Nhân Gian
Trên đời này có ba phạm vi hay ba phạm trù chính, đó là thời gian, không gian và
nhân gian. “Gian” áp dụng vào ba phạm trù hay ba phạm vi này, theo chữ Hán,
nghĩa là “khoảng giữa”, là “trung gian”, tức là “khoảng giữa” những giai đoạn về
thời gian, “khoảng giữa” những nơi chốn về không gian và “khoảng giữa” những con
người với nhau về nhân gian. Riêng về phạm trù hay phạm vi “nhân gian”, “khoảng
giữa” đây nghĩa là và không còn gì khác ngoài mối liên hệ hay tương quan nơi con
người hay giữa con người với nhau trong xã hội. Vậy nói đến nhân gian là nói đến
xã hội loài người, mà nói đến xã hội loài người, trước hết, nói đến nền tảng của
mối liên hệ nhân gian đó là mối liên hệ về hôn nhân gia đình, yếu tố làm nên xã
hội, sau đó, nói đến cơ cấu của mối liên hệ nhân gian, đó là các tổ chức và sinh
hoạt xã hội, yếu tố hình thành xã hội, và sau hết, nói đến cốt lõi của mối liên
hệ nhân gian, đó là tinh thần làm cho xã hội gắn bó với nhau, yếu tố bảo tồn và
phát triển xã hội.
Nhân Gian được bắt nguồn từ mối liên hệ hôn nhân
gia đình
Trước hết, nhân gian xã hội được bắt nguồn từ mối liên hệ hôn nhân gia đình. Về
vấn đề hôn nhân gia đình, những bài “hôn nhân là hiệp thông xã hội” và “gia đình
là nền tảng xã hội” trước đây, cùng với những bài theo sau hai bài này, đã cho
thấy tổng quan về ý nghĩa, giá trị và vai trò của yếu tố làm nên xã hội đây.
Thật vậy, con người mang sẵn trong mình mầm mống xã hội và nhu cầu xã hội. Ở chỗ
nào, nếu không phải ở ngay nơi phái tính nam hay nữ của họ, một phái tính có
khuynh hướng thu hút nhau theo cả tình dục lẫn tình cảm, và bổ túc cho nhau về
cả phương diện truyền sinh lẫn giáo dục. Vì con người không thể tự mình mà có,
song có bởi xã hội và nhờ xã hội, nên con người cũng chỉ có thể tồn tại, phát
triển và thành nhân trong xã hội và với xã hội, một khi họ biết sống vì xã hội
và cho xã hội mà thôi.
Đó là lý do những con người nào chỉ biết ăn bám xã hội vì lười biếng và ỷ lại,
hoặc những con người nào chỉ biết lợi dụng xã hội để tiến thân cho đến khi công
thành danh toại nhưng thay vì phục vụ lại toàn hưởng thụ, hay những con người
nào lạm dụng quyền hành hay quyền thế của mình để áp đảo xã hội theo tham vọng
chính trị hay kinh tế của mình v.v., đều là thành phần vô tình hay hữu ý nhúng
tay vào việc tàn phá xã hội, hay ra tay tự sát, vì một khi xã hội bị hủy diệt
thì họ cũng không thể nào tồn tại. Như thế, con người ích kỷ vị thân là thành
phần phản xã hội, thành phần hoàn toàn đi ngược lại với tinh thần đoàn kết xã
hội như sẽ được đề cập đến ở phần thứ ba dưới đây. Không phải con người văn minh
ngày nay đang sống phảùn xã hội, phá xã hội, tự diệt mình, ở chỗ, họ lợi dụng
hôn nhân gia đình để hưởng thụ hơn là phục vụ, qua trào lưu ly dị, phá thai của
họ từ hậu bán thế kỷ 20 hay sao? Chính sự kiện ly dị và phá thai đang làm cho xã
hội càng ngày càng văn minh lại càng trở nên băng hoại hơn là một chứng cớ hiển
nhiên và sống động cho thấy đúng như những gì đã xác tín trên đây, đó là: “Vì
con người không thể tự mình mà có, song có bởi xã hội và nhờ xã hội, nên con
người cũng chỉ có thể tồn tại, phát triển và thành nhân trong xã hội và với xã
hội, một khi họ biết sống vì xã hội và cho xã hội mà thôi”. Bởi thế, con người
xây dựng xã hội là con người chẳng những xây dựng chính bản thân mình mà còn xây
dựng cả gia đình mình nữa, hay ngược lại, một khi con người sống đúng với sự
thật làm người của mình, sống đúng với vai trò làm chồng làm vợ, làm cha làm mẹ,
làm con làm cháu trong gia đình, là con người góp phần tích cực vào việc xây
dựng xã hội vậy.
