Tội Lỗi
Ý Thức Tội Lỗi
Nói đến tội lỗi, trước hết và trên hết là nói đến ý thức luân lý, ý thức đúng
sai, lành dữ, chứ không phải chỉ nói đến những hành động xấu xa, bậy bạ, sai
quấy, trái phép. Bởi vì, có những hành động tội lỗi nhưng con người vì thực sự
không biết hay hoàn toàn vô thức nên đã vấp phạm, bằng không đã không làm. Đó là
lý do mới có câu “không biết thì vô tội”, và đó cũng là lý do, theo Giáo Lý của
Giáo Hội Công Giáo thì yếu tố chính yếu làm nên tội lỗi thật đó là ý thức những
gì mình làm là tội mà cứ cố tình làm. Hay dù có ý thức được tội lỗi đi nữa, con
người vẫn cứ làm vì họ có lý do của họ. Bởi thế mới đang xẩy ra tình trạng những
gì ngày xưa cho là tội lỗi, xấu xa, cần phải xa lánh, như ly dị, phá thai v.v.
thì ngày nay con người lại cho là thiện ích, tốt đẹp, cần phải thực hiện.
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao con người có ý thức tội lỗi, hay ý thức tội
lỗi từ đâu mà ra hoặc bởi đâu mà có? Phải chăng do truyền thống xã hội mà có,
bởi vì, có những hành động ở xã hội địa phương này, hay ở xã hội thời ấy được
làm, chẳng hạn tục đa thê hay chế độ nô lệ, nhưng ở xã hội địa phương kia và ở
xã hội ngày nay không được làm nữa; hoặc ngược lại, trước đây hay ở đó có những
hành động không được làm, nhưng bây giờ và ở kia lại được làm, như ly dị và phá
thai v.v. Đó là lý do trước khi xác quyết tội lỗi bởi đâu mà có, cần phải nhận
diện được đích thực chân tướng của tội lỗi là gì và như thế nào.
Trước hết, đối với Phật Giáo, nếu không xác định rõ tội lỗi là gì, Phật Giáo sẽ
gặp rắc rối trong vấn đề đầu thai luân hồi. Thật vậy, theo giáo lý Nhà Phật, sở
dĩ con người cần phải đầu thai luân hồi là vì nghiệp báo, tức vì những hành động
tội lỗi xấu xa của họ. Thế nhưng, nếu ngày nay con người văn minh chủ trương
những gì vốn được truyền thống cho là tội lỗi đều là những gì vô tội, đều là
những gì thiện ích, thì chẳng lẽ tất cả mọi hành động của con người văn minh
ngày nay không còn bị nghiệp báo nữa hay sao? Ngoài ra, bản chất hay ý nghĩa của
tội lỗi còn liên quan cả đến vấn đề thời hạn cần phải đầu thai luân hồi nữa, tức
con người cần phải đầu thai luân hồi lâu hay mau là tùy ở số lượng tội lỗi, tùy
ở tầm mức trầm trọng của tội lỗi họ phạm, tức càng tội lỗi đầy đầu con người
càng bị đầu thai luân hồi lâu, đầu thai hết đời này đến đời khác. Bởi thế, nếu
không biết đến tội lỗi là gì thì con người chủ quan làm sao biết được biết mình
phạm những tội đáng phải đầu thai luân hồi bao lâu. Vả lại, theo giáo lý Phật
Giáo, con người muốn thoát khổ cần phải đạt đến mức độ trở thành “vô ngã”, mà
thành phần mất ý thức tội lỗi, tức không còn biết đến tội lỗi là gì nữa phải
chăng đã đạt đến mức độ trở thành “vô ngã”, vì chỉ có hữu ngã con người mới chịu
trách nhiệm về hành động của mình mà thôi, tức mới cảm thấy mình cần phải đầu
thai luân hồi.
