|
MÙA XUÂN MUÔN
THUỞ MARIA
“Maria:
Mùa Xuân Muôn Thuở" không phải chỉ là một cụm từ hoa mỹ để gọi Mẹ Maria
theo văn chương của nhân loại, hay chỉ là một kiểu sánh ví biểu tượng cho
một tạo vật đệ nhất trong trật tự ân sủng.
"Maria: Mùa Xuân Muôn Thuở" hoàn toàn là một thực tại, một thực tại về cả
phương diện siêu nhiên cũng như tự nhiên. Đến nỗi, có thể nói, thực tại
này đúng là "một điềm lạ xuất hiện trên không trung" (KH 12:1), "kỳ diệu
trước mắt chúng ta" (TV 118:23).
"Maria: Mùa Xuân Muôn Thuở" không phải chỉ là một cụm từ hoa mỹ hay một
kiểu sánh ví biểu tượng về Mẹ Maria tuyệt diệu, mà hoàn toàn c̣n là một
thực tại. Ở chỗ nào? Xin mời qúi con cái Mẹ cùng nhau từ từ tiến vào "Mùa
Xuân Muôn Thuở" này theo hành tŕnh của lịch sử nhân loại đă biến thành
Lịch Sử Cứu Độ như sau:
Mùa Xuân Trước Nguyên Tội
Mùa Xuân Sau Nguyên Tội
Mùa Xuân Maria
Mùa Xuân Viên Măn
1.- MÙA XUÂN TRƯỚC NGUYÊN
TỘI
heo đúng
ư nghĩa của ḿnh, một mùa được gọi là Mùa Xuân phải hội đủ 3 yếu tố, bằng
không sẽ không phải là hay không c̣n đáng là Mùa Xuân nữa. Ba yếu tố chính
của Mùa Xuân đích thực, theo cảm nhận của con người từ trước đến nay, đó
là: mới mẻ (của thời gian), tươi trẻ (nơi không gian) và vui vẻ (cho nhân
gian).
"Mới mẻ": Tự bản chất, Mùa Xuân là thời gian. "Mùa Xuân là Thời Gian",
theo nghĩa thuần túy nhất của "mới mẻ", phải là thời-gian-ban-đầu (in the
beginning), tức "thời gian" và "ban đầu" chỉ là một, (như trong STK 1:1
hay của Gioan 1:1). Hay "Mùa Xuân là Thời Gian" theo nghĩa tối thiểu nhất
của "mới mẻ", đó là thời gian từ ban đầu (from the beginning), tức "thời
gian" và "ban đầu" đă hơi tách biệt nhau, bằng chữ "từ", (như trong Gioan
8:44). Hoặc "Mùa Xuân là Thời Gian", theo nghĩa b́nh thường nhất của "mới
mẻ", lại là thời gian bắt đầu, tức "thời gian" không c̣n là một thực tại
"ban đầu" hay "từ ban đầu" nữa, song đă trở thành một tác động "bắt đầu",
“bắt đầu” mở màn cho một năm mới, (như trong lịch sử và thực tế cho thấy).
"Tươi trẻ": v́ Mùa Xuân thể hiện bóng dáng của ḿnh qua không gian mát mẻ,
đẹp đẽ, với cỏ cây đâm chồi nẩy lộc, hoa lá tốt tươi.
"Vui vẻ": v́ Mùa Xuân làm cho chung động vật và riêng nhân gian cảm thấy
dễ chịu, thoải mái, khoan khoái, hân hoan, phấn khởi, yêu đời.
"Trước Nguyên Tội", như thế, có Mùa Xuân đích thực theo cảm nhận chung của
loài người như được phân tích trên đây hay không?
"Trước Nguyên Tội" ở đây là lúc "ban đầu, Thiên Chúa đă dựng nên trời đất"
(STK 1:1), và cũng là lúc "Thiên Chúa nh́n xem mọi sự Ngài đă làm nên,
Ngài thấy là rất tốt đẹp" (STK 1:31).