Nhân gian được hình thành và sinh động bởi các
tổ chức và sinh hoạt xã hội
Sau nữa, nhân gian xã hội được hình thành và sinh động bởi các tổ chức và sinh
hoạt xã hội, những tổ chức và sinh hoạt xã hội có thể được gồm tóm trong ba lãnh
vực chính yếu là lãnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa. Ba lãnh vực thuộc tổ
chức nhân gian xã hội này hoàn toàn lệ thuộc vào nhau và bổ túc cho nhau. Thế
nhưng, vấn đề quan trọng nhất ở đây là, theo nguyên lý xã hội, vì loài người có
trước những cơ cấu thiết yếu không thể không có ấy mà những cơ cấu này được
thiết lập, hiện hữu và hoạt động cho con người là chủ thể, là sáng lập viên, là
quản trị viên của chúng, chứ không phải là bầy tôi, là bộ phận và là tác nhân
của chúng. Bằng không, xã hội loài người sẽ biến thành xã hội loài vật, một xã
hội của bản năng sống còn. Thực tế cho thấy, trong ba lãnh vực này, chính trị và
kinh tế bao giờ cũng đi liền với nhau, gắn bó với nhau như một cặp vợ chồng, còn
văn hóa thì đóng vai trò điều dẫn chi phối hai lãnh vực này hay ngược lại bị hai
lãnh vực này tẩy chay, đàn át và làm méo mó. Một khi văn hóa chân thực bị chính
trị và kinh tế tẩy chay, đàn át và làm méo mó thì nhân gian xã hội loài người
đang đi đến chỗ chết gốc, mất gốc, chắc chắc không sớm thì muộn sẽ đi đến chỗ
bật gốc khi giông ba bão táp nổi lên.
Thật vậy, có thể ví chính trị, với phận sự chính yếu là cai trị nhân gian xã hội,
đóng vai như một người chồng làm chủ gia đình, và kinh tế, liên quan đến cái
miệng, đến sinh kế, với hoạt động kỹ nghệ sản xuất và thương vụ thị trường, đóng
vai như một người vợ tần tảo buôn bán. Thế nhưng, kinh nghiệm cho thấy, có những
trường hợp thay vì chồng điều hành gia đình thì vợ lại chi phối chồng trong gia
đình thế nào, kinh tế cũng chi phối chính trị như vậy, chẳng hạn có những trường
hợp kinh tế đã thúc đẩy chính quyền thuộc các cường quốc phải bành trướng thị
trường ở các nước nhược tiểu, chậm tiến, hay chẳng hạn kỹ nghệ súng ống đã chi
phối chính quyền không được hủy bỏ đạo luật cho phép dùng súng ở Hoa Kỳ v.v.
Tình trạng lật đảo trật tự bao giờ cũng gây lộn xộn và nguy hiểm cho môi trường
ra sao, thì cơ cấu chính trị thuộc tổ chức nhân gian xã hội nào bị kinh tế là
những gì liên quan mật thiết đến lợi lộc chi phối và điều khiển cũng sẽ đi đến
chỗ xung khắc và xung đột như vậy. Phải chăng tình hình thế giới từ ngày kỷ niệm
một năm sau biến cố 911 càng ngày càng làm cho cả thế giới nhức nhối giữa Hoa Kỳ
và Iraq là một thí dụ điển hình cho cái trật tự bị đảo lộn giữa chính trị và
kinh tế này? Vậy thì vai trò của văn hóa là gì và ở đâu trong những trường hợp
đảo lộn trật tự như thế?? Phải chăng văn hóa chỉ đóng vai bù nhìn, chẳng khác gì
như một Tổ Chức Liên Hiệp Quốc trước tình hình bất khả giải quyết ở Trung Đông???