Nếu giáo lý Phật Giáo gặp nan giải trong vấn đề bản chất tội lỗi, tức tội lỗi là
gì liên quan chẳng những đến vấn đề đầu thai luân hồi mà còn liên quan cả đến
tầm mức “vô ngã” thượng thừa của họ nữa, thì thần học Kitô Giáo cũng phải đối
đầu với vấn đề nguồn gốc tội lỗi, tức tội lỗi bởi đâu mà có như vậy. Đúng thế,
theo Mạc Khải Thần Linh, một mạc khải đã được ghi nhận trong cuốn Sách Thánh đầu
tiên là cuốn Sáng Thế Ký của Do Thái Giáo, thì ngay từ ban đầu loài “linh ư vạn
vật” là con người đã được Thiên Chúa Hóa Công dựng nên theo hình ảnh và tương tự
như Thiên Chúa, ở chỗ có hồn thiêng bất tử và nhờ đó có quyền tự do, hoàn toàn
tốt lành, hoàn toàn tinh nguyên, không bị một hư hại nào. Nghĩa là ngay từ ban
đầu, khi mới được tạo dựng nên, con người còn ở trong tình trạng công chính
nguyên thủy, còn ở trong tình trạng hòa hợp với Thượng Đế Chí Tôn, với thiên
nhiên tạo vật, nhất là với chính bản thân mình và với nhau. Tức nơi con người
bấy giờ chưa xẩy ra tình trạng giằng co nội tâm giữa phần hạ và phần thượng; nơi
họ bấy giờ cũng chưa có mầm mống tội lỗi là đam mê nhục dục và tính mê nết xấu.
Nếu ngay từ ban đầu con người không hề biết đến tội lỗi là gì, thậm chí không
hướng chiều về tội lỗi, không có căn cớ để phạm tội, thế mà tại sao con người
lại có thể phạm tội được? Tội ở đâu mà có là như vậy. Nếu nói rằng sở dĩ con
người yếu đau về phần xác là vì thân thể họ không được khỏe mạnh, tức yếu đau là
do tình trạng yếu kém về sức lực, thì tại sao ngay từ ban đầu, con người đang
sung sức về tinh thần lại có thể bị yếu đau thiêng liêng, tức có thể bị bệnh tật
về đạo lý là phạm tội như vậy? Vấn đề tội ở đâu mà có là như thế.
Nguồn Gốc Tội Lỗi
Về nguồn gốc tội lỗi, theo cảm nghiệm cụ thể, người ta cho rằng tội lỗi là những
gì phát xuất từ tự do của con người, vì nếu không có tự do con người sẽ không
thể phạm tội và không bao giờ phạm tội. Thế nhưng, nếu không có tự do con người
cũng sẽ không phải là và không còn là con người nữa, vì không có tự do, con
người sẽ chỉ sống theo bản năng như con vật, không biết yêu thương là gì, yếu tố
làm nên sự sống nhân bản của con người và kiến tạo nên văn minh của con người.
Như thế, nếu tự do tự bản chất là yếu tố làm nên con người thì tự do không thể
nào là căn nguyên gây nên tội lỗi nơi con người. Tuy nhiên, nếu tự do không phải
là nguồn gốc gây nên tội lỗi nơi con người thì nguyên nhân khiến con người phạm
tội chắc chắn phải là thử thách và cám dỗ. Như trường hợp đệ nhất nữ nhân nguyên
tổ Evà đã gặp phải trong vườn địa đàng trước những lời dụ ngọt hợp lý của rắn
quỉ tinh khôn, đến nỗi bà đã làm ngược lại tất cả những gì Đấng Tối Cao phán dạy
còn vang vọng rõ ràng trong lương tâm và ý thức của bà, như bà nhắc cho con rắn
quỉ này biết khi bị nó cám dỗ (xem Sánh Thế Ký 3:2-3). Bởi vì, nếu không có thử
thách, con người tự do sẽ không có cơ hội để phạm tội, để lạm dụng tự do của
mình. Thế nhưng, ngược lại, nếu không có thử thách, con người cũng không cần có
tự do, yếu tố làm nên con người “nhân linh ư vạn vật”, hay ngược lại, con người
không cần tự do nếu không có thử thách, vì thử thách chẳng những là yếu tố ngoại
tại chứng tỏ con người thực sự có tự do mà còn là cơ hội cho con người chứng tỏ
mình có tự do thực sự, tự do hoàn toàn, tự do đến nỗi không bị một cái gì, dù là
thử thách, có thể ảnh hưởng và chi phối được mình. Như thế, nếu thử thách là
phương thế cần có để làm cho con người tự do phát triển hơn là khiến họ bị suy
thoái, thì thử thách tự bản chất không thể nào là nguyên nhân gây nên tội lỗi
nơi con người.
