|
|
|
CON NGƯỜI THỤ HUẤN
Yếu Tố Làm Người
Nếu con người, trước khi vào trần gian cần phải được thụ thai, cưu mang và sinh
nở bởi cha mẹ thế nào thì trước khi thành nhân vào đời họ cũng cần phải được
giáo dục, được thụ huấn để làm người như vậy. Thật thế, con người không phải chỉ
là một hữu thể có diện mạo, vóc dáng và hình hài như con vật, biết di động, ăn
uống, tiêu hóa, bài tiết, tuần hoàn và hô hấp như con vật, được sinh ra rồi chết
đi như tất cả mọi sinh vật, mà còn có một cái gì “linh ư vạn vật” nữa, tức còn
có một cái gì đó làm cho loài người nói chung và từng người nói riêng hoàn toàn
trổi vượt hơn tất cả mọi vật trong vũ trụ hữu hình này, một cái gì đó vô giá
không gì có thể sánh được và đánh đổi được, một cái gì làm cho con người nghiễm
nhiên trở thành chủ nhân ông của vũ trụ.
Phải, cái “linh ư vạn vật” nơi con người đây là gì, nếu không phải, trước hết,
là yếu tố hồn thiêng nơi bản tính của con người, một yếu tố làm con người có một
sự sống nội tâm, với những sinh hoạt tâm lý, như suy nghĩ, lý luận và phán đoán
bằng trí khôn, như ước vọng, chọn lựa và quyết định bằng ý muốn, như cảm nhận,
hoài niệm và mong mỏi bằng ký ức, như thông đạt, bày tỏ và phản ứng bằng thái độ
v.v. Thế nhưng, thực tế cho thấy, những sinh hoạt tâm lý ấy nơi con người, ngoài
trường hợp bị khuyết tật về tâm trí như khù khờ, hay bị khuyết tật về tâm thần
như điên khùng, nhiều khi làm cho con người đi đến chỗ hầu như mất cả nhân tính,
với những tác hành chẳng khác gì con vật, tác hành theo luật rừng mạnh được yếu
thua, cá lớn nuốt cá bé, như cướp của, giết người, hiếp dâm, thậm chí còn có
những hành vi cử chỉ thua cả con vật nữa, như loạn luân, đồng tính làm tình v.v.
Đúng thế, những sinh hoạt nội tâm của con người được tỏ ra bằng những tác hành
chẳng khác gì con vật hay thua cả loài vật ấy chứng tỏ con người “linh ư vạn vật”
không phải chỉ có nguyên yếu tố khách quan là hồn thiêng, mà còn ở tại yếu tố
chủ quan là nhân phẩm, nhân vị và nhân cách của con người nữa, những gì chứng tỏ
con người thực sự là người và làm người, những gì mà những nhà giáo dục, như cha
mẹ, thày cô và chuyên viên cố vấn không thể không biết đến, không chú trọng, nếu
họ muốn chu toàn chức phận cao cả nhất trên đời của mình là giáo dục con người
hậu sinh, một việc làm khó nhất trên trần gian. Nhân phẩm đây là không phải là
phẩm chất của con người cho bằng là phẩm giá của con người. Nhân vị đây không
phải là địa vị của con người cho bằng ngôi vị của con người. Và nhân cách đây
không phải là cách sống của con người cho bằng tư cách của con người.
Nhân Phẩm Làm Người
Nhân Phẩm là một giá trị bẩm sinh, phổ quát và bất biến của con người. Nhân Phẩm
là giá trị bẩm sinh của con người, do trời ban cho, chứ không phải xã hội thí
cho con người cái giá trị đó, tức là chính vì họ là người, một loài có một bản
tính phản ảnh thần linh và có tính cách linh thiêng cao cả vượt trên tất cả mọi
sự hữu hình trên đời, nên họ có giá trị bẩm sinh đó, không ai được thay đổi giá
trị bất biến này, lại càng không được vi phạm đến giá trị phổ quát này. Vì Nhân
Phẩm là một giá trị phổ quát và bất biến của con người, nên cho dù con người có
bị tật nguyền về thể lý, như què quặt đui mù, dị diện xấu dạng, hay về tâm trí,
như ngu dốt điên khùng, đam mê nết xấu, thậm chí về cả luân lý, như gian ác xấu
xa, hoang đàng tội lỗi v.v., cũng không ai được phép khinh thường họ.
