phản nghịch lại với Thiên Chúa, nghịch lại với những đòi hỏi của thân phận mình là thụ sinh, và bởi thế nghịch lại với cả thiện ích của mình nữa. Được dựng nên trong tình trạng thánh thiện, theo như dự định của Thiên Chúa, con người sẽ được hoàn toàn ‘thần linh hóa’ trong vinh quang. Bị ma quỉ dụ dỗ, họ muốn ‘trở nên như Thiên Chúa’, nhưng ‘ngoài Thiên Chúa, trước Thiên Chúa, và không hợp với Thiên Chúa’ (Thánh Maximô Giải Tội, Ambigỉua: PG 91, 1156C; xem Gen 3:5)”. (số 398)



3- “TỘI CỦA ADONG LÀM SAO LẠI TRỞ THÀNH TỘI CỦA TẤT CẢ CON CHÁU ÔNG ĐƯỢC?” (SGL số 404)

Để dẫn giải vấn đề tội tổ tông truyền, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo trước hết đã cho thấy những hậu quả trực tiếp phổ quát của nguyên tội, sau đó mới xác định thực tại của tội tổ tông truyền, và sau hết đề cập đến tác dụng của thực tại nguyên tội.

Những hậu quả trực tiếp phổ quát của nguyên tội:

• “Thánh Kinh đã phác họa những hậu quả thảm khốc của việc bất phục tùng tiên khởi này. Adong và Evà lập tức mất đi ơn thánh thiện nguyên thủy (xem Rm 3:23). Họ trở nên sợ hãi Thiên Chúa là Đấng họ có một hình ảnh méo mó về Ngài – hình ảnh của một vị Thiên Chúa ghen tương về đặc quyền của mình (xem Gen 3:5-10)” (số 399)

• “Mối hòa hợp họ thấy nơi chính bản thân mình, nhờ tình trạng công chính nguyên thủy, giờ đây đã bị hủy hoại, ở chỗ, việc làm chủ thân xác do các quan năng tinh thần con người thực hiện đã bị mất đi; mối hiệp nhất giữa người nam và người nữ bị căng thẳng, do đó, mối liên hệ của họ với nhau mang dấu vết nhục dục và thống trị (xem Gen 3:7-16). Mối hòa hợp với tạo vật cũng bị sụp đổ, ở chỗ tạo vật hữu hình đã trở nên xa lạ với con người và quay ra thù nghịch con người (xem Gen 3:17,19). Vì con người mà tạo vật giờ đây cũng bị ‘lụy thuộc vào sự hư nát’ (Rm 8:21). Sau hết, việc con người bất phục tùng có một hậu quả rõ ràng sẽ được nên trọn, đó là việc con người sẽ ‘trở về với bụi đất’ (Gen 3:19, 2:17), vì họ đã bởi đấy mà ra. Sự chết đã đột nhập vào thế gian (xem Rm 5:12)” (số 400)

Thựỉc tại của tội tổ tông truyền:

• “Sau tội đầu tiên ấy, thế giới thực sự đã bị tràn ngập bởi tội lỗi. Nào tội Cain giết Aben em mình và tình trạng băng hoại chung lan ra bởi tội lỗi. Cũng thế, tội lỗi thường được lộ diện nơi lịch sử dân Yến Duyên, nhất là qua hình thức bất trung với Vị Thiên Chúa của Giao Ước, cũng như qua hình thức vi phạm Lề Luật Moisen. Thậm chí sau khi Chúa Kitô đã đền bồi tội lỗi rồi, tội lỗi cũng vẫn ngóc đầu lên bằng vô số hình thức nơi thành phần Kitô hữu (xem Gen 4:3-15, 6:5,12; Rm 1:18-32; 1Cor 1-6; Rev 2-3). Thánh Kinh và Truyền Thống của Giáo Hội tiếp tục nhắc nhở về việc hiện diện cũng như về tính cách phổ quát của tội lỗi nơi lịch sử con người”. (số 401)

• “Tất cả mọi người đều bị bao hàm nơi tội lỗi của Adong, như Thánh Phaolô khẳng định (Rm 5:12,19)...” (số 402)

• “Theo Thánh Phaolô, Giáo Hội vẫn luôn luôn dạy rằng, tình trạng đầy những khốn khổ đè xuống trên con người và khuynh hướng hạ của con người chiều theo sự dữ cùng sự chết, sẽ không thể nào hiểu được nếu không liên kết chúng với tội lỗi của Adong, cũng như với sự kiện là ông đã truyền cho chúng ta một thứ tội lỗi, mà khi sinh ra chúng ta đã bị lây nhiễm, một thứ tội là ‘cái chết của linh hồn’ (Công Đồng Triđentinô: DS 1512)...”. (số 403)