Dầu sao cũng phải công nhận rằng tự do, dù không phải là nguyên nhân chính khiến
con người phạm tội, thì cũng là khả năng để con người có thể phạm tội. Bởi vì,
con người bị bắt buộc mà làm điều xấu, hay làm điều xấu trong tình trạng không
làm chủ được mình bởi những quyền lực ngoài ý muốn, như trường hợp những người
Công Giáo không chịu bước qua Thánh Giá là tác động biểu hiệu chối đạo và bỏ đạo,
họ đã được lệnh khênh họ qua thập giá v.v., thì họ hoàn toàn vô tội. Nghĩa là,
bởi có tự do con người mới có khả năng chọn lựa lành dữ, tốt xấu, đúng sai, lợi
hại. Chính tác động chọn lựa của con người, nhất là chọn xấu là yếu tố tạo nên
tội lỗi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có những cái con người chọn sai nhưng hoàn
toàn vì nhầm lẫn, vì không rõ, vì vô thức, nên tác động xấu xa tội lỗi của họ,
tự bản chất của nó, đối với Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, một là vô tội hai là
nhẹ tội. Như thế, yếu tố chính làm nên tội là ý thức của con người. Thậm chí,
cũng theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, chính ý thức này còn tạo nên tội lỗi
nữa, dù hành động con người làm không phải là tội thật. Chẳng hạn, theo luật,
việc người Công Giáo vì lười bỏ không tham dự lễ Chúa Nhật là một trọng tội,
nhưng hôm họ bỏ lễ không phải Chúa Nhật, mà họ lại tưởng là Chúa Nhật. Như thế,
nếu thực sự ngày họ tưởng là Chúa Nhật ấy quả thực là Chúa Nhật họ cũng bỏ không
đi tham dự lễ vậy. Tội là ở chỗ ý thức của con người là thế.
Bản Chất Tội Lỗi
Tuy nhiên, cho dù, về phương diện chủ quan, vấn đề tội lỗi ở đây gây ra bởi tác
động con người chọn lựa và ý thức, song về phương diện khách quan, vấn đề tội
lỗi ở tại chính bản chất của nó, ở tại nó là việc xấu, việc ác. Chẳng hạn việc
gian dâm hãm hiếp, việc cướp của giết người v.v. những việc mà dù con người có ý
ngay lành mấy đi nữa, cũng không thể vì ý tốt của tác nhân mà việc vốn xấu trở
thành việc tốt lành, cũng không thể biện minh cho việc làm của họ. Hay chẳng hạn
những trường hợp như ra tay sát hại những người bị bệnh bất trị cho họ khỏi khổ;
sát hại những thai nhi có thể bị tật nguyền để đỡ gánh nặng cho xã hội; đi làm
điếm để cầu thực nuôi thân, như đi ăn cướp của người giầu đem bố thí cho người
nghèo; chính sách vô sản nhân dân làm chủ chính phủ quản lý để san bằng mọi giai
cấp và bất công xã hội v.v. cũng thế. Bằng không, chính con người là Đấng Tối
Cao. Nghĩa là tất cả những gì con người nghĩ đều là chân thật, ở chỗ tất cả
những gì họ nghĩ đúng là đúng, nghĩ sai là sai, và tất cả những gì con người
muốn đều thiện hảo, ở chỗ những gì con người không thích là xấu, ngược lại những
gì con người thích là tốt v.v. Nếu xã hội loài người sống theo đường lối chủ
quan về luân lý, cũng là đường lối tương đối hóa luân lý như thế, nó sẽ trở
thành vô cùng lộn xộn và hỗn loạn, vì trăm người trăm tính, mà ai cũng cho mình
là đúng, là hay, thử hỏi không phải xã hội loài người sẽ trở thành một xã hội
sống theo luật rừng mạnh được yếu thua hay sao? Phải chăng xã hội con người văn
minh ngày nay đang sống theo luật rừng mạnh được yếu thua này, khi kẻ mạnh là
thai mẫu có quyền giết kẻ yếu là thai nhi? Sở dĩ con người văn minh ngày nay đã
tiến đến chỗ sống theo luật rừng mạnh được yếu thua này là vì họ đã tự cho mình
là chúa tể, cho mình có quyền pro choice, được toàn quyền định đoạt lành dữ theo
ý họ.
Vậy, nếu tội lỗi tự bản chất thực sự là việc xấu, việc ác, và con người phạm tội
là con người làm việc xấu, việc ác, thì làm sao để có thể biết được, hay căn cứ
vào đâu để biết được, đâu là việc xấu, việc ác. Trước hết, có thể nói, tất cả
những việc gì con người làm không đúng với sự thật đều là việc xấu, việc ác. Đó
là lý do hành động tội lỗi còn được gọi là hành động gian ác, hay nói ngược lại,
tất cả những gì không phản ảnh chân lý, không thật đều là những sự xấu xa, những
sự gian ác, như ăn gian, nói dối. Như thế, tự bản chất, tội lỗi trước tiên là
tất cả những gì dối trá, không thật. Con người tội lỗi là con người không sống
theo sự thật hay không sống trong sự thật, và chính vì không sống trong sự thật
hay sống theo sự thật mà con người đã làm những gì không hợp với sự thật làm
người của mình, không sống theo thân phận làm người của mình, không sống đúng
với phẩm giá làm người của mình. Bởi vậy, có thể thực tế định nghĩa tội lỗi là
tất cả những gì con người thực hiện phản nghịch lại với sự thật làm người của họ
hay phạm đến nhân phẩm làm người của họ, những gì cũng đã được nhân gian công
nhận và gọi là ác nhân ác đức hay thất nhân thất đức.