Thật ra văn hóa cũng chỉ là sản phẩm của con người và do con người làm nên mà
thôi, do đó, nó cũng bất toàn, với đầy những lỗ hổng và khiếm khuyết, cần phải
cải tiến từ từ. Đó là lý do con người mới tiến từ chỗ ăn lông ở lỗ của thời
hoang sơ đến một cuộc sống văn minh vật chất và nhân bản ngày nay. Văn hóa quả
thực là đời sống hay lối sống văn minh của con người, về cả vật chất liên quan
đến khoa học và kỹ thuật, lẫn nhân bản, liên quan đến văn học nghệ thuật và nhân
quyền. Tuy nhiên, dấu hiệu chứng tỏ con người đã thực sự văn minh tiến bộ không
phải là ở những kỹ thuật điện toán tân kỳ, hay ở những khám phá khoa học tạo
sinh cải giống, cho bằng cái ý thức con người có được về bản thân mình, về cộng
đồng nhân gian xã hội của mình, một ý thức văn minh nhân bản đã lên tới tột đỉnh
nơi bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc được công bố và ban
hành ngày 10/12/1948.
Thế nhưng, cái di sản văn hóa hết sức cao quí và thiết yếu có một không hai và
vô tiền khoáng hậu này của con người hình như đang trở thành một thứ đồ cổ hiếm
có, được dùng để trưng bày trong ngôi nhà nhân gian cho sang vậy thôi nhờ giá
trị của nó. Bởi bàn tay con người viết lên nó cũng là bàn tay có thể sửa chữa nó
theo ý họ, sửa chữa không phải bằng văn tự, mà bằng cắt nghĩa lợi lộc xu thời
của họ. Nếu con người biết tự trọng và tôn trọng những gì mình đã ý thức viết ra,
liên quan đến nhân quyền, như đã được bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền thâm
tín và minh định, thì đã không có những khoản luật phá thai, đã không có những
chế độ tân thực dân đế quốc v.v. Như thế, không phải việc con người coi thường
cái di sản văn hóa là những gì cho thấy đỉnh cao trí tuệ của con người đây sẽ
làm cho nó trở thành vô giá trị, trái lại, như lương tâm của con người, dù có vẻ
bất lực trước hành động ngang tàng bất chấp của con người, nó vẫn là chứng nhân
hùng hồn cho con người thấy rằng họ là một kẻ xảo quyệt và phản bội với ý thức
của họ, nhất là nó sẽ phải đau lòng chứng kiến thấy cảnh tượng ngông cuồng của
họ bị sụp đổ ngay giữa thanh thiên bạch nhật, chẳng khác gì như Cái Tháp Đôi của
Trung Tâm Thương Vụ Thế Giới ở Nữu Ước trong biến cố 911. Đó là lý do, để chẳng
những tồn tại mà còn có thể phát triển, nhân gian xã hội rất cần đến một yếu tố
then chốt nữa, đó là tinh thần đoàn kết.
