Thế Chiến Thứ Ba…?
Hướng về Ngày Kỷ Niệm 24 Năm Đăng Quang của Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II
(22/10/1978-2002)
Nếu Hoa Kỳ Qua Mặt Liên Hiệp Quốc Tấn Công Iraq?
Kể từ sau ngày 11/9/2002, ngày kỷ niệm đúng một năm biến cố khủng bố tấn công
Hoa Kỳ, thế giới lại bắt đầu xao động vì dự định của chính phủ Bush muốn tấn
công Iraq, một dự định đã được tổng thống Bush trình bày cùng Liên Hiệp Quốc hôm
Thứ Năm 12/9/2002, như đã được vị lãnh sự Hoa Kỳ ở Vatican là ông James
Nicholson cho biết vào ngày 11/9/2002, qua cuộc phỏng vấn của Đài Vatican:
• ”Tổng thống Bush sẽ nói một bài chính thức tại Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước vào
Ngày Thứ Năm. Ông sẽ vạch ra vụ này. Ông sẽ xin dân chúng hợp với chúng tôi
trong trường hợp không ai muốn ra tay, thế nhưng quí vị không thể nhắm mắt làm
ngơ khi quí vị thấy một điều gì đó hết sức nguy hiểm ở trong tay của một con
người mà chúng tôi biết chắc là sẽ sử dụng những loại vũ khí này. Hắn đã làm
điều ấy rồi – hắn đã sử dụng chúng vào trường hợp dân của hắn. Hắn đã giết 5000
người dân của hắn trong một ngày bằng chất hơi độc”.
Lý do tại sao Hoa Kỳ, về phương diện chính trị, muốn tấn công Iraq, thứ nhất, là
vì chính phủ Bush hồ nghi tổng thống Saddam Hussein có dính dáng đến vụ khủng bố
tấn công Hoa Kỳ ngày 11/9/2001, thứ hai, là vì chính phủ Bush cho rằng tổng
thống Saddam Hussein đang có những thứ vũ khí công phá tàn sát hàng loạt, rất
nguy hiểm cho tình hình Trung Đông, cho các nước thuộc khối Ả Rập lân bang với
Iraq và nguy hiểm cho cả Hoa Kỳ nữa. (Xin xem bài diễn văn của tổng thống Bush
ngày 7/10/2002 trong trang Khủng Bố Tấn Công... Tấn Công Khủng Bố).
Về vấn đề tình nghi cho rằng Saddam Hussein có dính dáng đến vụ khủng bố tấn
công Hoa Kỳ ngày 11/9/2001, Hôm Thứ Tư 25/9/2002, cố vấn an ninh quốc gia là bà
Condoleezza Rice đã tiết lộ trong cuộc phỏng vấn với PBS rằng chính phủ Hoa Kỳ
đã biết rõ là
• “Trong quá khứ đã từng có những liên hệ giữa các viên chức kỳ cực của Iraq và
các phần tử của nhóm Al Qaeda qua một thời gian rất lâu. Chúng tôi biết rằng có
một số những người bị giam giữ, nhất là một số cao cấp bị giam giữ, đã nói rằng
Iraq đã thực hiện một số cuộc huấn luyện cho Al Qaeda về việc chế tạo các loại
vũ khí hóa học. Đúng, thế là đã có những liên hệ giữa Iraq và Al Qaeda. Chúng
tôi biết rằng Saddam Hussein nói chúng đã có một lịch sử dài với vấn đề khủng bố.
Và có một số nhân viên Al Qaeda đã đến ẩn nấp ở Baghdad. Rõ ràng là có những
liên hệ giữa Al Qaeda và Iraq có thể được ghi nhận”. Tuy nhiên, bà cũng nhận
rằng: “không ai đang cố gắng tranh luận về vấn đề Saddam Hussein đã điều hành
một cách nào đó những gì xẩy ra vào Ngày 11/9… Đây là chuyện chưa rõ ràng và
đang sáng tỏ, chúng tôi đang tìm hiểu thêm…Khi nào bức ảnh rõ nét chúng tôi sẽ
tiết lộ tất cả sự thật”.
Vì đang kiếm đủ lý do chính đáng để có thể danh chính ngôn thuận tấn công Iraq
trước mặt thế giới, chính phủ Bush cố điều tra xem giữa Đảng khủng bố Al Qaeda
và Tổng Thống Saddam Hussein có dính dáng gì với nhau chăng. Cũng hôm Thứ Tư
25/9, Tổng Thống Bush đã đi đến chỗ cho rằng:
• “Cần phải đương đầu với cả hai. Quí vị không thể phân biệt giữa Al Qaeda và
Saddam khi quí vị nói về chiến tranh chống khủng bố”.
Đối với đảng Dân Chủ đang chống lại dự án này của mình, Tổng Thống Bush đã phải
viện lý chính đáng là:
• “Tôi thấy trách nhiệm chính của tôi – đó là bảo vệ nhân dân Hoa Kỳ”.
Để lập luận biện minh cho một cuộc chiến có vẻ chính nghĩa này, một số Kitô hữu
trí thức của Hoa Kỳ cũng hướng chiều về việc ủng hộ dự án của tổng thống Bush.
Trong cuộc phỏng vấn với Màn Điện Toán Zenit và được cơ quan này phổ biến ngày
22/9/2002, George Weigel, thuộc Trung Tâm Qui Chế Đạo Đức Và Công Cộng ở
Washington, cũng là tác giả cuốn Chứng Nhân Niềm Hy Vọng về cuộc đời và con
người của ĐGH Gioan Phaolô II chủ trương như sau:
• “Thật là vô nghĩa về luân lý khi nói rằng Hiệp Chủng Quốc hay cộng đồng quốc
tế chỉ có thể ra tay bằng lực lượng quân sự khi đầu đạn nguyên tử của Iraq chất
chứa một thứ vũ khí hủy hoại hàng loạt đã được lệnh phóng đi, hay đang chờ lệnh
phóng đi”.
Trong cuộc phỏng vấn cũng với Màn Điện Toán Zenit và được cơ quan này phổ biến
ngày 26/9/2002, Robert Royal, chủ tịch Viện Đức Tin Và Lý Trí, chủ trương như
sau:
• “Chúng ta có thể nói với một xác tín về luân lý ở một cấp độ cao là Saddam
Hussein không cần những loại vũ khí như vậy để tự vệ đối với những cuộc tấn công
của các nước Hồi Giáo chung quanh hay của Do Thái. Hắn rõ ràng là tiến hành việc
đe dọa nhiều mạng sống con người ở Trung Đông, rồi không lâu đến Âu Châu và
những mục tiêu xa hơn nữa, mà thậm chí chẳng cần đến việc ra tay khủng bố nữa.
Bởi vậy các quốc gia trên thế giới cần phải quyết chọn: một là chúng ta ra tay
bây giờ để ngăn ngừa việc đi đêm sau này, việc tấn công hay việc chuyển các loại
vũ khí có sức tàn phá hàng loạt cho các bạn bè của Saddam thuộc nhóm khủng bố,
hai là chúng ta chờ cho đến khi mối đe dọa đến nơi rồi mới ra tay?”.
Thủ tướng Hiệp Vương Quốc (United Kingdoms of Great Britain) là ông Tony Blair rất tâm đồng ý hiệp với tổng thống Bush trong hết mọi sự. Chính vị thủ tướng này đã cho tiết lộ một tập hồ sơ liên quan đến các thứ vũ khí nguy hiểm của tổng thống Saddam Hussein, nhưng đã bị giới chính trị cao cấp và báo chí thế giới đặt vấn đề tính chất chính xác và chân thực của tập hồ sơ này. Ở Dublin, tờ Irish Independent mang tựa đề: “Cái chết của 500 ngàn trẻ em Iraq là một tội ác chiến tranh thực sự”, đã viết:
• “’Bản hồ sơ’ của Tony Blair về Iraq là một bản văn kiện nẩy lửa. Đọc bản văn kiện này một con người đứng đắn chỉ có thể cảm thấy hổ nhục và uất hận mà thôi”.
Tại London, thủ đô của Hiệp Vương Quốc, hôm Thứ bảy 28/9 đã diễn ra một cuộc biểu tình lớn nhất lịch sử Âu Châu, với con số ước lượng từ cảnh sát là 150 ngàn người. Ông Ritter là trưởng ban thanh ra vũ khí trước đây cho CNN biết rằng:
• “Không có lý do gì – ngoài sự suy diễn – cho rằng Iraq là một mối đe dọa”.
Phát ngôn viên của ban tổ chức cuộc biểu tình này là ông Andrew Burgin cho CNN biết rằng:
• “Cuộc thăm dò ý kiến cho thấy rằng từ 65 đến 70% dân chúng hiện đang chống đối việc tấn công Iraq. Dân chúng không thấy lý do nào để tấn công Iraq cả, nó như một ngọn sóng đang dâng cao. Người lãnh đạo của một quốc gia sẽ bất khôn khi đem xứ sở của mình đi đánh nhau ngược lại với ý muốn của dân chúng của mình”.