Thế nhưng, đâu là sự thật làm người, hay sự thật làm người này là gì, nếu không
phải sự thật làm người ở ngay chính nhân phẩm của con người, và nhân phẩm là tất
cả sự thật về con người. Vậy nhân phẩm của con người đây là gì mà hễ con người
không sống đúng với nó là con người không sống đúng với sự thật làm người, là
con người sống trong tội lỗi?
Trước hết, nhân phẩm tự bẩm sinh mà có nơi con người, chứ không phải xã hội hay
thẩm quyền trần gian nào đã ban cho họ. Chính bởi nhân phẩm bẩm sinh này của
mình mà con người mới có những quyền lợi bất khả vi phạm xứng với thân phận làm
người của mình, như quyền được sống, quyền tự do tôn giáo, quyền tự do ngôn luận,
quyền tự do lập gia đình, quyền được tự vệ và biện hộ v.v. Đó là lý do tất cả
những hành động nào phạm đến các quyền này đều là tội ác, chẳng hạn như trường
hợp sát nhân; trường hợp cấm cách và bắt đạo, hoặc lừa bịp, dụ dẫm, ép buộc bắt
kẻ khác theo đạo của mình; trường hợp không cho phổ biến hay đăng tải những tin
tức chính đáng vì sợ tuyên truyền phản chính sách của mình, thậm chí kỳ thị nhau,
không cho nhau bày tỏ và thể hiện những nét văn hóa riêng của họ; trường hợp bắt
con cái lập gia đình theo chủ quan và ý thích của cha mẹ; trường hợp chụp mủ và
xử án cho có vẻ dân chủ ở một số xã hội chuyên chế độc quyền v.v.
Tuy nhiên, cũng chính vì những quyền lợi là do bẩm sinh mà có, chứ không phải do
con người lập được, tức những quyền lợi con người có là được ban cho, mà con
người còn có trách nhiệm kèm theo nữa, tức còn có trách nhiệm đối với những
quyền lợi con người nhận được. Ở chỗ, họ phải làm sao sử dụng đúng đắn những
quyền lợi ấy cho hợp với sự thật làm người của mình, chứ không được lạm dụng
chúng, sử dụng chúng theo ý muốn chủ quan của mình.
Chẳng hạn, được quyền tự do ngôn luận thì không phải được quyền muốn nói gì thì
nói, muốn chửi ai thì chửi, muốn vu khống ai thì vu khống, vì quyền tự do ngôn
luận này theo sự thật làm người là quyền con người cần có chẳng những để truyền
đạt bản thân mình mà còn để hiểu biết nhau, nhờ đó xích lại gần nhau nữa; bởi
vậy, bất cứ lời nói nào gây chia rẽ nhau đều là những tác động phản nhân bản,
những tác động xấu xa, cần phải tránh, phải bỏ. Được quyền sống không phải là
muốn chết lúc nào thì chết, hay được quyền tha hồ nghiện hút làm hại đến sức
khỏe, hoặc được quyền lái xe ẩu nguy hiểm đến tính mạng, vì quyền sống này theo
sự thật làm người là quyền con người cần có để làm cho sự sống phát triển, sự
sống truyền sinh, sự sống phục vụ; bởi vậy, bất cứ hành động nào tác hại đến sự
sống hay triệt hạ sự sống đều là những hành động tội ác, cần phải tránh, phải bỏ.
Được quyền lập gia đình không có nghĩa là được quyền tiền dâm hậu thú, được
quyền đồng tính kết hôn v.v. vì quyền lập gia đình này theo sự thật làm người là
quyền con người cần có để hiệp thông xã hội và truyền sinh nòi giống; bởi thế,
tất cả những việc làm nào phản lại đời sống hôn nhân gia đình đều là những việc
làm xấu xa tội lỗi, cần phải tránh, phải bỏ. Được quyền tự do tôn giáo không có
nghĩa là được quyền muốn lập đạo nào thì lập như đạo thờ quỉ Satan, hay được
quyền nhân danh tôn giáo để khủng bố, vì quyền tự do tôn giáo này theo sự thật
làm người là quyền con người cần có để con người chẳng những thăng tiến tâm linh
mà còn cứu nhân độ thế nữa; bởi thế, bất cứ hành động nào làm cho con người suy
thoái tâm linh hay tác hại đến xã hội loài người, đều là những hành động tộc ác,
phản tôn giáo.