• “... Toàn thể loài người nơi Adong ‘như là một thân thể của một người’ (Thánh Tôma Aquinô, De Malo 4,1). Bởi ‘mối hiệp nhất của loài người’ này mà tất cả mọi người đã bị bao hàm nơi tội lỗi của Adong, cũng như tất cả đã được bao hàm nơi đức công chính của Chúa Kitô vậy. Dầu sao việc truyền lại của nguyên tội là một mầu nhiệm chúng ta không thể nào hoàn toàn hiểu được. Thế nhưng, nhờ Mạc Khải, chúng ta chắc chắn biết được rằng Adong đã lãnh nhận ơn thánh thiện nguyên thủy và công chính không phải cho một mình ông, mà là cho tất cả loài người. Qua việc chiều theo tên cám dỗ, Adong và Evà đã phạm tội cá nhân, song tội này đã ảnh hưởng đến bản tính nhân loại được họ truyền lại trong một tình trạng đồi bại (xem Công Đồng Triđentinô: DS 1511-1512). Nó là một thứ tội được truyền lại cho tất cả loài người qua việc truyền đạt, tức truyền đạt một bản tính loài người đã bị mất đi tình trạng thánh thiện và công chính nguyên thủy. Đó là lý do tại sao nguyên tội chỉ được gọi là ‘tội’ theo nghĩa so sánh, tức là một tội chúng ta ‘vướng mắc’ chứ không phải là tội ‘vấp phạm’ – một trạng thái chứ không phải là một tác động”. (số 404)

Tác dụng của thực tại nguyên tội:

• “Mặc dù xứng hợp với mỗi một người (xem Công Đồng Triđentinô: DS 1513), nguyên tội cũng không có đặc tính của một lầm lỗi cá nhân nơi bất cứ một ai thuộc giòng dõi Adong. Nó là việc hụt hẫng tình trạng thánh thiện và công chính nguyên thủy, song bản tính loài người không hoàn toàn bị hư hoại, tức là nó chỉ bị thương nơi các khả năng hợp với mình; bị tối tăm về tâm trí, bị khổ đau và bị sự chết làm chủ; cũng như theo hướng chiều về tội lỗi – một hướng chiều về sự dữ được gọi là ‘đam mê nhục dục’. Qua việc ban phát sự sống nhờ ân sủng của Chúa Kitô, phép rửa xóa bỏ nguyên tội và qui hướng con người về lại cùng Thiên Chúa, thế nhưng, các hậu quả đối với một bản tính đã bị yếu nhược và hướng chiều về tội lỗi vẫn còn tồn tại nơi con người, kêu gọi con người đến một cuộc chiến đấu thiêng liêng”. (số 405)

• “Sau khi sa ngã, con người vẫn không bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Trái lại, Thiên Chúa đã kêu gọi con người, và một cách kín nhiệm, đã loan báo việc chiến thắng sự dữ xẩy ra và việc con người phục hồi tình trạng sa ngã của mình (xem Gen 3:9,15). Đoạn văn này trong Sách Khởi Nguyên được gọi là Protoevangelium (‘phúc âm tiên khởi’), tức là lời loan báo đầu tiên về Đấng Thiên Sai và Cứu Chuộc, về trận chiến giữa con rắn và Người Nữ, cũng như về cuộc chiến thắng sau cùng của giòng dõi Người Nữ” (số 410)



4- “TẠI SAO THIÊN CHÚA KHÔNG NGĂN CHẶN CON NGƯỜI ĐẦU TIÊN CHO KHỎI SA NGÃ PHẠM TỘI?” (số 412)

Để giải đáp cho vấn nạn “Tại sao Thiên Chúa không ngăn chặn con người đầu tiên cho khỏi sa ngã phạm tội?”, dựa vào lời các Thánh, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã chủ trương là vì Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và thiện hảo muốn ban cho con người nhiều phúc lành hơn và muốn làm cho con người nên cao trọng hơn.