Cũng vào hôm Thứ Tư 25/9, Bộ Trưởng
Ngoại Giao Nga là ông Igor Ivanov đã nhận định về tập hồ sơ của Thủ Tướng Tony
Blair liên quan đến bí mật quân sự ở Iraq như sau:
• “Tôi tin rằng chỉ có những chuyên viên và các nhà thông thạo mới có thể phán
quyết về vấn đề Iraq có những thứ khí giới hủy diệt hàng loạt hay không”.
Tuần vừa rồi, Bộ Trưởng Quốc Phòng Nga là Sergei Ivanov nói rằng ông tin tưởng
vào việc “dễ dàng thiết lập” những nhóm chuyên viên kiểm soát quốc tế. Ý nghĩ
này của ông nghịch với ý nghĩ của Tổng Thư Ký Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ là Donald
Rumsfeld là vị ông gặp hôm Thứ Năm cũng tuần vừa rồi, vị không tin rằng những
kiểm soát viên quốc tế có thể đi sâu vào những nơi Iraq giấu diếm vũ khí bị cấm.
Tổng Thống Bush đã điện thoại cho Tổng Thống Pháp Jacques Chirac để kêu gọi ủng hộ việc chính phủ của ông thúc đẩy Liên Hiệp Quốc giải quyết nạn Iraq bằng hành động quân sự. Thư ký văn phòng báo chí của Tòa Bạch Ốc là Ari Fleischer cho biết vị tổng thống này rất hài lòng về cú điện thoại này, song không cho biết kết quả ra sao. Tuy nhiên, bà Catherine Colonna, phát ngôn viên của Tổng Thống Chirac nói rằng nhà lãnh đạo Pháp đã nói với tổng thống Hoa Kỳ rằng ông vẫn thích con đường hai lối bước: bước thứ nhất là giải pháp trở về với việc thanh tra vũ khí, và giải pháp thứ hai sẽ được phác họa chỉ khi nào Baghdad không chấp nhận việc thanh tra này:
• “Tổng thống của chúng tôi đã tái xác nhân chủ trương của Pháp với tổng thống Bush là cần phải giải giới Iraq nhưng phải được thực hiện trong phạm vị của Liên Hiệp Quốc”.
Tổng Thống Bush đã cố gắng thuyết phục ba nước trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc có quyền veto là Pháp, Trung Hoa và Nga để đưa đến giải pháp dùng hành động quân sự tấn công Iraq nếu Iraq không chịu để cho Liên Hiệp Quốc thanh tra vũ khí của họ.
Tổng thống Saddam Hussein đã đồng ý cho những thanh tra viên của Liên Hiệp Quốc trở lại Iraq vô điều kiện sau gần 4 năm vắng bóng. Trong khi đó, trong một buổi phát hình toàn quốc ở Iraq qua đài Al-Shabab hôm Thứ Năm 26/9/2002, con trai của Tổng Thống Saddam là Uday đã tuyên bố rằng Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ tìm cách đẩy lui chính quyền của cha mình là cố ý chiếm lấy những mỏ dầu lớn của nước Iraq, một mỏ dầu với dung tích chừng 113 tỉ thùng dầu, chỉ thua Saudi Arabia, và có thể có 220 tỉ thùng dầu:
• “Đừng tưởng rằng những người Hoa Kỳ sẽ để quí vị yên đâu nhé, vì quí vị đang ngồi trên một mỏ dầu lớn nhất thế giới”.
Thế rồi, vào ngày Thứ Hai 30/9 và Thứ Ba 1/10, vị trưởng ban thanh tra thuộc ủy ban UNMOVIC (U.N. Monitoring, Verification and Inspection Commission) này là ông Blix đã gặp phái đoàn của Iraq ở Vienna Áo Quốc. Bên Iraq có Tướng Amir al-Saadi, cố vấn khoa học và kỹ thuật vụ, Hasam Mohammed Arnin, vị làm đầu Văn Phòng Thanh Tra Toàn Quốc Iraq, và ông Saeed Hasan, một viên chức Ngoại Vụ cũng là nguyên lãnh sự của Liên Hiệp Quốc ở Baghdad.
Trong khi đó, Hiệp Chủng Quốc (US) và Hiệp Vương Quốc (UK), đã soạn thảo những khoản ép buộc tổng thống Saddam Hussein một cách cương quyết và cứng rắn hơn nữa. Sau đây là những điểm chính trong bản thảo đó: Cho phép Saddam Hussein 7 ngày để chấp nhận những điều kiện theo giải pháp mới của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc; Iraq đã “thực sự phạm lỗi” về những hứa quyết trước đây với Liên Hiệp Quốc; Iraq phải để cho các thanh tra viên về vũ khí xem xét tất cả mọi nơi, kể cả dinh tổng thống, xem có các loại vũ khí bị cấm hay chăng; cộng đồng thế giới có thể sử dụng “tất cả mọi phương tiện cần thiết” nếu Iraq không tuân hành; Baghdad có 30 ngày từ khi nhận được bản quyết nghị để “công bố đầy đủ, hết mọi và hoàn toàn” tất cả mọi thứ vũ khí sinh học, hóa học và phóng tỏa; nếu Iraq “khai man trá” hay “giấu diếm” sẽ vi phạm một lần nữa.
Sau hai ngày gặp gỡ giữa vị trưởng ban
thanh tra và các giới chức Iraq, kết quả là Iraq đã đồng ý để ban thanh tra vũ
khí của Liên Hiệp Quốc trở lại khám xét vũ khí ở Iraq ở tất cả những nơi ban này
muốn tới, trừ dinh tổng thống, và ban thanh tra dự định sẽ thực hiện điều này
trong hai tuần nữa, vào khoảng giữa tháng 10/2002. Vị trưởng ban thanh tra tuyên
bố kết quả trên đây hôm Thứ Ba 1/10/2002, đồng thời cũng cho biết 8 khu vực
thuộc vị trí của tổng thống Saddam Hussein này cần phải được trình lên Hội Đồng
Bảo An Liên Hiệp Quốc.
Tướng Powell, bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ nói rằng Hoa Kỳ không muốn những thanh
tra viên vũ khí trở lại Iraq trước khi Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc thông qua
bản nghị quyết mới nêu lên những “hậu quả” xẩy ra nếu Iraq ngăn trở những nỗ lực
của họ. Theo vị bộ trưởng ngoại giao này thì Iraq sẽ tiếp tục đánh lừa các thanh
tra viên nếu không có một bản nghị quyết mới đề cập tới vấn đề đe dọa bằng võ
lực. Ông nói, Hoa Kỳ đang chờ vị trưởng ban thanh tra này trình bày với Hội Đồng
Bảo An Liên Hiệp Quốc vào Thứ Năm 4/10/2002. Một viên chức cao cấp của bộ Nội Vụ
cho biết Hoa Kỳ sẽ ngăn cản việc ban thanh tra trở lại Iraq trước khi có bản
nghị quyết mới. Còn tổng thống Bush tuyên bố sẽ tự mình tiến đến chỗ đẩ đẩy
Saddam đi nếu Liên Hiệp Quốc không chịu ra tay hành động.
Iraq cho biết sẽ không chấp nhận những giải quyết mới của Hội Đồng Bảo An Liên
Hiệp Quốc. Cuộc họp của Bộ Nội Các Iraq hôm Thứ Ba 1/10/2002 đã đặt vấn đề về
việc cần phải có giải quyết mới này. Lời tuyên bố sau cuộc họp này là:
• “Chúng ta nói một cách tỏ tường cùng những kẻ xấu… là nếu họ tưởng rằng tiếng
trống trận họ đang đánh lên… có thể đẩy Iraq đến chỗ chấp nhượng các quyền lợi
của quốc gia mình, cũng như những gì đã được bảo toàn bởi hiến chương Liên Hiệp
Quốc và bởi những quyết định của Hội Đồng Bảo An hiện hành, thì họ đã nhầm rồi.
Nếu họ nghĩ rằng việc gây áp lực xấu xa của họ ép Iraq chấp nhận những gì bất
khả chấp, kể cả điều giải quyết mới, được nêu lên bởi áp lực của Hiệp Chủng Quốc
và Hiệp Vương Quốc… thì họ lại càng nhầm to”.
Nga hoan hô thành quả của cuộc họp ở Vienna. Ông Tariq Aziz, Đại Diện Thủ Tướng,
đã cho biết:
• “Những người Hoa Kỳ đang đẩy mạnh quyết định mới có tính cách hiếu chiến là
những gì cho thấy những ý đồ thực sự của họ. Tôi luôn nói rằng vấn đề Hiệp Chủng
Quốc và Hiệp Vương Quốc nêu lên các loại vũ khí có sức tàn phá hàng loạt chỉ là
cái bình phong … để có thể biện minh cho cuộc tấn công bất chính của họ vào Iraq
mà thôi. Nếu họ thực sự quan tâm thì họ phải tỏ ra hoan hỉ khi thấy Iraq và ông
Blix đã tiến tới chỗ đồng ý tái thực hiện việc thanh tra mới phải chứ”.
Năm quốc gia có quyền veto trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc vẫn chia rẽ nhau.
