Bài Giáo Lý số 35
CHỚ LÀM SỰ DÂM DỤC VÀ CHỚ MUỐN VỢ CHỒNG NGƯỜI
Luật Chúa: Điều Sáu Và Chín
(các số 2331-2400; 2514-2533)
CẢM NGHIỆM NHÂN SINH
Nếu có những việc tự nó là lành, như việc tôn thờ cầu
nguyện, làm phúc bố thí, nhịn nhục thứ tha, hy sinh giúp đỡ v.v. thì cũng có
những việc tự nó là dữ, như việc ươn lười tắc trách, cờ bạc nghiện hút, cướp của
giết người, bất công gian lận v.v. Ngoài ra, cũng có những việc theo bản chất
của chúng là tốt, như những việc liên quan đến thể dục, sinh dục và trí dục. Tuy
nhiên, theo kinh nghiệm cho thấy, những việc lành (đạo đức và bác ái), nhất là
những việc tốt (sinh tồn và phát triển) này thường hay bị con người biến thành
những việc xấu. Ở chỗ, họ lạm dụng những việc ấy để tìm cầu thỏa mãn cho riêng
bản thân của họ một cách bất hợp pháp hay trái với nguyên tắc luân lý phổ quát.
Chẳng hạn như việc họ làm phúc bố thí để được tiếng khen là một con người đạo
đức thánh thiện, tức nếu không vì danh tiếng của mình sẽ chẳng bao giờ làm việc
này, bởi thế, nếu làm mà bị chê chắc chắn sẽ bỏ không làm nữa. Việc sinh dục
cũng vậy, con người không phải là không có những hành động lạm dụng nó để thỏa
mãn đòi hỏi thú tính của mình hơn là nhắm đến việc truyền sinh trong đời sống
hôn nhân. Bởi đó mới có những hành động gọi là thủ dâm, gian dâm, ngoại dâm,
hiếp dâm, khiêu dâm, mại dâm, loạn dâm v.v., những hành động mà lương tâm chân
chính nói chung và Bản Thập Giới nói riêng gọi là những việc xác thịt tội lỗi,
vì những việc này nghịch lại với ý định của Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên con
người theo hình ảnh Ngài và tương tự như Ngài (xem GL số 2331) để họ có thể sống
theo ơn gọi yêu thương và hiệp thông như Ngài muốn, nhờ đó, thần lực dồi dào
phong phú của Ngài được thể hiện nơi việc nên một xác thịt của họ (xem GL số
2335).
Thật vậy, về vấn đề sinh dục của con người liên quan đến Giới Luật Thứ Sáu và
Thứ Chín trong Thập Giới của Thiên Chúa, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã cho
thấy ba vấn đề chính yếu, hai vấn đề đầu chẳng những liên quan đến tính cách
sống thanh sạch trọn vẹn của từng cá nhân con người mà còn liên quan đến cả mối
liên hệ sâu xa trong đời hôn nhân của họ nữa (điều răn 6), và vấn đề thứ ba liên
quan đến chính lòng tinh tuyền của họ làm cho họ có thể sống thanh sạch trong
đời hôn nhân (điều răn 9).