• “Thánh Lêô Cả đã trả lời là ‘ân sủng khôn tả của Chúa Kitô đã ban cho chúng ta các phúc lành còn hơn cả những phúc lành đã bị ma qủi vì ghen tương lấy đi mất’ (sermo 73, 4: PL 54, 396). Thánh Tôma Aquinô viết: Không có một sự gì ngăn cản được việc bản tính của con người được nâng lên tới một cái gì đó cao cả hơn; Thiên Chúa cho phép sự dữ xẩy ra để từ đó rút ra một sự lành nào đó lớn lao hơn. Bởi thế, Thánh Phaolô đã nói ‘ở đâu tội tràn lan thì ở đó ân sủng càng dồi dào; và Bản Vui Ca Lên trong Đêm Phục Sinh đã hát lời: ‘Ôi lỗi có phúc ... đã mang lại cho chúng ta một Đấng Cứu Chuộc cao cả như vậy!’ (STh III, 1, 3 ad 3; xem Rm 5:20)”. (số 412)



TÓM LẠI

Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo thì con người “linh ư vạn vật” ở chính thân phận làm người “được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa” (SGL số 357, 362-366, 370), ở vai trò “làm chủ trái đất” của con người (SGL số 358, 373, 371, 372), cũng như ở ơn gọi tham phần vào sự sống thần linh của Thiên Chúa (SGL số 356, 374-378). Để thấu hiểu, nhất là để giải đáp, vấn nạn về sự dữ bởi đâu mà có hóc búa và nan giải đối với lý trí hạn hữu của con người này, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã phải căn cứ vào dự án thần linh của Thiên Chúa (SGL số 386-387, 396), vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô (SGL số 388-389, 394), cũng như vào ảnh hưởng của thần dữ tác dụng trên con người (SGL số 391-392, 397-398). Để dẫn giải vấn đề tội tổ tông truyền, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo trước hết đã cho thấy những hậu quả trực tiếp phổ quát của nguyên tội (SGL số 399-400), sau đó mới xác định thực tại của tội tổ tông truyền (SGL số 401-404), và sau hết đề cập đến tác dụng của thực tại nguyên tội (SGL số 405, 410). Và Để giải đáp cho vấn nạn “Tại sao Thiên Chúa không ngăn chặn con người đầu tiên cho khỏi sa ngã phạm tội?”, dựa vào lời các Thánh, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã chủ trương là vì Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và thiện hảo muốn con người được hạnh phúc và cao trọng hơn (SGL số 412).


THÂM TÍN SỐNG ĐẠO


1- “Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa” (Gen 9:6), một “Thiên Chúa vô hình” (Col 1:15), con người tự nhiên của tôi cũng phải luôn luôn tìm kiếm Sự Thật bằng lý trí của mình, khao khát Sự Thiện bằng lòng muốn của mình, và yêu mến Sự Mỹ bằng nhận thức khôn ngoan của mình.

2- “Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa” (Gen 9:6), một “Thiên Chúa là ánh sáng, trong Ngài không có tối tăm” (1Jn 1:5), con người tâm linh của tôi cũng phải sống theo lương tâm chân chính của mình, một “con mắt là đèn soi thân thể” (Mt 6:22).

3- “Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa” (Gen 9:6), một “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), con người tôn giáo của tôi cũng phải là “những kẻ tôn thờ đích thực” (Jn 4:23), “tôn thờ trong Thần Linh và chân lý” (Jn 4:23,24).

4- “Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa” (Gen 9:6), một “Thiên Chúa là tình yêu” (1Jn 4:8,16), con người xã hội của tôi cũng phải sống hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp nhất với tha nhân, ở chỗ “kính mến Chúa là Thiên Chúa của mình hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực mình, cùng yêu thương tha nhân như chính bản thân mình” (Mk 12:30-31)



TRẮC NGHIỆM


Xin đọc bài Giáo Lý lược tóm tổng ôn dưới đây, rồi dùng các chữ ở cuối trang để điền vào những chỗ gạch trống các câu Sách Giáo Lý vừa học hỏi cho đúng nguyên văn ý nghĩa của nó. Trong vòng 10 phút.