"Trước Nguyên Tội" ở đây, cũng là lúc "ban đầu", "Thiên Chúa dựng nên con
người theo h́nh ảnh Ngài: ‘theo h́nh ảnh thần linh, Ngài đă dựng nên con
người' Ngài đă dựng nên con người có nam có nữ. Thiên Chúa chúc lành cho
họ khi phán: 'Hăy sinh sôi nẩy nở' hăy làm tṛn đầy trái đất và làm chủ
nó..." (STK 1:27).
"Trước Nguyên Tội" trong một khung cảnh như thế, "trời đất" nói chung và
thiên nhiên nói riêng không phải là một Mùa Xuân Đích Thực hay sao!?!
"Mùa Xuân Trước Nguyên Tội" là một mùa xuân "mới mẻ" nhất, v́ là
thời-gian-ban-đầu của trời đất, thời gian tiên khởi và nguyên khôi cho tất
cả mọi sự trên trời dưới đất.
"Mùa Xuân Trước Nguyên Tội" là một mùa xuân "tươi trẻ" nhất, v́ không
gian, bao gồm mọi sự trong thiên nhiên, mới được Thiên Chúa tạo dựng, c̣n
nguyên vẹn, hoàn toàn "rất tốt đẹp" trước thiên nhan, như Thiên Chúa muốn
và theo ư của Ngài.
"Mùa Xuân Trước Nguyên Tội" là một mùa xuân "vui vẻ" nhất, v́ con người
được "Thiên Chúa mang đặt ở trong vườn Địa Đường để canh tác và chăm sóc
cho vườn" (STK 2:15), và được "tự do ăn mọi thứ cây trong vườn, trừ cây
biết lành biết dữ" (STK 2:16-17).
“Mùa Xuân Trước Nguyên Tội" là một mùa xuân "vui vẻ" nhất, chẳng những cho
riêng con người là đệ nhất tạo vật trên trần gian này, mà c̣n cho chung cả
mọi tạo vật đă được Thiên Chúa tạo dựng nên cho con người nữa: "Chúa là
Thiên Chúa h́nh thành từ bùn đất các loại hoang thú và chim chóc trên
trời, rồi Ngài mang đến cho con người xem để con người đặt tên cho chúng'
con người gọi mỗi loại là ǵ th́ nó là như vậy" (STK 2:19).
"Mùa Xuân Trước Nguyên Tội", bởi vậy, không phải là mùa xuân của con người
và cho con người hay sao?!? Địa Đường là thiên thai trên trần gian ngay
"ban đầu" có nghĩa ǵ, nếu không có con người sống động ở giữa và ở với,
theo ư muốn của Thiên Chúa, để "canh tác và chăm sóc" cho. Cũng thế, trời
đất với tất cả mọi sự "rất tốt đẹp" ngay "ban đầu", theo ư muốn của Thiên
Chúa, chỉ giữ được vẻ nguyên tuyền "tươi trẻ" của ḿnh trong sứ mệnh "làm
tṛn đầy" và bằng quyền năng "làm chủ" của con người mà thôi.
"Mùa Xuân Trước Nguyên Tội" phải chăng chính là Mùa Thái Ḥa trong Trời
Đất mà "con người được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa" (STK 9:6) là
chính Chúa xuân!
2.- MÙA XUÂN SAU NGUYÊN
TỘI
ếu "trước
Nguyên Tội" đă có mùa xuân, th́ phải chăng ngay "ban đầu" ấy trời đất cũng
đă có 4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay?
Ơ
"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay", theo cảm nghiệm tự
nhiên, có thể ví như tâm trạng của trời đất được bộc lộ qua những dáng vẻ
thay đổi định kỳ trong thiên nhiên.
"Xuân" là thời gian đầu năm "mới mẻ", hiển hiện qua không gian nẩy nở đầy
"tươi trẻ", làm cho nhân gian sống trong không gian và thời gian cảm thấy
hân hoan "vui vẻ".
"Hạ" là thời gian năng động, hiển hiện qua không gian thật căng thẳng và
nóng nảy, làm cho nhân gian dễ cảm thấy hung hăng, không thể ngồi yên.
