Bản Chất Con Người
 



Tâm Lý và Thể Lý

Không ai có thể chối cãi con người có một cái gì đó khác với con vật và hơn con vật. Tại sao con người cũng có thân xác như con vật, một con vật thẳng đứng và biết nói, lại có văn hóa, lại phát triển về đủ mọi phương diện, từ thời ăn lông ở lỗ chẳng khác gì loài vật cho đến chỗ tối văn minh tân tiến hầu như tuyệt đỉnh ngày nay, về cả vật chất lẫn nhân bản? Tại sao con người cũng có bộ óc như con vật, với trung tâm thần kinh hệ ở trên đầu, lại có thể nẩy ra những tư tưởng, lại có thể biết suy tư, chẳng những biết được tất cả những gì ở chung quanh mình, với những khám phá khoa học cùng với những phát minh kỹ thuật tân kỳ, làm thăng hoa đời sống văn minh vật chất của con người trên mặt đất này, nhất là còn biết chính mình, với những cơ cấu tổ chức xã hội cùng với hệ thống luật pháp càng ngày càng phản ảnh nhân phẩm và tôn trọng nhân quyền xứng với nhân vị của con người hơn?

Phải, cái con người khác với con vật và vượt hơn con vật, cái làm con người có thể tiến từ tầm mức loài vật vô tri sống theo bản năng cho đến chỗ làm chủ trái đất, bằng một đời sống văn minh vật chất và văn hóa nhân bản như thế, chính là lý trí của con người. Tuy nhiên, con người sẽ không thể nào suy nghĩ và phát triển về văn minh và văn hóa như ngày nay, nếu con người không có một bộ óc tốt, ít là một bộ óc bình thường, bộ óc nguyên vẹn, không bị hư hại cách nào, như một số người bất hạnh trong họ đã trở thành những người khờ dại, lớn tuổi mà sống như trẻ con, những người bị mental retardation chậm trí khôn, những người bị chậm phát triển people with developmental disabilities, những người mà ở mức độ nặng như severe hay profound thì không biết tự chăm sóc lấy cho mình những nhu cầu căn bản nhất như ăn uống vệ sinh tiểu tiện, và nếu ở mức độ nhẹ như mild hay moderate thì không đủ hiểu biết để giao dịch xã hội hay không đủ khôn ngoan tối thiểu để có thể xoay sở biến báo phản ứng khi bất trắc xẩy ra.

Như thế, theo bản tính của mình, con người có hai phần, thể lý và tâm lý, thân xác và linh hồn. Yếu tố làm con người hiện hữu đó là bản tính gồm cả hồn lẫn xác của họ, gọi tắt là nhân tính, song yếu tố làm cho con người sống đó là linh hồn, nguyên lý làm cho thân xác của con người tồn tại và là tác nhân sai khiến, chi phối cũng như điều hành sinh hoạt của thân xác con người. Đó là lý do, một khi thân xác của con người hoàn toàn bất động, không còn biết gì nữa, là lúc hồn thiêng đã vĩnh viễn rời khỏi cái thi thể vô hồn đang nằm sõng soài trên mặt đất hay trong quan tài lạnh ngắt cứng đơ bấy giờ. Vì nhờ nguyên lý và tác nhân hồn thiêng để tồn tại và sinh hoạt như thế, thân xác đóng vai trò là một cơ sở hiện hữu thiết yếu cho linh hồn, là một phương tiện hoạt động bất khả thiếu cho linh hồn, và là một hiện thân sống động của linh hồn. Bởi thế mà mọi ngôn từ, hành vi, cử chỉ, hoạt động và phản ứng của con người bộc lộ nơi thân xác đều phản ảnh cho thấy nội tâm của con người, cho thấy những gì con người suy nghĩ, lập luận, phán đoán, chủ trương, ước mong, khát vọng, xu hướng v.v.

Phần Thượng và Phần Hạ

Tuy nhiên, dù đóng vai trò phụ thuộc, thân xác vẫn không phải là một thứ nô lệ của linh hồn và cho linh hồn, vẫn không phải là một yếu tố hoàn toàn thụ động, linh hồn muốn làm gì thì làm. Trái lại, về phương diện hiện hữu, thân xác bình đẳng với linh hồn, bởi vì, nếu không có thân xác thì cũng chẳng có vấn đề con người hiện hữu và hình thành, và về phương diện nhân phẩm, thân xác cũng có giá trị chẳng kém gì linh hồn, ở chỗ, ai hành hạ thân xác con người hay nhổ vào mặt con người thì hành động hành hạ và phỉ nhổ ấy chẳng những xỉ nhục chính cá nhân con người nạn nhân mà còn hạ nhục cả nhân phẩm của loài người nói chung nữa. Đó là lý do, dù con người bị tật nguyền về thể xác, hay xấu xí đến mấy đi nữa về dung mạo, họ vẫn là người, vẫn phải được tôn trọng.