Nhân gian được tồn tại và phát triển bởi tinh
thần đoàn kết
Thật vậy, một khi linh hồn lìa xác, con người sẽ trở thành một thây ma vô hồn,
một thi thể bất động thế nào, thì thiếu tinh thần đoàn kết hay mất tinh thần
đoàn kết, nhân gian xã hội nói chung và cơ cấu tổ chức xã hội nói riêng sẽ biến
thành nơi cho con người cấu xé nhau, và sinh hoạt xã hội sẽ là dịp để con người
ăn thua đủ với nhau, chẳng khác gì nơi một thứ xã hội chủ trương tiến hóa theo
kiểu tranh đấu giai cấp. Thế nhưng, vấn đề ở đây là, nếu “đoàn kết là sống, chia
rẽ là chết”, thì làm sao nhân gian nói chung, với tâm lý tự nhiên vốn xu hướng
về cá thể hay đoàn thể, vốn đầy tự ái cá nhân và sôi máu đoàn thể, có được một
tinh thần đoàn kết tối quan trọng này, nhất là trong thời điểm càng văn minh vật
chất và nhân bản như hiện nay, con người lại càng tỏ ra kỳ thị nhau, tẩy chay
nhau, nếu không hợp với văn hóa của mình, niềm tin của mình, ý hệ của mình v.v.,
thậm chí còn ép buộc nhau phải đồng nhất như mình, theo kiểu cloning văn hóa,
sao bản niềm tin.
Đó là lý do, nói đến tinh thần đoàn kết, trước hết, theo nguyên tắc, phải nói
đến công ích, nghĩa là nói đến một thứ giá trị nhân bản phổ quát bao gồm tất cả
những phúc lợi của con người trong xã hội hợp với sự thật làm người của họ, như
sự sống, phẩm giá và nhân quyền. Sở dĩ có cơ cấu chính quyền cũng là vì công ích
và để bảo vệ công ích, nghĩa là, cũng vì con người và cho con người là sự thiện
tối cao của mọi tổ chức, là công ích đệ nhất cho mọi sinh hoạt xã hội, như đã
xác quyết ở phần hai của bài này: “Theo nguyên lý xã hội, vì loài người có trước
những cơ cấu thiết yếu không thể không có ấy mà những cơ cấu này được thiết lập,
hiện hữu và hoạt động cho con người là chủ thể, là sáng lập viên, là quản trị
viên của chúng, chứ không phải là bầy tôi, là bộ phận và là tác nhân của chúng”.
Bởi thế, những ai đi làm chính trị chỉ vì công ích và cho công ích, tức chỉ vì
con người và cho con người, hay chỉ vì và cho sự sống, phẩm giá và nhân quyền
của thành phần mình phục vụ, chắc chắn họ sẽ trở thành những vị anh hùng tạo
thời thế, được lịch sử ghi nhận, nhất là khi họ phải trả giá bằng chính sinh
mạng của họ. Cũng thế, trong nhân gian xã hội, nếu ai cũng tìm thành tâm tìm
kiếm công ích, tôn trọng công ích, đề cao công ích, phục vụ công ích, nếu cần
dám hy sinh cho công ích, thì nhân gian xã hội này sẽ không còn tư lợi, không
còn chia rẽ, không còn bạo loạn, không còn than khóc v.v.
Như thế, tác động đầu tiên hay điều kiện tiên quyết của tinh thần đoàn kết được
thể hiện qua việc nhân gian xã hội biết tôn trọng công ích, một thứ công ích như
trên vừa nhận định, là “một thứ giá trị nhân bản phổ quát bao gồm tất cả những
phúc lợi của con người trong xã hội hợp với sự thật làm người của họ, như sự
sống, phẩm giá và nhân quyền”. Tác động tôn trọng công ích dẫn đến tác động hay
điều kiện thứ hai của tinh thần đoàn kết, đó là việc con người biết chấp nhận
nhau, cho dù nơi nhau có những gì bất đồng với cá nhân mình, với đoàn thể của
mình, đến độ có thể làm cho bản thân mình hay cộng đồng của mình cảm thấy khó
chịu, nhận thấy chướng tai, gai mắt, miễn là những cái bất đồng ấy tự chúng
không xấu, không trái với công pháp quốc tế, không tác hại công ích. Từ thập
niên 1990, thập niên kết thúc thiên niên kỷ thứ hai của lịch sử loài người, nhân
gian xã hội chứng kiến thấy một trào lưu hay một chiều hướng được gọi là toàn
cầu hóa globalization về mọi mặt, nhất là về phương diện kinh tế và chính trị.