"Thu" là thời gian tàn tạ, hiển hiện qua không gian vàng úa và trống vắng,
làm cho nhân gian dễ cảm thấy bâng khuâng, buồn buồn.
"Đông" là thời gian cô đọng (ngày ngắn đêm dài), qua không gian lạnh lẽo
và tăm tối, làm cho nhân gian cảm thấy co ro, đơn độc, nhung nhớ, mang một
mầu sắc chết chóc.
"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay", nếu quả thật "trước
Nguyên Tội" đă có th́ không biết t́nh trạng "trần truồng mà không biết xấu
hổ" (STK 2:25) của hai nguyên tổ ra sao? Có thể lúc bấy giờ, khi c̣n ở
trong t́nh trạng Công Chính Nguyên Thủy, t́nh trạng "vô tội" và không biết
đến tội lỗi là ǵ, da thịt của ông bà được miễn nhiễm khỏi mọi bất hạnh
trong đời sống, gây ra từ môi sinh hay chăng?
Thế nhưng, chính trong lúc "trước Nguyên Tội" này mà mối thân t́nh giữa
"trời đất" và con người "làm chủ nó" không thể có ǵ ngăn cách. Bởi đó,
nếu "trước Nguyên Tội" đă có 4 mùa, v́ không có quần áo để ăn mặc theo
"thời trang", th́ da thịt "trần truồng" của hai ông bà chắc hẳn sẽ phải
biến dạng theo "thời tiết": đỏ, vào "mùa xuân Mỹ Châu", đen vào "mùa hè
Phi/Úc Châu", vàng vào "mùa thu Á Châu", và trắng vào "mùa đông Âu Châu".
Nếu "trước Nguyên Tội" đă có 4 mùa, th́ không biết hai nguyên tổ che đậy
bản thân "trần truồng" của ḿnh và trốn lánh Thiên Chúa làm sao được khi
Nguyên Tội xẩy ra vào cuối "mùa thu lá bay", lúc mà Vườn Địa Đường đă trở
thành một khu rừng thưa trần trụi?!?
"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay", với bản chất luân
chuyển theo tác động thời gian, được tỏ lộ qua h́nh dáng nơi không gian
như thế, làm sao nó có thể xuất hiện ngay "từ đầu", khi mà "Thiên Chúa
nh́n mọi sự Ngài đă làm và Ngài thấy nó rất tốt đẹp" (STK 1:31).
"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay", do đó, chỉ bắt đầu
có kể từ "sau Nguyên Tội". "Trước Nguyên Tội", nếu có "mùa" th́ chỉ duy có
Xuân: Mùa Thái Ḥa của Trời Đất, trong trật tự tạo dựng của Đấng Hóa Công,
và nếu có "thời" th́ chỉ là Thời Phúc Lộc Thọ của Con Người, trong yêu
thương của "Thiên Chúa là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất" (kinh
Tin Kính).
"Sau Nguyên Tội" ở đây tức là lúc "con cựu xà, gọi là ma qủi hay Satan,
tên cám dỗ cả thế gian" (KH 12:9), đă dùng chính miệng lưỡi thâm độc
"không có sự thật trong ḿnh" (Gioan 8:44) để sát hại con người "từ ban
đầu" (Gioan 8:44).
"Sau Nguyên Tội" ở đây cũng là lúc hai nguyên tổ nghe theo "tên gian trá
và là cha của những sự dối trá" (Gioan 8:44) "ăn cây (Thiên Chúa) cấm
không được ăn" (STK 3:11), và "cả hai đă mở mắt ra, nhận thấy ḿnh trần
truồng" (STK 3:7), phải đan lá vả làm áo che thân ḿnh và không dám đối
diện với Thiên Chúa (x.STK 3:7,8).
"Sau Nguyên Tội" ở đây c̣n là lúc Bản Án Nguyên Tội được tuyên phán, minh
định t́nh trạng băng hoại nơi cả hữu thể của "con người được dựng nên theo
h́nh ảnh Thiên Chúa" (STK 9:6), cũng như nơi bản chất của tạo vật được
dựng nên "rất tốt đẹp" ngay "ban đầu" cho con người.