Thế nhưng, thực tế cho thấy, nhiều khi thân xác lấn át cả linh hồn, và linh hồn phải nhượng bộ và trở thành nô lệ cho thân xác. Những trường hợp nghiện hút không bỏ được không phải là trường hợp điển hình cho thấy thân xác vẫn từng làm chủ linh hồn hay sao? Những trận chiến tranh lớn nhỏ liên tục xẩy ra trong lịch sử loài người cũng không chứng thực cho thấy phần hạ đầy những tham lam dục vọng chi phối phần thượng nơi con người hay sao? Cho dù phần thượng có ý thức được những phản loạn nơi bản thân mình như thế, một ý thức đã được thể hiện tỏ tường nhất qua Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc sau Thế Chiến Thứ Hai vào cuối tiền bán thế kỷ 20, phần hạ đầy tham lam dục vọng vẫn không vì thế mà tỏ ra sợ hãi hay xẹp đi, trái lại, nó cứ tiếp tục càng ngày càng bừng bừng lộng hành, chẳng những qua chế độ cộng sản tàn bạo cũng như qua đường lối tư bản tân thực dân, mà còn qua những vụ khủng bố tấn công khắp nơi trên thế giới ngay từ khi vừa mở màn cho thiên kỷ thứ ba đến nay v.v.

Đó là lý do tại sao vấn đề được đặt ra ở đây là phải làm sao để thân xác và linh hồn của con người hoàn toàn dung hợp với nhau, phần hạ và phần thượng nơi con người luôn tỏ ra hiệp nhất trên thuận dưới hòa. Vấn đề giáo dục con người căn bản nhất và chính yếu nhất là ở chỗ này. Một con người trưởng thành, nghĩa là một con người được giáo dục hoàn toàn, không phải chỉ là một con người hiểu biết, với những kiến thức phổ thông do học đường truyền dạy, thậm chí là một con người ý thức được trách nhiệm của mình trong xã hội do cha mẹ khuyên dạy đi nữa, mà còn là và phải là một con người biết tự chủ nữa mới được. Chúng ta vẫn nghe nhiều người khen tặng nhau rằng: “anh này, chị ấy, ông nọ, bà kia tốt lắm”, nếu hỏi lý do thì thường được cho biết rằng “vì những người ấy đã làm cho tôi cái này cái kia”, thế nhưng, chỉ sau một thời gian, những con người được tiếng là “tốt” ấy đã hiện nguyên hình hài của mình, khi họ không được những gì như ý họ muốn, như lòng họ mong, nơi con người họ đã làm ơn cho, đối xử tốt đẹp. Điển hình là trường hợp của những cặp tình nhân, họ không thể nào tiến đến chỗ lấy nhau, sống đời vợ chồng với nhau, nếu không thấy nhau “mười phân vẹn mười”, thậm chí bất chấp tất cả mọi lời khuyên can của cha mẹ, họ hàng thân thuộc và bạn bè về người đã được họ chấm là đệ nhất thiên hạ. Thế rồi, những cuộc tình yêu cuồng sống vội ấy hầu như đã đi đến chỗ For Sale rẻ tiền, đến chỗ khai trương tưng bừng lưng chừng dẹp tiệm.

