|
YÊU THƯƠNG LÀ BẢN TÍNH HOÀN THIỆN
YÊU THƯƠNG LÀ MỘT MẦU NHIỆM
Nói đến yêu thương là nói đến một mầu nhiệm, chẳng
khác gì như một mầu nhiệm về thần linh, một mầu nhiệm con người hầu như
không thể nào hiểu được. Đó là lý do người ta vốn nói ai có thể định nghĩa
được tình yêu. “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”, thi sĩ Xuân Diệu đã mở
đầu bài thơ Vì Sao của mình như thế. Và chính vì yêu thương là một mầu
nhiệm như thế, nên những kẻ yêu như lạc vào một chốn thiên thai, một vùng
trời không lối thoát.
Thi sĩ Hồ Dzếnh đã diễn tả cái lẩn quẩn của yêu thương trong bài Lỡ Hẹn
thế này:
“Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Anh sẽ trách cố nhiên nhưng rất nhẹ.
Nếu trót đi em hãy gắng quay về.
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề.
Tình chỉ đẹp khi tình còn dang dở”.
Robert Browing cũng cảm nhận được cái trò ma quái của yêu thương trong bài
thơ Yêu Là Sống như sau:
“Định trốn anh sao? Đừng cưng nhé!
Em là em anh vẫn sẽ là anh.
Khi địa cầu còn chứa đựng chúng mình.
Thì hai đưa vẫn chơi trò cút bắt”.
Nguyễn Bính trong bài thơ Ghen đã diễn tả cái mộng tưởng yêu thương là
chiếm đoạt thế này:
“Cô nhân tình bé của tôi ơi,
tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười,
những lúc có tôi và mắt chỉ,
nhìn tôi trong lúc tôi xa xôi…
Thế là ghen quá đấy mà thôi.
Thế nghĩa là yêu quá mất rồi.
Và nghĩa là cô là tất cả.
Cô là tất cả của riêng tôi”.
Thật vậy, chính vì yêu thương là một mầu nhiệm, một mầu nhiệm lại hết sức
tỏ tường và hiện thực nơi mỗi một con người, đến nỗi trí khôn không thể
hiểu được lý lẽ của ci lòng, yêu thương mới kích thích con người tìm hiểu
nó, nhưng không phải tìm hiểu bằng lý trí, mà bằng cả cảm nghiệm của con
tim. Thi sĩ Xuân Diệu đã diễn tả cảm nghiệm của mình về ý nghĩa yêu thương
“Yêu là chết ở trong lòng một ít” trong bài thơ Yêu Là Chết. Người Pháp
cũng chia sẻ cảm nghiệm về ý nghĩa yêu thương bằng câu định nghĩa yêu là
cho: “Aimé c’est donné”.
YÊU LÀ CHO, YÊU LÀ CHẾT
Vẫn biết còn nhiều câu định nghĩa khác về yêu
thương, như “yêu là cùng nhìn về một hướng”. Nhưng thiết nghĩ câu định
nghĩa trên của Xuân Diệu và của Người Pháp cũng đủ cho thấy những gì căn
bản nhất về yêu thương. Trước hết, “yêu là chết ở trong lòng một ít”. Câu
định nghĩa này thật sự không nói lên được cái mãnh lực mạnh hơn sự chết
của yêu thương, một khi chưa yêu hoàn toàn. “Yêu là chết ở trong lòng một
ít”, chứ không phải chết “nhiều tí”, chết hoàn toàn, không sống được nếu
không yêu, thì tình yêu này mới là tình yêu chớm nở, tình yêu một chiều,
tình yêu ngập ngừng, tình yêu cân nhắc, đúng như Xuân Diệu diễn tả trong
cùng bài thơ Yêu Là Chết của mình:
“Yêu là chết ở trong lòng một ít.
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu.
Cho rất nhiều nhưng chẳng được bao nhiêu.
Người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết”.