Thế nhưng, nếu không khéo, tức nếu không biết toàn cầu hóa trước hết và trên hết
tinh thần đoàn kết, thì tiến trình toàn cầu hóa về kinh tế và chính trị này sẽ
trở thành một chiều hướng càng ngày càng hiện nguyên hình hài quái dị của mình,
cuối cùng chắc chắn sẽ đưa nhân gian xã hội văn minh hầu như tột đỉnh về vật
chất hiện nay tiến đến chỗ cá lớn nuốt cá bé dễ hơn, nhanh hơn và nhiều hơn mà
thôi, thay vì, nếu chuyên chính, tiến trình toàn cầu hóa này sẽ biến nhân gian
xã hội, mà trong đó đa số phần tử cá nhân cũng như quốc gia đang bần cùng khốn
khổ hiện nay, trở thành một đại gia đình sống trong một bầu không khí văn hóa sự
sống và văn minh yêu thương.
Phải, nhân gian xã hội lý tưởng nhất là làm sao để một ngày nào đó có thể trở
thành một đại gia đình, mọi người biết yêu thương nhau như anh em trong nhà, coi
nhau “như thể tay chân”, yêu người như thể thương thân, “ái nhân như kỷ”, biết
bao bọc nâng đỡ nhau, “lá lành đùm lá rách”, biết tôn trọng tương kính, biết
chia sẻ phục vụ, biết cảm thông tha thứ. Không biết bao giờ nhân gian xã hội mới
tiến đến chỗ lý tưởng này, nhưng không phải vì thế mà ước mơ nhân gian xã hội
trở thành một đại gia đình chỉ là mộng tưởng, là ảo giác, cần phải loại trừ, cần
phải tỉnh giấc, cần phải quay về với thực tế, bằng những cuộc tranh đua giành
giật, “khôn sống mống chết”, “bay chết mặc bay” v.v. Bản Tuyên Ngôn Chung Về
Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948 là một trong những nỗ lực tiến đến lý
tưởng nhân gian đại gia đình này. Nếu cá nhân nào, đoàn thể nào, quốc gia nào
cũng đồng tâm nhất trí tôn trọng văn kiện này, triệt để áp dụng và thi hành như
những gì được xác tín và minh định trong ấy, lịch sử ít ra cũng đã không phải
thương tâm đau lòng chứng kiến thấy một nhân gian xã hội mỗi ngày một đi đến chỗ
tự diệt, một nhân gian xã hội như đang bị đọa đầy trong địa ngục trần gian đang
đỏ rực lửa hận thù và đỏ chói máu me hiện nay.
Thế nhưng, nếu văn hóa đang bị phá sản, hoàn toàn bất lực trước sự lộng hành của
con người văn minh, thì tôn giáo đóng vai trò cứu rỗi con người lầm than khốn
khổ đâu? Rất tiếc, chính tôn giáo còn chịu số phận thảm hơn văn hóa nữa, ở chỗ
bị con người nhân danh để khủng bố nhau. Thật sự tình trạng phá sản văn hóa và
khủng hoảng đức tin hiện nay đã hiển nhiên cho thấy tính cách chân thực và thiết
yếu của công thức xã hội nhân gian: đoàn-kết / công-ích = phát triển! Tức là,
nếu nói theo kiểu toán học thì công thức tối quan trọng này được diễn tả là tử
số đoàn kết trên mẫu số công ích bằng phát triển; và nếu nói một cách văn chương
hơn, công thức rất cần thiết này là nhân gian xã hội chỉ có thể phát triển, một
khi con người biết thật tình và tha thiết đoàn kết với nhau để dấn thân phục vụ
cho công ích.
Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh, BVL
(Bài chia sẻ cho buổi phát thanh Vui Mừng Và Hy Vọng 55, 2/2/2003)
C H A M Ẹ H I Ề N L À N H
ĐỂ ĐỨC CHO CON
Trần Mỹ Duyệt
“Trồng ớt thì ăn ớt. Trồng cam thì ăn cam”. Một câu nói
tuy đơn sơ nhưng mang nhiều ý nghĩa trong tương quan cuộc sống của mỗi người xét
về mặt tâm lý giáo dục. Đối với tâm lý đạo đức, câu nói ấy cũng diễn đạt ý nghĩa
theo quan niệm đạo đức xã hội người Việt Nam: “Cha mẹ hiền lành để đức cho con”.
Tôi nhớ mãi câu nói này vì tôi đã được nghe nó trong một hoàn cảnh rất đặc biệt.
Hơn thế, chính người nói đã chứng minh cho tôi ý nghĩa câu nói ấy bằng với cả
cuộc sống thực tế của mình.
Thời gian còn làm tại bệnh viện Pacifica ở Hungtington Beach, California, tôi có
một bệnh nhân rất quí tôi. Bà ở tuổi bát tuần, cái tuổi gần đất xa trời. Bà
không có thân nhân. Bà phải lệ thuộc hoàn toàn vào sự giúp đỡ của chính phủ, của
nhà thương. Một hôm, khi tôi ghé thăm bà vào giờ ăn trưa, trong câu truyện trao
đổi, tự nhiên bà như nghẹn ngào và nói với tôi: “Trồng ớt thì ăn ớt. Trồng cam
thì ăn cam. Hoàn cảnh tôi hôm nay cũng là cám ơn Trời, Phật lắm. Tôi không hận
đời, tôi không trách đời, nhưng tôi chỉ trách tôi. Phải chi lúc còn xuân sắc tôi
biết suy nghĩ hơn một chút nữa, thì bây giờ hoàn cảnh có thể khác hơn. Dầu sao
tôi cũng bằng lòng về số phận hiện nay”. Rồi để chứng minh cho tôi điều bà muốn
nói, hôm sau, bà đã tìm gặp tôi và đưa cho tôi xem cuốn album mà bà gói kỹ trong
một bọc nylong. Bà đã cẩn thận chỉ cho tôi xem từng tấm hình, và giải thích ý
nghĩa và hoàn cảnh mỗi tấm hình ấy: “Đây là hình lúc còn con gái có nhiều chàng
theo tán tỉnh. Đây là hình lúc tuổi ba mươi, xuân sắc và làm nghề may hái ra
tiền. Đây là hình lúc chủ hôn cho đứa con nuôi. Và đây là hình bác sĩ chụp tôi
vào dịp chương trình tổ chức tiệc Xuân”. Cứ thế, bà miên man nói về quá khứ, về
những chuyện tình đã qua, và lý do nào mà bà không lấy chồng, không có con. Để
kết luận bà nói: “Tôi đã bỏ qua thời con gái, và đã bỏ qua nhiều cơ hội tốt để
có một cuộc sống hôn nhân, gia đình hạnh phúc. Tôi đã ý thức được những mất mát
ấy, nhưng khi nhận ra mình như thế thì đã quá muộn. Bây giờ tôi chỉ còn biết
chấp nhận với thực tế của mình, cảm ơn Trời, Phật và không dám kêu ca. Trồng ớt
thì ăn ớt. Trồng cam thì ăn cam”. Khi hay tin bà qua đời sau đó ít tháng, tôi đã
đến nhà quàn nhìn bà lần chót, và đã bùi ngùi nhớ lại lời bà lúc sinh tiền.
Thực tế, không biết đã có bao nhiêu người trồng ớt nhưng lại muốn có cam ăn.