Kiến Thức và Bản Chất

Như thế, vấn đề giáo dục con người tâm thể lý ở đây không phải chỉ là việc truyền thụ kiến thức cho nhau, mà thực sự còn là việc huấn luyện, huấn luyện cho nhau về cả ý chí nữa. Đúng vậy, sinh hoạt nội tâm hay sinh hoạt tâm lý của con người chẳng những bao gồm những tác động suy tư, lập luận và phán đoán bằng tài năng lý trí mà còn gồm có cả những tác động ước muốn, chọn lựa và quyết định tác hành của tài năng ý chí nữa. Theo tiến trình tự nhiên của sinh hoạt tâm lý thì lý trí đi trước ý chí, như ngành lập pháp bao giờ cũng đi trước ngành hành pháp nơi thể chế dân chủ trên thế giới từ sau Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ 1776, nhất là từ sau Cách Mạng Pháp 1789 đến nay. Tức là lý trí nghĩ thế nào là hay, là tốt, là lợi thì ý chí chấp nhận làm theo như vậy. Tiến trình này rất nguy hiểm vô cùng, vì một khi lý trí mù quáng bởi đam mê nhục dục, với những biện minh trấn an “cả vú lấp miệng” lương tâm, thì mù dẫn mù sẽ khó lòng tránh khỏi đâm xuống hố hay vấp ngã thảm thương.

Tuy nhiên, nếu lý trí thông thường có thể bị chi phối bởi đam mê nhục dục, thì lý trí cũng có thể bị chi phối bởi bản chất nhân vị của con người nữa. Có nghĩa là, nếu “lòng đầy mới trào ra ngoài miệng” (Mathêu 12:34), hay “cây tốt thì sinh trái tốt… cây tốt không thể nào sinh trái xấu” (Mathêu 7:17-18), đúng như nguyên tắc về tâm lý của Đấng Sáng Lập Kitô Giáo, thì con người tự bản chất tốt lành sẽ suy nghĩ tốt lành và sẽ tác hành tốt lành, còn con người xấu sẽ suy nghĩ bậy bạ, lệch lạc và sẽ tác hành sai quấy. Chẳng hạn, thấy một người ăn mày ăn xin, con người có tâm địa vị kỷ chắc chắn sẽ không cho gì cả, vì tâm địa vị kỷ của họ đã làm nẩy lên trong óc của họ ý nghĩ cho rằng người đó lười biếng không chịu đi làm lụng gì cả nên càng cho tiền càng làm cho họ ỷ lại không biết tự lập vươn lên; trái lại, con người có tâm địa vị tha, dễ mủi lòng thương cảm, “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”, liền móc túi ra cho liền, không cần suy nghĩ đắn đo, không cần cân nhắc lợi hại.

Thế nhưng, cái bản chất nhân vị vốn hướng chiều về sự thiện ấy, có những trường hợp không phải tự bẩm tính tự nhiên như thật sự vốn thấy ở một số người, mà là được bắt nguồn từ kinh nghiệm bản thân. Chẳng hạn, có những con người trước kia rất vị kỷ, nhưng sau trở thành rất vị tha, vì hoàn cảnh đẩy đưa đã làm cho họ thay đổi ý nghĩ, thay đổi tâm tình, thay đổi thái độ. Như họ đang giầu sang phú quí thì bị sa cơ thất thế, đến bị phá sản khánh kiệt phải đi ăn nhờ ở đậu, để rồi nhờ đó họ mới cảm thấy thấm thía cái thân phận nghèo khổ, thân phận của thành phần trước kia lúc còn giầu có họ đã khinh bỉ và làm ngơ. Sau đó, “hết thời bỉ cực tới thời thái lai”, làm ăn lại lên, họ tỏ ra biết thương người nghèo khổ hơn, năng giúp đỡ thành phần mà họ hơn một lần đã được vuốt mặt chia sẻ và ngậm ngùi thấm thía. Như thế, nhờ trường đời, nhân cách của con người lên voi xuống chó này đã thay đổi từ xấu sang tốt, từ tiêu cực sang tích cực. Tuy nhiên, một cuộc hoán cải hoàn toàn lột xác đổi đời như thế nơi con người vẫn phải lệ thuộc vào bản chất bẩm sinh của con người này nữa. Bằng không, thực tế đã cho thấy, có những con người cũng trải qua cùng hoàn cảnh thăng trầm như vậy, chẳng những không mở mắt ra, mà còn kêu trời trách đất, vùng vẫy ngoi dậy cho bằng được, để rồi, chẳng may thuận chiều xuôi gió họ có cơ hội chiếm lại được bằng hay hơn tất cả những gì đã mất, họ càng tỏ ra ta đây, tự phụ, tự đắc, tự kiêu, không coi ai ra gì!