Nga, Tầu và Pháp vẫn không đồng ý với Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc về giải
pháp cứng tay với Iraq của Hoa Kỳ. Trong khi Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc
nhất định muốn Liên Hiệp Quốc phải chấp thuận giải quyết mới do họ phác họa bắt
ép Iraq phải cho thanh tra tất cả mọi nơi trong nước không trừ chỗ nào, thì ba
nước còn lại vẫn cứ muốn thực hiện dự án hai giai đoạn của Pháp là cứ thanh tra
đã rồi nếu cần mới tiến đến biện pháp quân sự sau.
Hôm Thứ Năm 3/10/2002, vị Đại Diện Bộ Ngoại Giao Nga là Alezander Saltanov đã
tuyên bố
• “Chúng tôi không chấp nhận những nỗ lực làm cho Liên Hiệp Quốc ra tay tự động
sử dụng võ lực tấn công Iraq… Những gì mà người Đại Anh và Hoa Kỳ đã trình bày
cho chúng tôi thấy chỉ làm cho chúng tôi thêm cương quyết hơn trong việc theo
đúng quan điểm của mình, đó là cần phải tái tấu việc kiểm soát hay thanh tra chế
độ ở Iraq, và cần phải có một giải quyết chính trị mà không cần đến việc tự động
sử dụng võ lực”.
Trước khi ông Saltanov tuyên bố chủ trương của Nga như rên, tổng thống Pháp
Jacques Chirac và thủ tướng Đức Gerhard Schroeder cũng đã tái xác nhận hôm Thứ
Tư 2/10/2002 về việc họ chống lại sách lược sử dụng quân sự can thiệp vào vụ
Iraq. Hai vị lãnh tụ này đã họp nhau ở Paris và đã tuyên bố như vậy qua vị thủ
tưởng Đức mới tái cử như sau:
• “Chúng tôi đã xác định chủ trương của chúng tôi trước cuộc bầu cử thế nào thì
sau cuộc bầu cử cũng không có gì thay đổi cả”.
Cuộc chia rẽ này chẳng những đã thấy xẩy ra trước cuộc họp ở Vienna mà còn tiếp
tục kéo dài sau cả cuộc họp này nữa. Tổng thống Pháp xác nhận rằng Pháp, cũng
như Nga, Hiệp Vương Quốc và Hiệp Chủng Quốc, là một thành viên có quyền veto
trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, sẽ phủ quyết bất cứ một giải pháp nào được
coi như mở đường cho Hoa Kỳ hành động quân sự không được Liên Hiệp Quốc chuẩn
ưng:
• “Chúng tôi hoàn toàn chống lại bất cứ giải quyết nào cho phép từ lúc này có
tính cách tự động can thiệp bằng quân sự”.
Tổng thống Bush hôm Thứ Tư 2/10/2002 tuyên bố là cuộc chiến với Baghdad có thể
“không thể nào tránh khỏi” nếu Saddam Hussein không giải giới. Thủ Tướng Hiệp
Vương Quốc Tony Blair hôm Thứ Năm 3/10/2002 đã kêu gọi cộng đồng quốc tế hãy
đoàn kết chứ đừng tỏ ra những “dấu hiệu lộn xộn” nữa. Ông dám nói rằng nếu việc
ngoại giao không thành công thì sẽ phải dùng võ lực để giải giới Saddam Hussein:
• “Nếu vấn đề này không xẩy ra một cách ngon lành thì nó phải được xẩy ra bằng
võ lực… hắn không thể nào thoát được vấn đề giải giới đâu… Thế giới cần phải làm
cách nào để có thể trọn vẹn, không bị trói buộc, không bị mập mờ trong việc thực
hiện những dự định hủy hoại các loại vũ khí có sức tàn phá hàng loạt của Iraq.
Chúng tôi cần có một giải quyết mạnh mẽ, mới mẻ của Liên Hiệp Quốc cũng như cần
thảo luận về những gì ở vào giai đoạn quan trọng đây và chúng tôi tiếp tục làm
việc này. Cách thức chúng tôi đòi hỏi đây phải bao gồm cả những dinh thự của
tổng thống. Chẳng có lợi tí nào cả khi để cho các thanh tra viên được đến 99%
địa điểm ở Iraq trong khi các thứ vũ khí phá hoại hàng loạt thực sự lại được cất
giấu… ở 1% còn lại”.
Trong khi những thanh tra viên vũ khí đã giành ngày 19/10 là ngày trở lại Iraq
sau 4 năm vắng bóng, thì trưởng ban thanh tra là ông Blix đã nói với Hội Đồng
Bảo An Liên Hiệp Quốc rằng:
• “Thật là không khéo tí nào nếu chúng ta thực hiện những việc thanh tra, rồi
lại ra chỉ thị mới với những điều chỉ dẫn mới mẻ đổi thay”.
Tình trạng chia rẽ này cũng xẩy ra nơi 15 quốc gia thành viên có chân trong Hội
Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc nữa. Syria, Mexico và Mauritius cho rằng các vị thanh
tra viên vũ khí có thể bắt đầu việc của họ bây giờ theo những giải quyết đang có,
những giải quyết đó là Iraq phải công bố hoạt động của họ về những thứ vũ khí
hạch nhân, hóa học và sinh học trong vòng 30 ngày, và nếu Iraq không tuân theo
Hoa Kỳ được quyền sử dụng “tất cả mọi phương tiện có thể” đối với Iraq. Đức lên
tiếng chống lại việc sử dụng hành động quân sự.
Tổng thống Bush cảnh giác Liên Hiệp Quốc rằng LHQ được quyền “chọn lựa… để chứng
tỏ mình giải quyết vấn đề” và “vấn đề chọn lựa cũng tùy vào việc Saddam Hussein
giữ lời hắn nói…”
• “Nếu không có ai trong họ tỏ thái độ gì thì Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ sẽ tự ý
lãnh đạo một nhóm liên minh đi tước đoạt những thứ khí giới tai họa nhất thế
giới khỏi một tay lãnh đạo đồi bại nhất thế giới”.
Nếu quả thực Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc dám ngang nhiên qua mặt Liên
Hiệp Quốc để tự động nhào vô đánh Iraq thì những gì sẽ xẩy ra? Nếu không phải,
một là sẽ có một cuộc khủng bố tấn công khác vào Hoa Kỳ, ở tại Mỹ quốc hay đâu
đó trên thế giới, một cuộc tấn công Mỹ để cho xẩy ra hay muốn cho xẩy ra để có
cớ tấn công Iraq, như biến cố 911 năm 2001; hai là thế chiến thứ ba sẽ bùng nổ.
Bởi vì, chẳng lẽ, về phương diện lòng nhân ái và luân lý, cả thế giới lại có thể
lạnh lùng đứng yên nhìn tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”, mặc kệ cho “bay chết mặc
bay”, nhất là về phương diện lợi lộc kinh tế, những cường quốc khác lại không
vội vàng nhào vô tranh giành mỏ dầu ở Iraq hay sao? Chẳng hạn như Nga Sô.
Thật vậy, trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ đầu tháng 10 của ông Mikhail Margelov,
trưởng ủy ban quốc tế vụ thuộc Hội Đồng Liên Bang Nga, hình như đã cho các nghị
viên quốc hội Hoa Kỳ biết lý do sâu xa của Nga trong việc Nga cương quyết chống
đường lối của Hoa Kỳ về việc tự động dùng võ lực tấn công Iraq khi ông bày tỏ
như sau:
• “Chúng tôi có những lợi lộc nơi mỏ dầu hỏa của nền kinh tế Iraq. Khi nói những
lợi lộc đây tôi không có ý nói đến việc chỉ tôn trọng những hợp đồng đang hiện
hành, mà còn nói đến một cơ hội cộng tác bình đẳng và hiệu quả giữa các công ty
dầu hỏa quốc tế với các công ty dầu hỏa của Nga trong tương lai, nhất là trong
việc cho các công ty này có quyền khai thác mỏ dầu hỏa Iraq”.
Ông nói thêm, mỏ dầu hỏa của Iraq không phải chỉ được chia chác bởi một hay hai
quốc gia mà “cuộc tranh đua phải được mở ra cho hết mọi người”. Ông này còn cho
biết việc giải quyết nước Iraq đối với Nga có liên quan đến bốn vấn đề: thứ nhất
là món nợ của Iraq đối với Nga (từ 7 đến 12 tỉ), thứ hai là dầu hỏa, thứ ba là
mối đe dọa về một cuộc xung đột bùng nổ giữa người Arab và Kurdish, và thứ tư là
những nhóm Hồi Giáo cực đoan sẽ lên nắm quyền sau Saddam Hussein.
Trong cuộc tranh luận công khai của Hội
Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc về Iraq tiếp tục bước sang ngày thứ hai, Thứ Năm
17/10, ngoại trừ Do Thái và Hiệp Vương Quốc, đa số (hơn 5 tá) các quốc gia,
trong đó có cả các quốc gia lân bang nhất của Iraq cũng như các nước thuộc khối
liên minh của Hoa Kỳ, không chịu chấp nhận đòi hỏi ngay từ ban đầu của Hoa Kỳ.
Các vị lãnh sự Á Châu, Phi Châu, Trung Đông và Mỹ Châu Latinh cảnh cáo là một
cuộc chiến tranh mới sẽ làm tăng thêm đau khổ cho nhân dân Iraq, có thể sẽ làm
tăng thêm sóng gió ở Trung Đông và gây ra những hậu quả khủng khiếp cho sự ổn
định chung thế giới.