Theo Bản Án Nguyên Tội, hữu thể của con người bị băng hoại ở chỗ: "Ngươi
sẽ đổ mồ hôi mới có của ăn... cho đến khi ngươi trở về bụi đất" (STK
3:19), và bản chất của tạo vật nói chung cũng v́ con người mà bị băng hoại
ở chỗ: "V́ ngươi (con người) mà khốn cho đất... Đất sẽ trổ sinh gai góc
cho ngươi" (STK 3:17). Phải, chính t́nh trạng bị biến dạng (deformation)
có nghĩa tiêu cực này, chứ không phải t́nh trạng được biến h́nh
(transformation) có nghĩa tích cực, nơi con người "làm chủ trái đất" và
nơi "đất" ngay "từ ban đầu" như thế, mới sinh ra và mới có "4 mùa
xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay": Xuân thường từ cuối tháng
12 tới cuối tháng 3, Hạ thường từ cuối tháng 3 tới cuối tháng 6, Thu
thường từ cuối tháng 6 tới cuối tháng 9, Đông thường từ cuối tháng 9 tới
cuối tháng 12, và từ cuối mùa Đông sang đầu mùa Xuân thường có mưa để
những ǵ chết chóc trong giá lạnh mùa Đông được hồi sinh tươi tốt trong ấm
áp mùa Xuân.
"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" từ đó bắt đầu đi vào ngơ hẻm của lịch sử nhân
gian, được mở màn bằng mùa hè "đổ mồ hôi" (STK 3:19), khi "Chúa là Thiên
Chúa tống cổ con người ra khỏi Vườn Địa Đường, để cầy sới đất đai mà từ đó
con người được h́nh thành" (STK 3:23). Cũng từ đó, mưa bắt đầu đổ xuống
trái đất, chứ trước đó, ngay "ban đầu", "Chúa là Thiên Chúa chưa làm mưa
xuống trái đất và chưa có con người cầy sới đất đai" (STK 2:5). Từ đó,
không c̣n "Mùa Xuân Nguyên Thủy", Mùa Thái Ḥa Trời Đất nữa. Cũng từ đó,
trên trái đất, có nơi một năm có đủ bốn mùa, như ở miền Bắc Việt Nam, song
cũng có nơi một năm chỉ có hai mùa, mùa nóng và mùa mưa, như ở miền Nam
Việt Nam.
"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội", như thế, không phải là và không c̣n là Mùa Thái
Ḥa Trời Đất, Mùa mọi sự c̣n liên kết và ḥa hợp với nhau như ư và theo ư
Đấng Hóa Công. Nó cũng không c̣n là và không phải là Thời Con Người Phúc
Lộc Thọ nữa, Thời con người c̣n sống trong Phúc được làm con cái Thiên
Chúa "theo h́nh ảnh thần linh", hưởng Lộc tự do với quyền "làm chủ trái
đất", và hưởng Thọ không "phải trở về bụi đất". Theo lịch sử nhân gian,
"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" chỉ là một trong "4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo
thời tiết như hiện nay", với thiên chức là mùa đầu trong một năm, và với
sứ mạng là làm mới lại những ǵ đă phát triển trong "mùa hè đỏ lửa" song
đă tàn tạ trong "mùa thu lá bay" và đă lịm chết trong "mùa đông nghĩa
địa".
"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" đă trở thành Mùa Hy Vọng cho con người và của
con người, v́ hai lư do. Thứ nhất, v́ c̣n giữ được nét xuân, qua hai trong
ba yếu tố chính là "mới mẻ" và "tươi trẻ", tuy không nguyên tuyền như "ban
đầu", "Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" vẫn có thể làm cho con người "vui vẻ", vui
xuân, hưởng xuân. Thứ hai, nhất là v́ cái c̣n làm cho con người đă bị hư
đi "vui vẻ" mừng xuân, đón xuân, không phải ở tại "Mùa Xuân Sau Nguyên
Tội" c̣n "nét xuân", cho bằng niềm hy vọng ở ngay chính trong ḷng người.