Giáo Dục và Ý Thức

Nếu tâm chất của con người từ xấu có thể nên tốt nhờ trường đời thế nào thì tâm chất của con người cũng có thể vì hoàn cảnh sống làm cho họ từ tốt trở thành xấu như vậy. “Gần đèn thì sáng gần mực thì đen” là như thế. Cách đây 10 năm, tôi có phục vụ một gia đình có ba anh em trai, người em út là thân chủ chậm phát triển của tôi, người anh thứ hai của em được ba má cho là ngoan nhất nhà, nhưng cuối cùng lại là đứa đã bỏ nhà đi theo băng đảng; bị cha mẹ theo dõi tìm kiếm, đã bỏ sang tiểu bang khác; cha mẹ em vẫn không bỏ cuộc; cuối cùng, vì tâm chất tốt lành, em đã tự động trở về với cha mẹ. Gặp em, tôi hỏi em có muốn đi nữa không? Em mỉm cười rất dễ thương. Đầu thập niên 1990, truyền hình ở California đã chiếu cảnh 4 em trai Việt Nam đang dùng súng uy hiếp một tiệm video Good Guys ở Sacramento, đòi hỏi mấy điều, trong đó có phi cơ để bay về các trại tị nạn Đông Nam Á và củ sâm ngàn năm, những tình tiết chứng tỏ các em đã bị ảnh hưởng bởi thời cuộc và phim Tầu; cuối cùng cảnh sát đã hạ được các em, đứa thì bị chết đứa bị thương, những đứa trẻ rất dễ thương và đáng thương; như cha mẹ các em cho biết, các em vẫn đi giúp lễ cho linh mục ở nhà thờ, ngày ngày đi học về chỉ ở nhà coi phim Tầu, sáng hôm xẩy ra sự vụ các em còn lễ độ vào trường xin phép thày cô cho nghỉ học đàng hoàng. Chính mắt tôi cũng đã chứng kiến thấy một số em gái học ở một trường trung học đệ nhất cấp, Intermediate School hay Junior High, gần nhà tôi trước đây ở Pomona thuộc County Los Angeles, mới 12, 13 tuổi đã vừa cắp sách đến trường vừa bế con đi học. Theo tôi, đứa con trên tay của các em gái trẻ dại này là hậu quả của một thứ giáo dục tính dục sex education ở nhà trường cũng như của phim ảnh dâm ô do truyền thông phổ biến, nhưng cũng chính đứa nhỏ còn sống sót này đã chứng tỏ cho thấy mẹ nó tự bản chất rất tốt lành song đã bị đầu độc, và tuy bị xã hội người lớn đầu độc, mẹ nó vẫn không mù quáng vô luân phá thai như người lớn, trái lại, họ vẫn can đảm sinh con, chịu khổ vì con, ôm con đi học, để vừa tiến thân vừa nuôi con.

Đó là lý do yếu tố tâm chất của con người tâm thể lý rất quan trọng trong vấn đề giáo dục. Làm sao có thể thay đổi được tâm chất tiêu cực của con người và bảo tồn được tâm chất tốt lành của con người là vấn đề thuộc về nghệ thuật giáo dục. Nghệ thuật giáo dục này là ở chỗ, không phải chỉ cần hiểu được tâm chất của nhau, mà là làm sao thay đổi được tâm chất của nhau. Nghệ thuật giáo dục còn được thể hiện ở chỗ không phạm đến nhân vị của con người, vì tâm chất gắn liền với nhân vị, mà vẫn có thể uốn nắn được nhân cách của con người, một nhân cách của nhân vị chuyên biệt song hợp với nhân phẩm phổ quát.

Ngoài ra, tâm chất của con người còn được thể hiện qua tình trạng dễ giáo dục hay khó giáo dục nữa, dễ dạy hay khó bảo nữa. Có người ưa nặng, như tôi chẳng hạn, cần phải ngăm đe hay bị đòn hết cỡ mới chừa. Có người lại ưa nhẹ, chỉ cần ve vuốt, dỗ ngọt là xong. Có người phải dặn đi dặn lại mới nhớ, có người lại chỉ cần nói một lần là biết phải làm sao ngay. Thậm chí có đứa chẳng cần bảo cũng biết làm sao, trái lại, có đứa lì đến độ chẳng sợ đòn vọt, bất chấp tất cả. Những đứa phá phách, hung hăng, nghịch ngợm, ngang ngược thường là con trai, khỏe mạnh, tò mò, nhiều sáng kiến, lắm đam mê… Nếu biết giáo dục chúng, với lòng hăng say nhiệt thành của chúng, với tài năng tháo vát và hoạt bát của chúng, chúng sẽ trở thành những đứa nhỏ rất có lợi cho việc phục vụ nhân quần xã hội sau này. Bằng không, chúng có thể sẽ là những tay cao bồi du đãng, phá làng phá xóm, cướp của giết người v.v.