Giáo Hội Công Giáo can thiệp vào nội vụ
Giáo Hội Công Giáo đối với vấn đề dự án Hoa Kỳ muốn tự động ra tay trước tấn
công Iraq để gọi là khử trừ đi cái hậu hoạn khủng bố như thế nào? Nếu Giáo Hội
Công Giáo không lên tiếng trong dịp hết sức nghiêm trọng của lịch sử thế giới
này, thì sau này Giáo Hội Công Giáo sẽ phải chịu trách nhiệm về con số dân chúng
Iraq vô tội chết đi bởi cuộc tấn công của Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc,
hay phải chịu trách nhiệm về con số nhân loại bị thiệt mạng trong trận thế chiến
thứ III. Trường hợp của Đức Piô XII thời thế chiến thứ II là một thí dụ điển
hình, vị đã bị một số tác giả và phỏng viên ở Âu Châu cho rằng Ngài đã im lặng
không lên tiếng và tỏ thái độ bênh vực người Do Thái khỏi bị Hitler diệt chủng,
dù chứng tích lịch sử cho thấy hoàn toàn ngược lại. Vậy, trong vụ chính phủ Bush
muốn ra tay dùng võ lực tấn công Iraq trước đây, với lý do biện minh của họ như
thế, Giáo Hội Công Giáo đã lên tiếng chưa? Nếu rồi thì chủ trương và đường hướng
của Giáo Hội ra sao?
Trước hết, về việc tự động tấn công trước của Hoa Kỳ vào Iraq, ĐGM Gregory, chủ
tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳụ, trong thư gửi tổng thống Bush ngày 13/9/2002, đã
cho là bất chính theo qui tắc luân lý chung được đề cập đến trong Sách Giáo Lý
của Giáo Hội Công Giáo (số 2309), và vì thế đã cẩn thận nhận định, phân tích,
bày tỏ chủ trương và cuối cùng nghiêm trọng lên tiếng kêu gọi nhà lãnh đạo hành
pháp Hoa Kỳ này ở câu kết thúc bức thư:
• “Hoan nghênh việc tổng thống quyết định tìm kiếm việc Liên Hiệp Quốc ra tay
hành động, thế nhưng những vấn đề về đích nhắm và phương tiện cũng cần phải được
đáp ứng nữa.
“Không dễõ tìm thấy được những câu giải đáp ở đây. Những người thiện chí có thể
áp dụng những nguyên tắc về luân thường đạo lý và tiến đến chỗ có những phán
đoán khôn ngoan khác nhau, tùy theo vốn liếng họ có được về các dữ kiện trong
tay cùng với các vấn đề khác. Căn cứ vào những dữ kiện chúng tôi biết được,
chúng tôi đi đến chỗ kết luận là việc đơn phương sử dụng võ lực để ra tay trước
thì khó lòng mà biện minh được vào lúc này đây. Chúng tôi sợ rằng, với những
hoàn cảnh này, thì việc sử dụng võ lực không đạt được những điều kiện khắt khe
theo giáo huấn Công Giáo để vượt qua cái chủ trương mạnh mẽ chống lại việc sử
dụng lực lượng quân sự. Vấn đề về tiêu chuẩn chiến tranh chính đáng theo truyền
thống liên quan đến lý do chân chính, thẩm quyền hợp pháp, cơ hội thành công,
tính cách tương xứng và sự an toàn của thành phần bất tham chiến là những gì cần
phải đặc biệt quan tâm…
“Vậy đã có chứng cớ hiển nhiên và đầy đủ về cái dính dáng trực tiếp giữa Iraq và
cuộc khủng bố tấn công Ngày 11 Tháng 9 chưa, hay đã có chứng cớ rõ ràng và đầy
đủ về một cuộc tấn công trầm trọng xẩy ra bất cứ lúc nào chưa? Có khôn ngoan hay
chăng khi nới rộng một cách đáng e ngại những phạm vi về luân lý và pháp lý theo
truyền thống đối với lý do chính đáng cho phép sử dụng cả lực lượng quân sự để
ngăn ngừa hay để ra tay trước trong việc lật đổ những chế độ nguy hiểm hay trong
việc đối đầu với mức leo thang của những loại vũ khí có sức hủy diệt hàng loạt?
Có cần phải phân biệt hay chăng giữa những nỗ lực làm thay đổi tác hành bất khả
chấp nhận của một chính quyền, với những nỗ lực để kết liễu việc hiện hữu của
chính quyền đó?...
“Vậy lực lượng ngăn ngừa hay ra tay trước liệu có thành công trong việc ngăn
chặn những đe dọa trầm trọng, hay, thay vào đó, lại gây ra những cuộc tấn công
đích danh, những cuộc tấn công đầu tiên chỉ có ý ngăn ngừa? Một cuộc chiến tranh
khác ấy ở Iraq sẽ gây tác dụng nơi thành phần dân sự ra sao, cả trong thời gian
ngắn hạn lẫn dài hạn? Bao nhiêu là con người vô tội nữa sẽ phải chịu khổ và chết
đi, hay trở thành vô gia cư, thiếu những gì là căn bản nhất, mất công ăn việc
làm? Hiệp Chủng Quốc và cộng đồng quốc tế có quyết tâm thực hiện một công tác
vất vả lâu dài trong việc bảo đảm cho một nền hòa bình chân chính chăng, hay một
nước Iraq hậu Saddam tiếp tục bị lũng đoạn bởi tình trạng xung khắc dân sự và
đàn áp, cũng như tiếp tục trở thành một lực lượng gây khủng hoảng trong vùng này?
Việc sử dụng lực lượng quân sự có dẫn đến một cuộc xung khắc và bất ổn hơn hay
chăng? Chiến tranh chống Iraq có làm cho chúng ta phân tâm đối với trách nhiệm
của chúng ta trong việc giúp xây dựng một trật tự chân chính và bền vững ở A Phú
Hãn, cũng như có làm suy yếu cuộc liên minh rộng lớn ở việc chống lại vấn đề
khủng bố hay chăng?
“Chúng tôi kính cẩn tha thiết xin tổng thống hãy lùi bước trước bờ vực chiến
tranh và hãy giúp vào việc dẫn thế giới cùng nhau tác hành trong việc thực hiện
một đáp ứng toàn cầu có tác hiệu đối với những đe dọa ở Iraq, một đáp ứng hợp
với phạm vị luân lý truyền thống trong việc sử dụng lực lượng quân sự”.
Sau nữa, ĐHY Joseph Ratzinger, Thánh Bộ Trưởng Tín Lý Đức Tin nhìn nhận rằng
những vấn đề chính trị không thuộc phạm vi thẩm quyền của mình, nhưng cũng đã
nêu lên những nhận định phản chiến liên quan đến Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo như
sau:
• “Liên Hiệp Quốc là tổ chức phải đi đến chỗ quyết định. Cộng đồng các quốc gia,
chứ không phải một quyền lực riêng biệt nào, cần phải đi đến chỗ quyết định… Sự
kiện Liên Hiệp Quốc đang tìm cách tránh né chiến tranh đối với tôi dường như cho
thấy đủ chứng cớ là việc thiệt hại sẽ lớn hơn những giá trị người ta hy vọng sẽ
ra tay cứu lấy… Liên Hiệp Quốc có thể bị phê phán, nhưng tổ chức này là một khí
cụ được thiết lập sau chiến tranh để điều hợp chính trị, kể cả luân lý… Quan
niệm về một ‘thứ chiến tranh ngăn ngừa’ không có trong Giáo Lý Giáo Hội Công
Giáo… Người ta không thể nói một cách đơn giản rằng giáo lý không cho chiến
tranh là hợp lý. Thế nhưng giáo lý thật sự đã đưa ra một tín lý, một đàng, không
loại trừ sự kiện về những giá trị cũng như về những con người cần phải được bênh
vực ở một số trường hợp; đàng khác, giáo lý cũng nêu lên một tín lý rất chính
xác về những giới hạn của những cơ hội này… Bản Thập Điều không phải là sản vật
tư riêng của những người Kitô Giáo hay Do Thái. Nó là một biểu hiệu cao quí của
lý lẽ về luân lý mà nhờ đó nó cũng được thấy cả ở nơi sự khôn ngoan của các nền
văn hóa khác. Thật là thiết yếu trong việc phục hồi lý lẽ bằng việc tái qui
chiếu về Bản Thập Điều này”.