Chân Tướng Tội Lỗi
Tóm lại, với nhân phẩm làm người của mình, con người cần phải có tự do và cần
phải được hưởng những quyền lợi bẩm sinh xứng hợp với tự do của mình. Thế nhưng,
thứ tự do nào làm cho con người thăng tiến mới là thứ tự do thật, tức làm cho họ
đạt được đích điểm làm người của họ, đạt đến tầm vóc thành toàn của họ, dù họ có
phải trả bằng một giá cao, bằng những hy sinh, thử thách và khổ đau, chẳng hạn
thà chết hơn bỏ đạo, một tác động bất khuất, chẳng những thắng vượt quyền lực
tội lỗi và sự chết, mà còn làm sáng tỏ chân lý làm người, chân lý con người
thuộc về thượng giới chứ không phải hạ giới. Ngược lại, thứ tự do nào làm cho
con người đánh mất bản thân mình, như những hành động mất tính người, những hành
động cho thấy con người sống như con vật hay thua con vật, hay thứ tự do biến
con người trở thành nô lệ, như nghiện ngập không bỏ được, thì đó chỉ là thứ tự
do giả tạo, vì quyền tự do nói chung theo sự thật làm người đó là quyền để con
người có thể làm lành lánh dữ, có thể chế ngự sự dữ, có thể bằng an tự tại không
bị chi phối hay ngã gục bởi bất cứ một yếu tố hay quyền lực ngoại tại nào; bởi
thế, bất cứ hành động tự do nào làm cho con người băng hoại đều là hành động phi
nhân bản, ngược lại, bất cứ hành động hy sinh chịu đựng nào làm con người thăng
tiến, làm cho họ đạt đến đích điểm và tầm vóc thành toàn của mình, đều là những
hành động thành nhân, những hành động trọn hảo. Đó là lý do tôn giáo nào có
quyền năng biến đổi con người, giúp họ sống trọn ơn gọi làm người của họ, sống
một đời sống nhân bản trọn lành mới là tôn giáo đáng theo.
Thế nhưng, tất cả những hành động phản lại với sự thật làm người không phải chỉ
trực tiếp phạm đến phẩm giá của con người mà còn phạm đến chính nguồn gốc của
phẩm giá này, tức phạm đến chính Đấng đã ban cho họ được hưởng những quyền lợi
làm người, và vì thế họ phải có trách nhiệm sử dụng những quyền lợi ấy theo ý
muốn của Ngài là chủ nhân ông tối thượng của tất cả những gì Ngài ban cho họ và
đặt để nơi họ. Như thế, nói cho cùng, tội lỗi là tất cả những gì làm trái với ý
muốn trọn hảo của Thiên Chúa, một ý muốn thần linh được vang vọng qua tiếng
lương tâm chân chính của họ, cũng như được tỏ hiện phổ quát nơi lề luật tự nhiên
và những nguyên tắc luân lý tối yếu. Đó là lý do con người chân thành bao giờ
cũng cảm thấy áy náy khi làm ngược lại tiếng lương tâm, và con người thiện chí
bao giờ cũng cảm thấy hối hận khi làm gì phản trái với luân thường đạo lý.
Tuy nhiên, dù sao tội lỗi cũng cho thấy con người khao khát một cái gì đó trổi
vượt hơn quyền hạn của họ, một cái gì đó vô cùng viên mãn dù bị cấm đoán. Tội
lỗi như thế là dấu chứng tỏ cho thấy con người thực sự muốn nên bằng Thiên Chúa,
muốn tuyệt đối tự do, muốn toàn quyền định đoạt lành dữ, vì, theo Thánh Kinh Do
Thái Giáo và niềm tin Kitô Giáo, con người đã được dựng nên theo hình ảnh Thần
Linh và tương tự như Thiên Chúa. Con người còn cảm thức tội lỗi, còn cảm thấy áy
náy, còn cảm thấy hối hận, là dấu chứng tỏ họ là một con người hữu thần, còn tin
tưởng Thần Linh, còn hướng về tha nhân, còn sống trong sự thật, còn có thể hoán
cải và còn có thể cứu độ.
Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh, BVL
(Bài chia sẻ cho buổi phát thanh Vui Mừng Và Hy Vọng 49, 22/12/2002)
TỘI
Theo quan niệm của tâm lý học
Trần Mỹ Duyệt
Tội là gì? Một định nghĩa thông thường nhất khi ta nghĩ về
tội, đó là tư tưởng, lời nói, và hành động đi ngược lại những gì mình biết là
xấu, là không tốt. Thí dụ, tôi biết rõ ràng rằng thò tay rút cái ví của người
khác là một việc làm rất xấu xa nhưng tôi vẫn cứ làm. Tư tưởng thúc đẩy hành
động, và hành động này đi ngược với lương tâm, với luật pháp và sự hiểu biết, đó
là một việc làm tội lỗi, hay gọi là tội.
Quan niệm về tội thường đưa ra những thắc mắc liên quan đến lương tâm và tâm lý,
bởi thế, khi ta đề cập đến một con người thành nhân, một con người trưởng thành,
như những chủ đề trước, tức là ta nói đến một sự phát triển đầy đủ và đều đặn
không những về thể lý, tâm lý, mà còn về tâm linh nữa. Chúng ta hãy để cho các
nhà đạo đức học, thần học, tu đức, luân lý và luật học bàn và nói về tội. Hôm
nay, đề tại về tội chỉ xin được diễn tả một cách đơn giản dưới khía cạnh tâm lý
học.
Tại sao lại cho rằng tội có liên quan đến tâm lý, và tâm lý đóng vai trò gì
trong vấn đề tội phúc của một người, hay của đời sống con người.
Thưa rằng, đời sống đầy đủ và trọn vẹn của một người bao gồm thể lý, tâm lý và
tâm linh. Sự phát triển ba chiều này phải đều đặn, phải song song với nhau.
Thiếu một trong những khía cạnh ấy, cuộc sống một người sẽ bị què cụt hoặc ốm
yếu, bệnh tật. Theo các nhà tâm lý học, nhất là tâm lý đạo đức, thì nếu như con
người sinh ra có chút kém cỏi về diện mạo, nhưng trưởng thành về tâm lý và đạo
đức, người đó vẫn được chấp nhận và kính trọng trong xã hội. Người Việt Nam có
câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người”. Ở đây, tâm
lý và tâm linh chiếm một địa vị quan trọng hơn sắc đẹp và sự thu hút của thể lý.
Nhưng giả thử như tâm lý con người có yếu kém đôi chút, thí dụ, một người sinh
ra có ít nhiều ảnh hưởng tâm lý di truyền và có một đôi khuyết điểm, nhưng bù
lại cố công tập luyện và trao dồi đời sống tâm linh cho trưởng thành, cho nghiêm
chỉnh, người ấy cũng vẫn được chấp nhận và yêu mến. Thí dụ, một người có bản
tính nóng giận, hoặc nghiêng về dục tính quá nhưng biết dùng ảnh hưởng tôn giáo,
ảnh hưởng niềm tin để cùng phát triển đến mức trưởng thành về niềm tin và kìm
hãm tính nóng nẩy, cũng như những ước muốn, đòi hỏi vô luân của bản năng tính
dục, lúc ấy họ đáng khen hơn những người bản tính hiền thục, nhẹ nhàng trong
những đòi hỏi về sinh lý lại bày đặt tập tành hút sách, gái gẩm, hoặc văng tục,
chửi thề.
Đời sống luân lý có một liên quan chặt chẽ với tâm lý, và tâm lý lại trực tiếp
ảnh hưởng đến thể lý. Do đó, khi nói đến tội, là phải đề cập nhiều hơn trung
gian giữa một cuộc sống con người là tâm lý. Điều này, ngay cả các nhà thần học
luân lý cũng cho rằng quan trọng, vì tâm lý ảnh hưởng rất nhiều trong những
quyết định liên quan đến một hành vi tội phạm. Trong các vụ xử án, và trong
những lý do được tha bổng cho một người trước hành vi tội lỗi của người ấy có
yếu tố và lý do tâm lý. Thí dụ, một người đánh nhau, hoặc giết người trong lúc
tâm thần và tâm lý bất ổn, không kìm hãm được bản năng và sinh hoạt của mình thì
không có tội, nếu luật sư biện hộ tìm cách chứng minh được một tâm lý bất ổn đã
ảnh hưởng người ấy trong lúc đánh nhau và giết người. Tóm lại, ngoài việc không
biết, không hiểu ra, ảnh hưởng tâm lý cũng là một yếu tố quyết định cho một hành
vi tội lỗi.