Trái lại, cũng có những em bị chậm trí khôn, chẳng hiểu gì mấy, song lại có đầy những hành vi cử chỉ cần phải được sửa đổi, những behavior problems needed to be improved này thường được các tham vấn viên về tác hành behavior consultant khuyên sử dụng phương pháp positive enforcement liên quan đến những gì các em thích nhất, bằng cách nhử mồi trước rồi tưởng thưởng sau mỗi lần, hoặc một số lần các em này tỏ ra “cải tà qui chính”. Dù sao phương pháp positive enforcement này, phương pháp giống như phương pháp đem áp dụng cho trường hợp những con khỉ hay con cá làm xiệc giỏi nên được ăn sau mỗi tác động biểu diễn của nó vậy, cũng không hoàn toàn hợp với nhân phẩm của con người là mấy, một chủ thể cần phải cải tiến theo ý thức của mình chứ không phải theo ngoại cảnh kích động nhử mồi như thế. Tôi đã thấy có những con người chậm phát triển, hết sức chậm trí khôn, ở mức profound hầu như chẳng biết gì, trình độ cognitive tri thức của họ, cũng như trình độ functioning tác hành của họ giống hệt như một đứa trẻ hơn một tuổi, nhưng họ vẫn biết người nào thương họ, và tỏ ra hết sức quyến luyến người ấy, nghe lời người ấy hơn ai hết, chỉ cần người ấy vuốt ve xoa lưng họ hay âu yếm hug ghì lấy họ một cái là đủ. Đó, dù là một con người chậm trí khôn, dù là một đứa nhỏ tí xíu đi nữa, con người đã có ý thức, ý thức mình được yêu và tỏ ra gắn bó với người yêu, một vấn đề ý thức liên quan đến tâm linh của con người, một vấn đề sẽ được bàn đến vào bài chia sẻ tới đây…
 


Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh
(Bài chia sẻ cho buổi phát thanh Vui Mừng Và Hy Vọng 41, 27/10/2002)
 

 

CON NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH

Trần Mỹ Duyệt

 


Ngoài việc trưởng thành về thể lý, con người còn cần sự trưởng thành về tâm sinh lý. Nhưng một cách hoàn chỉnh hơn, con người cũng đòi hỏi sự trưởng thành về tâm linh nữa. Khi sinh vào đời, con người không chỉ mang những tính chất thuần túy thể lý, mà còn bao gồm những đặc tính về tâm lý và tâm linh. Một đời sống hoàn chỉnh, do đó, bao gồm sự trưởng thành thể lý, tâm lý, và tâm linh. Thiếu một trong ba yếu tố ấy, con người không thể nói là đã phát triển và có một đời sống quân bình một cách đầy đủ.

1. Phát triển thể lý: Về thể lý, con người phát triển nhất ở vào tuổi 13 tới 19. Không những phái nam, mà cả phái nữ cũng thế. Người Việt Nam có câu: “Gái mười bẩy, bẽ gẫy sừng trâu”, để nói lên sự tăng trưởng và dồi dào sức lực trong thời gian cơ thể phát triển này. Không những các cơ bắp trong người tăng trưởng, mà còn cả đến tri thức cũng theo đà tăng triển. Chính vì thế, ở vào tuổi 15, một trẻ vị thành niên có đủ lý lẽ và hiểu biết để tranh biện với những người lớn tuổi về những đề tài xẩy ra chung quanh cuộc sống bao gồm chính trị, văn hóa, giáo dục, và xã hội.

Nhưng theo cơ thể học và vạn vật học, thì sự phát triển ấy còn kéo dài cho tới 25 tuổi. Lý do vì ở tuổi 25, các sụn tiếp hợp ở các đầu khớp xương ngừng tăng trưởng. Do đó, cơ thể con người không tăng trưởng nhiều về chiều cao. Ngược lại, tăng trưởng bề ngang sau tuổi này.Õ