Chưa hết, hôm Chúa Nhật 22/9/2002, ở Florence Ý Quốc, ĐTGM Diamuid Martin, quan
sát viên thường trực của Tòa Thánh Vatican ở các văn phòng Liên Hiệp Quốc đã ngỏ
lời với một hội nghị gồm 60 hiệp hội, nhóm đoàn và phong trào của Giáo Hội là
“Chúng ta thiên về việc đối thoại song cũng tôn trọng luật quốc tế nữa”. ĐTGM
tiếp tục nhận định trước hội nghị bàn về chủ đề “Hòa Bình: Điều Kiện Thiết Yếu
cho Việc Phát Triển Toàn cầu” là “có khoản luật về việc sử dụng võ lực, nhưng
quyết định áp dụng khoản luật này chỉ thuộc về Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc mà
thôi… Lúc này đây cảm quan trách nhiệm cần hơn bao giờ hết. Việc sử dụng đến võ
lực lúc nào cũng vậy và bằng cách nào cũng là một thảm bại”. Viên chức Tòa Thánh
này cũng vạch ra rằng Liên Hiệp Quốc “không được trở thành dụng cụ cho những lợi
ích của một phía. Cản trở tổ chức này hoàn thành sứ vụ của mình sẽ gây nguy hiểm
cả thể cho tất cả đôi bên. Trong những lúc khó khăn này, những ai bác bỏ việc sử
dụng võ lực cũng có trách nhiệm cho biết phải làm sao để có thể tránh sử dụng võ
lực”. Trong việc chống chọi với khủng bố, ĐTGM kết luận, cần phải “tôn trọng
tình trạng về luật lệ và việc chung sống của các dân tộc”.
ĐHY TGM Washington đã nói với đài truyền thanh WTOP là:
• “Hiện nay chúng tôi nghĩ rằng chỉ được phép thực hiện chiến tranh tự vệ ở một số trường hợp mà thôi. Vào trường hợp của Iraq, tôi nghĩ rằng nếu tổng thống thực sự có tín liệu cho thấy chúng ta đang thực sự bị Iraq gây nguy hiểm đến nơi, thì bấy giờ mới là trường hợp quí vị cần phải quan tâm. Tôi không nghĩ rằng các vị giám mục cảm thấy trường hợp này đã xẩy ra. Đó là lý do tại sao chúng tôi xin hãy từ từ đã, hãy cố thấy được tường tận tình hình ra sao trước khi chúng ta ra tay làm một điều gì mà chúng ta phải nói rằng nó không hợp với luân lý”.
ĐHY còn nói, ngay cả khi xẩy ra chiến tranh tự vệ, quốc gia cũng phải theo những qui luật về sự tương hợp của phương tiện cũng như về việc tránh gây thương tổn cho dân sự. ĐHY còn thêm là việc ra tay tấn công trước rất là khó biện minh, nếu không biết rõ về những thứ khí giới sinh học.
• “Tôi nghĩ rằng những gì các vị giám mục hy vọng đó là khi tổng thống và Quốc Hội nói đến vấn đề này, thì chúng ta có cơ hội để cân nhắc theo những giá trị về luân lý, những giá trị họ cũng sẽ chú ý đến nữa”.
Bản tin Zenit ngày 4/10/2002 cho hay ĐHY Roberto Tucci, chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Đài Phát Thanh Vatican, vị đã đi khắp thế giới trong 23 năm qua với tư cách là người tổ chức các cuộc tông du cho ĐTC, đã kêu gọi các nhà lãnh thế giới chỉ chú trọng đến giải quyết quân sự mà không cần đến sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc hãy suy nghĩ đến những ngầm ý nơi hành động như vậy. Sau đây là ba câu hỏi của ngài:
• “Những thẩm quyền phải đi đến chỗ quyết định 3 điều đã thẩm lượng những hậu quả sẽ gây ra cho thành phần dân sự Iraq hay chưa?
“Họ đã suy nghĩ đến sự kiện là nếu làm như vậy họ đang làm triệt tiêu thẩm quyền quốc tế của Liên Hiệp Quốc, một thẩm quyền duy nhất có thể ở một nghĩa nào đó có thể giúp vào việc đạt được hòa bình phi chiến chăng?
“Hãy suy nghĩ cẩn thận về sự kiện là một số chủ trương của Hoa Kỳ hiện đang thắng thế sẽ đưa đến hậu quả là làm cho thế giới Ả Rập tái hợp lại với nhau, bao gồm cả Hồi Giáo, khiến mãi mãi sẽ kéo dài tình trạng lan tràn việc khủng bố tấn công cũng như việc đối chọi với khủng bố.
“Chúng ta phải cầu nguyện. Hãy cầu nguyện để con người biết suy nghĩ. Lý trí có vẻ xa lạ nhưng đức tin thường tăng thêm sức mạnh cho lý trí”.
Hàng lãnh đạo Kitô Giáo Canada trong Hội Đồng Các Giáo Hội Canada đã gửi Thủ Tướng Jean Chrétien một bức thư đề ngày 25/9/2002, trong đó có những vị ký tên là ĐGM Jacques Berthelet, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Canada, ĐGM Seraphim ở Ottawa và Canada thuộc Giáo Hội Chính Thống Mỹ Châu, và Tổng Phó Tế Jim Boyles, tổng thư ký của Giáo Hội Anh Giáo Canada. Mở đầu bức thư này là câu “Chớ đánh Iraq” với những lời lẽ kêu gọi chính quyền Canada như sau:
• “Thưa Thủ Tướng, Ngài đã có lý khi
nhấn mạnh rằng chứng cớ về việc Iraq có những khí giới sinh học, hóa học hay
hạch nhân và chứng cớ về việc họ có ý định sử dụng những loại khí giới này cần
phải được sáng tỏ đã trước khi Liên Hiệp Quốc khôn ngoan nhúng tay vào can thiệp.
Trong trường hợp có những quan tâm kỹ lưỡng nhưng cũng không chắc chắn về những
sự kiện xẩy ra thì việc quốc tế thanh tra tình hình vũ khí ở Iraq là việc can
thiệp thích hợp cần phải thực hiện. Việc giải quyết của Liên Hiệp Quốc trong
việc liệt kê những phương tiện, thời gian hạn định và hậu quả xẩy ra nếu không
chịu chấp nhận giải quyết này, cũng là việc hữu ích, miễn là nó không nêu lên
những gì quá cao khiến cho Iraq thực sự không thể đáp ứng nổi những đòi hỏi của
nó. Nếu thực sự lại xẩy ra như vậy thì việc giải quyết của Liên Hiệp Quốc chỉ là
một cái gì che đậy chẳng những cho một cuộc xâm chiếm của nhiều nước mà còn cho
một cuộc xâm chiếm bất chính nữa.
“Chính quyền Iraq đã chính thức mời ban thanh tra vũ khí của Liên Hiệp Quốc trở
lại. Có những người cho biết rằng việc mời mọc này là một thứ cò mòi vô nghĩa,
và “chúng ta không cần nói đến chuyện điều đình với Saddam Hussein mà làm gì”.
Chúng tôi không hiểu nổi làm sao một cuộc đại tai biến như thế có thể tránh được
nếu con người không thực sự điều đình với nhau. Hơn nữa, những cuộc điều đình
không thể nào mở trí mở lòng và mở ra những cơ hội được, nếu trước đó hoàn vũ
này đã chia ra làm hai phe, phe lành và phe dữ, mà phe của “chúng ta” bao giờ
cũng là phe lành. Một đường lối như vậy, ngoài việc đi ngược lại với cảm quan
Kitô giáo về tội lỗi và ân sủng, còn bộc lộ cho thấy một cái gì kiêu kỳ chỉ đào
sâu thêm hố giận dữ và hận thù. Chúng tôi tha thiết xin Chính Quyền Canada hãy
nói chuyện với những phe liên hệ, và chú trọng tới việc đối xử với tất cả mọi
người như đồng loại theo phẩm vị con người và các quyền lợi con người.
“Một Cuộc Chiến Tranh Vùng Vịnh khác
xẩy ra bây giờ là một điều sai lầm, trước hết, là vì dân chúng Iraq, những con
người đã phải chịu quá nhiều cay cực rồi, lại phải chịu đựng cuộc chiến tranh
này. Những người bạn Kitô hữu của chúng tôi ở vùng đó đã tha thiết xin chúng tôi
hãy chỉ cho xã hội của chúng tôi thấy được tình trạng tan nát ra sao, gây ra bởi
những biện pháp trừng phạt của quốc tế, cho vấn đề sức khỏe, giáo dục, đời sống
và niềm hy vọng của hầu hết những con người nam nữ, (nhất là) trẻ em. Mới đây,
cũng những người anh em Kitô hữu này cũng đã van xin chúng tôi hãy lên tiếng và
tỏ thái độ chống lại một cuộc chiến tranh khác đây.
“Khi một chi thể bị đau đớn thì toàn thân cũng cảm thấy đớn đau”. Câu tâm niệm
này là ngôn ngữ của Thánh Kinh, thế nhưng, ở một khía cạnh khác, nó cũng là một
cảm nghiệm nhân bản nữa. Chúng ta ở Tây Phương sẽ bị phán xử, bởi những thế hệ
mai hậu cũng như bởi Đấng Hóa Công của tất cả mọi người, về những thiệt hại
chúng ta đang muốn nhân danh an ninh để gây ra. Cuộc trừng phạt 11 năm qua là
trường hợp điển hình. Những trừng phạt này thực sự không làm suy giảm bàn tay
đàn áp của chế độ Saddam Hussein. Với tác dụng trên đời sống dân sự, những việc
trừng phạt này đã làm tổn thương không đúng người, tức đã làm tổn thương đến
những người Iraq thường dân và vô tội. Cộng đồng thế giới đã trì trệ quá lâu
trong việc hoạt động để chống lại việc thiệt hại nhân danh mình gây ra này.