Đúng thế, vì “yêu là cho”, như Người Pháp cảm nghiệm về yêu thương, mà nếu
cho ít hay cho rụt rè sợ lỗ theo kiểu Yêu Là Chết của Xuân Diệu thì quả
thực “yêu là chết ở trong lòng một ít” thôi, chứ không nhiều lắm. Trái
lại, nếu Yêu Là Cho, cho hoàn toàn, cho tất cả, cho như kiểu Ghen của
Nguyễn Bính: “Và nghĩa là cô là tất cả. Cô là tất cả của riêng tôi”, thì
người ta có thể Ghen đến độ tạt át xít vào mặt tình địch như đã từng xẩy
ra một vụ đánh ghen nổi tiếng ở Sài Gòn vào đầu thập niên 1960 ngày xưa.
Tuy nhiên, “yêu chính là cho” theo kiểu tạt át xít như thế không phải là
cho mà là đòi thì đúng hơn. Kinh nghiệm tâm lý cho thấy khi thực sự yêu
nhau, người ta có thể sẵn sàng cho nhau tất cả mọi sự, kể cả trinh tiết
hay danh giá, gia tài và sự nghiệp v.v. Thế nhưng, kinh nghiệm thực tế
cũng phũ phàng cho thấy, nếu “cho rất nhiều nhưng chẳng được bao nhiêu.
Người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết” như Xuân Diệu cảm nhận, thì tình yêu
sẽ trở thành hận thù: “yêu nhau lắm cắn nhau đau” là thế!
Bởi vậy, câu định nghĩa “Yêu Là Chết” của Xuân Diệu và “Yêu Là Cho” của
Người Pháp mới chỉ diễn tả phần nào ý nghĩa khiếm diện của mầu nhiệm yêu
thương mà thôi, chứ chưa hoàn toàn nói lên được cốt li đích thực hay chân
dung sống động của yêu thương. Dầu sao, hai câu định nghĩa này, một câu
nhấn mạnh đến tình trạng khổ đau bất khả thoát của yêu thương: “Yêu Là
Chết”, và một câu đề cao tác động hy sinh bất khả thiếu của yêu thương:
“Yêu Là Cho”, cả hai cũng đồng qui ở một điểm đó là mối hiệp thông. Thật
vậy, nói đến yêu thương là nói đến hiệp thông; nếu không hiệp thông thì
không thể nói đến yêu thương. Tác động “chết” hay “cho” đều chứng thực hết
sức thực tế về mối hiệp thông nội tâm sâu xa này. Nếu không yêu thương thì
đâu có cảm thấy khổ, dù chỉ “chết ở trong lòng một ít”. Và nếu không yêu
cũng đâu có thể nào dám dấn thân hy sinh cho nhau, đến nỗi có thể đi đến
chỗ chết cho nhau hay chết vì nhau, như câu truyện ngắn Anh Phải Sống của
nhà văn Khái Hưng cho thấy, hay như trường hợp của Maximilianô Kolbe người
Balan, tù nhân mang số 16670 ở trại Auschwitz đã hy sinh chết vào năm 1941
thay cho một người cha bị xử tử vì tội trốn ngục là ông Francois
Gajawniczek. Thực tế còn cho thấy những cặp tình nhân, biết được chắc chắn
họ không thể nào chung sống trọn đời với nhau, đã cùng nhau tự tử để không
gì làm họ có thể xa cách nhau và không bao giờ họ bị cách xa nhau, như
những vụ tự tử song nguyền vẫn thường xẩy ra ở Suối Lồ Ồ thuộc Quận Thủ
Đức Việt Nam trong thập niên 1960 ngày xưa.
YÊU THƯƠNG CHÍNH LÀ HIỆP THÔNG
Như thế, yêu thương chính là hiệp thông, một mối
hiệp thông được thể hiện cụ thể qua đời sống hôn nhân gia đình. Và cũng
chính vì yêu thương là hiệp thông như thế mà con người mới có phái tính
nam nữ để có thể hướng về nhau, thu hút nhau, tìm đến nhau, và nên một với
nhau. Thánh Kinh Do Thái Giáo, ngay ở đoạn cuối của chương thứ hai cuốn
Sáng Thế Ký, đã cho thấy thực tại yêu thương chính là hiệp thông như thế
này: “Chúa là Thiên Chúa phán con người ở một mình không tốt. Ta sẽ dựng
nên cho nó một đồng bạn xứng hợp với nó… Vậy Chúa là Thiên Chúa làm cho
con người chìm vào một giấc ngủ say, để rồi trong khi con người ngủ, Ngài
đã rút lấy một trong những xương sườn của con người, lấy thịt đắp vào chỗ
chiếc xương sườn được Ngài lấy đi ấy. Đoạn Chúa là Thiên Chúa làm chiếc
xương sườn Ngài đã lấy từ con người thành một người nữ. Khi Ngài đem người
nữ đến cho con người, con người đã nói: ‘Cuối cùng người này mới là xương
bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi’… Đó là lý do tại sao người nam bỏ cha mẹ
mình mà gắn bó với vợ, và cả hai trở nên một thân thể”.
Phải chăng vì tự nhiên cảm nhận được thực tại yêu thương chính là hiệp
thông, là “trở nên như một thân thể”, đúng như mạc khải thần linh được
Thánh Kinh Do Thái Giáo ghi nhận trên đây, mà tục lệ hôn nhân Á Đông, như
ở Trung Hoa và Việt Nam, đã cho phép vợ chồng gọi nhau là “anh - em”,
“huynh – muội”, kiểu gọi nhau có tính cách ruột thịt như anh em cùng một
mẹ cha, kiểu “anh em như thể tay chân”, thậm chí còn được gọi nhau là
“mình”, là chính thân thể của nhau, hết sức thân mật, hết sức hiệp thông.
Nếu yêu thương chính là hiệp thông và thực sự là hiệp thông thì tất cả
những thứ tình yêu nào không đưa con người đến chỗ thực sự hiệp thông thì
không phải là tình yêu chân chính, mà chỉ là một thứ xúc động tình cảm mau
qua hay một thứ nhu cầu tình dục đòi hỏi thôi.
Hiện tượng và trào lưu ly dị ngày nay hoàn toàn phản lại với bản chất yêu
thương chính là hiệp thông và thực sự là hiệp thông, do đó, những cuộc hôn
nhân “anh đi đường anh tôi đi đường tôi, tình nghĩa đôi ta có thể thôi”
hết sức phổ thông ngày nay không phải là yêu thương, hay chỉ là một cuộc
yêu thương không đích thực. Chính vì thế, lịch sử cho thấy, sau khi hôn
nhân được luật pháp nới rộng cho phép ly dị từ thập niên 1960 tại Âu Mỹ,
thì phong trào phá thai cũng đã được luật pháp bảo vệ từ đầu thập niên
1970. Việc trùng hợp trước sau hết sức ăn khớp với nhau này giữa hiện
tượng ly dị và phá thai đã không chứng thực nhận định vừa rồi hay sao:
“Nếu yêu thương chính là hiệp thông và thực sự là hiệp thông thì tất cả
những thứ tình yêu nào không đưa con người đến chỗ thực sự hiệp thông thì
không phải là tình yêu chân chính, mà chỉ là một thứ xúc động tình cảm mau
qua hay một thứ nhu cầu tình dục đòi hỏi thôi”?
HIỆP THÔNG LÀ NHẬN BIẾT NHAU
Thế nhưng, vấn đề ở đây là, nếu không yêu nhau thì
làm sao người ta có thể lấy nhau được, và đã lấy nhau rồi thì làm sao
người ta lại bỏ nhau như thế? Chẳng lẽ họ chưa yêu, hay yêu lầm, hoặc yêu
vội? Văn minh ngày nay không còn chỗ đứng cho tục lệ “cha mẹ đặt đâu con
ngồi đó” nữa. Ấy thế mà trong chính lúc người ta có quyền tự do luyến ái
và lập gia đình với nhau, người ta lại động một tí là bỏ nhau, là ly dị
nhau? Phải chăng người ta chưa tìm hiểu nhau cho tường tận, cho kỹ lưỡng?
Về chung sống vợ chồng với nhau rồi mới biết bộ mặt thật của nhau, mới
biết con người trần trụi của nhau? Đó là lý do chúng ta thường hay nghe
thấy những câu nói thoát ra từ cửa miệng của một người đã lập gia đình cả
chục năm hay mấy chục năm: “Bây giờ tôi mới hiểu anh ấy” hay “đến bây giờ
tôi mới biết nhà tôi” v.v. Vậy cái biết lúc đầu khi mới quen nhau, khi mới
tìm hiểu nhau, trước khi lấy nhau, và cái biết bấy giờ, cái biết sau khi
lấy nhau được một thời gian, khác nhau ở chỗ nào, nếu không phải chỉ khác
nhau về cấp độ hiểu biết nơi chủ thể yêu, hơn là khác nhau nơi cùng một
đối tượng yêu. Có thể nói, yêu thương là tiến trình hiểu biết dẫn đến hiệp
thông.
Thật ra, chính yếu tố “biết nhau” cũng là một chứng từ cho thấy yêu thương
chính là hiệp thông và thực sự là hiệp thông. Đúng thế, trước khi tiến đến
tình trạng hiệp thông ngoại tại với đối tượng yêu, ở chỗ, “cả hai nên một
thân thể”, Mạc Khải Thần Linh trong Thánh Kinh Do Thái Giáo cho thấy mối
hiệp thông này đã có sẵn ngay ở nội tại của con người, khi con người bộc
lộ cái ý thức của mình về đối tượng yêu: “người này mới là xương bởi xương
tôi, thịt bởi thịt tôi”. Như thế, tình trạng hiệp thông ngoại tại, hiệp
thông bề ngoài là hiện thực, là phản ảnh của nhận thức hiệp thông nội tại,
hiệp thông bề trong nơi con người. Yêu thương ở đây, bởi vậy, mới chính là
tác động diễn đạt hay thể hiện nhận thức hiệp thông nội tại của con người.
Yêu ở đây đồng nghĩa với biết, và biết ở đây cũng không còn là điều kiện
của yêu nữa, theo kiểu “vô tri bất mộ”. Phải chăng vì thế mà Sách Sáng Thế
Ký của Do Thái Giáo, ở ngay câu thứ nhất của đoạn 4, đã viết: “Con người
biết Evà vợ mình, để rồi nàng đã thụ thai và hạ sinh Cain”? Động từ “biết”
hay tác động “biết” ở đây được một số bản dịch dùng chữ “ăn ở với” hay
“giao hợp với” thay thế! Thánh Kinh Kitô Giáo cũng cho thấy một trường hợp
tương tự, đó là trường hợp của trinh nữ Maria ở Nazarét, trong ngày được
sứ thần Gabriel truyền tin Thiên Chúa tuyển chọn trinh nữ làm mẹ của Chúa
Kitô, trinh nữ đã trả lời: “Làm sao việc ấy thành sự được, vì tôi không
biết đến nam nhân” (Lk 1:34). Động từ “biết” hay tác động “biết” ở đây
cũng thế, cũng đã được một số bản văn dịch theo ý nghĩa thực tế của nó
thành “liên hệ xác thịt”.
HIỆP THÔNG LÀ CHẤP NHẬN NHAU
Yêu thương chính là hiệp thông và thực sự là hiệp
thông chẳng những được bắt nguồn từ tâm thức nhận biết nhau mà còn được
thể hiện ở chỗ chấp nhận nhau nữa. Đó là lý do trong tiếng Việt, chữ yêu
thường đi với chữ thương – “yêu thương”, khác với chữ yêu đi với chữ thích
- “yêu thích”, hay chữ yêu đi với chữ mến – “yêu mến”. “Yêu mến”, nhất là
“yêu thích”, thường là một thứ tình cảm hướng đến những gì hợp với mình,
hợp với chủ thể yêu, như nhan sắc, tài giỏi, giầu sang, danh tiếng, lợi
lộc, quyền bính, nhục dục v.v., từ đó, tình cảm “yêu mến” hay “yêu thích”
này tự nhiên cảm thấy ghét bỏ và tìm hết cách tránh né tất cả những gì
không hợp với mình, dù bản chất của những sự ấy tốt lành. Trái lại, nếu
yêu có thương trong đó mới thực sự là hiệp thông, và mới giữ được mối hiệp
thông này. Vì nếu yêu kéo con người lại với nhau, thì thương giữ con người
lại với nhau.
Nếu yêu hướng đến những cái gì tốt đẹp và hợp với mình, thì thương là ôm
ấp cả những cái gì xấu xa, tồi tệ và không hợp với mình. Do đó, chỉ khi
nào con người yêu biết thương, tình yêu của họ mới mạnh hơn sự chết, mới
thắng vượt sự dữ, mới là sự thiện tối thượng, một sự thiện được Thánh Kinh
Kitô Giáo cảm nhận là chính tình yêu, qua câu định nghĩa: “Thiên Chúa là
tình yêu” (1Jn 4:8,16). Bằng không, yêu mà không thương, một lúc nào đó,
cái được gọi là tình yêu có thể sẽ biến thành một quyền lực phá hoại,
thành một hung thần tán ác nhất, thành một tà thần ghê tởm nhất. Lịch sử
đã chẳng cho thấy hiển nhiên hay sao, tình yêu dân tộc đi đến chỗ sát hại
hay tàn sát các chủng tộc khác, như ở Thánh Địa từ năm 1948 tới nay, nhất
là từ cuối năm 2000 tới giữa năm 2002 đây, hay như ở Yugoslavia trong suốt
thập niên 1990, không phải là những chứng cớ hùng hồn cho thấy thực tại
yêu thương chính là hiệp thông và thực sự là hiệp thông hay sao?
Có thể nói, thương là tuyệt đỉnh của tình yêu, là cốt li của tình yêu, là
chính con tim của tình yêu. Thế nhưng, theo tâm lý tự nhiên, con người chỉ
thích được yêu chứ không muốn “bị” thương. Vì trở thành đối tượng được
thương là trở thành một cái gì hèn hạ, thua kém, nhục nhã. Do đó, con
người tự ái thường phản ứng bằng những câu nói rất tự trọng như: “Tôi
không cần thương”. Tuy nhiên, nếu thương không phải là bố thí mà thương
đây cũng chính là yêu, thì đối tượng được thương không phải là một cái gì
tầm thường, một cái gì đáng khinh bỉ, đáng thương hại, mà là một cái gì
hết sức trân quí, hết sức cao trọng, một cái gì phải coi trọng như chính
bản thân của chủ thể tỏ tình thương. Như Mẹ Têrêsa đã hoàn toàn sống hiệp
thông với mỗi một con người và tất cả mọi con người bần cùng nhất xã hội
loài người tại Calcutta Ấn Độ trong 50 năm (1947-1997) Mẹ phục vụ họ vậy.
Nếu loài người biết thương nhau như anh chị em trong một đại gia đình, nếu
các dân tộc biết chấp nhận đồng loại của mình như một thân thể duy nhất,
cho dù văn hóa khác biệt và văn minh chênh lệch, thì thế giới làm gì xẩy
ra chiến tranh suốt giòng lịch sử của mình như thế. Bởi vì, nói đến thương
là nói đến thứ tha, nói đến một tinh thần rộng lượng bao dung, chân dung
đích thực của tình yêu trọn hảo, của một sự sống viên mãn, của một sự sống
thắng vượt tội lỗi và sự chết, của một sự sống trường sinh vinh phúc.
Trong buổi phát thanh lần tới, chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ đề tài “hạnh
phúc là viên mãn yêu thương”.
Tâm
Phương Cao Tấn Tĩnh
(bài Phát Thanh Vui Mừng Và Hy Vọng 14, 21/4/2002: www.tinmungsusong.org
và bài cho mục Hội Ngộ Tâm Linh của www.thoidiemmaria.net)
|