2. Phát triển sinh lý: Thời gian phát triển về cơ thể cũng là thời điểm phát triển về sinh lý. Đúng ra, thân xác con người phát triển cũng chỉ nhằm mục đích tiến đến việc thực hiện hành động sinh lý. Vì tất cả sự chuẩn bị và tăng trưởng của các phần thân thể đều dẫn tới việc con người có thể hoàn tất được mục đích bảo vệ giống nòi là sinh sản con cái. Do đó, sự phát triển cơ thể của một em bé gái là chuẩn bị cho vai trò làm mẹ. Và sự phát triển cơ thể của một em bé trai là để chuẩn bị cho vai trò làm cha sau này. Kinh nguyệt của em bé gái ở vào tuổi 12 hoặc 13, những giấc mơ xuất tinh của em bé trai cũng ở lứa tuổi này là những dấu hiệu của tình trạng tăng trưởng, và chuẩn bị cho nhu cầu sinh lý. Ngoài ra, trong thời gian cơ thể phát triển ở tuổi này, nhũ hoa của phái nữ cũng được tăng triển như một dấu hiệu cần thiết cho vai trò làm mẹ sau này của nữ giới.

3. Phát triển tâm lý: Song song với sự phát triển về thể lý và sinh lý, sự phát triển về tâm lý của tuổi này cũng không ngoài mục đích thu hút và hấp dẫn lẫn nhau trong cuộc sống, và để hoàn tất việc duy trì nòi giống. Sức cuốn hút của tình yêu vừa do những thao thức và thèm khát của dục tính, vừa là những khao khát của tình cảm. Từ ngữ yêu và hành động yêu, do đó, thường khó tránh khỏi bị lạm dụng và bị thôi thúc bởi những khao khát và thèm muốn sinh lý. Do sức quyến rũ và thu hútÕ của nhu cầu sinh lý, tình yêu trở thành một hấp lực lạ lùng đến độ nó có khả năng thắng vượt tất cả. Freud, trong Phân Tâm Học đã coi dục tính như nguyên nhân chính tạo nên tâm bệnh.

Phân Tâm Học ỳcoi sinh lý là một nhu cầu cần thiết cho một cuộc sống quân bình và lành mạnh. Nhưng theo Form thì yêu lại là một nhu cầu và yếu tố quan trọng của đời sống. Tuy nhấn mạnh đến tình yêu, nhưng Form cũng không đi ra ngoài sức cuốn hút của dục tính khi đề cập đến tình yêu phái tính, tức là tình yêu giữa một người nam và một người nữ mà ông cho rằng nó chỉ đứng sau tình yêu giữa con người và Đấng Tạo Hóa.Õ

Tóm lại, sự phát triển về tâm sinh lý tuy có thể nhìn dưới hai khía cạnh, nhưng nó lại gắn liền và xen lẫn với nhau đến độ thật khó lòng tách rời khỏi tình yêu yếu tố tính dục, và dục tính lại không bị chi phối và gắn liền với tình yêu. Cũng một hành động tính dục nếu xẩy ra giữa hai người yêu nhau người ta gọi đó những hành động và việc làm ân ái. Một việc làm thiêng liêng, đẹp đẽ, đáng ca tụng. Ngược lại, nó bị coi là thái độ hay hành động hiếp dâm, một hành động bẩn thỉu, dơ dáy, đáng nguyền rủa. Sự gắn bó mật thiết giữa yêu và dục chúng ta cũng có thể nhìn thấy trong tương quan của các cặp tình nhân, các cặp vợ chồng mới cưới. Tình yêu và tính dục của những người này khác với tình yêu và tính dục của những đôi vợ chồng già, điều mà người Việt Nam chúng ta thường gọi là sống với nhau vì tình, vì nghĩa chứ không phải vì yêu.

Nhưng để trưởng thành về tâm lý, con người phải chờ đến khoảng 30 tuổi. Tuổi mà người Việt Nam gọi là “Tam thập nhi lập”. Cha ông ta qua kinh nghiệm đã để lại một nhận xét tâm lý phát triển rất hay, điều mà các nhà tâm lý Tây Phương bây giờ cũng phải công nhận. Một cô hay một cậu dầu gì đi nữa, thì cũng phải chờ đến khoảng 30 mới chững chạc và được coi là trưởng thành về mặt tình cảm. Do đó, nói tới trưởng thành tâm lý, cũng chính là đề cập tới cung cách xử thế, thái độ của một người trong việc kiềm chế hay hoán chuyển những cảm xúc và tình cảm.