“Phải, sự đau khổ của những người Iraq còn nằm ở dưới cả chân của Tổng Thống
Saddam Hussein và chính quyền của ông nữa. Trước khi xẩy ra những trừng phạt
quốc tế thì chính sách hiếu chiến và tàn bạo của chế độ này đã làm đổ máu của
dân chúng Iraq lâu rồi. Chắc chắn một điều là nhiều người Iraq đang mong mỏi và
nguyện cầu cho một “cuộc đổi thay chế độ”. Thế nhưng điều đáng chú ý hơn nữa là
sức mạnh của những tiếng nói phát ra từ xứ sở đó và ở miền đó lại thôi thúc
chúng ta đừng mang lại một chế độ mới bằng một cuộc xâm chiếm tàn bạo từ bên
ngoài…
“… Xã hội Iraq cần phải có một niềm hy vọng về kinh tế, bằng không, những người
Iraq sẽ không bao giờ có thể lấy lại nghị lực cần thiết để xây dựng lại xứ sở
của mình cả, kể cả việc thay đổi chính quyền của họ nữa. Thế giới không được tái
diễn lại những lỗi lầm của việc giải quyết đã áp đặt trên Đức Quốc sau Thế Chiến
Thứ I”.
“Một tia sáng vọt lên từ Balan”
Trong dịp kỷ niệm một năm sau biến cố Khủng Bố Tấn Công Hoa Kỳ ngày 11/9/2002,
một cuộc kỷ niệm có thể nói còn long trọng hơn bất cứ một ngày Holiday lễ nghỉ
hằng năm nào ở Hoa Kỳ, qua truyền thông, chúng ta đã biết được thêm nhiều chi
tiết mới mẻ bí mật trong cuộc khủng bố này, như sự kiện Tòa Bạch Ốc biết trước
khủng bố sẽ xẩy ra nhưng vẫn cứ để xẩy ra, hay như việc tổng thống Bush ra lệnh
bắn chiếc máy bay bị không tặc ở vùng Tây Nam Pennsylvania v.v. Không biết đây
có phải là một khổ nhục kế Hoa Kỳ muốn dùng để có thể danh chính ngôn thuận
trước thế giới nhào vô một thị trường khổng lồ với 1 tỉ 200 triệu người thuộc
Khối Ả Rập Hồi Giáo vốn là thế giới khép kín trước văn minh Tây Phương và vẫn
hết sức căm thù Mỹ hay chăng? Tuy nhiên, từ việc tấn công A Phú Hãn để bắt trọn
ổ bọn khủng bố quốc tế trên 20 người, nhất là tên đầu đảng Osama bin Laden của
họ, không thành công, (hay không muốn thành công để tiếp tục có cớ nhúng tay
quân sự và kinh tế vào vùng này, như trường hợp của một Saddam Hussein 11 năm
trước đây), nay lại đến việc dự định tấn công Iraq với đủ mọi lý do viện dẫn
biện minh cho việc làm của mình. Việc Hoa Kỳ dự định tấn công Iraq có chính đáng
hay không, phản ứng chung thế giới, nhất là của riêng ba quốc gia Nga, Pháp và
Tầu có quyền veto trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, cũng như của riêng Giáo
Hội Công Giáo đã quá rõ ràng.
Thực vậy, theo lập luận tự nhiên, nếu một Goliath khổng lồ Mỹ quốc, với đủ mọi
thứ vũ khí tối tân nhất thế giới, thấy được trong tay một David nhỏ bé Iraq quả
thực đang có một thứ vũ khí nguy hiểm là cục đá với sợi giây quăng, đồng thời
cũng biết được rằng David có ý định dùng loại khí giới này để tự vệ một khi
Goliath nhào vô, thậm chí để tấn công Goliath, vì David thấy rằng Goliath đã
dùng chính sách tân thực dân nhúng tay vào nội bộ cai trị của các quốc gia cần
đến việc viện trợ của Goliath, nhất là tại thế giới Ả Rập, Goliath liền cậy sức
mạnh quân sự tự động nhào vô giật lấy thứ khí giới có thể chết người trong tay
của David, thì thử hỏi, theo công pháp quốc tế cũng như theo lý luận tự nhiên,
việc tự động ra tay tấn công trước này của một Goliath Hoa Kỳ có hợp tình hợp lý
hay chăng?
Nếu quả thực nguyên do sâu xa của những nổi loạn, của những cuộc khủng bố từ
trước đến nay nhắm vào Hoa Kỳ trên khắp thế giới, phát xuất từ một một nhóm tổ
chức Hồi Giáo Ả Rập, trong đó có Saddam Hussein chăng nữa, là vì chính sách tân
thực dân của đế quốc Mỹ đối với họ, thì để tấn công khủng bố hay để giải giới
khủng bố, tức để ngăn ngừa bị David nhỏ bé tấn công, chỉ cần Goliath Hoa Kỳ hãy
cải lại chính sách ngoại giao của mình là xong. Nếu Goliath Hoa Kỳ đã cải thiện
chính sách ngoại giao của mình rồi, tức đã hoàn toàn viện trợ cho các nước chậm
tiến hoặc đang tiến thực sự theo “nhân đạo” chứ không phải vì ngấm ngầm trục lợi
và khai thác kinh tế của họ, mà còn bị tên David nhỏ con tấn công, thì chắc chắn
bấy giờ thế giới sẽ chẳng những không lên tiếng bênh vực kẻ yếu thế lộng hành
David nữa, mà Liên Hiệp Quốc còn tự động ra tay can thiệp, không cần Goliath Hoa
Kỳ phải trình tâu và vất vả đi đêm vận động đồng minh như đã từng diễn tiến.
Không biết ngẫu nhiên hay trùng hợp nào
hay chăng giữa biến động tấn công Iraq này với cuộc tông du 98 của Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II về Balan quê hương của Ngài. Bởi vì, lần về thăm lại quê hương
của vị Giáo Hoàng xuất hiện từ một nước Cộng Sản đóng vai trò quan trọng trong
biến cố Đông Âu sụp đổ cuối năm 1989 nói chung và Nước Nga trở lại ngày
25/12/1991 nói riêng này, Ngài đã nhận định về tình hình của một thế giới hiện
đại bi quan trước một đám đông nhất lịch sử Balan hiện đại, khoảng 2 triệu 2
trăm ngàn người, tham dự Thánh Lễ Phong Chân Phước cho một số vị tông đồ tình
thương của Balan hôm Chúa Nhật 18/8 tại Blonie Park ở Krakow, và đã hiến dâng
thế giới cho Tình Thương Nhân hậu Chúa Giêsu ngày Thứ Bảy 17/8/2002 trong Thánh
Lễ Cung Hiến Đền Thờ Chúa Tình Thương như sau:
• “Chúng ta đã tiến vào ngàn năm mới với di sản vừa thiện vừa ác này. Những chân
trời mới trong việc phát triển đang mở ra trước nhân loại, kèm theo đó có cả
những cái nguy hiểm chưa từng có. Con người thường sống như thể Thiên Chúa không
hiện hữu, thậm chí đặt mình vào vị thế của Thiên Chúa nữa. Họ tự cho mình quyền
hành của một Vị Tạo Hóa trong việc can thiệp vào mầu nhiệm sự sống con người. Họ
muốn định đoạt sự sống con người bằng cách léo lái việc truyền giống cũng như
muốn thiết định giới hạn sự chết. Khi loại trừ lề luật thần linh và những nguyên
tắc luân lý, họ công khai tấn công cơ cấu gia đình. Bằng những cách thức khác
nhau, họ cố gắng làm cho Thiên Chúa phải im hơi lặng tiếng nơi tâm can của con
người; họ muốn làm cho Thiên Chúa ‘hoàn toàn khuất bóng’ nơi văn hóa và lương
tâm các dân tộc. ‘Mầu nhiệm lầm lỗi’ tiếp tục đánh dấu cái thực tại của thế giới
này. Cảm nghiệm được mầu nhiệm ấy, con người mới sống trong nơm nớp lo sợ về
tương lai, lo sợ về tình trạng trống rỗng, lo sợ phải khổ đau, lo sợ bị hủy diệt…”.
• “Hôm nay đây, tại Đền Thánh này, Tôi xin long trọng ký thác thế giới cho Lòng
Thương Xót Chúa. Tôi làm như vậy với một lòng thiết tha mong ước thấy sứ điệp
của tình yêu nhân hậu Thiên Chúa, được loan báo nơi đây qua Thánh Faustina, cũng
được tất cả mọi dân tộc trên thế giới biết đến và làm cho lòng họ tràn đầy niềm
hy vọng. Chớ gì sứ điệp này, từ nơi đây, chiếu tỏa ra cho quê hương thân yêu của
chúng ta cũng cho khắp thế giới. Chớ gì lời hứa quyết của Chúa Giêsu được nên
trọn, ở chỗ, từ nơi đây phải chiếu giãi ra ‘tia sáng sửa soạn thế giới cho lần
đến cuối cùng của Cha’ (x Nhật Ký, 1732). “Tia sáng này cần phải thắp lên bởi ân
sủng của Thiên Chúa. Ngọn lửa tình thương này cần phải được chuyền đi cho thế
giới. Trong tình thương của Thiên Chúa thế giới mới tìm thấy hòa bình và nhân
loại mới tìm thấy hạnh phúc!”