Lịch sử của loài người đã phải mất cả bao nhiêu ngàn năm từ khi con người mới
hiện hữu trên trái đất này mới ý thức được nhân phẩm thực sự của mình qua Bản
Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc công bố ngày
10/12/1948, với khoản thứ nhất như sau: “Tất cả mọi con người được sinh ra có tự
do và bình đẳng về phẩm giá cũng như về quyền lợi”.
Bởi thế, trong lãnh vực pháp luật, công quyền phải trừng phạt phạm nhân chẳng
những một cách xứng với nhân phẩm của họ, mà còn làm sao để cải tiến nhân cách
của họ bằng hình phạt nữa. Bởi thế, tất cả những trại tập trung của Đức Quốc Xã
thời Thế Chiến Thứ Hai, hay các trại cải tạo trong chế độ Cộng Sản sau Thế Chiến
Thứ Hai, hoặc án tử hình ở hết mọi quốc gia trên thế giới từ trước đến nay v.v.
đều là những gì phi nhân, phạm đến nhân phẩm cao quí. Đó là lý do, Bản Tuyên
Ngôn Chung Về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc đã ấn định ở khoản 4: “Không ai phải
bị bắt làm nô lệ hay tôi mọi; tất cả mọi hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều
bị cấm chỉ”, và ở khoản 5: “Không ai phải bị hành sử hay trừng phạt một cách tàn
bạo hay dã man, nhục nhã và đê hèn”.
Trong lãnh vực y khoa, nhân phẩm còn bị hạ nhục khi con người được thụ thai bằng
ống nghiệm, bằng những phương pháp truyền sinh ngoại nhiên, không phải do chính
tác động yêu thương ân ái của cha mẹ. Cũng thế, nhân phẩm cũng bị làm nhục khi
con người mắc bệnh bất trị bị giết chết một cách êm dịu với mục đích để loại trừ
đi một gánh nặng cho xã hội.
Trong lãnh vực sinh hoạt xã hội, hà hiếp bóc lột nhau cũng là hành động phạm đến
nhân phẩm. Lăng mạ xỉ nhục, nói hành nói xấu nhau cũng là những hành vi cử chỉ
phạm đến nhân phẩm của nhau. Nghĩ xấu cho nhau hay nghi ngờ cho nhau những thứ
xấu xa mà không có chứng cớ khả tín rõ ràng cũng phạm đến nhân phẩm của nhau.
Chỉ tin mình mà không tin người cũng là thái độ không coi trọng nhân phẩm của
nhau. Thái độ vơ đũa cả nắm cũng phạm đến nhân phẩm của những người vô tội bị
oan lây bởi những hành động xấu của một số làm bậy. Trọng phú khinh bần cũng là
thái độ xúc phạm đến nhân phẩm của người nghèo. Thậm chí giầu sang phú quí đến
độ tiêu xài một cách hoang phí, ăn không hết đổ đi, quần áo thời trang treo đầy
cả tủ nay còn mặc mai đã thành đồ cổ bỏ đi, không để ý gì đến những người nghèo
khổ chung quanh mình, cũng phạm đến nhân phẩm của thành phần bần cùng khốn khổ
trong xã hội, thành phần không có đủ của ăn, áo mặc, nhà ở, thành phần rất cần
đến những thứ thừa thải của họ để sống còn và hưởng dùng. Gặp một người ăn xin ở
đầu đường xó chợ, có thể giúp đỡ họ mà chẳng những không làm lại còn viện lý
bênh vực cái ích kỷ của mình bằng ý nghĩ cho họ là con người lười biếng, không
chịu làm ăn sinh sống, nên đáng kiếp, cũng là thái độ phạm đến nhân phẩm của con
người đáng thương đó v.v. Nhân phẩm của con người không mất giá vì nghèo, nhưng
có thể và rất dễ mất đi vì giầu sang phú quí.