Hoặc ngược lại, đã có bao nhiêu người trồng cam mà phải ăn ớt. Nhưng chắc một
điều là cây cam chỉ có thể cho những trái cam hoặc ngọt hoặc chua chứ không thể
cho những trái ớt. Và cây ớt thì cũng chỉ cho những trái ớt hoặc cay, thơm theo
mùi vị của ớt chứ không thể cho được một trái cam, dù là trái cam chua. Triết lý
sống ấy theo bà cụ mà tôi vừa kể trên đã được chứng minh một cách rõ rệt không
những trong cuộc đời bà, mà còn trong rất nhiều trường hợp khác nhau của nhiều
người. Có thể bà đã trồng cây cam, nhưng vì không chăm bón kỹ, nên cuối cuộc đời,
bà tuy có cam ăn, nhưng chỉ là loại cam chua. Dầu sao thì cũng đỡ hơn ăn ớt.
Nêu lên câu truyện trên để bàn về những vấn đề thuộc thế thái nhân tình, tôi lại
nghĩ tới hằng ngày mình đang phải chứng kiến rất nhiều cảnh cam, ớt lẫn lộn, và
trong mỗi cảnh ngộ ấy kết quả của nó thật thương tâm. Đây, một người mà có lẽ
suốt đời anh, anh không bao giờ biết đến ai ngoại trừ chính anh. Trong cuộc sống
của anh không có hai chữ trách nhiệm, nhất là trách nhiệm đối với con cái. Ngay
trong thời gian vợ anh còn sống và bây giời sau khi vợ anh qua đời, anh vẫn công
khai những chuyện tình cảm lăng nhăng của anh và bỏ mặc ba đứa con ở tuổi vị
thành niên. Và đây nữa, một người mẹ mà theo tôi cũng được xếp vào số những phụ
huynh vô trách nhiệm. Sau khi ly dị chồng, bà đã dan díu với nhiều đàn ông khác,
mỗi một cuộc tình đều để lại cho bà một đứa con. Kết quả là bà không cần đi làm
vì mỗi đứa con đều có tiền phụ cấp của bố chúng. Phần bà, ngày đêm vùi đầu vào
các sòng bài. Hơn thế nữa, bà còn đích thân dẫn đứa con gái lớn đi vào những
chốn ăn chơi, bài bạc. Không biết đây là cam hay là ớt, nhưng chỉ biết rằng,
người con gái lớn ấy cũng hệt như mẹ. Nó tuy không biết đến học hành, nhưng lại
rất sành sỏi về bài bạc, và nghiện hút.
Người Mỹ có câu ngạn ngữ rất hay: “Trái táo không thể rụng xa gốc táo”. Câu nói
này cũng cùng một ý nghĩa với câu nói của người Việt Nam: “Rau nào, sâu nấy”. Nó
đem lại cho ta một suy tư về trách nhiệm, về bổn phận, và tư cách làm chồng, làm
vợ, làm cha, và làm mẹ. Nó cũng gợi lên ý nghĩa trách nhiệm và bổn phận giáo dục
con cái của bậc phụ huynh. Trong các cuộc nói truyện và thuyết trình đây đó, tôi
đã đưa ra một nhận định mà có lẽ nhiều phụ huynh không hài lòng, đó là “hầu hết
các vụ lộn xộn trong gia đình, và những lần con cái bỏ nhà đi hoang, hư hỏng thì
cha mẹ có trách nhiệm một phần lớn nếu không muốn nói là hoàn toàn có trách
nhiệm”.
Tư tưởng trên tuy được căn cứ vào những kết quả khảo cứu của tâm lý giáo dục và
xã hội, nhưng nhiều lần đã gặp những chống đối của thính giả. Đa số những người
chống đối đều viện dẫn rằng tại luật pháp Hoa Kỳ không cho cha mẹ dậy dỗ con cái
nên con họ đã hư. Những phụ huynh này muốn ám chỉ rằng tại Hoa Kỳ họ không được
đánh con họ tùy ý như ở Việt Nam, mà họ cho rằng đó là một phương pháp giáo dục
hữu hiệu. Đối với họ, đánh đập, chửi bới là giáo dục. Phương pháp “cả vú lấp
miệng em” này vừa nhàn, vừa dễ áp dụng, và một hình thức nào đó tạo cho họ cái
quyền uy trên con cái. Đối với những người này, cha mẹ không cần phải có bổn
phận làm gương sáng. Đã là cha mẹ thì muốn làm gì thì làm. Muốn nói gì thì nói.