Nhưng tại sao vẫn có người cho rằng mình không có tội. Thưa, đây chỉ là những
câu nói, hoặc ý nghĩ của con người một là thiếu quân bình về tâm lý, hai là
người mang tâm lý kiêu căng tự phụ. Nếu thiếu quân bình về tâm lý thì như đã vừa
trình bày, có thể tha thứ. Nhưng nếu vì kiêu căng tư phụ, thì hành động tự cho
mình vô tội đã là một thứ tội rồi.
Trở lại vấn đề ảnh hưởng của tâm lý về tội, thì theo nhà tâm lý đạo đức
Kohlberg, lược đồ phát triển luân lý của ông chia thành 3 thời kỳ, và mỗi thời
kỳ gồm 2 đặc tính luân lý khác nhau. Ba thời kỳ đó là: Tiền phát triển, phát
triển, và hậu phát triển. Và 6 đặc tính của ba thời kỳ này là:
Thời kỳ thứ nhất gồm:
Nhận thức về hình phạt và sự vâng phục,
và tìm khen thưởng và tránh bị phạt.
Thời kỳ thứ hai gồm:
Nhận thức về thế nào là một đứa trẻ tốt,
và ứng dụng luật lệ bởi quyền bính.
Thời kỳ thứ ba gồm:
Nhận định về quyền lợi, về sự liên đới của luân lý,
và thiết lập những nguyên tắc của lương tâm.
Như vậy, đặc tính thứ nhất và thứ hai hoàn toàn có tính cách cá nhân. Đến đặc
tính thứ ba và thứ bốn, con trẻ đã nhìn xa hơn vào đời sống của xã hội bằng
những luật lệ và sự thưởng phạt. Cuối cùng đặc tính thứ năm và thứ sáu, con
người mới thật sự thiết lập cho mình những nguyên tắc luân lý cho cuộc sống. Vẫn
theo Kohlberg thì tuy mỗi người đều khác nhau, nhưng thời gian chuyển tiếp của
thời kỳ thứ nhất và thời kỳ thứ hai xẩy ra vào khoảng 10 hay 11 tuổi, và từ thời
kỳ thứ hai đến thời kỳ thứ ba là thời gian hậu dậy thì hay vào lúc con người đã
phát triển thành người lớn.
Cũng theo tâm lý phát triển thì khi một em bé lên 7 tuổi, em có khả năng nói láo
một cách sành sỏi, và có thể làm cho cha mẹ phải hiểu lầm. Rồi khi lên 15 tuổi,
em có khả năng lý luận như một người đã lớn. Những điểm này cũng bổ túc cho quan
niệm về phát triển tâm sinh lý và đạo đức, và cho biết rằng, không ai có thể nói
mình hoàn toàn vô tội, hoặc không biết tội. Và như vừa trình bày trên, chỉ có
người bị điên loạn và bị tâm lý khủng hoảng mới hành xử và coi mình như là người
vô tội. Tóm lại, những tư tưởng như báo thù, giận hờn, toan tính làm thiệt hại
người này người khác tuy nói ra hay không nói ra, đều có một tầm ảnh hưởng rất
quan trọng trong việc dẫn tới hành động. Và những hành động như giết người, cướp
của, gian dâm, trộm cướp, hành hung… là những hành vị tội mà ít nhất một trẻ em
lên 5, lên 10 cũng đã biết. Và nếu một người lớn tuổi suy nghĩ, và hành động như
thế thì ít có trường hợp được coi là không có tội. Tóm lại, theo tâm lý phát
triển và tâm lý đạo đức, con người ngoài yếu tố tinh thần, yếu tố tâm lý cũng đã
chỉ cho biết rằng, mình không được phép làm điều xấu, vì điều xấu không những bị
ngăn cấm, bị phạt, mà còn làm ảnh hưởng xấu đến đời sống chung, đến những quan
hệ bên trong và bên ngoài cuộc sống của mình và những người chung quanh mình.