Một cách đơn giản, sự trưởng thành về tâm lý cũng được hiểu như sự trưỏng thành về mặt tình cảm. Vì thiếu trưởng thành về tâm lý, nên nhiều người tuy tăng triển, lớn mạnh về thể lý, nhưng vẫn chưa trưởng thành về tình cảm. Những thái độ vô trách nhiệm, sự hờn giận, nóng nẩy, và câu nệ, chấp nhất. Một số hành động của sự thiếu trưởng thành này như thiếu tế nhị, và thiếu cẩn trọng đến độ để tình cảm và những rung động tình cảm bột phát một cách hết sức bừa bãi, lấn át cả lý trí và trí tuệ. Đối với những người ấu trĩ về tâm lý này thì ai làm sao mặc kệ, họ muốn ăn, muốn nói, muốn làm gì thì ăn, nói, và làm; không cần biết điều ấy là xấu hay tốt, nên làm lúc này hay nên làm lúc khác, nên thế này hay nên thế khác. Tóm lại, theo cái nhìn của Phân Tâm Học, thì con người siêu ngã của họ không thắng vượt được nhu cầu bản năng và những rung động tình cảm của bản ngãỉ.Õ

4. Phát triển tâm linh: Tuy nhiên, khi nói về sự hoàn chỉnh của một ngưòi, thì ngoài những yếu tố tâm sinh lý ra, chúng ta còn cần tới một sự phát triển khác nữa, đó là sự phát triển về mặt tâm linh. Sự trưởng thành tâm linh, do đó, là một trong những nét nổi bật của đời sống một người. Theo Hữu Lý Tình Cảm của Abert Ellis, niềm tin và tâm linh có một sức mạnh phi thường, chi phối mọi hoạt động của con người. Nó chính là kết tinh của một nền giáo dục, những ảnh hưởng của di truyền, của môi trường, và sự chi phối của niềm xác tín tôn giáo trong cõi siêu hình. Sức mạnh và ảnh hưởng của tâm linh không những đủ khả năng kìm hãm những đòi hỏi tự nhiên của bản năng, mà còn hướng tới những mục đích cao cả khác qua lăng kính tôn giáo. Điều này Freud cũng đá qua khi đề cập đến Siêu Ngã với cái nhìn Phân Tâm của ông.

Nhờ sự trưởng thành tâm linh, con người mới biết làm chủ được bản năng, và làm chủ được những ước muốn, tình cảm về mặt tự nhiên. Về mặt tâm lý, niềm tin tôn giáo cũng có một sức mạnh lạ lùng có khả năng làm cho con người vui vẻ để mà chết, để mà hy sinh, và chấp nhận những thử thách lớn lao. Chính vì vậy, một khi tâm linh hay tôn giáo bị lợi dụng hoặc cắt nghĩa sai lạc, nó sẽ trở thành một động lực làm phát sinh những hành động cuồng tín. Điều này giải thích tại sao có những cuộc hy sinh, những cái chết mà ta gọi là cuồng tín. Nhưng cũng nhờ trưởng thành về tâm linh, ta có những đời sống đạo đức, và luân lý.

Sự trưởng thành tâm linh, như thế vượt cả sự trưởng thành về thể lý, sinh lý và tâm lý. Con người dù trưởng thành về thể lý và tâm sinh lý nhưng cũng chưa bảo đảm được sự trưởng thành về mặt tâm linh. Không ai dám chết và chấp nhận chết một cách đau đớn như các nhà tuẫn giáo dám chết vì tín ngưỡng. Nhưng nếu không trưởng thành đủ, thì sự tin tưởng mù quáng cũng dẫn đến thái độ mê tín và cuồng tín. Chính do sự mù quáng của niềm tin, con người cũng dám liều lĩnh đi vào những cái chết như nhửng kẻ ôm bom tự sát, hoặc thí thân vì mặc cảm thù hận và cuồng tín tôn giáo.

***

Như vậy, khi đề cập đến sự trưởng thành của một người, ngoài việc phát triển về mặt thể lý, phát triển tâm sinh lý, ta còn cần đề cập đến sự hoàn chỉnh và trưởng thành tâm linh nữa. Nhưng riêng về sự trưởng thành tâm linh là điều không thể loại bỏ ảnh hưởng của tôn giáo. Tất cả làm nên một con người và cuộc sống hoàn chỉnh, tạo sự hài hòa cho con người. Thiếu một trong ba yếu tố ấy, cuộc sống con người sẽ không được hoàn hảo, nếu không muốn nói là bệnh hoạn.