Bài Giáo Lý số 31
LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG
(các số 1949-2082)
CẢM NGHIỆM NHÂN SINH
Tâm linh cho chúng ta thấy loài người chúng ta là loài “nhân linh ư vạn vật”, ở
chỗ, chúng ta có lương tri và tự do. Thế nhưng, kinh nghiệm đồng thời cũng cho
chúng ta ý thức được thân phận hết sức bất toàn và bất lực của mình. Ở chỗ, có
lương tri mà nhiều lúc chúng ta cũng không thể phân biệt được ngay, phân biệt
được chính xác, phân biệt được hoàn toàn đâu là chân là giả, đâu là đúng là sai,
đâu là thiện là ác, đâu là lợi là hại. Thảm hơn nữa, cho dù đã biết chắc chắn
được đâu là sự thật, biết được mình phải làm lành lánh dữ, ấy thế mà, chúng ta
vẫn không thể nào tự mình, dù có nỗ lực mấy đi nữa, thực hiện được những gì
lương tri đòi hỏi, can ngăn hay thúc giục, một cách mau mắn, thường xuyên và bền
bỉ. Chưa hết, tự mình, con người vốn đã và luôn ở trong một tình trạng bối rối
về nhận thức và quằn quại về năng lực như thế, ngày nay, họ lại còn tiến đến chỗ
tỏ ra cho thấy mình là kẻ “biết lành biết dữ” (Gen 2:17) nữa, nghĩa là đi đến
chỗ tự mình quyết định đâu là lành là dữ, đâu là phải là trái. Không phải hay
sao, những khoản luật cho phép ly dị và phá thai, cho phép hôn nhân đồng tính và
tạo sinh ngoại nhiên, đã chẳng chứng tỏ thực tại phũ phàng hết sức phi nhân bản
và phản luân thường đạo lý này ư?
Như thế, loài người chúng ta chẳng lẽ sẽ không bao giờ đạt tới Chân, Thiện, Mỹ
là Thực Tại Thần Linh hay sao, một Thực Tại Siêu Việt Tối Thượng làm viên mãn
hữu thể hữu hình và hữu hạn của chúng ta, một hữu thể có khả năng lúc nào cũng
hướng về và tìm kiếm những gì là vô hình và vô biên, những gì là trường sinh
vinh phúc hay sao? Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã cho chúng ta biết rằng:
“Được kêu gọi hưởng phúc nhưng lại bị tội lỗi làm tổn thương, con người cần được
Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Ơn trợ giúp thần linh được ban cho họ nơi Đức Kitô,
qua lề luật hướng dẫn họ cũng như qua ân sủng nâng đỡ họ” (số 1949). Vậy:
1. Lề luật là gì và có tác dụng ra sao? Được chia ra làm bao nhiêu thứ?
2. Ân sủng là gì và có tác dụng như thế nào? Được chia ra làm bao nhiêu loại?
3. Làm sao con người có thể nắm vững được đâu là những khoản lề luật thật sự làm
cho họ sống đẹp lòng Thiên Chúa, nhất là làm sao họ có thể lãnh nhận ân sủng để
sống trọn lề luật này?
KIẾN THỨC ĐỨC TIN
1. LỀ LUẬT LÀ GÌ VÀ CÓ TÁC DỤNG RA SAO? ĐƯỢC CHIA
RA LÀM BAO NHIÊU THỨ?
Về bản chất (là gì) và tác dụng (ra sao) của lề luật, Giáo Lý của Giáo Hội Công
Giáo đã xác định vị trí của chúng trong mối tương quan với các thứ lề luật (phổ
quát hay đặc thù), đúng hơn, với các hạng lề luật (tự nhiên hay mạc khải), được
sắp xếp theo bậc thang giá trị như sau: thứ nhất là luật Luân Lý Tự Nhiên, thứ
hai là luật Mạc Khải Cựu Ước, và thứ ba là luật Mạc Khải Phúc Âm.
Lề Luật là gì?
• “Lề luật là qui tắc tác hành được ban bố vì công ích bởi một thẩm quyền”. (số
1951)
• “Luật luân lý được diễn đạt khác nhau, tất cả đều liên hệ với nhau, như luật
vĩnh cửu, ở nơi Thiên Chúa, là nguồn của mọi lề luật; luật tự nhiên; luật mạc
khải, bao gồm cả Luật Cũ và Luật Mới hay Luật Phúc Âm; sau hết là dân luật và
giáo luật”. (số 1952)
Luật Luân Lý Tự Nhiên
• “Luật ‘thần linh và tự nhiên’ (Hiến Chế Gaudium et Spes, 89.1) cho con người
thấy đường lối phải theo để làm lành cũng như để đạt được cùng đích của họ. Luật
tự nhiên cho thấy những qui định đầu tiên và thiết yếu chi phối đời sống luân lý...
Những qui định chính của nó được thể hiện ở bản Thập Điều. Luật này được gọi là
‘tự nhiên’, không phải vì nó liên quan đến bản tính của các hữu thể vô tri, mà
vì lý trí để ban hành nó một cách xác đáng là tài năng thuộc về bản tính con
người”. (số 1955)
• “Luật tự nhiên, hiện diện nơi tâm can của mỗi người và do lý trí thiết lập, có
những qui định phổ quát, với một thẩm quyền bao gồm tất cả mọi người. Nó nói lên
phẩm giá con người và xác định nền tảng cho các quyền lợi và nghĩa vụ căn bản
của họ”. (số 1956)
• “Việc áp dụng luật tự nhiên hết sức khác nhau... Tuy nhiên, trong tính cách đa
diện về văn hóa, luật tự nhiên vẫn là một qui tắc để liên kết họ lại với nhau và
áp đặt nơi họ các nguyên tắc chung vượt lên trên những khác biệt không thể tránh
được”. (số 1957)
• “Luật tự nhiên không thay đổi và trường tồn qua những biến thiên của lịch sử
(x Gaudium et Spes, 10); nó tồn tại theo giòng tư tưởng và các tập tục, cùng
nâng đỡ bước tiến của giòng tư tưởng và các tập tục này. Các qui tắc thể hiện nó
vẫn thực sự có giá trị. Cho dù các nguyên tắc của nó có bị phủ nhận đi nữa, luật
tự nhiên vẫn không thể bị hủy hoại hay loại trừ khỏi lòng trí con người. Nó luôn
luôn tái hiện nơi đời sống cá nhân cũng như đoàn thể”. (số 1958)
• “Không phải mọi người thấy được rõ ràng và thấy được ngay lập tức các qui định
của luật tự nhiên. Trong hiện trạng của mình, con người cần đến ân sủng và mạc
khải để ‘mọi người’ thấy được các chân lý về luân lý và đạo lý ‘một cách dễ dàng,
chắc chắn và không lẫn lộn’ (Đức Piô XII, Humani Generis: DS 3876; x Dei Filius
2: DS 3005). Luật tự nhiên cống hiến cho luật mạc khải cũng như cho ân sủng một
cơ sở do Thiên Chúa đặt nền và phù hợp với công việc của Thần Linh”. (số 1960)
Luật Mạc Khải Cựu Ước
• “... Luật Moisen cho thấy nhiều chân lý tự nhiên hợp với trí khôn. Những chân
lý này được công bố và chứng thực nơi giao ước cứu độ”. (số 1961)
• “Luật Cũ là bước đầu của Luật Mạc Khải. Các chỉ thị luân lý của Luật Cũ được
gồm tóm trong Mười Điều Răn. Các qui định của Thập Giới đặt nền tảng cho ơn gọi
của con người được hình thành theo hình ảnh Thiên Chúa; những qui định ấy cấm
đoán những gì phản lại tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, cùng ấn định những gì
chính yếu cho tình yêu này. Thập Giới là ánh sáng chiếu soi lương tri mọi người,
để họ biết được lời mời gọi và đường lối của Thiên Chúa, cũng như để ngăn ngừa
họ khỏi sự dữ”. (số 1962)
• “Theo truyền thống Kitô giáo, Lề Luật thì thánh hảo, linh thiêng và tốt lành
(x Rm 7:12, 14, 16), tuy nhiên nó vẫn còn bất toàn. Giống như một người nhắc nhở
(x Gal 3:24), nó cho thấy những gì phải làm, nhưng tự mình không cho sức mạnh,
cho ân sủng Thần Linh, để có thể hoàn tất nó. Vì tội lỗi là những gì nó không
thể loại trừ được, mà nó vẫn là một thứ luật ràng buộc. Theo Thánh Phaolô, phận
sự đặc biệt của Lề Luật là công bố tội lỗi và vạch mặt tội lỗi là những gì làm
nên một thứ ‘luật đam mê nhục dục’ nơi tâm trí con người (x Rm 7). Tuy nhiên, Lề
Luật vẫn là giai đoạn đầu tiên trên con đường tiến đến vương quốc của Thiên Chúa.
Lề Luật sửa soạn và giúp cho dân tuyển chọn cũng như cho mỗi người Kitô hũu biết
hoán cải và tin vào Đấng Cứu Thế của Thiên Chúa. Lề Luật cũng ban bố một giáo
huấn kéo dài mãi mãi giống như là Lời của Thiên Chúa vậy”. (số 1963)
• “Luật Cũ là để dọn đường cho Phúc Âm. ‘Lề Luật là việc giáo huấn và tiên báo
cho những gì sẽ đến’ (Thánh Irênêô, Adv. Haeres. 4, 15, 1: PG 7/1, 1012). Lề
Luật tiên ngôn và báo trước cho thấy việc giải thoát khỏi tội lỗi là việc sẽ
được nên trọn nơi Đức Kitô: Nó hiến cho Tân Ước những hình ảnh, ‘mẫu thức’ và
biểu hiệu diễn đạt sự sống theo Thần Linh. Sau hết, Lề Luật được hoàn thành bởi
giáo huấn của các sách khôn ngoan cũng như bởi các vị tiên tri là những gì hướng
nó về Tân Ước cũng như về Nước Trời”. (số 1964)
• “Việc phân chia và đánh số thứ tự các Giới Răn xẩy ra khác nhau theo giòng
lịch sử. Sách giáo lý này theo kiểu phân chia của Thánh Augustino, một kiểu phân
chia đã trở thành truyền thống của Giáo Hội Công Giáo...” (số 2066). “Công Đồng
Chung Triđentinô dạy rằng Kitô hữu buộc phải giữ Mười Điều Răn và cả người công
chính cũng buộc phải giữ những điều răn này nữa... (x DS 1569-1570)” (số 2068).
“Bản Thập Điều làm nên một khối chặt chẽ. Mỗi một ‘lời’ đều có liên quan tới
từng điều khác và tất cả mọi điều khác. Hai bia đá chiếu tỏa trên nhau; cả hai
làm nên một cơ cấu duy nhất. Phạm đến một giới răn là lỗi đến tất cả những giới
răn khác (x Jas 2:10-11)” (số 2069). “Mười Điều Răn thuộc về những gì Thiên Chúa
mạc khải. Mười Điều Răn này cũng dạy chúng ta sống đúng với bản tính của con
người” (số 2070). “Mặc dù trí khôn có thể biết được các giới răn của Thập Giới
nhưng các giới răn đó cũng đã được Thiên Chúa tỏ cho biết. Để hiểu được một cách
hoàn toàn và chắc chắn những đòi hỏi của luật tự nhiên, nhân loại tội lỗi cần
đến một mạc khải như thế” (số 2071).
Luật Mạc Khải Phúc Âm
• “Luật Mới hay Luật Phúc Âm ở trên thế gian này là tầm mức toàn hảo của luật
thần linh, luật tự nhiên và luật mạc khải. Luật Mới là công việc của Chúa Kitô
và được diễn đạt đặc biệt ở bài Giảng Trên Núi. Luật Mới cũng là công việc của
Thánh Linh, và nhờ Ngài nó trở nên luật đức ái nội tâm: ‘Ta sẽ thiết lập một
Giao Ước Mới với nhà Yến Duyên... Ta sẽ đặt lề luật của Ta nơi tâm trí họ, và sẽ
ghi khắc nó trên tâm can họ, rồi Ta sẽ là Thiên Chúa của họ và họ sẽ là dân của
Ta’ (Heb 8:8, 10; x Jer 31:31-34)”. (số 1965)
• “Luật Phúc Âm làm trọn các giới răn của Lề Luật. Bài Giảng Trên Núi của Chúa,
chẳng những không hủy bỏ hay hạ giá những chỉ thị luân lý của Luật Cũ, mà còn
làm cho những chỉ thị ấy thoát ra các tiềm lực và từ các chỉ thị này mới có
những đòi hỏi mới, ở chỗ nó cho thấy toàn diện sự thật thần linh và nhân loại
của những chỉ thị ấy. Bài Giảng Trên Núi của Chúa không thêm những qui định mới
nào cả, nhưng tiến đến chỗ canh tân cội nguồn của tác hành con người là lòng trí
họ, nơi con người chọn lựa giữa tinh tuyền và ô uế (x Mt 15:18-19), nơi đức tin,
cậy, mến được hình thành cùng với các nhân đức khác. Như thế, Phúc Âm mang Lề
Luật đến chỗ kiện toàn nhờ việc phản ánh sự trọn lành của Cha trên trời, bằng
cách thứ tha cho kẻ thù và nguyện cầu cho kẻ bách hại mình, noi theo gương đức
bao dung thần linh (x Mt 5:44, 48)”. (số 1968)
• “Luật Mới thực hành các tác động đạo đức, như bố thí, nguyện cầu và chay tịnh,
hướng chúng về ‘Cha là Đấng thấy nơi kín nhiệm’, ngược lại với lòng muốn ‘được
người ta trông thấy’ (x Mt 6:1-6, 16-18). Kinh nguyện của Luật Mới là Kinh Lạy
Cha (x Mt 6:9-13; Lk 11:2-4)”. (số 1969)
• “Luật Phúc Âm đòi chúng ta phải dứt khoát chọn giữa ‘hai con đường’ và phải
thực hành lời của Chúa (x Mt 7:13-14, 21-27). Nó được tóm gọn trong Khuôn Vàng
Thước Ngọc là ‘bất cứ điều gì các con muốn người ta cho các con thì các con cũng
hãy làm như thế cho họ; đó là lề luật và lời các tiên tri’ (Mt 7:12; x Lk 6:31).
Tất cả Luật Phúc Âm được chất chứa nơi ‘giới răn mới’ Chúa Giêsu dạy, là hãy yêu
thương như Người đã yêu thương chúng ta (x Jn 15:12, 13:34)”. (số 1970)
• “Luật Mới được gọi là luật yêu thương, vì nó làm cho chúng ta tác hành vì tình
yêu được Thánh Linh phú bẩm cho, hơn là vì sợ hãi; là luật ân sủng, vì nó ban
sức mạnh theo ân sủng để tác hành, bằng đức tin và các bí tích; là luật tự do,
vì nó giải thoát chúng ta khỏi những tuân giữ theo nghi thức và pháp lý của Luật
Cũ, thúc đẩy chúng ta hành động một cách hồn nhiên theo hứng khởi của đức ái và,
sau hết giúp chúng ta vượt từ tình trạng của một kẻ làm tôi ‘không biết những gì
chủ làm’ sang tình trạng của bạn hữu Chúa Kitô, thậm chí đến thân phận làm con
cái và làm kẻ thừa tự nữa (Jn 15:15; x Jas 1:25, 2:12; Gal 4:1-7, 21-31; Rm
8:15)”. (số 1972)
• “Ngoài những qui định của mình, Luật Mới còn có cả những lời khuyên phúc âm
nữa... Những qui định thì nhắm đến việc loại trừ những gì bất xứng với đức ái.
Còn mục đích của các lời khuyên là loại trừ những gì có thể làm cản trở việc
phát triển của đức ái, cho dù những điều ấy không phản nghịch lại với đức ái (x
Thánh Tôma Aquinas, STh II-II, 184, 3)”. (số 1973)
2. ÂN SỦNG LÀ GÌ VÀ CÓ TÁC DỤNG NHƯ THẾ NÀO? ĐƯỢC
CHIA RA LÀM BAO NHIÊU LOẠI?
Con người nhiễm nguyên tội chẳng những mù tối cần phải được hướng dẫn bởi các
luật lệ, mà còn yếu đuối, cần phải được trợ giúp bởi ân sủng nữa. Nói đến ân
sủng, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo trước hết nói đến việc công chính hóa con
người, sau đó đến những ân sủng cần thiết để con người sống công chính, và sau
hết đến ý nghĩa của công nghiệp do con người công chính lập được trong việc nên
thánh.
Việc công chính hóa con người
• “Ân sủng của Chúa Thánh Thần có năng lực làm cho chúng ta nên công chính, tức
là, thanh tẩy chúng ta khỏi tội lỗi và thông truyền cho chúng ta ‘đức công minh
chính trực của Thiên Chúa nhờ niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô’ cũng như nhờ vào
Phép Rửa’ (Rm 3:22, x 6:3-4)”. (số 1987)
• “Công việc đầu tiên ân sủng của Chúa Thánh Thần làm là hoán cải con người...
Được đánh động bởi ân sủng, con người hướng về Thiên Chúa và trở mặt với tội lỗi,
nhờ đó chấp nhận ơn tha thứ và đức công chính từ trên cao. ‘Việc công chính hóa
không phải chỉ là việc xóa bỏ tội lỗi mà còn là việc thánh hóa và canh tân con
người nội tâm nữa”. (số 1989)
• “Việc công chính hóa làm con người dứt bỏ tội lỗi là những gì phản lại tình
yêu của Thiên Chúa, và thanh tẩy tâm trí họ khỏi tội lỗi...” (số 1990)
• “Việc công chính hóa đồng thời còn là việc chấp nhận đức công minh chính trực
của Thiên Chúa nhờ niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Đức công minh chính trực (hay
‘công chính’) đây nghĩa là sự chính trực của tình yêu thần linh...” (số 1991)
• “Việc công chính hóa thiết lập việc hợp tác giữa ân sủng của Thiên Chúa và tự
do của con người. Nơi con người, đức công chính được thể hiện bằng việc đức tin
ưng thuận Lời của Thiên Chúa, Đấng mời gọi họ hoán cải, cũng như bằng việc đức
ái hợp tác với thúc động của Thánh Linh, Đấng có trước cả việc ưng thuận của họ
và bảo trì việc họ ưng thuận này”. (số 1993)
Những ân sủng cần thiết để con người sống công chính
• “Việc công chính hóa chúng ta là do
ân sủng của Thiên Chúa ban cho. Ân sủng là niềm ưu ái, là việc Thiên Chúa tự
mình và hết mình trợ giúp chúng ta để chúng ta đáp ứng lời Ngài mời gọi trở nên
con cái Thiên Chúa, nên những người con được thừa nhận, nên những người được
thông phần vào bản tính thần linh cũng như vào sự sống đời đời (x Jn 1:12-18,
17:3; Rm 8:14-17; 2Pet 1:3-4)”. (số 1996)
• “Ân sủng là một cuộc dự phần vào sự sống của Thiên Chúa. Ân sủng đưa chúng ta
vào mối thân tình của sự sống Chúa Ba Ngôi...”. (số 1997)
• “Ân sủng của Chúa Kitô là một tặng ân nhưng không Thiên Chúa dùng để ban cho
chúng ta sự sống riêng của Ngài, một sự sống được Thánh Linh phú bẩm vào linh
hồn chúng ta để chữa lành linh hồn khỏi tội lỗi cũng như để thánh hóa linh hồn
chúng ta. Đó là ơn thánh hóa hay thần hóa được lãnh nhận nơi Phép Rửa. Nơi chúng
ta, ân sủng này là nguồn mạch của việc thánh hóa (x Jn 4:14, 7:38-39)”. (số
1999)
• “Ơn thánh hóa là một hằng sủng, một trang bị siêu nhiên kiên định, một trang
bị hoàn hảo hóa linh hồn để linh hồn có thể sống với Thiên Chúa, tác hành theo
tình yêu của Ngài. Hằng sủng, một trang bị thường xuyên để sống động và tác hành
hợp với ơn gọi của Thiên Chúa, được phân biệt với hiện sủng là ơn liên quan đến
việc can thiệp của Thiên Chúa, hoặc vào lúc bắt đầu của việc hoán cải hay trong
giai đoạn của việc thánh hóa”. (số 2000)
• “Việc sửa soạn để con người lãnh nhận ân sủng đã là việc của ân sủng làm rồi.
Cần có tác động của ân sủng để khơi dậy cũng như để bảo trì việc hợp tác của
chúng ta trong việc công chính hóa theo đức tin và việc thánh hóa theo đức mến.
Thiên Chúa làm hoàn thành nơi chúng ta những gì Ngài đã khởi sự...” (số 2001)
• “Ân sủng trước hết và trên hết là tặng ân Thần Linh, Đấng công chính hóa và
thánh hóa chúng ta. Thế nhưng, ân sủng cũng bao gồm cả các tặng ân Thần Linh ban
cho chúng ta để liên kết chúng ta với công việc của Ngài, để cho phép chúng ta
hợp tác vào việc cứu độ kẻ khác cũng như vào việc phát triển của Thân Thể Chúa
Kitô là Giáo Hội. Có những bí tích sủng, những tặng ân xứng hợp với các bí tích
khác nhau. Cũng có những đặc sủng, cũng được gọi là đoàn sủng... hướng đến ơn
thánh hóa và nhắm đến lợi ích chung của Giáo Hội...”. (số 2003)
• “Trong số các ân sủng phải kể đến ơn theo bậc giúp vào việc thực thi những
trách nhiệm của đời sống Kitô hữu cũng như của các thừa tác vụ trong Giáo Hội”.
(số 2004)
Ý nghĩa của công nghiệp do con người công chính lập được trong việc nên thánh.
• “Công nghiệp của con người trước nhan Thiên Chúa nơi đời sống Kitô hữu xuất
phát từ sự kiện là Thiên Chúa đã tự tình muốn con người liên kết với công cuộc
ân sủng của Ngài. Tác động phụ thân của Thiên Chúa trước hết là do sáng kiến của
Ngài, sau đó tác động của Ngài còn đi theo với tác hành tự do của con người
trong việc hợp tác của họ nữa, bởi thế, công nghiệp của các việc lành trước hết
phải được qui về cho ân sủng của Thiên Chúa, rồi mới tới tín hữu. Hơn nữa, công
nghiệp của con người tự nó thuộc về Thiên Chúa, vì các việc lành của họ đã được
tiến hành trong Chúa Kitô, nhờ Thánh Linh dọn đường mở lối và trợ giúp thực
hiện”. (số 2008)
• “Theo trật tự ân sủng, Thiên Chúa là Đấng tác động trước, nên không ai có thể
kiếm được ơn tha tội và công chính hóa ngay từ đầu. Được Thánh Linh và đức ái
tác động, sau đó chúng ta mới có thể lập công cho chúng ta cũng như cho kẻ khác
những ân sủng cần cho việc thánh hóa của chúng ta, cho việc tăng thêm ân sủng và
đức ái, cũng như cho việc chiếm đạt sự sống vĩnh cửu. Ngay cả những sự vật tạm
bợ ở đời này, như sức khỏe và tình thân hữu, cũng chỉ có thể kiếm được tùy theo
đức khôn ngoan của Thiên Chúa. Những ân sủng và sự vật này là đối tượng nguyện
cầu của Kitô hữu. Cầu nguyện mang lại ân sủng cần thiết để chúng ta thực hiện
được những việc đáng thưởng công”. (số 2010)
• “Đức ái của Chúa Kitô là nguồn mạch nơi chúng ta cho mọi công nghiệp của chúng
ta trước nhan Thiên Chúa. Bằng việc liên kết chúng ta với Chúa Kitô trong tình
yêu chủ động, ân sủng bảo đảm tính chất siêu nhiên của các việc chúng ta làm,
nhờ đó cũng bảo đảm cả công nghiệp của chúng ta trước mặt Thiên Chúa và loài
người nữa...” (số 2011)
• “Việc tiến bộ thiêng liêng hướng đến việc hiệp nhất sâu xa hơn với Chúa Kitô.
Việc hiệp nhất này được gọi là ‘mầu nhiệm’, vì nó tham dự vào mầu nhiệm của Chúa
Kitô qua các bí tích – là ‘các mầu nhiệm thánh’ – rồi trong Người, vào mầu nhiệm
của Thiên Chúa Ba Ngôi...” (số 2014)
• “Đường lối nên trọn lành băng ngang qua con đường Thập Giá. Không từ bỏ và
chiến đấu thiêng liêng cũng sẽ không có sự thánh thiện (x 2Tim 4). Việc tiến bộ
thiêng liêng đòi phải sống khổ hạnh và hãm mình là những gì từ từ dẫn con người
đến cuộc sống bình an và hoan lạc theo các Phúc Đức”. (số 2015)
3. LÀM SAO CON NGƯỜI CÓ THỂ NẮM VỮNG ĐƯỢC ĐÂU LÀ
NHỮNG KHOẢN LỀ LUẬT THẬT SỰ LÀM CHO HỌ SỐNG ĐẸP LÒNG THIÊN CHÚA, NHẤT LÀ LÀM SAO
HỌ CÓ THỂ LÃNH NHẬN ÂN SỦNG ĐỂ SỐNG TRỌN LỀ LUẬT NÀY?
Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo thì Giáo Hội chính là kho tàng chân lý và ân
sủng được Đấng “đầy ân sủng và chân lý” (Jn 1:14) thiết lập để trao ban cho
chung nhân loại cũng như cho riêng chi thể của Người: “Chính trong Giáo Hội,
trong mối hiệp thông với toàn thể những ai được lãnh nhận phép rửa mà Kitô hữu
hoàn tất ơn gọi của mình. Họ lãnh nhận từ Giáo Hội Lời Chúa chứa đựng các giáo
huấn về ‘lề luật của Chúa Kitô’ (Gal 6:2). Họ lãnh nhận từ Giáo Hội ân sủng của
các bí tích để nâng đỡ họ ‘tiến bước’. Họ học được từ nơi Giáo Hội gương thánh
đức... qua chứng từ đích thực của những người đã sống” (số 2030). Như thế, đời
sống luân lý của Kitô hữu đặc biệt trực tiếp liên quan đến Huấn Quyền, đến sinh
hoạt Phụng Vụ cũng như đến việc chứng nhân truyền giáo.
Đời sống luân lý của Kitô hữu liên quan đến Huấn Quyền
• “’Giáo Hội luôn luôn có quyền truyền đạt các nguyên tắc luân lý ở mọi nơi, kể
cả những nguyên tắc luân lý liên quan đến lãnh vực xã hội, cũng như có quyền
phán quyết về sinh hoạt của loài người một khi quyền căn bản làm người hay phần
rỗi các linh hồn đòi hỏi’ (Giáo Luật khoản 747.2)”. (số 2032)
• “Huấn Quyền thông thường và phổ quát của Giáo Hoàng và các vị giám mục hiệp
thống với ngài dạy tín hữu chân lý phải tin tưởng, đức ái phải thực hành và phúc
đức phải hy vọng”. (số 2034)
• “Quyền bính của Huấn Quyền cũng bao gồm cả những qui định của luật tự nhiên,
vì việc tuân giữ những qui định của luật tự nhiên theo ý định của Đấng Tạo Hóa
cần thiết cho phần rỗi...”. (số 2036)
Đời sống luân lý của Kitô hữu liên quan đến sinh hoạt Phụng Vụ.
• “Các qui định Giáo Hội đặt ra liên quan đến đời sống luân lý thì dính liền với
sinh hoạt phụng vụ và được bồi dưỡng bởi sinh hoạt phụng vụ. Tính cách bó buộc
của các khoản luật xây dựng này là do thẩm quyền mục vụ nhắm đến việc bảo đảm
mức tối thiểu không thể châm chước người tín hữu phải có nơi tinh thần cầu
nguyện cũng như nơi nỗ lực luân lý, để tình yêu Thiên Chúa và tha nhân được phát
triển”. (số 2041)
• “Qui định thứ nhất (‘xem lễ ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc’)...; Qui
định thứ hai (‘xưng tội trong một năm ít là một lần’)...; Qui định thứ ba (‘chịu
Mình Thánh Chúa Giêsu trong Mùa Phục Sinh’...” (số 2042); “Qui định thứ bốn
(‘giữ thánh hảo các ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc’, theo diễn nghĩa trong
bản ‘Hội Thánh có sáu điều răn’ của Việt Nam là ‘chớ làm việc xác ngày Chúa Nhật
cùng các ngày lễ buộc’); Qui định thứ năm (‘giữ chay và kiêng thịt những ngày
Hội Thánh buộc’); Tín hữu cũng có nhiệm vụ đóng góp giúp các nhu cầu vật chất
của Giáo Hội tùy theo khả năng của mình” (số 2043).
Đời sống luân lý của Kitô hữu liên quan đến việc chứng nhân truyền giáo
• “’Chứng từ của đời sống Kitô hữu và các việc lành được thực hiện trong tinh
thần siêu nhiên có một quyền lực mạnh mẽ trong việc lôi kéo con người về với đức
tin và Thiên Chúa’ (Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, 6.2)”. (số 2044)
• “Vì là phần thể của Thân Thể có Chúa Kitô là Đầu (x Eph 1:22), nên Kitô hữu
cần phải đóng góp vào việc xây dựng Giáo Hội, bằng việc kiên trì với niềm tin và
đời sống luân lý của mình. Giáo Hội tăng tiến, lớn lên và phát triển là nhờ ở sự
thánh thiện nơi tín hữu của mình, cho đến khi ‘tất cả chúng ta đạt đến tình
trạng hiệp nhất trong đức tin cũng như trong kiến thức về Con Thiên Chúa, đạt
đến tình trạng thành nhân, đạt đến tầm vóc viên trọn của Chúa Kitô’ (Eph 4:13; x
Lumen Gentium, 39)”. (số 2045)
TÓM LẠI:
Về bản chất (là gì) (GL số 1951-1952) và tác dụng (ra sao) của lề luật, Giáo Lý
của Giáo Hội Công Giáo đã xác định vị trí của chúng trong mối tương quan với các
thứ lề luật (phổ quát hay đặc thù), đúng hơn, với các hạng lề luật (tự nhiên hay
mạc khải), được sắp xếp theo bậc thang giá trị như sau: thứ nhất là luật Luân Lý
Tự Nhiên (GL số 1955-1958, 1960), thứ hai là luật Mạc Khải Cựu Ước (GL số
1961-1964, 2066, 2068-2071), và thứ ba là luật Mạc Khải Phúc Âm (GL số 1965,
1968-1970, 1972-1973). Con người nhiễm nguyên tội chẳng những mù tối cần phải
được hướng dẫn bởi các luật lệ, mà còn yếu đuối, cần phải được trợ giúp bởi ân
sủng nữa. Nói đến ân sủng, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo trước hết nói đến việc
công chính hóa con người (GL số 1987, 1989-1991, 1993), sau đó đến những ân sủng
cần thiết để con người sống công chính (GL số 1996-1997, 1999-2001, 2003-2004)
và sau hết đến ý nghĩa của công nghiệp do con người công chính lập được trong
việc nên thánh (GL số 2008, 2010-2011, 2014-2015). Theo Giáo Lý của Giáo Hội
Công Giáo thì Giáo Hội chính là kho tàng chân lý và ân sủng được Đấng “đầy ân
sủng và chân lý” (Jn 1:14) thiết lập để trao ban cho chung nhân loại cũng như
cho riêng chi thể của Người: “Chính trong Giáo Hội, trong mối hiệp thông với
toàn thể những ai được lãnh nhận phép rửa mà Kitô hữu hoàn tất ơn gọi của mình.
Họ lãnh nhận từ Giáo Hội Lời Chúa chứa đựng các giáo huấn về ‘lề luật của Chúa
Kitô’ (Gal 6:2). Họ lãnh nhận từ Giáo Hội ân sủng của các bí tích để nâng đỡ họ
‘tiến bước’. Họ học được từ nơi Giáo Hội gương thánh đức... qua chứng từ đích
thực của những người đã sống” (số 2030). Như thế, đời sống luân lý của Kitô hữu
đặc biệt trực tiếp liên quan đến Huấn Quyền (GL số 2032, 2034, 2036), đến sinh
hoạt Phụng Vụ (GL số 2041-2043) cũng như đến việc chứng nhân truyền giáo (GL số
2044-2045).
THÂM TÍN SỐNG ĐẠO
1. “Luật Chúa trao cho Giáo Hội phải được dạy dỗ tín hữu như là một đường lối
của sự sống và của chân lý. Bởi thế, tín hữu có quyền được chỉ dẫn theo những
qui định cứu độ thần linh là những gì thanh tẩy phán đoán, và cùng với ân sủng,
chữa lành trí khôn bị tổn thương của con người (x Giáo Luật khoản 213). Họ có
nhiệm vụ tuân giữ những qui chế và chỉ thị được thẩm quyền hợp pháp của Giáo Hội
ban bố. Cho dù những qui chế và chỉ thị đó có liên quan đến những vần đề về kỷ
luật đi nữa, thì những định đoạt ấy cũng kêu gọi tinh thần dễ dạy theo đức ái”.
(số 2037)
2. “Các thừa tác vụ phải được thi hành trong tinh thần phục vụ huynh đệ và hiến
thấn cho Giáo Hội nhân danh Chúa (x Rm 12:8, 11). Cũng thế, lương tâm mỗi người
phải tránh thu hẹp mình vào những cân nhắc có tính cách cá nhân nơi những phán
đoán về luân lý đối với các việc họ làm. Lương tâm phải hết sức chú trọng tới
thiện ích của tất cả mọi người, như được thể hiện nơi luật luân lý, luật tự
nhiên và luật mạc khải, theo đó, nơi cả luật của Hội Thánh cũng như nơi giáo
huấn uy tín của Huấn Quyền về các vấn đề luân lý. Lương tâm và lý trí cá nhân
không được nghịch lại với luật luân lý hay Huấn Quyền của Giáo Hội”. (số 2039)
Trắc Nghiệm
Xin đọc bài Giáo Lý lược tóm tổng ôn dưới đây, rồi dùng
các chữ ở cuối trang để điền vào những chỗ gạch trống các câu Sách Giáo Lý vừa
học hỏi cho đúng nguyên văn ý nghĩa của nó. Trong vòng 10 phút.
Qua bài Giáo Lý 31 về Lề Luật và Ân Sủng, Giáo Hội Công Giáo đã cho con cái của
mình thấy những điểm chính sau đây: Về bản chất (là gì) (GL số 1951-1952) và tác
dụng (ra sao) của lề luật, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã xác định vị trí của
chúng trong mối tương quan với các thứ lề luật (phổ quát hay đặc thù), đúng hơn,
với các hạng lề luật (tự nhiên hay mạc khải), được sắp xếp theo bậc thang giá
trị như sau: thứ nhất là luật Luân Lý Tự Nhiên (GL số 1955-1958, 1960), thứ hai
là luật Mạc Khải Cựu Ước (GL số 1961-1964), và thứ ba là luật Mạc Khải Phúc Âm
(GL số 1965, 1968-1970, 1972-1973). Con người nhiễm nguyên tội chẳng những mù
tối cần phải được hướng dẫn bởi các luật lệ, mà còn yếu đuối, cần phải được trợ
giúp bởi ân sủng nữa. Nói đến ân sủng, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo trước hết
nói đến việc công chính hóa con người (GL số 1987, 1989-1991, 1993), sau đó đến
những ân sủng cần thiết để con người sống công chính (GL số 1996-1997,
1999-2001, 2003-2004) và sau hết đến ý nghĩa của công nghiệp do con người công
chính lập được trong việc nên thánh (GL số 2008, 2010-2011, 2014-2015). Theo
Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo thì Giáo Hội chính là kho tàng chân lý và ân sủng
được Đấng “đầy ân sủng và chân lý” (Jn 1:14) thiết lập để trao ban cho chung
nhân loại cũng như cho riêng chi thể của Người: “Chính trong Giáo Hội, trong mối
hiệp thông với toàn thể những ai được lãnh nhận phép rửa mà Kitô hữu hoàn tất ơn
gọi của mình. Họ lãnh nhận từ Giáo Hội Lời Chúa chứa đựng các giáo huấn về ‘lề
luật của Chúa Kitô’ (Gal 6:2). Họ lãnh nhận từ Giáo Hội ân sủng của các bí tích
để nâng đỡ họ ‘tiến bước’. Họ học được từ nơi Giáo Hội gương thánh đức... qua
chứng từ đích thực của những người đã sống” (số 2030). Như thế, đời sống luân lý
của Kitô hữu đặc biệt trực tiếp liên quan đến Huấn Quyền (GL số 2032, 2034,
2036), đến sinh hoạt Phụng Vụ (GL số 2041-2043) cũng như đến việc chứng nhân
truyền giáo (GL số 2044-2045).
1. “Luật thần linh và tự nhiên cho con người thấy đường lối phải theo để
________ cũng như để đạt được cùng đích của họ. Luật tự nhiên cho thấy những qui
định đầu tiên và thiết yếu chi phối đời sống _______... Những qui định chính của
nó được thể hiện ở bản Thập Điều. Luật này được gọi là _______, không phải vì nó
liên quan đến bản tính của các hữu thể vô tri, mà vì lý trí để ban hành nó một
cách xác đáng là tài năng thuộc về _________ con người” (số 1955). “Luật tự
nhiên, hiện diện nơi _______ của mỗi người và do _______ thiết lập, có những qui
định phổ quát, với một thẩm quyền bao gồm tất cả mọi người. Nó nói lên ________
con người và xác định nền tảng cho các _______ và nghĩa vụ căn bản của họ” (số
1956). “Không phải mọi người thấy được ______ và thấy được __________ các qui
định của luật tự nhiên. Trong hiện trạng của mình, con người cần đến ________ và
_________ để mọi người thấy được các chân lý về luân lý và đạo lý một cách dễ
dàng, chắc chắn và không lẫn lộn” (số 1960).
2. “Luật Cũ là bước đầu của Luật Mạc Khải. Các chỉ thị luân lý của Luật Cũ được gồm tóm trong _________. Các qui định của Thập Giới đặt nền cho ơn gọi của con người được hình thành theo hình ảnh Thiên Chúa; những qui định ấy cấm đoán những gì phản lại tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, cùng ấn định những gì chính yếu cho tình yêu này. Thập Giới là ánh sáng chiếu soi _________ mọi người, để họ ________ lời mời gọi và đường lối của Thiên Chúa, cũng như để ________ họ khỏi sự dữ”. (số 1962)
3. “Luật ________ đòi chúng ta phải dứt khoát chọn giữa hai con đường và phải thực hành lời Chúa. Nó được tóm gọn trong Khuôn Vàng Thước Ngọc là điều gì các con muốn người ta cho các con thì các con cũng hãy làm như thế cho họ; đó là lề luật và lời các tiên tri. Tất cả Luật Phúc Âm được chất chứa nơi __________ Chúa Giêsu dạy, là hãy yêu thương như Người đã yêu thương chúng ta”. (số 1970)
4. “Việc ______ làm con người dứt bỏ
tội lỗi là những gì phản lại tình yêu của Thiên Chúa, và thanh tẩy tâm trí họ
khỏi tội lỗi...” (số 1990). “Chính trong Giáo Hội mà Kitô hữu hoàn tất ơn gọi
của mình. Họ lãnh nhận từ Giáo Hội _____ , ...______ của các bí tích để nâng đỡ
họ tiến bước... gương thánh đức qua chứng từ đích thực của các người đã sống” (số
2030).
(ân sủng, làm lành, luân lý, Lời Chúa, công chính hóa,
giới răn mới, Phúc Âm, tự nhiên, bản tính, ngăn ngừa, biết được, tâm can, lý trí,
lương tri, Mười Điều Răn, phẩm giá, quyền lợi, rõ ràng, ngay lập tức, mạc khải
và ân sủng)