Nhưng điểm quan trọng ở đây khi bàn về tội theo quan niệm tâm lý học, là sự day
dứt, cắn xé và gậm nhấm tâm hồn của người phạm lỗi. Dù không ai biết, nhưng chăc
chắn mình biết mình đã nghĩ gì, nói gì, và làm gì với ai, ở đâu, khi nào và như
thế nào. Khi ra trước tòa án, các luật sư có thể biện hộ cho mình thế này, thế
khác, nhưng tự thâm tâm và tự mình, mình đã biết mình như thế nào. Cũng vậy,
người đời có thể nói xấu, nói tốt, hoặc phê bình, chỉ trích, khen thưởng mình,
nhưng không ai rõ hơn mình là người mình biết có đáng bị chỉ trích, có đáng được
khen thưởng như vậy hay không. Nhiều người đứng trước tiếng lương tâm xâu xé đã
không chịu nổi mà đành phải lấy cái chết để tự trấn át. Khoa học ngày nay cũng
chứng minh rằng, phần lớn các chứng bệnh, nhất là bệnh ung thư chẳng hạn đều
phát xuất bởi nội tâm bất ổn, bởi những suy nghĩ triền miên, bởi những xáo trộn
về tâm lý. Như vậy, đừng kể đến sự bằng an tâm hồn theo nghĩa tôn giáo, đạo đức,
và luân lý, chỉ riêng sự bằng an theo cái nhìn tâm lý cũng là một yếu tố hết sức
quan trọng trong cuộc sống lành mạnh của con người. Sự thiếu trưởng thành về tâm
lý, do đó, ảnh hưởng và làm sai lệch những phán đoán của một người, và những
phán đoán này có thể dẫn tới hành vi tội lỗi. Thí dụ, một người có tính lăng
loàn, lấy chuyện tính dục làm một thú vui. Vì không trưởng thành về tâm lý, và
vì không ý thức trách nhiệm hành động của mình, nên người ấy có thể nói láo, thề
hứa, và dối gạt một người để chiếm đoạt thân xác của họ. Trong thâm thâm người
này, không hề có chuyện yêu thương, hoặc có yêu thì chỉ là yêu cái thể xác, yêu
cái thú nhục dục mà qua con người ấy họ đang muốn thụ hưởng. Hành động lừa gạt
tình yêu và chiếm đoạt này đừng kể những liên quan về luân lý, rõ ràng nói lên
người ấy thực sự không trưởng thành về tâm lý. Hoặc ít nhất có một phán đoán rất
lệch lạc về quan niệm tình yêu, tình bạn, và sinh lý.
Tuy nhiên, khi đề cập đến những khía cạnh tâm lý liên quan đến tội, là chúng ta
đề cập đến bổn phận giáo dục và hướng dẫn. Tự giáo dục mình, giáo dục mình trong
khi hướng dẫn con em mình. Đây là một vinh dự cũng như một trọng trách rất lớn
lao của những người làm cha mẹ, của những người có ảnh hưởng trong vấn đề giáo
dục tuổi trẻ. Làm sao để tuổi trẻ biết nhận mình có lỗi, biết xin lỗi, và biết
sửa lỗi. Làm sao để tuổi trẻ đừng mặc cảm khi phải xin lỗi, và nhận lỗi với mình.
Và nhất là làm thế nào để tuổi trẻ nhận ra rằng điều cần thiết phải làm sau mỗi
một lỗi lầm là tìm sự tha thứ, can đảm chấp nhận, và cố gắng sửa sai. Trong
những trường huấn luyện về lương tâm con người, về sự trưởng thành tâm lý và tâm
linh con người, thì trường gia đình, trường cha mẹ là những học đường mà tuổi
trẻ có thể học được những kinh nghiệm sống ấy.
Ngày nay, con người đang mất dần đi ý niệm tội lỗi, và theo Đức Gioan Phaolô II,
thì con người đang sống trong một nền văn hóa của sự chết. Chết về tâm lý, chết
về tinh thần, và chết về ý niệm tôn giáo. Cũng chính vì thế, bổn phận của cha mẹ,
của những nhà hướng dẫn tinh thần là phải làm sao để sự phát triển con người
song song với sự phát triển về tâm lý, nhất là tâm lý đạo đức. Từ đó, sức lôi
cuốn của tôn giáo như một động lực thúc đẩy sẽ làm trưởng thành cuộc sống của
con người, và lúc ấy con người sẽ sống trong lương tâm an ổn, trong sự hài hòa.
Tôi muốn dùng tư tưởng của Kitô Giáo để kết thúc phần trình bày hôm nay. Trong
Thánh Kinh, khi Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần tại đồng quê Belem, thì các thiên
sứ hát mừng Ngài và nhân loại rằng: “Vinh danh Chúa cả trên trời, bình an dưới
thế cho người thiện tâm” (Luc 2:14). Cái tâm trong sáng, cái tâm trưởng thành
chính là căn nguyên của sự bình an. Mà sự bình an là một món quà của Thượng Đế
và không ai có thể dùng tiền của, danh vọng, chức quyền, hoặc sắc đẹp để mua
được sự bình an. Bình an chỉ có thể tìm thấy nơi những người có tâm hồn thiện
tâm.