Qua bài Giáo Lý 9 về Việc Con Người được Tạo Dựng và Sa Ngã, Giáo Hội Công Giáo đã cho con cái của mình thấy những điểm chính yếu sau đây: Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo thì con người “linh ư vạn vật” ở chính thân phận làm người “được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa” (SGL số 357, 362-366, 370), ở vai trò “làm chủ trái đất” của con người (SGL số 358, 373, 371, 372), cũng như ở ơn gọi tham phần vào sự sống thần linh của Thiên Chúa (SGL số 356, 374-378). Để thấu hiểu, nhất là để giải đáp, vấn nạn về sự dữ bởi đâu mà có hóc búa và nan giải đối với lý trí hạn hữu của con người này, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã phải căn cứ vào dự án thần linh của Thiên Chúa (SGL số 386-387, 396), vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô (SGL số 388-389, 394), cũng như vào ảnh hưởng của thần dữ tác dụng trên con người (SGL số 391-392, 397-398). Để dẫn giải vấn đề tội tổ tông truyền, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo trước hết đã cho thấy những hậu quả trực tiếp phổ quát của nguyên tội (SGL số 399-400), sau đó mới xác định thực tại của tội tổ tông truyền (SGL số 401-404), và sau hết đề cập đến tác dụng của thực tại nguyên tội (SGL số 405, 410). Và Để giải đáp cho vấn nạn “Tại sao Thiên Chúa không ngăn chặn con người đầu tiên cho khỏi sa ngã phạm tội?”, dựa vào lời các Thánh, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã chủ trương là vì Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và thiện hảo muốn con người được hạnh phúc và cao trọng hơn (SGL số 412).

1- “Là hình ảnh Thiên Chúa, mỗi người chiếm được phẩm giá của một con người, thành phần không phải chỉ là một _________ mà là một __________. Con người có khả năng tự __________, tự _________ lấy mình và tự do ____________ mình để tiến đến việc hiệp thông với những người khác”. (số 357)
2- “Cái làm cho con người đặc biệt giống hình ảnh Thiên Chúa nhất, ở chỗ, __________ biểu hiệu cho nguyên lý linh thiêng nơi con người” (số 363)
3- “Thân xác của con người thông phần vào __________ được làm ‘hình ảnh Thiên Chúa’, ở chỗ, thân xác là thân xác của con người chính là bởi vì nó được ____________làm cho sinh động, và chính toàn thể ___________ được ấn định, theo như thân thể Chúa Kitô, trở nên đền thờ của Thần Linh” (số 364)
4- “Hết mọi hồn thiêng đều được Thiên Chúa trực tiếp___________ chứ không phải do cha mẹ _________ và hồn thiêng cũng __________ nữa, ở chỗ nó không chết đi khi lìa khỏi xác vào trong giờ con người lâm tử, rồi nó sẽ được tái ____________ với xác thể trong cuộc Phục Sinh sau hết” (số 366)
5- “… Cả _____ lẫn _____ cũng chỉ có cùng một phẩm giá ‘theo hình ảnh Thiên Chúa’. Họ phản ánh khôn ngoan và thiện hảo của Hóa Công, nơi ‘hữu thể nam nhân’ hay ‘hữu thể nữ nhân’ của mình” (số 370)
6- “Theo dự án của Thiên Chúa, con người nam nữ được ơn gọi ‘làm chủ’ trái đất (Gen 1:28) với tư cách là ____________ của Thiên Chúa” (số 373)
7- “Trong tất cả mọi tạo vật__________ , chỉ có con người mới ‘có thể nhận biết và yêu mến Đấng Hóa Công của mình’… và chỉ có một mình con người được kêu gọi đến __________ với sự sống riêng của Thiên Chúa, bằng việc họ ___________ và ____________. Chính vì mục đích này con người đã được dựng nên và đó cũng là lý do làm nền tảng cho ___________ của họ” (số 356)
8- “Con người đầu tiên chẳng những được dựng nên ________ mà còn được thiết định trong ___________ với Đấng Hóa Công, trong mối hòa hợp với bản thân mình cũng như hòa hợp với tạo vật chung quanh họ, ở một tình trạng chỉ có vinh quang của cuộc tân tạo trong Chúa Kitô mới hơn được” (số 374)
9- “’‘ân sủng khôn tả của Chúa Kitô đã ban cho chúng ta các phúc lành còn __________ những phúc lành đã bị ma qủi vì ghen tương lấy đi mất’. ‘Thiên Chúa cho phép sự dữ xẩy ra để từ đó ___________ một sự lành nào đó lớn lao hơn’” (số 412)

(rút ra, cái gì đó, người nào đó, hơn cả, mối thân tình, nhận thức, làm chủ, tốt lành, phẩm giá, hiến bản thân, linh hồn, yêu mến, nhận biết, phẩm giá, hồn thiêng, thông phần, hữu hình, con người, dựng nên, quản lý, người nữ, sinh ra, bất tử, người nam, hiệp nhất)