"Niềm Hy Vọng" này bắt đầu ló dạng trước khi con người bị "Thiên Chúa tống
cổ ra khỏi Vườn Địa Đường". Ngay trong Bản Án Nguyên Tội, Thiên Chúa là
Đấng "yêu (con người) trước" (1Gioan 4:19) đă chẳng tự động loan báo cho
họ một Tin Vui hay sao, khi nhưng không đoan hứa với con người: "Ta sẽ gây
thù hận giữa ngươi (ma qủi) và người nữ, giữa gịng dơi ngươi và gịng dơi
người nữ. Ngài sẽ đạp nát đầu ngươi, trong khi ngươi ŕnh cắn gót chân
ngài" (STK 3:15).
"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" trở thành Mùa Hy Vọng chẳng những cho con người
mà c̣n cho chung cả tạo vật nữa. Kể từ khi con người bị "Thiên Chúa tống
cổ ra khỏi Vườn Địa Đường", Vườn Địa Đường vốn là thiên thai trần thế đă
chẳng trở thành khu cấm địa hay sao (x.STK 3:24)? Bởi đó, thời tiết có 4
mùa định kỳ sau Nguyên Tội không phải là phản ảnh tâm trạng của trời đất
hay sao, một tâm trạng "quằn quại và rên xiết" (Rm 8:22) của "toàn thể tạo
vật đang ngong ngóng đợi trông cuộc hiển linh của con cái Thiên Chúa" (Rm
8:19).
"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" sẽ mất hết ư nghĩa nếu con người sống trong lầm
than và vô vọng. "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" (Nguyễn Du: Kiều):
như mùa xuân hận thù đầy tang thương chết chóc với những ngày đầu năm khói
lửa vào dịp Tết Mậu Thân 1968, hay như mùa xuân vô vọng tự trong ḷng
người, nơi các trại tị nạn Đông Nam Á, đối với thành phần Thuyền Nhân Việt
Nam bị rớt thanh lọc, lo âu chờ đến phiên bị trả về với quê hương yêu dấu,
nơi mà họ không c̣n t́m thấy an b́nh "vui vẻ".
"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" là bóng ma chập chờn, nếu con người chỉ quay
cuồng với cuộc sống hiện sinh. Đối với thành phần "chơi xuân kẻo hết xuân
đi, cái già xồng xộc nó th́ đến kia" (Trần Tế Xương?), xuân không có ǵ là
"mới mẻ", v́ càng làm cho họ già thêm, không có ǵ là "tươi trẻ", v́ càng
làm cho họ tàn phai nhan sắc, không có ǵ là "vui vẻ", v́ càng làm cho họ
thất vọng về cuộc sống hiện sinh chẳng thể nào làm cho họ hoàn toàn thỏa
măn.
3.- MÙA XUÂN MARIA
aria":
"Người nữ" mà Thiên Chúa đề cập đến trong Lời Hứa với con người ngay trong
Bản Án Nguyên Tội chính là mầm hy vọng vươn lên ngay "từ ban đầu" và "bắt
đầu" lịch sử của con người sa đoạ. Chính mầm hy vọng làm cho con người
sống "vui vẻ" trong lầm than này đă biến "Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" trở
thành Mùa Hy Vọng cho con người và của con người. "Người nữ" của "Lời Hứa"
trở thành niềm hy vọng cho con người và của con người này, theo Phụng Vụ
Giáo Hội Công Giáo, chính là: "Trinh Nữ Maria, Đấng đă mang đến cho thế
gian b́nh minh của niềm hy vọng và của ơn cứu rỗi" (Lễ Sinh Nhật Mẹ Maria:
Lời Nguyện Sau Hiệp Lễ).
"Maria": "Người nữ" của "Lời Hứa" vươn lên ngay "từ ban đầu" trong lịch sử
của con người sa đoạ như một mầm hy vọng ấy chẳng những hội đủ ngay nơi
ḿnh ba yếu tố chính làm nên Mùa Xuân đích thực, Mùa Xuân Nguyên Thủy,
"Mùa Xuân Trước Nguyên Tội", mà c̣n chính là Mùa Xuân Viên Măn, Mùa Xuân
Muôn Thuở, cho chung mọi tạo vật, cũng như cho riêng thế giới ngày nay
đang ở vào mùa đông của lịch sử nhân gian.
"Mùa Xuân Maria": "Mới Mẻ". "Mới mẻ" là bản chất nội tại làm nên Mùa Xuân.
"Mới mẻ" của Mùa Xuân nói lên thời gian khởi đầu trong thiên nhiên. "Ban
đầu Thiên Chúa đă dựng nên trời đất" (STK 1:1) mang tính chất "mới mẻ" của
thời gian khi trời đất c̣n tinh nguyên. Do đó, lúc ngay "ban đầu" của đất
trời, của mọi tạo vật đây chính là Mùa Xuân Nguyên Thủy.
Tiếc thay, Mùa Xuân Nguyên Thủy này đă bị "tên sát nhân từ ban đầu" (Gioan
8:44), cùng với sự cộng tác của hai nguyên tổ "muốn nên bằng Thiên Chúa"
(STK3:5), làm cho tàn úa thảm thương. Thế nhưng, theo "dự án mà (Thiên
Chúa) có ư ấn định trong Đức Kitô, được thực hiện khi thời gian nên trọn,
đó là, đem mọi sự trên trời dưới đất đặt dưới quyền lănh đạo của Đức Kitô"
(Eph 1:9-10), lịch sử nhân loại đă trở thành Lịch Sử Cứu Độ ngay "từ ban
đầu".
Tuy nhiên, trong Lịch Sử Cứu Độ này, theo thời gian, cả trước khi và ngay
khi "thời gian nên trọn", Mẹ Maria cũng là nhân vật có trước nhất. Trước
khi "thời gian nên trọn", qua h́nh ảnh "người nữ", Mẹ được Thiên Chúa nhắc
đến "trước nhất", trước cả Chúa Giêsu là "gịng dơi người nữ". Ngay khi
"thời gian nên trọn", Mẹ cũng là nhân vật mà Tân Ước chân nhận: "Khi thời
gian ấn định đến, Thiên Chúa sai Con ḿnh sinh bởi người nữ" (Gal 4:4),
trở thành "gịng dơi người nữ", Đấng "tỏ ḿnh ra là để phá hủy công việc
của ma qủi" (1Gioan 3:8).
Giáo Hội mừng lễ Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa vào ngay ngày 1-1, ngày đầu năm
dương lịch hằng năm, từ năm 1969, cũng không ngoài ư nghĩa này. ĐTC Phaolô
VI như đă xác nhận như thế trong tông huấn "Marialis Cultus": "Việc cử
hành này, được đặt vào ngày 1-1 hợp với sự ấn định cũ của phụng vụ Thành
Rôma, là để tưởng nhớ đến vai tṛ Mẹ Maria đă thực hiện trong mầu nhiệm
cứu chuộc này" (đoạn số 5).
"Mùa Xuân Maria": "Tươi Trẻ". "Tươi trẻ" là h́nh thức, là bóng dáng, là
hiện thân của Mùa Xuân, làm cho Mùa Xuân sống động trong thiên nhiên. Thế
gian bị "tội lỗi cùng với chết chóc đột nhập" (Rm 5:12), càng ngày càng
trở nên tàn tạ xấu xa, cả về tinh thần "tội lỗi" lẫn thể chất "chết chóc".
Đến nỗi, Thiên Chúa hối tiếc v́ đă dựng nên con người trên mặt đất" (STK
6:6) và đă "thanh trừng khỏi mặt đất" (STK 6:7) hầu hết cả con người lẫn
con vật bằng trận Đại Hồng Thủy.
Trong khi ấy, nơi Mẹ Maria lại "đầy ơn phúc" (Lc 1:28), cả trong tâm hồn
cũng như ngoài thân xác của Mẹ. Tâm hồn Mẹ Maria tuyệt đối "tươi trẻ", ở
chỗ, "Vô Nhiễm Nguyên Tội", như chính Mẹ đă tỏ ḿnh ra tại Lộ Đức ngày
25-3-1858, tức "khỏi mọi t́ vết của nguyên tội", như Đức Thánh Cha Piô IX
định tín trong trọng sắc Ineffabilis Deus.
Thân xác Mẹ Maria hoàn toàn "tươi trẻ", ở chỗ, trọn đời đồng trinh, "không
hề biết đến nam nhân" (Lc 1:34). Nhan sắc tự nhiên của Mẹ Maria tuyệt vời
"tươi trẻ", ở chỗ, không già, tầm vóc và h́nh dung luôn ở mức độ hoàn hảo
nhất, như Mẹ đă tỏ cho nữ Đáng Kính Maria D'Agreda vào thế kỷ 17: "Điều
kiện và vóc dáng tự nhiên nơi thân xác đồng trinh thánh hảo của Mẹ vẫn như
hồi Mẹ 33 tuổi" (Thiên Đô cuốn 4, số 736), cho dù Mẹ sống trên thế gian
thiếu 26 ngày là đủ 70 tuổi (cùng sách, số 742).
Hữu thể của Mẹ đời đời "tươi trẻ", ở chỗ, cả "linh hồn vô nhiễm và thân
xác trinh trong của Mẹ" (Tông Huấn Marialis Cultus số 6), như tông hiến
Munificentissimus Deus của Đức Thánh Cha Piô XII định tín, được Thiên Chúa
đem về trời vinh hiển.
"Mùa Xuân Maria": "Vui Vẻ". "Vui vẻ" là tác dụng của Mùa Xuân trên mọi
sinh vật nói chung và nhân gian nói riêng, làm nên ư nghĩa của Mùa Xuân.
Thế mà, "Sau Nguyên Tội", "tất cả mọi tạo vật quằn quại và rên xiết" (Rm
8:22), trừ duy nhất tạo vật "đầy ơn phúc" (Lc 1:28) là Trinh Nữ Maria.
Nơi "Maria đầu thai Vô Nhiễm Nguyên Tội", như hàng chữ trong thị kiến của
chị thánh Catarina Labuarê ngày 27-11-1830, niềm "vui vẻ" là "được tự do"
(STK 2:16) như hai nguyên tổ trong Vườn Địa Đường "trước Nguyên Tội" vẫn
c̣n đó. Niềm "vui vẻ" này của Mẹ đạt đến mức độ tuyệt đỉnh khi "Ngôi Lời
đă hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) ngay trong cung ḷng trinh nguyên của
Mẹ. Đến nỗi, niềm "vui vẻ" này đă tuôn tràn ra ngoài, qua ca vịnh "Ngợi
Khen" (Magnificat), "bài ca của thời cứu tinh, ḥa trộn niềm vui vẻ của cả
cựu lẫn tân Yến-Duyên" (Marialis Cultus số 18): "Linh hồn tôi ngợi khen
Chúa, và thần trí tôi hân hoan (mừng rỡ, hoan lạc, 'vui vẻ') trong Thiên
Chúa, Đấng Cứu Chuộc tôi" (Lc 1:46-47).
Niềm "vui vẻ" của Mẹ Maria được thể hiện, trước hết, qua tác động nhận
biết của Mẹ: "Ngài đă đoái trông đến phận thấp hèn tôi tớ của Ngài (và) đă
làm cho tôi những sự trọng đại, danh Ngài là thánh" (Lc 1:48-49). Niềm
"vui vẻ" của Mẹ, đồng thời, cũng được bộc lộ qua tác động chúc tụng của
Mẹ: "Ḷng thương xót Ngài trải qua đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những
người kính sợ Ngài... như Ngài đă phán hứa... đến muôn đời" (Lc
1:49-50,55).
4.- MÙA XUÂN VIÊN MĂN
ùa Xuân
Nguyên Thủy, "Mùa Xuân Trước Nguyên Tội", cho dù có hội đủ 3 yếu tố chính
là "mới mẻ" của thời gian, "tươi trẻ" nơi không gian và "vui vẻ" cho nhân
gian, để làm nên Mùa Xuân Đích Thực, vẫn không phải là Mùa Xuân Muôn Thuở.