Chúng ta nên lưu ý ở đây là Đức Thánh Cha đã trích lại lời Chúa Giêsu nói với
chị thánh Faustina, trong đó có lời Chúa phán liên quan đến “lần đến cuối cùng
của Cha”. Chúng ta quả thực không ai biết được Chúa Kitô sẽ đến lúc nào, như
chính Người đã khẳng định trong Phúc Âm, nhưng, qua câu nói này, Chúa cho chúng
ta một dấu hiệu lịch sử trước, đó là một “tia sáng vọt lên từ Balan”. Theo Đức
Thánh Cha thì tia sáng này là tình thương của Thiên Chúa. Quả vậy, Chúa Giêsu
còn nói với chị Thánh Faustina rằng:
• “Trước khi Cha đến như một Vị Quan Án công minh, thì Cha đến như một Đức Vua
của Tình Thương. Trước ngày công thẳng, dân chúng sẽ được thấy một dấu hiệu trên
các tầng trời như thế này: Tất cả ánh sáng trên các tầng trời sẽ bị tắt hết, và
bóng tối khủng khiếp sẽ bao trùm cả trái đất. Đoạn trên bầu trời sẽ xuất hiện
hình bóng cây thánh giá, và từ những kẽ hở của bàn tay chân bị đóng đanh của
Chúa Cứu Thế sẽ phát ra những ánh sáng cả thể chiếu soi mặt đất trong một khoảng
thời gian. Điều này sẽ xẩy ra không lâu trước ngày cùng tận”.
Ngoài ra, “một tia sáng vọt lên từ Ba-Lan” đây còn là gì, nếu không phải là
chính vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II? Bởi vì, nếu tia sáng vọt lên từ Balan có
mục đích là “để sửa dọn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha”, thì quả nhiên
có sự trùng hợp với lời khai triều giáo hoàng của ngài trong Thánh Lễ Đăng Quang
ngày 22-10-1979: “Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô”, “Đấng Cứu Tinh Nhân Loại”.
Đúng thế, bức thông điệp đầu tiên khai triều của ngài cũng là hoạt trình cho cả
giáo triều của ngài mang tựa đề “Redemptor Hominis”, ban hành Chúa Nhật thứ nhất
Mùa Chay, ngày 4 tháng 3 năm 1979. Ngay trong câu mở đầu, ngài đã tuyên xưng:
“Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc của nhân loại, là trung tâm của vũ trụ và của
lịch sử”, có nghĩa là tất cả phải hướng đến và qui về Chúa Giêsu Kitô. Cũng ngay
trong đoạn mở đầu này, ngài còn đề cập đến việc “chúng ta, một cách nào đó, đang
ở vào một Mùa Vọng mới, một mùa đợi trông”. “Đợi trông” ai, nếu không phải “Chúa
Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc của nhân loại”. Thế nhưng, “Đấng Cứu Chuộc của con
người” đã đến rồi và đã cứu chuộc con người rồi còn đợi trông gì nữa, nếu không
phải đợi trông Người đến lần thứ hai. Vậy bao giờ “Đấng Cứu Chuộc của con người”
đến lần thứ hai, không ai biết, kể cả chính vị giáo hoàng có liên hệ đến các lời
tiên báo trên đây. Tuy nhiên, tại Lebanon, trong bài giảng cho Thánh Lễ Chúa
Nhật ngày 11 tháng 5 năm 1997, vị giáo hoàng này đã tuyên bố: “Tất cả chúng ta
đang sống trong Mùa Vọng của những ngày cuối cùng trong lịch sử, và tất cả chúng
ta đang nỗ lực sửa dọn cho Chúa Kitô đến, để xây dựng vương quốc Thiên Chúa mà
Người đã loan báo” - “We are all living in the Advent of the last days of
history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the
kingdom of God which he proclaimed” (trích tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản
Anh ngữ, phát hành ngày 14-5-1997, trang 2).
Chúng ta dù chỉ suy đoán Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là “tia sáng vọt lên từ
Balan để dọn đường cho lần đến cuối cùng của (Chúa Kitô)”, nhưng việc suy đoán
này cũng phần nào hợp với cả những gì Thánh Long Mộng-Phố (Louis Montfort) đã
viết trong cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria của Thánh nhân từ đầu thế kỷ 18,
một vị thánh đã ảnh hưởng đến lòng sống đạo của vị đương kim Giáo Hoàng cũng như
đến khẩu hiệu “totus tuus” của vị Giáo Hoàng này. Thật vậy, tác phẩm Thành Thực
Sùng Kính Mẹ Maria hình như có một cái gì đó linh thiêng, vì một số lời của vị
Thánh này đã trở thành hiện thực như những lời tiên tri. Chẳng hạn như ba câu
sau đây.
Câu thứ nhất, ở số 114, Thánh nhân tiên đoán về số phận của chính tác phẩm, số
phận bị dập vuì trong bóng tối, cũng như số phận của những ai thực hành những gì
Thánh nhân phác họa ra trong tác phẩm ấy, số phận bị bách hại. Quả thực, tác
phẩm này đã bị thất lạc 126 năm, từ năm Thánh nhân qua đời 1716 cho mãi đến năm
1842. Và người thực hành tinh thần và đường hướng của tác phẩm này còn ai hơn
ĐTC Gioan Phaolô II, vị đã bị ám sát chết hụt ngày 13/5/1981 tại Quảng Trường
Thánh Phêrô Vatican.
Câu thứ hai, ở số 49, Thánh nhân tiên đoán “vào lần đến thứ hai của Chúa Giêsu
Kitô, Mẹ Maria được Chúa Thánh Thần làm cho nhận biết và rỏ ra”. Lời tiên đoán
này đã chẳng thực hiện ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima năm 1917 hay sao, khi Mẹ Maria
tiết lộ Bí Mật Fatima phần thứ hai với 3 Thiếu Nhi Fatima là: “Thiên Chúa muốn
thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”, và vào
lần hiện ra thứ hai 13/6 trước đó, Mẹ đã nói riêng với Thiếu Nhi Lucia lớn nhất
rằng: “Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”.
Câu thứ ba, ở số 59, Thánh nhân tiên đoán về tình hình thế giới liên quan đến
việc thiết lập vương quốc của Thiên Chúa qua trung gian Mẹ Maria như sau:
• “Họ (những vị tông đồ đích thực của những thời sau này, thành phần môn đệ đích
thực của Chúa Giêsu Kitô) là những con người cao cả sẽ phải đến; còn Mẹ Maria,
theo lệnh của Đấng Tối Cao, chính là vị sẽ trang bị cho họ, để vương quốc của
Ngài bao trùm trên vương quốc của người vô đạo, vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu
tượng và vương quốc của Tín Đồ Hồi Giáo (extending His empire over that of the
impious, the idolaters and the Mahometans – Bản dịch của linh mục Nguyễn Tri Ân,
OP, không nói đến những chi tiết được trích lại bằng Anh ngữ trong ngoặc đơn này).
Thế nhưng, điều này sẽ xảy ra khi nào và ra sao, chỉ có một mình Thiên Chúa biết”.
Riêng về câu thứ ba này của Thánh Long Mộng Phố, lịch sử cũng cho chúng ta thấy
đã và đang trở thành một lời tiên tri? Ở chỗ nào? Trước hết, chúng ta phải lấy
làm bỡ ngỡ vì tại sao Thánh Long Mộng-Phố lại có thể viết ra một câu như thế này.
Sau nữa, chúng ta hãy để ý đến thứ tự của ba vương quốc trần gian được Thánh
nhân nói tới, thứ nhất là vương quốc của người vô đạo, rồi tới vương quốc của
vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng, và cuối cùng mới tới vương quốc của Tín Đồ
Hồi Giáo. Sau hết, Thánh nhân khẳng định là ba vương quốc này, theo thứ tự ấy,
sẽ bị vương quốc của Đấng Tối Cao bao trùm.
Trước hết, vương quốc của Đấng Tối Cao đã bao trùm vương quốc của người vô đạo
ra sao, nếu không phải Giáo Hội Chúa Kitô, là mầm mống và là hiện thân của vương
quốc của Thiên Chúa trên trần gian, đã bao trùm vương quốc của cộng sản vô thần
vô đạo, qua những gì Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nỗ lực thực hiện và thực
sự được giới chính trị cao cấp, kể cả Gobachev, công nhận là đã góp phần vào
Biến Cố Đông Âu sụp đổ cuối năm 1989, và biến cố Nước Nga trở lại ngày
25/12/1991.