Trong lãnh vực luân thường đạo lý, con người cũng có thể tự làm nhục nhân phẩm
của mình khi bán thân làm điếm, vụng trộm ngoại tình, ăn trộm ăn cắp, rượu vào
nói bậy, văng tục chửi thề, tham quyền cố vị, ỷ thế cậy quyền, ngang ngược lộng
hành, đút lót hối lộ, nịnh bợ vuốt đuôi, ăn bám ỷ lại, ném đá giấu tay, ăn độc
chốc mép, cả giận mất khôn, giận cá chém thớt, lẫn tránh trách nhiệm, sợ hãi
chối quanh, gian lận lừa đảo, tranh giành cướp đoạt, ăn cháo đái bát, thất trung
bội hứa, ngả theo chiều gió, nhỏ mọn chấp nhất v.v.
Trong lãnh vực giáo dục, những việc phạm đến nhân phẩm, làm mất nhân phẩm, hay
hạ nhục nhân phẩm của con người thụ huấn đó là đánh phạt họ cho bõ tức, thậm chí
đánh phạt họ một cách vũ phu như con vật; không tôn trọng những cá tính, khả
năng và ước muốn chính đáng của họ; lo lắng quá đến cho rằng con cái đang lớn
của mình không biết tự trọng, cứ phải kè kè canh chừng chúng, cái gì cũng cấm
đoán chúng; vợ chồng cãi nhau trước mặt con cái, thậm chí đi đến chỗ ly dị bất
kể đến ích lợi giáo dục của con cái cũng là những hành động phạm đến nhân phẩm
của chúng.
Nhân Vị Làm Người
Nếu nói đến nhân phẩm là nói đến một yếu tố bẩm sinh, phổ quát và bất biến của
con người, thì nói đến nhân vị là nói đến một yếu tố tuy cũng bẩm sinh, nhưng cá
biệt và chủ quan nơi con người, một yếu tố làm cho con người nói chung không
phải là một khối giống nhau, như nơi các loài sinh vật khác, loài thảo mộc cỏ
cây hay loài động vật cầm thú, những loài có thể truyền sinh theo phương pháp
cloning vô tính dục, mà là một yếu tố bất khả thiếu làm nên bản chất của xã hội
loài người văn minh, một xã hội mà con người sinh sôi nẩy nở tràn lan mặt đất
bởi tác động ý thức và yêu thương của mẹ cha, một xã hội do đó cần phải sinh
động và hiệp thông bởi các phần tử có tự do của mình, thành phần vào đời để tích
cực và chủ động góp phần xây dựng xã hội đồng loại, bằng tất cả khả năng cá nhân
trời ban, theo trách nhiệm của mình cần phải đóng góp cho công ích. Như thế, nói
đến nhân vị là nói đến cá nhân, nói đến chủ thể, nói đến tự do, nói đến quyền
lợi, nói đến trách nhiệm, nói đến yêu thương, nói đến hiệp thông. Có thể nói
rằng, nếu không có yếu tố nhân vị không thể nào có được một xã hội loài người,
hay dù cho có đi nữa, xã hội loài người nào làm mất đi yếu tố nhân vị là cốt lõi
cho bản chất của mình này cũng không thể tồn tại, điển hình là chế độ cộng sản
phi nhân.
Thật vậy, nói đến nhân vị là nói đến cái tôi theo nguyên tắc cũng như nói đến
quyền sở hữu của tôi về phương diện thực tế. Trước hết, nói đến nhân vị, về
nguyên tắc, là nói đến cái tôi, một cái tôi chuyên biệt, một cái tôi độc nhất vô
nhị trên đời, hoàn toàn không giống với bất cứ một cái tôi nào khác, một con
người nào khác, từ khi có loài người hiện hữu trên mặt đất này cho tới năm cùng
tháng tận của lịch sử trần gian. Bởi vì, nơi mỗi cái tôi, được xuất hiện và hình
thành một cách có vẻ ngẫu nhiên, tức bởi một noãn sào độc nhất của người mẹ rơi
rụng vào một lúc nào đó nơi tử cung của bà kết hợp với một tế bào tinh trùng duy
nhất trong bao nhiêu triệu tế bào tinh trùng khác của người cha qua tác động
sinh dục chất ngất ái ân của hai người, đều có một dung mạo tuyệt đối không
giống ai, kể cả nơi những cái tôi được sinh đôi, sinh ba, đều có một chỉ tay
hoàn toàn khác biệt, và đều có một giọng nói khiến cho những ai thân quen nhận
ra họ liền chứ không phải ai khác v.v. Chưa hết, nơi mỗi một cái tôi ấy, còn
chất chứa những tâm tính thật là chuyên biệt, được gọi là cá tính, được bộc lộ
qua những hành vi, cử chỉ và phản ứng hoàn toàn đặc thù, vì cái tôi ấy có những
ý nghĩ, cảm nhận, phán đoán, ý thích và ước muốn hoàn toàn không giống ai, những
gì làm nên con người tôi, con người anh, con người chị, con người em v.v.
Phải công nhận là nhân vị nếu được hiện thân rõ ràng nhất nơi dung diện của cái
tôi thì nhân vị này còn được thể hiện sống động nhất nơi chủ trương của cái tôi
cũng như nơi những chọn lựa của cái tôi. Thật vậy, có lần tôi đã cảm nhận được
một niềm vui không ít, khi thấy một thân chủ chậm phát triển trầm trọng của tôi,
hầu như không biết đến những biến chuyển chung quanh, lần đầu tiên tỏ ra cái tôi
của mình, với những cử chỉ tỏ ra tự ái, phản kháng lại những gì không hợp với
mình. Trong một buổi học hỏi vào mùa hè năm 2001 do tôi hướng dẫn, có một thanh
niên giơ tay phát biểu là tại vì con người có tên gọi mà con người mới đi đến
chỗ đánh nhau. Theo lập luận của con người trẻ này, nếu đừng mang danh Hồi Giáo,
Kitô Giáo, Phật Giáo v.v. thì đâu có chuyện Hồi Giáo kỳ thị Kitô Giáo… Sau khi
cho em biết là vì vật nào cũng cần phải có căn tính của mình, một tính chất cốt
lõi làm nên vật đó khác với tất cả mọi vật khác, một căn tính được biểu lộ và
diễn tả nơi tên gọi của vật ấy, tôi còn cho em biết thêm về tầm quan trọng của
trách nhiệm nơi loài có tâm linh như con người. Ở chỗ, nếu xóa bỏ mọi tên tuổi
đi thì lầm lỗi do một cái tôi chủ thể vô danh nào đó gây nên cả khối xã hội vô
danh sẽ phải chịu trách nhiệm hay sao?
Nếu nhân vị, về chân dung, được hiện thân nơi cái tôi, thì về hoạt động, được
thể hiện nơi quyền sở hữu của cái tôi. Bởi vì, nếu cái tôi là một cá thể chuyên
biệt thì cái tôi này phải có những gì riêng tư, những gì cái tôi có thể nói và
được quyền nói là “của tôi”, của riêng tôi, dù hình dạng và cấu tạo của những
vật sở hữu nơi cái tôi này cũng chẳng khác gì của những cái tôi khác, như thân
xác (cũng có đầu, mình và tứ chi như ai) của tôi, hay như cái đầu (cũng có tóc,
mắt, tai, mũi, miệng như ai) của tôi v.v. Có thể nói, nhân vị là cái tôi như ai
không giống ai. Tuy nhiên, những cái sở hữu như ai ấy là của cái tôi này, chứ
không phải của cái tôi kia, những cái sở hữu được bẩm sinh gắn liền với mỗi nhân
vị ấy cần phải được cái tôi có chủ quyền coi sóc, bảo trì và phát triển. Thế
nhưng, chủ quyền của cái tôi này không phải là một chủ quyền tuyệt đối trên
những gì cái tôi sở hữu, mà chỉ là một chủ quyền tương đối, một chủ quyền của
cái tôi đóng vai quản lý cho vị chủ nhân ông tối cao là Tạo Hóa Chí Tôn, Đấng đã
an bài sắp định như thế cho mỗi cái tôi cũng như cho chung xã hội loài người,
những dự án và đường lối thần linh mà con người cần phải nhận thức, tuân theo và
chu toàn. Đó là lý do con người không được quyền tự sát nếu không có lý do chính
đáng, như tự sát vì công ích, tự sát cho tha nhân. Đó cũng là lý do con người
nhận lãnh để cho đi. Và đó cũng là lý do con người chỉ đạt đến và càng đạt đến
tầm vóc làm người đích thực và toàn hảo của mình, khi không sống cho mình nữa mà
là sống cho đời, trở nên một con người quốc tế, con người đại đồng, con người
của mọi người và cho mọi người.
Tóm lại, nếu nhân vị được hiện thân nơi cái tôi, thì nhân vị được toàn hảo nơi
tình yêu của cái tôi, một tình yêu chẳng những thăng hoa nhân phẩm con người nói
chung mà còn viên mãn chính nhân vị nói riêng, nhất là lúc tình yêu nơi cái tôi
nạn nhân bị xúc phạm này biết xót thương tha thứ. Những nhà giáo dục cần phải để
ý đến yếu tố nhân vị nơi con người thụ huấn, bằng không, giáo dục sẽ bị phản
chứng. Ở chỗ, thay vì uốn nắn con người thụ huấn trở thành cái tôi đích thực của
họ, thì giáo huấn viên lại lấy những chủ trương và ý thích của mình mà cloning
nhân vị thụ huấn ấy trở thành y hệt cái tôi của mình.
Nhân Cách Làm Người
Nhân cách đây, như đã xác định ngay từ đầu, không phải là cách sống của con
người cho bằng tư cách làm người của họ. Thật vậy, vì mỗi người là một cá thể,
có nhân vị riêng, với những cảm nhận khác nhau, có thể tỏ ra những tác hành,
ngôn từ và phản ứng khác nhau, dù trải qua cùng một trường hợp, ở vào cùng một
hoàn cảnh, nghe cùng một bài giảng, học cùng một trường, con cùng một cha mẹ
v.v. Thế nhưng, nói gì thì nói, làm gì thì làm, phản ứng ra sao thì phản ứng, đã
là người, ai cũng phải tỏ ra ngôn hành của mình một cách có nhân cách, tức xứng
với phẩm giá cao quí, phổ quát và bất biến nơi thân phận làm người của mình. Vậy,
căn cứ vào đâu để biết được con người đã hành sử hợp với nhân cách hay là một
con người có nhân cách. Nói khác đi, để tỏ ra mình là người, chứ không phải thú
vật, hay không phải bị chậm trí khôn hoặc mất tính người, con người phải sống
động ra sao, phải có những hành vi cử chỉ ngôn từ phản ứng như thế nào họ mới
thực sự sống xứng đáng với nhân phẩm làm người cao quí của mình, nếu không phải
là làm lành lánh dữ, như nguyên tắc chung của chính lương tâm con người cũng là
của những gì tất cả mọi đạo giáo trên đời truyền dạy con người sống.
Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, con người làm sao biết được đâu là lành
là dữ, và thế nào là lành là dữ để mà làm lành lánh dữ? Thực tế cho thấy, chính
các đạo giáo cũng có những điều hơi mâu thuẫn với nhau về nguyên tắc chung này
khi đi vào phần thực hành. Chẳng hạn, Aán giáo tôn kính loài bò, và Phật giáo
cấm sát sinh, trong khi Do Thái giáo lại đi sát tế loài vật, như giết chiên bò
để tế lễ Giavê Thiên Chúa của họ. Tuy nhiên, có hai chân lý mà không một con
người còn lương tâm chân chính có thể phủ nhận được.
Chân lý thứ nhất, đó là con người là một tạo vật được dựng nên mới có, chứ không
phải là Tạo Hóa, là Đấng Tối Cao, Đấng Tự Hữu và Toàn Hữu, nên không ai toàn hảo,
toàn năng, và toàn quyền, ở chỗ có thể tự quyết định mọi sự theo chủ quan của
mình. Bởi thế, hệ luận của chân lý thứ nhất này là, về nhân phẩm, con người tạo
vật chỉ là một viên quản lý trên tất cả những gì được trời ban cho riêng cái tôi
nhân vị của họ để làm vốn sống cho họ, và họ phải làm sao để cái vốn liếng nhân
vị này của họ sinh lợi cho công ích của chung xã hội loài người. Như thế, theo
chân lý và hệ luận thứ nhất này, nhân cách của con người trước hết là ở chỗ thi
hành đúng với phận vụ quản lý của mình đối với trời. Do đó, hễ bao giờ con người
trọng cái tôi hơn công ích là họ đã trở thành lộng hành, như trong việc chán đời
tự tử hay trong việc hưởng lạc phá thai, tức họ đã trở thành một con người thiếu
tư cách, mất nhân cách, hay không sống đúng với nhân cánh làm người.
Chân lý thứ hai, con người được phát xuất từ xã hội, tồn tại với xã hội và phát
triển nhờ xã hội. Bởi thế, hệ luận của chân lý thứ hai này là con người phải
hiệp thông với xã hội, không bao giờ được tách rời xã hội bằng thái độ vị kỷ,
hay lấn át xã hội bằng hành động tham lam. Luật vàng cho tất cả mọi con người
sống chung trong xã hội có thể chẳng những tránh được tất cả mọi va chạm hay
đụng độ quyền lợi của nhau, mà còn tỏ ra hết sức quí mến nhân phẩm và tôn trọng
nhân vị của nhau, đó là, về phương diện tiêu cực, theo Khổng Giáo, đừng làm gì
cho người khác những gì mình không muốn họ làm cho mình, hay, về tích cực, theo
Kitô Giáo, hãy làm cho tha nhân những gì mình muốn tha nhân làm cho mình. Tóm
lại, yêu người như bản thân mình, ái nhân như kỷ, chính là căn bản của nhân cách
làm người vậy, hay nói ngược lại, nhân cách đích thực của con người là ở chỗ yêu
tha nhân như chính mình vậy.
Phải, công việc chính yếu của các nhà giáo dục là ở chỗ uốn nắn nhân cách của
con người thụ huấn. Chính nhân cách của con người thụ huấn, chứ không phải nhân
phẩm và nhân vị của họ, mới là những gì các nhà giáo dục được phép đụng tới. Thế
nhưng, họ phải uốn nắn nhân cách của con người thụ huấn một cách xứng với nhân
phẩm và hợp với nhân vị của con người thụ huấn, vì chính bản thân của những nhà
giáo dục không phải là chủ tể của con người thụ huấn mà chỉ là thành phần giám
hộ cho con người thụ huấn thôi. Như thế, chính khi thực hiện sứ mệnh và công
việc giáo dục của mình đối với con người thụ huấn là con người giáo huấn được
nên trọn hảo hơn, một khi họ biết nỗ lực hoàn tất vai trò quản lý viên của mình,
tức vai trò giám hộ viên của họ trong việc trông coi một sản vật vô cùng cao qúi
là chính những con người thụ huấn được trao cho họ với tư cách là cha mẹ hay
thày cô để họ vun trồng và tưới bón cho đến khi con người thụ huấn thực sự đạt
đến tầm vóc nhân vị làm người sống cho đời.
Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh
(Bài chia sẻ cho buổi phát thanh Vui Mừng Và Hy Vọng 40,
20/10/2002)