KIẾN THỨC ĐỨC TIN
1. VẤN ĐỀ SỐNG THANH SẠCH
Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo mọi người đều phải sống thanh sạch (xem số
2348), dù là độc thân, hôn nhân hay tu trì (xem số 2349), cách riêng là đời sống
vợ chồng (xem số 2350), vì ai cũng được kêu gọi “sống thanh sạch ở chỗ chẳng
những hoàn toàn hòa hợp tính dục trong con người mà còn nhờ đó con người được
hiệp nhất nội tại nơi bản thân vừa thể chất vừa linh thiêng của họ nữa. Tính dục,
yếu tố nói lên cho thấy tình trạng con người thuộc về thế giới thể chất và sinh
vật, trở thành nhân bản có tính cách bản vị và thực chất, khi nó được ghép vào
mối liên hệ giữa người này với người kia, trong việc nam nữ trao thân trọn đời
cho nhau. Bởi thế, nhân đức thanh sạch bao gồm tính cách trọn vẹn về con người (xem
các số 2338-2345) cũng như tính cách trọn vẹn về việc trao ban (xem các số
2346-2347)” (số 2337). Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã liệt kê những lỗi phạm
đến đức thanh sạch, nhất là tác động đồng tính luyến ái như sau:
Những Lỗi Phạm Đến Đức Thanh Sạch
• “Dâm dục là ước muốn lăng loàn muốn hưởng lạc thú xác thịt hay việc thụ hưởng
lạc thú xác thịt cách bất chính. Theo luân lý, hưởng lạc thú xác thịt bất chính
đó là việc chỉ hoàn toàn tìm thỏa mãn xác thịt, chứ không nhắm đến mục đích
truyền sinh và phối hợp”. (số 2351)
• “Thủ dâm được hiểu là việc tự mình làm kích thích các bộ phận sinh dục để tìm
thỏa mãn xác thịt… ‘Cả Huấn Quyền của Giáo Hội lẫn cảm quan luân lý của tín hữu
đều không ngần ngại mạnh mẽ chủ trương rằng thủ dâm tự bản chất là hành động hết
sức lăng loàn. Vì bất cứ lý do gì, tự mình sử dụng bộ phận sinh dục ngoài phạm
vi hôn nhân đều thực sự là làm ngược lại với mục đích của bộ phận ấy’. Bởi làm
như thế thì việc hưởng lạc thú xác thịt chỉ xẩy ra ở ngoài ‘mối liên hệ xác thịt
theo phạm vi luân lý đòi hỏi, một liên hệ xác thịt cần phải đạt được tất cả ý
nghĩa của tác động tự hiến thân cho nhau cũng như của việc truyền sinh liên quan
đến tình yêu chân thực’ (Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, Persona humana 9)”. (số 2352)
• “Tà dâm là liên hệ xác thịt giữa một người nam và một người nữ chưa lập gia
đình. Nó là một việc trọng phạm đến phẩm giá của hai con người cũng như đến tính
dục của con người là những gì tự bản chất dành cho thiện ích của đời sống vợ
chồng cũng như của việc truyền sinh và giáo dục con cái. Hơn nữa, nó còn là một
gương mù cả thể khi làm hư giới trẻ”. (số 2353)
• “Khiêu dâm xẩy ra ở chỗ cố ý mang những tác động xác thịt thực sự hay tương tự
của việc nam nữ ái ân đem bầy tỏ ra cho những người khác thấy. Khiêu dâm phạm
đến đức trong sạch vì nó làm bại hoại tác động phối ngẫu, bại hoại việc vợ chồng
thân mật trao thân cho nhau. Nó thực sự làm tổn hại đến phẩm giá của các phần tử
tham phần (như diễn viên, người phổ biến, công chúng), vì mỗi người đều trở
thành đối tượng của việc thỏa mãn hèn hạ cũng như của thứ lợi lộc bất chính cho
nhau. Nó dìm tất cả những ai tham gia vào một thứ ảo tưởng thuộc thế giới giả
tạo. Nó là một vi phạm trầm trọng”. (số 2354)
• “Mại dâm làm tổn hại đến phẩm giá của con người làm việc này, ở chỗ họ biến
mình thành một thứ đồ mua vui cho người hưởng lạc xác thịt. Người hưởng lạc thú
xác thịt cũng trọng phạm đến chính bản thân mình, ở chỗ họ phạm đến đức trong
sạch mà họ đã hứa khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội và làm ô uế thân thể của họ là
đền thờ của Chúa Thánh Thần (x 1Cor 6:15-20)… Mại dâm bao giờ cũng là một trọng
tội…”. (số 2355)
• “Hiếp dâm là việc vi phạm đến sự thân mật xác thịt của người khác một cách ép
buộc. Nó làm tổn thương đến sự công bằng và đức bác ái. Hiếp dâm gây tổn thương
nặng nề đến lòng tôn trọng, đến tự do cũng như đến quyền sống toàn vẹn về thể lý
và về luân lý của con người. Thiệt hại nặng nề do nó gây ra có thể ghi dấu vết
cả đời nơi nạn nhân. Nó tự bản chất bao giờ cũng là một hành động xấu. Việc hiếp
dâm còn nặng hơn nữa nếu gây ra bởi cha mẹ đối với con cái (loạn dâm) hay bởi
những ai có trách nhiệm giáo dục trẻ em được trao phó cho họ”. (số 2356)
Đồng Tính Luyến Aùi
• “Đồng tính luyến ái nghĩa là những liên hệ giữa nam nhân với nhau hay nữ nhân
với nhau, thành phần cảm thấy một sức hấp dẫn phái tính hoàn toàn hay độc chiếm
đối với những người cùng phái tính với mình… Căn cứ vào Thánh Kinh cho thấy
những việc đồng tính luyến ái là những việc suy bại nặng nề, truyền thống bao
giờ cũng khẳng định rằng ‘các việc đồng tính luyến ái tự bản chất là bất chính’.
Chúng phản lại với luật tự nhiên. Chúng ngăn trở tác động xác thịt trong việc
trao ban tặng ân sự sống. Chúng không phát xuất từ mối hỗ tương tình cảm và tình
dục chân chính. Không thể nào chấp nhận chúng trong bất cứ một trường hợp nào”.
(số 2357)
2. VẤN ĐỀ ĐỜI HÔN NHÂN
Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, tình dục chỉ được thực hiện trong tình yêu
hôn nhân vợ chồng mà thôi (xem số 2360), vì hành động tính dục này “’không phải
chỉ là một cái gì thuần sinh lý mà còn liên quan đến cả thực tại thâm sâu của
con người nữa. Nó được thể hiện một cách thực sự nhân bản chỉ khi nào nó là
nguyên tố của một tình yêu khiến con người nam nữ hoàn toàn hiến thân cho nhau
tới chết’ (Tông Huấn Familiaris Consortio, 11)” (số 2361). Bởi thế, hôn ước giữa
hai người nam nữ lập gia đình với nhau “không thể vãn hồi” và “bất khả tháo gỡ”
(xem số 2364). Trái lại, “việc vợ chồng nên một xác thịt” là để “đạt đến mục
đích lưỡng diện (không thể tách rời) của hôn nhân, đó là thiện ích của chính cặp
vợ chồng cũng như của việc truyền sinh” (số 2363). Giáo Lý của Giáo Hội Công
Giáo đã dạy về việc truyền sinh trong hôn nhân cùng những lỗi phạm đến hôn nhân
như sau.
Việc Truyền Sinh Trong Hôn Nhân
• “Việc truyền sinh là một tặng ân, là một mục đích của đời sống hôn nhân, vì
tình yêu hôn nhân tự nhiên hướng đến việc sinh hoa kết trái. Con cái không phải
là một cái gì phát xuất từ bên ngoài để thêm thắt vào mối tình vợ chồng yêu
thương nhau (xem cả số 2378), mà từ chính tâm điểm của việc họ trao thân cho
nhau, như là hoa trái và là tầm mức trọn vẹn của tình yêu này. Bởi vậy, Giáo Hội
‘đứng về phía sự sống’ (Tông Huấn Familiaris Corsotio, 30) dạy rằng ‘mỗi tác
động hôn nhân và mọi tác động hôn nhân tự nó đều phải qui hướng về việc truyền
sinh’ (Thông Điệp Sự Sống Con Người, 11)...”. (số 2366)
• “Điều hòa sinh sản... Vì những lý do chính đáng, vợ chồng được phép cách quãng
việc sinh sản con cái. Họ có phận sự phải bảo đảm là việc họ muốn làm như thế
không phát xuất từ tính vị kỷ mà là phù hợp với lòng quảng đại xứng đáng trách
nhiệm làm cha mẹ của họ. Hơn nữa, họ phải làm sao cho tác hành của họ phù hợp
với tiêu chuẩn luân lý khách quan nữa: Khi có vấn đề liên quan đến việc hòa hợp
tình yêu hôn nhân với việc truyền sinh thì tính cách luân lý của tác hành không
chỉ lệ thuộc nguyên vào ý định chân thành cũng như vào việc thẩm định những động
lực tác hành; song nó phải được xác định bởi tiêu chuẩn khách quan, một tiêu
chuẩn phát xuất từ bản tính của con người và từ hành động của họ, một tiêu chuẩn
tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn của việc tự hiến thân cho nhau cũng như của việc
truyền sinh loài người liên quan đến tình yêu chân thực....” (số 2368)
• “Việc tiết dục từng lúc, tức là những phương pháp điều hòa sinh sản dựa trên
việc tự giữ mình và lợi dụng những thời kỳ không thụ thai, là việc hợp với qui
tắc khách quan của luân lý (x Thông Điệp Sự Sống Con Người, 12). Những phương
pháp này tôn trọng thân xác của đôi phối ngẫu, tăng thêm niềm ưu ái cho họ, và
thuận lợi cho việc huấn luyện niềm tự do chân chính. Trái lại, tự bản chất là
xấu đối với ‘mọi hành động, trước hay sau tác động vợ chồng, hoặc đang lúc phát
triển hoa trái của tác động này, tỏ ra muốn ngăn trở việc truyền sinh, dù là mục
đích hay phương tiện’ (Thông Điệp Sự Sống Con Người, 14)”. (số 2370)
• “Những kỹ thuật gây phân rẽ vợ chồng, (hiến tinh trùng hay noãn sào hoặc cho
mượn tử cung), bằng cách xen vào một người không phải là chính đôi phối ngẫu đều
là những việc hết sức vô luân. Những kỹ thuật này (thụ tinh và đậu thai nhân tạo
không phải của chồng) đều phạm đến quyền của đứa nhỏ phải được sinh ra bởi cha
mẹ thật của mình trong đời sống hôn nhân. Chúng phản lại với đôi phối ngẫu nơi
‘quyền trở thành cha mẹ chỉ ở nơi nhau mà thôi’ (Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, Donum
vitae II, 1)”. (số 2376)
• “Những kỹ thuật chỉ dính dáng đến đôi phối ngẫu (thụ tinh và đậu thai nhân tạo
của chồng) có thể ít tai hại hơn song theo luân lý vẫn không chấp nhận được.
Chúng phân rẽ tác động vợ chồng ra khỏi tác động truyền sinh. Tác động sinh sản
con cái không còn là tác động hai người trao thân cho nhau nữa, mà là tác động
‘ký thác sự sống cùng bản chất của bào thai vào quyền lực của các vị bác sĩ cũng
như của các chuyên viên sinh vật học, và khiến cho kỹ thuật nắm chủ quyền trên
nguồn gốc và định mệnh của con người…”. (số 2377)
Những Lỗi Phạm Đến Hôn Nhân
• “Ngoại tình liên quan đến vấn đề bất trung trong đời sống hôn nhân. Khi hai
người có liên hệ xác thịt với nhau, ít là một trong hai đã lập gia đình với một
người khác, thì cả hai người này đã phạm tội ngoại tình, dù chỉ trong chốc lát.
Chúa Kitô đã lên án ngoại tình dù chỉ trong tâm tưởng (x Mt 5:27-28). Giới răn
thứ sáu và Tân Ước tuyệt đối cấm chỉ hành động ngoại tình (x Mt 5:32, 19:6; Mk
10:11; 1Cor 6:9-10). Các tiên tri đã cáo giác mức độ nặng nề của tội ngoại tình;
các vị coi nó như là một hình ảnh của tội tôn thờ ngẫu tượng (x Hos 2:7; Jer
5:7, 13:27)”. (số 2380)
• “Được phép ly thân vợ chồng mà vẫn giữ sự liên hệ hôn nhân trong một số trường
hợp căn cứ vào qui định của giáo luật (x các khoản 1151- 1155). Nếu việc ly dị
theo luật đời là cách duy nhất để có thể bảo toàn một số quyền lợi hợp pháp, như
quyền coi sóc con cái hay quyền bảo vệ gia sản thì được mạn phép làm mà không vi
phạm gì đến luân lý”. (số 2383)
• “Ly dị là một vi phạm nặng nề đến luật tự nhiên. Nó đòi phá hủy giao ước được
đôi phối ngẫu tự tình đồng ý sống với nhau cho đến chết. Ly dị thực sự gây tổn
thương đến giao ước cứu độ mà bí tích hôn phối là dấu chỉ. Lập gia đình nữa, cho
dù có được luật dân sự công nhận, càng làm cho cuộc đổ vỡ thêm trầm trọng hơn, ở
chỗ người phối ngẫu tái giá bấy giờ ở vào tình trạng công khai và vĩnh viễn
ngoại tình” (số 2384). “Ly dị là bất luân còn bởi vì nó làm cho gia đình và xã
hội hỗn loạn. Tình trạng hỗn loạn này gây tổn hại nặng nề cho người phối ngẫu bị
bỏ rơi, cho con cái bị chấn động do việc cha mẹ chúng phân ly và thường bị cha
mẹ giành giật, cũng như bởi vì hậu quả lây nhiễm của nó làm cho nó thật sự trở
thành một nạn dịch của xã hội” (số 2385).
• “Đa thê là việc không hợp với lề luật luân lý. ‘Mối hiệp thông (phối ngẫu)
hoàn toàn nghịch lại với vấn đề đa thê; thật vậy, vấn đề này trực tiếp phủ nhận
ý định của Thiên Chúa được mạc khải cho thấy ngay từ ban đầu, vì nó nghịch lại
với phẩm giá bản vị bình đẳng giữa người nam và người nữ, thành phần hiến thân
cho nhau trong đời sống hôn nhân bằng một tình yêu trọn vẹn cũng là một tình yêu
đặc thù và chuyên nhất’ (Tông Huấn Familiaris Consortio, 19, xem Hiến Chế
Gaudium et Spes, 47.2)”. (số 2387)
• “Loạn luân ám chỉ đến việc liên hệ xác thịt giữa họ hàng ruột thịt với nhau
hay với xui gia ở cấp hệ không được phép lấy nhau (x Lev 18:7-20).”. (số 2388)
• “Đối với cái gọi là tự do phối ngẫu, nam nữ không chấp nhận thể thức ràng buộc
công khai về pháp lý trong việc ăn ở vợ chồng... Thứ tự do phối ngẫu này bao gồm
trường hợp như vợ lẽ, không chịu kết hôn vì ràng buộc, hay không thể dấn thân
lâu bền. Tất cả những trường hợp này phạm đến phẩm giá gia đình... nghịch với
luật luân lý...” (số 2390).
• “Ngày nay có một số người đòi ‘quyền thử hôn’ với chủ ý là sẽ lập gia đình sau
đó. Cho dù mục đích của những ai dính dáng đến việc tiền dâm có mạnh mẽ thế nào
đi nữa, ‘sự thật vẫn là những liên hệ này khó lòng bảo đảm được tính cách chân
tình và trung thành với nhau trong tương quan nam nữ, nhất là chúng cũng không
bảo vệ mối tương quan này khỏi tính cách bất nhất của ước muốn hay đột hứng‘ (Thánh
Bộ Tín Lý Đức Tin, Persona humana 7). Việc hiệp nhất xác thịt chỉ hợp pháp theo
luân lý khi nào thực sự có một cộng đồng sự sống được thiết lập giữa một người
nam và một người nữ. Tình yêu nhân loại không chấp nhận ‘các cuộc hôn nhân thử’.
Nó đòi hỏi con người phải hoàn toàn và dứt khoát hiến thân cho nhau (x Tông Huấn
Familiaris Corsotio, 80)”. (số 2391)
3. VẤN ĐỀ LÒNG TINH TUYỀN
Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, nếu giới răn thứ sáu liên quan đến hành
động dâm dục về xác thịt thì giới răn thứ chín liên quan đến ước muốn thỏa mãn
xác thịt (xem số 2514), một ước muốn phát xuất từ đam mê nhục dục (xem số 2515),
một ước muốn cần phải được chế ngự chẳng những bằng tấm lòng tinh tuyền bề trong
(xem số 2518 và 2519), mà còn phải được tỏ hiện bằng cả thái độ đoan trang nết
na bề ngoài nữa:
• “Tinh tuyền đòi phải đoan trang nết na, một yếu tố làm nên đức tiết độ. Đoan
trang nết na bảo vệ những gì kín mật nơi con người. Nó không chịu phơi bày ra
những gì cần phải được giữ kín. Nó hướng đến đức trong sạch, một đức trong sạch
được thể hiện nơi chứng từ của nó. Nó giúp con người biết cách nhìn người khác
và đối xử người khác hợp với nhân phẩm con người và tình đoàn kết của mình”. (số
2521)
• “Đức đoan trang bảo vệ mầu nhiệm con người và tình yêu của họ. Nó làm cho con
người nhẫn nại và điều hòa trong những liên hệ yêu đương; nó đòi nam nữ phải
hoàn tất điều kiện trao ban và dấn thân dứt khoát cho nhau. Đoan trang là nết na.
Nó khuyến khích con người trong việc chọn lựa quần áo. Nó giữ thinh lặng hay giữ
mình nơi có những nguy hiểm về óc tò mò không lành mạnh. Nó là sự kín đáo”. (số
2522)
• “Đức đoan trang được thể hiện ở cảm xúc cũng như ở thân xác. Chẳng hạn như
việc nó chống lại những khai thác về nhãn quan thích ngắm nhìn thân thể con
người ở một số những quảng cáo, hay chống lại những khêu gợi của một số phương
tiện truyền thông đi quá xa đến chỗ phơi bầy ra những điều thân mật kín đáo. Đức
đoan trang khuyến khích lối sống giúp chống lại những kiểu khêu gợi của thời
trang và những chi phối của các ý thức hệ cực thịnh”. (số 2523)
TÓM LẠI:
Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo mọi người đều phải sống thanh sạch (xem số
2348), dù là độc thân, hôn nhân hay tu trì (xem số 2349), cách riêng là đời sống
vợ chồng (xem số 2350), vì ai cũng được kêu gọi “sống thanh sạch ở chỗ chẳng
những hoàn toàn hòa hợp tính dục trong con người mà còn nhờ đó con người được
hiệp nhất nội tại nơi bản thân vừa thể chất vừa linh thiêng của họ nữa. Tính dục,
yếu tố nói lên cho thấy tình trạng con người thuộc về thế giới thể chất và sinh
vật, trở thành nhân bản có tính cách bản vị và thực chất, khi nó được ghép vào
mối liên hệ giữa người này với người kia, trong việc nam nữ trao thân trọn đời
cho nhau. Bởi thế, nhân đức thanh sạch bao gồm tính cách trọn vẹn về con người (xem
các số 2338-2345) cũng như tính cách trọn vẹn về việc trao ban (xem các số
2346-2347)” (số 2337). Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã liệt kê những lỗi phạm
đến đức thanh sạch, như dâm dục, thủ dâm, tà dâm, khiêu dâm, mại dâm và hiếp dâm
(xem các số 2351-2356), nhất là tác động đồng tính luyến ái (số 2357). Theo Giáo
Lý của Giáo Hội Công Giáo, tình dục chỉ được thực hiện trong tình yêu hôn nhân
vợ chồng mà thôi (xem số 2360), vì hành động tính dục này “’không phải chỉ là
một cái gì thuần sinh lý mà còn liên quan đến cả thực tại thâm sâu của con người
nữa. Nó được thể hiện một cách thực sự nhân bản chỉ khi nào nó là nguyên tố của
một tình yêu khiến con người nam nữ hoàn toàn hiến thân cho nhau tới chết’ (Tông
Huấn Familiaris Consortio, 11)” (số 2361). Bởi thế, hôn ước giữa hai người nam
nữ lập gia đình với nhau “không thể vãn hồi” và “bất khả tháo gỡ” (xem số 2364).
Trái lại, “việc vợ chồng nên một xác thịt” là để “đạt đến mục đích lưỡng diện (không
thể tách rời) của hôn nhân, đó là thiện ích của chính cặp vợ chồng cũng như của
việc truyền sinh” (số 2363). Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy về việc
truyền sinh trong hôn nhân (xem các số 2366, 2368, 2370, 2376-2377) cùng những
nghịch phạm đến hôn nhân (xem các số 2380, 2383, 2385, 2387-2388, 2390-2391).
Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, nếu giới răn thứ sáu liên quan đến hành
động dâm dục về xác thịt thì giới răn thứ chín liên quan đến ước muốn thỏa mãn
xác thịt (xem số 2514), một ước muốn phát xuất từ đam mê nhục dục (xem số 2515),
một ước muốn cần phải được chế ngự chẳng những bằng tấm lòng tinh tuyền bề trong
(xem số 2518 và 2519), mà còn phải được tỏ hiện bằng cả thái độ đoan trang nết
na bề ngoài nữa (xem các số 2521-2523).
THÂM TÍN SỐNG ĐẠO
1. Tác động xác thịt chỉ dành cho đời sống vợ chồng và hướng về vấn đề truyền
sinh, bằng không tác động này sẽ trở thành những việc làm tội lỗi, xấu xa, vì
phản lại với ý định của Thiên Chúa về hôn nhân khi Ngài tạo dựng nên con người
có nam có nữ.
2. Những tác động xác thịt phản lại với ý định của Thiên Chúa trong vấn đề hôn
nhân, chẳng những là những tác động liên quan đến chính việc làm dâm ô bề ngoài
mà còn liên quan đến cả các thứ ước muốn nhục dục bề trong nữa.
3. Bởi thế, muốn giữ mình trong sạch theo bậc sống của mình, tu trì, hôn nhân
hay độc thân, con người xác thịt cần phải có một tấm lòng tinh tuyền bề trong,
một tấm lòng tinh tuyền được thể hiện sống động nhất bằng tác hành đoan trang
nết na bề ngoài.
Trắc Nghiệm
Xin đọc bài Giáo Lý lược tóm tổng ôn dưới đây, rồi dùng
các chữ ở cuối trang để điền vào những chỗ gạch trống các câu Sách Giáo Lý vừa
học hỏi cho đúng nguyên văn ý nghĩa của nó. Trong vòng 10 phút.
Qua bài Giáo Lý 35 về Luật Chúa Chớ Làm Sự Dâm Dục và Muốn Vợ Chồng Người, Giáo
Hội Công Giáo đã cho con cái của mình thấy những điểm chính sau đây: Theo Giáo
Lý của Giáo Hội Công Giáo mọi người đều phải sống thanh sạch (xem số 2348), dù
là độc thân, hôn nhân hay tu trì (xem số 2349), cách riêng là đời sống vợ chồng
(xem số 2350), vì ai cũng được kêu gọi “sống thanh sạch ở chỗ chẳng những hoàn
toàn hòa hợp tính dục trong con người mà còn nhờ đó con người được hiệp nhất nội
tại nơi bản thân vừa thể chất vừa linh thiêng của họ nữa. Tính dục, yếu tố nói
lên cho thấy tình trạng con người thuộc về thế giới thể chất và sinh vật, trở
thành nhân bản có tính cách bản vị và thực chất, khi nó được ghép vào mối liên
hệ giữa người này với người kia, trong việc nam nữ trao thân trọn đời cho nhau.
Bởi thế, nhân đức thanh sạch bao gồm tính cách trọn vẹn về con người (xem các số
2338-2345) cũng như tính cách trọn vẹn về việc trao ban (xem các số 2346-2347)”
(số 2337). Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã liệt kê những lỗi phạm đến đức
thanh sạch, như dâm dục, thủ dâm, tà dâm, khiêu dâm, mại dâm và hiếp dâm (xem
các số 2351-2356), nhất là tác động đồng tính luyến ái (số 2357). Theo Giáo Lý
của Giáo Hội Công Giáo, tình dục chỉ được thực hiện trong tình yêu hôn nhân vợ
chồng mà thôi (xem số 2360), vì hành động tính dục này “không phải chỉ là một
cái gì thuần sinh lý mà còn liên quan đến cả thực tại thâm sâu của con người nữa.
Nó được thể hiện một cách thực sự nhân bản chỉ khi nào nó là nguyên tố của một
tình yêu khiến con người nam nữ hoàn toàn hiến thân cho nhau tới chết” (số
2361). Bởi thế, hôn ước giữa hai người nam nữ lập gia đình với nhau “không thể
vãn hồi” và “bất khả tháo gỡ” (xem số 2364). Trái lại, “việc vợ chồng nên một
xác thịt” là để “đạt đến mục đích lưỡng diện (không thể tách rời) của hôn nhân,
đó là thiện ích của chính cặp vợ chồng cũng như của việc truyền sinh” (số 2363).
Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy về việc truyền sinh trong hôn nhân (xem
các số 2366, 2368, 2370, 2376-2377) cùng những nghịch phạm đến hôn nhân (xem các
số 2380, 2383, 2385, 2387-2388, 2390-2391). Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo,
nếu giới răn thứ sáu liên quan đến hành động dâm dục về xác thịt thì giới răn
thứ chín liên quan đến ước muốn thỏa mãn xác thịt (xem số 2514), một ước muốn
phát xuất từ đam mê nhục dục (xem số 2515), một ước muốn cần phải được chế ngự
chẳng những bằng tấm lòng tinh tuyền bề trong (xem số 2518 và 2519), mà còn phải
được tỏ hiện bằng cả thái độ đoan trang nết na bề ngoài nữa (xem các số
2521-2523).
“Dâm dục là ước muốn lăng loàn muốn hưởng lạc thú xác thịt hay việc thụ hưởng
lạc thú xác thịt cách _________. Theo luân lý, hưởng lạc thú xác thịt bất chính
đó là việc chỉ __________tìm thỏa mãn xác thịt, chứ không nhắm đến mục đích
truyền sinh và phối hợp” (số 2351); “Thủ dâm được hiểu là việc tự mình làm
_____________các bộ phận sinh dục để tìm thỏa mãn xác thịt… Vì bất cứ lý do gì,
tự mình sử dụng bộ phận sinh dục ngoài phạm vi ____________đều thực sự là làm
ngược lại với mục đích của bộ phận ấy.” (số 2352); “Tà dâm là liên hệ xác thịt
giữa một người nam và một người nữ______________. Nó là một việc trọng phạm đến
phẩm giá của hai con người cũng như đến tính dục của con người là những gì tự
bản chất dành cho thiện ích của đời sống vợ chồng cũng như của việc ____________và
giáo dục con cái. Hơn nữa, nó còn là một gương mù cả thể khi làm hư giới trẻ” (số
2353); “Khiêu dâm xẩy ra ở chỗ cố ý mang những tác động xác thịt thực sự hay
tương tự của việc nam nữ ái ân đem _____________cho những người khác thấy. Khiêu
dâm phạm đến đức trong sạch vì nó làm bại hoại tác động phối ngẫu, bại hoại việc
vợ chồng thân mật trao thân cho nhau. Nó thực sự làm tổn hại đến phẩm giá của
các phần tử _______________(như diễn viên, người phổ biến, công chúng), vì mỗi
người đều trở thành ______________của việc thỏa mãn hèn hạ cũng như của thứ lợi
lộc bất chính cho nhau. Nó là một vi phạm trầm trọng” (số 2354); “Đồng tính
luyến ái nghĩa là những liên hệ giữa nam nhân với nhau hay nữ nhân với nhau,
thành phần cảm thấy một sức hấp dẫn phái tính hoàn toàn hay độc chiếm đối với
những người ______________với mình…” (số 2357). “Ngoại tình liên quan đến vấn đề
bất trung trong đời sống hôn nhân. Khi hai người có liên hệ xác thịt với nhau,
ít là một trong hai đã _________với một người khác, thì _____________này đã phạm
tội ngoại tình, dù chỉ trong chốc lát” (số 2380). “Tinh tuyền đòi phải đoan
trang nết na, một yếu tố làm nên đức___________. Đoan trang nết na bảo vệ những
gì kín mật nơi con người. Nó không chịu ___________ra những gì cần phải được giữ
kín. Nó hướng đến đức trong sạch, một đức trong sạch được thể hiện nơi chứng từ
của nó. Nó giúp con người biết cách nhìn người khác và đối xử người khác hợp với
__________con người và tình đoàn kết của mình”. (số 2521)
(nhân phẩm, bất chính, hoàn toàn, phơi bày, tiết độ,
kích thích, hôn nhân, cả hai người, lập gia đình, chưa lập gia đình, truyền sinh,
cùng phái tính, đối tượng, bầy tỏ ra, tham phần)