Sau nữa, vương quốc của Đấng Tối Cao đã bao trùm vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu
tượng ra sao, nếu không phải Giáo Hội Công Giáo, qua các chuyến tông du của Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II, cũng như qua các lời huấn từ của Ngài, cùng với những
hoạt động của Tòa Thánh với tư cách là quan sát viên thường trực ở Tổ Chức Liên
Hiệp Quốc, đang làm cho cả thế giới phải kính nể, nhất là làm cho những phần thế
giới tư bản chỉ biết tôn thờ ngẫu tượng là chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ phải
thua bại, điển hình nhất ở Cuộc Họp về Dân Số ở Cairô Ai Cập năm 1994. Vị lãnh
đạo Giáo Hội Công Giáo hiện nay cũng đang nỗ lực vận động để Khối Hiệp Nhất Âu
Châu đừng bỏ mất căn tính Kitô Giáo của mình trong Bản Hiến Pháp chung của họ.
Giáo Hội Công Giáo địa phương cũng mạnh mẽ lên tiếng bao trùm kẻ tôn thờ ngẫu
tượng, kể cả chính quyền, nếu chính quyền làm điều gì phi nhân bản hay phản nhân
quyền, như trường hợp Hoa Kỳ dự định tự động ra tay tấn công Iraq trước v.v. Có
thể, trong cuộc chiến tấn công Iraq này, phần thế giới Tây Phương chạy theo ngẫu
tượng lợi lộc kinh tế sẽ bị thua, dù mạnh hơn về quân sự, từ đó, họ sẽ nhận ra
lỗi lầm của mình nơi những gì đã được Giáo Hội Công Giáo cảnh giác trước hay
chăng?
Sau hết, vương quốc của Đấng Tối Cao đã bao trùm vương quốc của tín đồ Hồi Giáo
ra sao? Có thể qua những tiếng nói phản chiến của Giáo Hội Công Giáo khắp nơi
chống lại dự án Hoa Kỳ tấn công Iraq mà sau này, Iraq nói riêng và khối Hồi Giáo
nói chung mới chẳng những thấy được đường lối khủng bố là sai lầm, dù họ có bị
Tây Phương lợi dụng hay Do Thái đàn áp chăng nữa, mà còn thấy được đâu là sự
thật giải phóng nơi Giáo Hội Chúa Kitô nữa?
• “Thế nhưng, điều này sẽ xảy ra khi nào và ra sao, chỉ có một mình Thiên Chúa
biết”.
Bởi thế, phận sự của Kitô hữu Công Giáo nói chung là cầu nguyện cho hòa bình thế
giới, cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi, một kinh nguyện, theo Thông Điệp Supremi
Apostolatus của Đức Lêô XIII ban hành ngày 1/9/1883, có liên quan đến lịch sử về
bè rối và chiến tranh với Hồi Giáo, một kinh nguyện mà cả sáu lần hiện ra ở
Fatima, Mẹ Maria bao giờ cũng thúc giục hãy sử dụng để cầu xin chấm dứt chiến
tranh và thế giới được hòa bình. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong hai
huấn từ Truyền Tin vào Chúa Nhật hằng tuần, một vào sau ngày 7/10/2001, ngày Hoa
Kỳ bắt đầu tấn công khủng bố, và một vào ngày 29/ 9/2002, cũng đã liên kết hòa
bình thế giới với Kinh Mân Côi như sau:
• “Với tình hình quốc tế hiện nay, Tôi đã mời gọi các nhân cũng như đoàn thể hãy
cầu Kinh Mân Côi để xin ơn hòa bình cho thế giới… Chớ gì, trong Giáo Hội, cá
nhân cũng như đoàn thể biết liên lỉ dâng lời cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi cho
hòa bình thế giới, với ánh mắt nhìn thẳng vào Chúa Giêsu Kitô là hòa bình của
chúng ta”.
• “Một lần nữa Tôi muốn trao phó nền hòa bình cao cả cho Kinh Mân Côi. Chúng ta
đang đối diện với một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, đầy những chiều
kích nẩy lửa. Ở một số phần đất trên thế giới có những đối chọi gay go hơn – Tôi
đang đặc biệt nghĩ đến mảnh đất tử đạo của Chúa Kitô – chúng ta có thể thấy rằng,
mặc dầu luôn luôn có những nỗ lực về chính trị nhưng cũng chẳng đi đến đâu, nếu
tinh thần con người vẫn cứ quá khích và không có khả năng để bày tỏ cho thấy
thiện chí thành thật muốn tái lập chiều hướng đối thoại với nhau. Thế nhưng, ai
có thể làm thấm nhập những cảm quan này, nếu không phải một mình Thiên Chúa? Hơn
bao giờ hết cần phải dâng lên Ngài những lời cầu nguyện cho hòa bình thế giới ở
khắp nơi trên thế giới. Chính vì thế mà Kinh Mân Côi tự mình mới là một kinh
nguyện đặc biệt thích hợp ở đây. Kinh Mân Côi kiến tạo hòa bình cũng vì kinh
nguyện này, trong khi kêu cầu ân sủng của Thiên Chúa, gieo vào con người lần hạt
mầm giống của sự thiện làm nẩy sinh hoa trái công lý và đoàn kết đáng mong ước
nơi cá nhân cũng như cộng đồng”.
Lạ lùng thay, trùng hợp thay, không hẹn mà hò, trong chính lúc Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc còn đang gay go về vấn đề Iraq giữa hai giải pháp, một của Hoa Kỳ và một của Pháp, thì cũng vào đúng ngày hội đồng này bắt đầu họp bàn, Thứ Tư 16/10/2002, ngày ĐTC Gioan Phaolô II được bầu làm giáo hoàng 24 năm trước đây, ĐTC, lợi dụng buổi triều kiến chung Thứ Tư 16/10/2002 hằng tuần của Ngài, đã ban hành Tông Huấn về Kinh Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria, cũng như để công bố bắt đầu Năm Mân Côi, từ Tháng 10/2002 đến 10/2003.
Không ngờ, sau đó, tình hình thế giới đã đột nhiên đỡ ngộp thở hơn và sáng sủa hẳn lên. Thật vậy, hôm Thứ Năm 17/10/2002, các viên chức cao cấp của Hoa Kỳ cho biết rằng để Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chấp nhận giải quyết một bước của mình, hơn là hai bước của Pháp, Hoa Kỳ đã điều chỉnh ngôn từ về việc hăm dọa sử dụng võ lực bằng cách nói rõ là nếu Baghdad không chịu cộng tác với các thanh tra viên vũ khí thì sẽ phải lãnh chịu hậu quả của mình, tương tự như giải quyết của Pháp. Tuy nhiên, về vấn đề hậu quả như thế nào, bản điều chỉnh quyết định của Hoa Kỳ không nói rõ. Các nhà ngoại giao nói rằng nếu Iraq lơ mơ thì Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ cần phải bàn với Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc trước khi ra tay hành động.
Bộ Trưởng Ngoại Giao Nga là ông Igor Ivanov chào mừng dự thảo mới này của Hoa Kỳ, một dự thảo như Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ là tướng Powell cho biết sẽ được chính thức trình cho hội đồng bảo an trong mấy ngày tới đây. Theo Hãng Thông Tấn Associated Press cho biết, với một số trích dẫn họ nhận được, thì những thanh tra viên vũ khí sẽ được yêu cầu “tường trình lập tức cho hội đồng này bất cứ sai trái nào của Iraq trong việc tuân hành giải giới”. Một khi những điều sai trái của Iraq được tường trình, hội đồng này sẽ được lập tức triệu tập “để cứu xét tình hình và nhu cầu cần phải triệt để tuân hành”. Bản thảo trước đây yêu cầu các thanh tra viên tường trình bất cứ “trục trặc” nào và các nước phần tử thẩm quyền được sử dụng “tất cả mọi biện pháp cần thiết” để buộc phải tuân hợp. Bản thảo mới của Hoa Kỳ cũng hạ giọng trong việc đòi hỏi về qui chế thanh tra mới, bằng cách bỏ đi một số chi tiết, trong đó có việc Hoa Kỳ dự định muốn có người lính hộ vệ phái đoàn thanh tra vũ khí.
Quả thực, qua biến chuyển đột ngột hiển nhiên của lịch sử này, như biến chuyển Đông Âu bất ngờ sụp đổ trước đây, Kinh Mân Côi có dính dáng đến chiến tranh và Mẹ Mân Côi là Mẹ Thắng Trận, như tước hiệu Mẹ đã được Thánh Giáo Hoàng Piô V tuyên tặng sau trận hải thắng Lepantô năm 1571. Như thế, Lời Mẹ khẳng định ở phần hai của Bí Mật Fatima bao giờ cũng là một sự thật:
• “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới. Nếu điều Mẹ nói với các con đây được thực hiện thì nhiều linh hồn được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình”.
Phải chăng việc Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II mở màn cho năm thứ 25 giáo triều của Ngài bằng việc ban hành Tông Thư
Kinh Mân Côi của Mẹ Maria và khai mạc Nam Mân Côi, tức việc Ngài làm cho Mẹ được
nhận biết và yêu mến, tức là việc Ngài “thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô
Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”, như ý Thiên Chúa muốn, mà thế giới ít là đã
nhẹ đi, so với cả tháng trước đây và nhất là tuần lễ trước đây, bầu khí căng
thẳng của một Thế Chiến Thứ Ba!?!
Ngày Thứ Bảy 19/10/2002,
Ngày Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đang bàn định dứt khoát về vấn đề Iraq
và là ngày dự định thanh tra vũ khí Iraq
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL