|
TÌNH YÊU PHÁI TÍNH
Tình Yêu Phái Tính: Nhân Duyên Cuộc Đời
Nếu hôn nhân hiệp thông xã hội thì phái tính chính là yếu tố xã hội bẩm
sinh nơi con người. Thế nhưng, phái tính chính là yếu tố xã hội bẩm sinh
nơi con người ấy không phải giống như phái tính đực cái nơi xã hội loài
vật, loài tìm đến nhau hoàn toàn theo bản năng và chu kỳ tự nhiên. Ở chỗ,
khi con cái đến thời kỳ của nó, và con đực một khi ngửi thấy mùi của con
cái, liền tự động tìm đến với con cái, để cùng với con cái làm việc truyền
giống và bảo tồn giống loài của chúng một cách vô thức. Việc con đực tìm
đến với con cái nơi xã hội loài vật cũng phản ảnh xu hướng tự nhiên nơi xã
hội loài người, qua việc phái nam vốn có khuynh hướng tìm đến với phái nữ,
một cử chỉ hay hành động được xã hội loài người gọi là “cua gái”, “tán
gái”. Còn việc con cái nơi xã hội loài vật để cho con đực “chồng” lên thân
mình khi tới thời kỳ của mình, cũng phản ảnh xu hướng phái đẹp thích được
phái nam theo đuổi và cảm thấy hãnh diện vì mình có giá nên được nhiều kẻ
để ý, thậm chí có những lúc phái yếu của họ đã “sa ngã” vào vòng tay khéo
vuốt ve của phái nam, đến độ chẳng những tự động hiến thân cho việc chiếm
đoạt của phái mạnh, mà còn cảm thấy những gì vẫn được ngôn từ tình ái gọi
là “thoải mái”.
Tuy nhiên, giữa việc tìm đến với nhau nơi loài vật và loài người hoàn toàn
khác nhau. Trong khi loài vật tìm đến với nhau chỉ theo bản năng của con
đực và chu kỳ của con cái, thì loài người tìm đến với nhau theo hấp lực
của tình ái. Vẫn biết, thực tế cho thấy, có những trường hợp con người
phái mạnh tìm đến với con người phái yếu hoàn toàn theo bản năng chiếm
đoạt về tình dục của mình, được gọi là “hiếp dâm”, hay phái đẹp theo hấp
lực xác thịt của mình, cũng có những cử chỉ hay hành động nhục dục được
gọi là “khiêu dâm” hay “mãi dâm”. Tuy nhiên, bình thường ra, theo tự
nhiên, con người, cả phái nam lẫn phái nữ, thực sự tìm đến với nhau theo
khuynh hướng phái tính hay hấp lực tình ái. Ở chỗ, vì tình ái liên quan
đến tự do hơn là bản năng, do đó, trong khi tìm đến với nhau theo khuynh
hướng phái tính, con người nam nữ cũng tìm đến với nhau theo cái “duyên”
của mình nữa. Nghĩa là, họ chỉ yêu thương nhau và hiến thân cho nhau,
trước hôn nhân hay trong hôn nhân, khi hợp với nhau mà thôi, khi cảm thấy
“perfect match”, hoàn toàn “xứng đôi vừa lứa”, chứ không phải gặp ai cũng
nhào tới, như con đực tìm đến với con cái khi tới thời kỳ của con cái, hay
không phải gặp ai cũng hiến thân, như con cái khi tới kỳ của mình thì để
cho con đực chiếm đoạt.
Đó là lý do, khi không hợp với nhau nữa về phương diện tâm lý, hai con
người nam nữ liên hệ với nhau về tình dục, ngoài hôn nhân hay trong hôn
nhân, họ sẽ đi đến chỗ bỏ nhau, không tìm đến với nhau theo nhục dục nữa,
nếu chưa chính thức lấy nhau, hay không sống với nhau theo xác thịt nữa,
nếu đã thành vợ chồng. Đó cũng là lý do, ngôn ngữ loài người dùng chữ
“giao cấu” cho loại vật, còn chữ “giao hợp” cho con người, một tác động
liên hệ xác thịt của loài người, kể cả ngoài hôn nhân, tức một tác động
sinh lý nhân bản, một tác động, theo tư thế tự nhiên nhất, được thực hiện
bởi hai thân xác đối diện với nhau, áp vào nhau, chứ không ấp lên nhau như
nơi loài vật.
Tình Yêu Phái Tính: Trưởng Thành Con Người
Tuy nhiên, dù con người có tìm đến với nhau và nên một xác thịt với nhau
theo khuynh hướng phái tính hay hấp lực tình ái như thế, chứ không phải
thuần bản năng như nơi loài vật, nguyên nhân chính yếu của khuynh hướng
phái tính và hấp lực tình ái này cũng không phải hoàn toàn thuần thể lý,
như phái nam tìm đến phái nữ chỉ vì nhan sắc hay duyên dáng hấp dẫn nơi
phái nữ, hoặc thuần sinh lý, như phái nữ chấp nhận phái nam chỉ vì tầm vóc
hay sức lực dồi dào nơi phái nam. Thế nhưng, cũng nhờ chính những yếu tố
ngoại tại thần tượng này, những yếu tố thuần phái tính đầy hấp lực tình ái
này, con người nam nữ mới có thể nhận ra hay tìm được chính bản thân mình,
một bản thân mà, một khi gặp được rồi, họ cảm thấy không thể nào bỏ được
nữa, không còn một cá nhân nào có thể thay thế “ý trung nhân” đó của họ
nữa, thậm chí họ không thể nào sống mà không có đối tượng lý tưởng duy
nhất này, và từ đó họ đã quyết định tiến tới hôn nhân, nên một thân thể
với nhau, coi nhau và gọi nhau là “mình”, là bản thân mình của nhau.
Thật vậy, trong tiến trình phát triển tâm lý nơi con người, chính lúc con
người ở vào lức tuổi dậy thì, lứa tuổi vừa phát triển về cả thể lý lẫn tâm
lý, lứa tuổi con người đang tìm kiếm bản thân mình, đang muốn biết mình là
ai và như thế nào, thì cũng lại là chính lúc con người bắt đầu biết yêu,
bắt đầu hướng ngoại, cho đến khi thấy được đối tượng yêu, tìm được ý trung
nhân, gặp được người tình lý tưởng. Như thế, người tính lý tưởng của họ
bấy giờ, ý trung nhân có một không hai của họ khi ấy, đối tượng yêu vô
cùng khả ái của họ này, vào chính lúc thời gian họ đang tìm kiếm, khám phá
và nhận thức bản thân mình như thế, không phải là chính bản thân khác của
họ, một bản thân khác được ngôn từ loài người gọi là “tha nhân” hay sao?
Chính tình yêu phái tính, và chỉ có tình yêu phái tính, mới có khả năng
làm cho tha nhân trở thành bản thân, cho dù tha nhân ấy có khác mầu da
ngôn ngữ, quốc gia chủng tộc, tôn giáo văn hóa, trình độ kiến thức, giai
cấp xã hội v.v., qua một cơ cấu được gọi là hôn nhân, một cơ cấu hôn nhân
hiệp thông xã hội.
Như thế, có thể nói, khi bắt đầu biết yêu là con người bắt đầu trưởng
thành về phương diện tâm lý. Vì ngay lúc con người cảm thấy con tim khởi
sự rung động trước một đối tượng yêu là con người bắt đầu khám phá ra bản
thân mình. Ở chỗ, họ đã chẳng những biết mình là ai và như thế nào, mà
còn, từ đó, thực hiện quyền tự do chọn lựa đối tượng yêu của mình nữa. Họ
không yêu những đối tượng đầu đời hay trong đời họ gặp không hợp với họ.
Một khi “phải lòng” một đối tượng nào, lòng họ tự nhiên được lấp đầy
khoảng trống cô đơn, thiếu hụt, đến nỗi, lòng họ không còn chỗ cho một đối
tượng nào khác nữa, cũng như không một đối tượng nào có thể lọt vào lòng
họ được nữa. Thế rồi, nếu tình yêu của họ được đáp ứng bởi đối tượng yêu,
nghĩa là con người chẳng những biết yêu mà còn được yêu, thì họ lại càng
cảm nghiệm được bản thân của họ hơn nữa. Họ cảm thấy mình có giá, ở chỗ,
chẳng những chính họ nhận ra họ nơi đối tượng yêu, mà còn được chính đối
tượng họ yêu nhận biết họ nữa. Cái giá của họ ở đây không phải là cái giá
họ được ưu ái hơn người, tức được đối tượng yêu của họ chọn họ làm ý trung
nhân duy nhất trên đời này, hơn tất cả mọi người khác, nhất là những người
khác ấy lại là những người hội đủ điều kiện hơn họ, ngon hơn họ về bề thế
gia đình, về công danh sự nghiệp, về tài năng duyên sắc v.v. Cái giá của
con người khi bắt đầu biết yêu và được yêu ở đây đó là và chính là kiến
thức về bản thân họ, là sự thật về con người họ: họ là ai và như thế nào!
Tình Yêu Phái Tính: Sự Thật Nhân Sinh
Thật vậy, sự thật về con người chủ thể yêu, được thể hiện sống động qua
việc họ biết yêu, nhất là qua trường hợp họ được yêu, là giá trị cao quí
nhất của mỗi một cá nhân con người, cũng như nơi mỗi một con người cá
nhân. Như thế, có thể nói, yêu thương chính là tiến trình đi tìm mình, đi
tìm khám phá ra sự thật về mình, một sự thật chất chứa tính cách hiệp
thông xã hội và hướng về thực tại hiệp thông xã hội, một tính cách hiệp
thông và một thực tại hiệp thông xã hội được hoàn toàn thể hiện qua đời
sống hôn nhân gia đình. Một khi đánh mất sự thật này, tức một khi con
người trực tiếp đánh mất bản thân mình, từ đó gián tiếp đánh mất xã hội
tính hiệp thông nơi mình, con người sẽ trở thành hoang dại, buông thả, sẽ
đi đến chỗ đổ vỡ và tan nát một cách hết sức thê thảm, như hiện tượng ly
dị và phá thai, hiện tượng đồng tính luyến ái và đồng tính hôn nhân của
con người văn minh về vật chất và nhân bản từ hậu bán thế kỷ 20 đến nay đã
và đang tỏ tường cho thấy.
Vì sự thật về con người ở ngay chính phái tính con người và được diễn đạt
hay thể hiện nơi cơ cấu hôn nhân mà sự thật này trước hết và trên hết liên
quan đến sự sống. Bởi vì, phái tính không phải chỉ liên quan đến yếu tố
tâm lý là hấp lực tình ái mà còn trực tiếp liên quan đến yếu tố thể lý là
xác thịt nữa. Chính xác thịt mới cho thấy phái tính con người. Và chính
xác thịt là phương tiện và là cơ sở để tình yêu phái tính bộc lộ, nhất là
qua việc giao hợp giữa hai con người nam nữ yêu thương nhau trong cuộc
sống hôn nhân vợ chồng, một tác động phát sinh sự sống. Đó là lý do hai
thân xác nam nữ đã được Tạo Hóa cấu trúc khác nhau, để có thể giao hợp với
nhau, một trong những tác động thiết yếu nhất để bày tỏ tình yêu phái
tính. Bằng tình yêu phái tính này nơi con người, một tình yêu phái tính
được thể hiện nơi đời sống vợ chồng làm phát sinh sự sống ấy, con người
hoàn trọn những gì Tạo Hóa mong muốn và ấn định nơi thân xác phái tính của
họ, nhất là nơi thân xác của người nữ. Chính vì thế, những bộ phận liên
quan đến vấn đề sinh dục nơi người nữ đều có hai công dụng, nhận lãnh
trước (từ chồng) ban phát sau (sinh con), hay thụ hưởng trước (bởi chồng)
phục vụ sau (nuôi con). Bởi thân xác phái tính của con người đã được bẩm
sinh cấu trúc với công dụng lưỡng diện như vậy mà nếu con người làm sai
lệch đi định luật thiên nhiên này, họ sẽ không thể nào đạt được hạnh phúc,
một hạnh phúc chân thật, cao cả và bền vững.
Không phải hay sao, nếu thân xác của con người chỉ biết nhận lãnh và thụ
hưởng mà không biết ban phát và phục vụ, thì thân xác của họ chẳng khác gì
như một con tem sống không bao giờ muốn bị đóng chấm để trở thành một con
tem vĩnh viễn chết. Thế nhưng, tiếc thay, con tem sống ấy thực tế lại là
một con tem chết, một con tem hoàn toàn vô dụng, không bao giờ được xài
đúng như mục đích sống của nó. Hay thân xác của họ cũng giống như một chi
phiếu có ghi số tiền đàng hoàng, theo đúng giá trị của nó, và được Đấng
Hóa Công là chủ nhân ông tạo dựng nên thân xác của họ ký sẵn sàng và đề
đích danh trả cho người được thừa hưởng. Thế nhưng, người mang thân xác
ấy, với tư cách là quản lý viên, lại không bao giờ trao cho hay gửi cho
người được thừa hưởng là thành phần con cái, để thân xác của họ vĩnh viễn
trở thành một chi phiếu vô dụng, vô giá trị, dù nó có trẻ đẹp và hấp dẫn
mấy đi nữa, song cùng lắm cũng chỉ có một giá trị thấp hèn ngang hàng với
tình dục.
Tình Yêu Phái Tính: Sự Sống Phát Sinh
Ngược lại, nếu thân xác của con người chỉ được dùng, đúng hơn, bị dùng vào
việc ban phát và phục vụ, như trường hợp bị hiếp dâm hay ép duyên, thậm
chí cả trường hợp tà dâm hay ngoại tình, thì con người nói chung và thân
xác của họ nói riêng chẳng khác gì như một thứ đồ vật, bất xứng với phẩm
giá làm người của họ, phản lại với sự thật về con người theo đúng ý định
của Đấng Hóa Công, Vị đã tạo dựng nên con người có nam có nữ để trước hết
yêu thương nhau bằng một tình yêu phái tính, rồi từ đó, từ tình yêu phái
tính trong hôn nhân này mới phát sinh sự sống, mới phát sinh ra những con
người “linh ư vạn vật”. Tuy nhiên, không phải bất cứ con người nào được
sinh ra bởi những cuộc hôn nhân bị ép duyên hay bị hiếp dâm hoặc ngoại hôn
đều là những con người đáng khinh bỉ, không đáng làm người, hay chỉ là
hiện thân nhục nhã của người mẹ, mà người mẹ có quyền sát hại nó trong
lòng mình. Nếu người mẹ không tự mình mà có, thì con cái cũng vậy. Đứa con
phát sinh từ những trường hợp ngoài ý muốn của người mẹ như thế càng chứng
tỏ nó bởi trời hơn bởi đời, nên càng phải giữ lấy sự sống vô tội hết sức
đáng thương này. Sát hại nó không phải là trả thù đời mà là chống lại
nguồn mạch sự sống là Đấng Hóa Công.
Nếu sự sống là mục đích của và cho tình yêu phái tính, thì tình yêu phái
tính phải hướng về và phát sinh sự sống. Nếu tình yêu phái tính, được hợp
thức hóa bởi hôn nhân, chỉ vì chủ ý của vợ chồng, không dẫn đến sự sống,
thì con người đã đánh mất sự thật về mình, đã sống ngược lại với bản chất
của phái tính vốn hướng về sự sống. Nếu tình yêu phái tính liên quan đến
sự thật về con người, mà sự thật này lại liên quan đến sự sống của con
người như thế, thì những hành động phái tính nào không phát sinh sự sống
đều là những hành động bất hợp pháp, những hành động phản với lề luật tự
nhiên, trái với sự thật về con người. Những hành động phái tính bất hợp
pháp, phản nhiên luật và trái sự thật này có thể kể đến là việc ngừa thai
hưởng lạc, việc phá hủy bào thai, việc đồng tính hôn nhân v.v. Ngoài ra,
còn có những hành động liên quan đến phái tính, chứ không phải trực tiếp
bởi phái tính hay từ phái tính, dù những hành động liên quan đến phái tính
này có làm phát sinh sự sống, nhưng vẫn có thể là những gì nghịch với sự
thật về con người. Chẳng hạn phương pháp cấy thai ống nghiệm, hay kiểu cấy
thai chửa mướn, hoặc phương pháp tạo sinh phi tính dục cloning. Tại sao?
Bởi vì, con người không phải là một sản phẩm của khoa học và kỹ thuật, mà
là một ngôi vị, một hoa trái của tình yêu phái tính, của ý thức tâm linh,
và vì thế cần phải được thụ thai bởi chính tác động chất ngất ái ân giao
hợp của cha mẹ.
Tóm lại, sự thật về con người liên quan đến tình yêu phái tính và được thể
hiện nơi tình yêu phái tính có thể được tóm gọn như sau: chính ở vào giai
đoạn dậy thì, giai đoạn con người đang tìm kiếm và khám phá bản thân mình
lại chính là lúc con người biết yêu thương, hướng về người khác phái;
chính lúc con người bắt đầu biết yêu thương và được yêu thương ấy, cũng
chính là lúc thân xác phái tính của họ bắt đầu có khả năng sinh dục và
sinh sản, một khả năng để họ có thể diễn đạt tình yêu phái tính và từ đó
phát sinh sự sống; đó là lý do thân xác phái tính của họ, nhất là thân xác
của người nữ, đã được bẩm sinh cấu trúc (built in) cho cả việc diễn đạt
tình yêu phái tính và phát sinh sự sống này; như thế, qua tình yêu phái
tính, con người được kêu gọi để, sau khi đã khám phá ra bản thân của mình
qua đời sống hôn nhân nên một thân thể vợ chồng, họ sống cho đời, cho con
cái. Hôn nhân hiệp thông xã hội là như thế.
Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh
(bài Phát Thanh Vui Mừng Và Hy Vọng 20, 2/6/2002: www.tinmungsusong.org và
bài cho mục Hội Ngộ Tâm Linh của
www.thoidiemmaria.net)
PHÁI TÍNH
trong tình yêu
Trần Mỹ Duyệt
Tình yêu, một đề tài muôn thuở nhưng sức mạnh của nó, sự quyến rũ của nó
vẫn chưa ai giải thích hoặc chống cự nổi. Người ta có thể nói đến tình yêu
dưới nhiều góc cạnh và nhiều hình thái khác nhau. Nhưng có lẽ tình yêu lứa
đôi, tình yêu trai gái, tình yêu của hai kẻ nam nữ dành cho nhau là đề tài
được nhiều người bàn đến hơn cả.
Khi nói về sức mạnh của tình yêu, chúng ta có nhiều câu nói thời danh.
Nhưng có lẽ không ai trong chúng ta không nhớ một câu nói của Napoléon,
người hùng của dân tộc Pháp: “Thắng một vạn quân không bằng thắng chính
mình”. Có lẽ ông ám chỉ sự thôi thúc và cuốn hút về mặt tình cảm của ông
đối với người tình Josephine Antoinnett. Và dường như chuyện này được đồng
hóa với lần ông trốn bỏ trại binh ban đêm lén về gặp người tình của mình.
Trong tâm lý học, tình yêu cũng được coi như một động lực mạnh mẽ và gắn
liền với cuộc sống con người. Có thể nói người ta không sống nếu không
yêu. Hoặc ngược lại không yêu nếu không sống. Tình yêu một sức sống của
tâm linh và thể xác.
Một người đang yêu và được yêu sẽ thấy mọi chuyện đều tốt đẹp. Sẽ thấy đời
như nở hoa. Bầu trời có trăng sao, có mưa gió, có bão tố, hay nắng đẹp,
trong con mắt người yêu và đang yêu vẫn có lời giải thích như lời nhạc của
ai đó: “Trong đôi mắt em, anh là tất cả”. Nhưng một khi thất tình, mất
người yêu, hoặc không được ai đó để ý tới, tự nhiên cũng bầu trời ấy, cũng
trăng sao ấy, cũng bình minh ấy, cũng hoàng hôn ấy nhưng lại mang một sắc
thái khác.
Thiếu yêu, người ta sẽ không còn thiết sống. Thiếu yêu, người ta sẽ ngưng
hy sinh. Thiếu yêu, người ta sẽ không muốn hoạt động. Cuộc đời sẽ tăm tối,
tương lai sẽ u uẩn, đời như mất hết ý nghĩa. Chính vì vậy, người ta vẫn
thường nói: “Tình yêu san bằng được tất cả”. Điều này minh chứng rằng,
tình yêu cần thiết cho cuộc sống con người. Người già cũng như người trẻ,
người trung niên cũng như tuổi vị thành niên, tất cả đều là một sức hút
nhiệm mầu mà không ai có thể chống cự được. Người ta có thể nói hay, nói
rất hùng hồn, nói một cách mạnh bạo, nhưng khi bị tiếng sét ái tình đánh
trúng, thì ít ai có thể đứng vững. Do đó, người ta mới chết, mới tự tử,
hoặc mới ra khờ khạo, chán nản vì thất tình, vì thiếu vắng tình yêu.
Nhưng đề tài tình yêu được nhìn dưới góc cạnh trưởng thành và tự nhiên
trực tiếp liên quan đến sự giao tiếp của nam nữ. Bình thường, ta hay lẫn
lộn tình yêu trong sạch với tình yêu vẩn đục. Hành động sinh lý trong tình
yêu và những hành động thỏa mãn xác thịt. Tình yêu xây dựng và hợp nhất
với sự lừa bịp và gian dối. Đó là thứ tình yêu mang mầu sắc dục vọng,
cuồng loạn, lãng mạn theo kiểu tiểu thuyết. Một thứ tình yêu và tình cảm
đặt căn bản trên những đụng chạm và va chạm xác thịt mà chủ đích là nhằm
thỏa mãn dục vọng.
Có lẽ nhiều người sẽ cho rằng tình yêu nào mà chả dẫn tới những đụng chạm
xác thịt. Thật ra, quan niệm tình yêu dẫn tới tình dục và tình dục thu hút
tình yêu là một quan niệm bình thường và phù hợp với tự nhiên và tâm lý.
Ngay trong lãnh vực đạo đức, chúng ta cũng thấy xuất hiện sự gắn bó này
khi Adam nói về Eva: “Đây là xương của xương tôi, thịt của thịt tôi” (Gn
2:23). Chính trong sự hòa trộn ấy đến tan biến ấy, Thượng Đế đã phán:
“Người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mình và quyến luyến với vợ mình, và cả hai sẽ
trở nên một” (Gn 2:24).
Tình yêu trai gái, tình yêu vợ chồng, hay nói theo một hình thức diễn tả
khác là tình yêu phái tính tự nó đã có một sức thu hút và hấp dẫn. Đây là
một sự hấp dẫn của một người đàn ông đối với một người đàn bà, hoặc ngược
lại. Tình yêu phái tính, do đó, loại bỏ thứ tình cảm đi ngược lại với tự
nhiên như tình đồng tính, trong đó hai phụ nữ hoặc hai người đàn ông yêu
nhau và sống với nhau như vợ chồng.
Sở dĩ tình yêu phái tính, tình yêu trai gái trở nên tình yêu được chấp
nhận và cần thiết vì nó không những là một lời mời gọi, thôi thúc theo bản
năng và tự nhiên, mà qua đó, nó còn chuyên chở một sứ mạng cao cả khác mà
Thượng Đế muốn con người tham dự, đó là việc sinh sản và giáo dục. Mặc dù
gần đây có một vài khảo cứu cho rằng người đàn ông cũng có khả năng sinh
con, hoặc phong trào cấy tinh trùng, sinh con bằng ống nghiệm, hay sản
sinh vô tính. Nhưng khám phá khoa học này, dầu sao vẫn chỉ là những khởi
điểm và là giấc mơ của một số khoa học gia, còn lại phần đông nhân loại
vẫn cho rằng những điều ấy phản đạo đức và thiên nhiên.
Bằng vào những giá trị nhân bản, những kinh nghiệm sống thường ngày, chúng
ta phải nhận rằng do sự nối kết và gắn bó của hai trái tim, hai thân xác,
và hai tâm hồn mà cuộc sống tự nhiên này có những hấp dẫn và thu hút lạ
lùng. Và đó là tình yêu, là những thu hút của phái tính, là động lực thôi
thúc và hấp dẫn hai kẻ yêu nhau. Một mối tình nối kết giữa hai người khác
phái. Thiên nhiên cũng cho chúng ta bài học này, trong một bày hoang thú
con đực nào khỏe sẽ trở thành vua và bá chủ. Con đực nào yếu sẽ tìm sinh
hoạt ở địa bàn khác hoặc phải chết. Trong thời kỳ thai nghén, con vật cái
sẽ tìm đến con vật đực, hoặc do một sự thu hút của bản năng, con vật đực
tìm đến với con vật cái. Sức thu hút ấy ở loài vật không phải là yêu,
nhưng là một thu hút cần thiết của bản năng để chúng hoàn tất mục đích duy
trì nòi giống.
Trong sinh hoạt của con người, sự thu kia không dừng lại ở việc hoàn tất
nhu cầu sinh sản và mục đích sinh sản mà còn là một phương tiện diễn tả
tình yêu của hai người muốn dành cho nhau. Chỉ trong hành động ấy, cả hai
mới thực sự trở nên một. Do đó, những sinh hoạt sinh lý, những lạm dụng
hai chữ yêu thương của những người không sống trong hôn nhân, có thể được
coi như một thứ tình yêu lệch lạc, thiếu thốn và khập khễnh. Con người
trải qua các thời đại đã có nhiều áng văn tuyệt vời ca tụng sự hy sinh và
chấp nhận của người mẹ hay người cha đối với con cái mình. Điều này càng
cho thấy rằng những gắn bó và thu hút của sinh lý không chỉ là một nhu cầu
theo bản năng mà còn là một hình thức yêu đương của cha mẹ đối với nhau và
với con cái nữa. Quan niệm này có thể không được những nhóm đồng tính,
hoặc những người chủ trương sinh lý ngoài hôn nhân chấp nhận. Rất may mắn
là hiện nay thống kê cho thấy chỉ có một số ít những người sinh ra với bản
năng và nhu cầu đồng tính, còn phần đông sinh hoạt này vẫn được xem như
một hành động đi ngược lại với thiên nhiên.
Tình yêu nam nữ. Tình yêu phái tính. Tình yêu của một người đàn ông dành
cho một người đàn bà là một tình yêu rất tự nhiên, và rất đẹp. Một sức thu
hút cực kỳ mạnh mẽ. Trong tình yêu ấy, tuy nhiên, vẫn không loại bỏ những
hy sinh cần thiết mà theo Xuân Diệu thì: “Yêu là chết trong lòng một tí”.
Đúng hơn phải hiểu rằng: “Yêu là chết trong lòng nhiều lắm”, vì cho dù sự
cuốn hút và nhu cầu sinh lý có đó, tình yêu vẫn không loại bỏ những hy
sinh, chịu đựng và trao ban một cách trọn vẹn. Thiếu yếu tố hy sinh, tình
yêu chỉ là một nhu cầu tình cảm và sự hấp dẫn của bản năng, hoàn toàn vật
chất nếu không muốn nói là những mời gọi và quyến rũ của dục vọng.
|