Muốn chửi thề, văng tục, hoặc ăn nhậu, bồ bịch, mèo chuột, cờ bạc sao cũng được.
Những chuyện lễ phép, chịu khó, vâng lời, là bổn phận của những người con, của
những đứa trẻ. Chính vì thế mà tại nhiều gia đình từ cha mẹ đến con cái ai cũng
biết chửi thề và văng tục. Bố mẹ rượu chè, thuốc xái, con cái cũng rượu chè,
thuốc xái. Bố mẹ cờ bạc, con cái cũng cờ bạc. Và bố mẹ lăng nhăng tình cảm, nên
con cái cũng lăng nhăng tình cảm.
Cũng có phụ huynh cho rằng họ đi chùa, đi nhà thờ. Họ đọc kinh, xem lễ, tụng
niệm, cúng dường, và chay tịnh nhưng tại sao con cái vẫn hư, vẫn băng đảng, vẫn
biếng nhác và bê bối. Điều này không khó hiểu, và cũng không khó trả lời, vì cây
cam dù ngọt ngào mấy chắc chắn cũng cho một ít trái chua. Điều này tùy vào việc
chăm bón, và vun tưới của chủ vườn và vào yếu tố thời tiết nắng, mưa. Tuy nhiên,
việc trồng tiả và chăm bón một cây cam, khác với việc huấn luyện một con người.
Người chủ cây cam muốn hay không muốn cũng không thể ảnh hưởng được tới thời
tiết, tới việc côn trùng cắn nụ, cắn hoa cây cam và do đó, ảnh hưởng đến mùa cam
cũng như sự ngọt hay chua của những trái cam. Nhưng cha mẹ thì vẫn có thể ảnh
hưởng và thay đổi được con cái. Và nếu con cái hư hỏng, thì đó là vì cha mẹ đã
không chịu khó theo dõi, huấn luyện và gieo ảnh hưởng tốt nơi con cái. Hoặc vì
họ chỉ phó thác mặc cho Trời, cho Phật, hay cho thầy cô, và cho xã hội. Cũng có
thể vì họ đã quá nuông chiều con cái.
Trường hợp của bà cụ mà tôi vừa đề cập tới ở trên, rõ ràng là chính bà đã nhận
cái khuyết điểm về phần mình. Bà đã phàn nàn vì không ra công tưới bón cây cam
cuộc đời bà. Kết qủa là bà đã chỉ nhận được những trái cam chua, nhưng dầu sao
chưa đến nỗi phải ăn ớt. Nhưng còn trường hợp của người cha và người mẹ trên thì
sao? Họ đã chẳng trồng cây ớt cuộc đời mình là gì? Vậy nếu sau này họ phải ăn ớt
mà muốn tìm trái cam nơi cây ớt của mình, thì đó là một việc làm ngớ ngẩn, và vô
lý. Dĩ nhiên, dù lúc ấy họ có muốn một trái cam chua cũng không có, vì họ đã chỉ
trồng ớt.
Đề cập đến những liên quan mật thiết giữa bổn phận và trách nhiệm làm cha mẹ, và
mối tương quan giáo dục, cũng chính là đề cập đến một vấn nạn lớn lao mà hầu hết
các gia đình ngày nay thường vấp phải. Nhưng nếu ảnh hưởng giáo dục có thể bắt
nguồn từ trong môi trường gia đình, thì việc làm cần thiết mà cha mẹ phải làm là
chăm lo giáo dục con cái. Và cách giáo dục tốt nhất vẫn là gương sáng của chính
cha mẹ. Hơn thế nữa, giáo dục phải được bắt đầu từ khi con cái còn thơ trẻ, đợi
khi con cái đã bước vào tuổi dậy thì tức lứa tuổi 12 hoặc 13, thì lúc đó e đã
quá trễ: “Trồng ớt thì ăn ớt. Trồng cam thì ăn cam”.