Bởi v́, Mùa Xuân Nguyên Thủy đă không c̣n nữa, đúng hơn, đă biến thái
(deformed) thành "Mùa Xuân Sau Nguyên Tội", một trong "4 mùa
xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay".
Trái lại, nơi "Mùa Xuân Maria", 3 yếu tố chính làm nên Mùa Xuân Đích Thực,
chẳng những không mất, mà c̣n trở thành "viên măn", trở thành bất diệt, để
"Mùa Xuân Maria" không c̣n là ǵ khác hơn là chính "Mùa Xuân Muôn Thuở".
"Mùa Xuân Maria" là "Mùa Xuân Muôn Thuở" v́ bản chất "viên măn" của ḿnh
như thế, trước hết là do bởi "Con Đấng Tối Cao" (Lc 1:32), Chúa của "Mùa
Xuân Viên Măn", và sau nữa, là nhờ ở chính Maria, "người đă tin" (Lc
1:45), Hồn của "Mùa Xuân Muôn Thuở" này.
"Mùa Xuân Viên Măn" là do Chúa Xuân. Trước khi con người có, đă có Mùa
Xuân Nguyên Thủy, Mùa Thái Ḥa Trời Đất. Được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên
Chúa, với quyền "làm chủ trái đất", ngay "từ ban đầu", con người có thể
được coi là chủ của mùa xuân, chủ của Mùa Xuân Nguyên Thủy này. Nói cách
khác, Mùa Xuân Nguyên Thủy có là để cho con người, và nếu không có con
người, Mùa Xuân Nguyên Thủy sẽ không cần có hay có cũng chẳng c̣n ư nghĩa
ǵ nữa.
Cũng thế, trước khi "Ngôi Lời hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), đă có "Mùa
Xuân Maria". "Là trưởng tử mọi tạo vật" (Col 1:15), và "trong Người mà mọi
sự trên trời dưới đất được tạo thành... tất cả được tạo thành nhờ Người và
cho Người" (Col 1:16), Người cũng chính là Chúa Xuân, Chúa của "Mùa Xuân
Maria". "Mùa Xuân Maria" sẽ không bao giờ có, nếu không có và không cho vị
Chúa Xuân là Con Đấng Tối Cao.
Thế nhưng, Mùa Xuân Nguyên Thủy, tức "Mùa Xuân Trước Nguyên Tội" đă bị bàn
tay lông lá của tà thần cũng như của con người là chủ nó làm tàn úa. Trái
lại, "Mùa Xuân Maria" lại được chính tổng thần Gabriel cung kính chúc
tụng: "Kính mừng đầy ơn phúc" (Lc 1:28), được bao phủ bởi "quyền phép Đấng
Tối Cao" (Lc 1:35), và được "thụ thai...Con Đấng Tối Cao" (Lc 1:31-32). Vị
Chúa Xuân là "Quả phúc của ḷng Mẹ" (Lc 1:42) này, khi được đầu thai, cưu
mang và sinh hạ bởi Mẹ, chẳng những không tác hại "Mùa Xuân Maria" đồng
trinh vô nhiễm, mà c̣n làm viên măn "Mùa Xuân Maria" của ḿnh nữa.
Là "Ngôi Lời đă hóa thành nhục thể...đầy ân sủng và chân lư" (Gioan
1:14,16), "đến cho chiên được sống và được sống viên măn hơn" (Gioan
10:10), "sự viên măn của Người là Đấng làm trọn vẹn tất cả mọi phần của
hoàn vũ" (Eph 1:23), vị Chúa Xuân này chắc chắn đă làm "Mùa Xuân Maria"
của ḿnh "viên măn" trước hết và trên hết. Mức độ "viên măn" của "Mùa Xuân
Maria" do Chúa Xuân Giêsu tạo nên đă làm cho thai nhi tiền hô Gioan "nhảy
mừng" (Lc 1:41), cho thai mẫu của Gioan được "đầy Thánh Linh và kêu lên
lớn tiếng" (Lc 1:42), cho cả người phụ nữ không hề biết Mẹ cũng "kêu lên:
'Phúc cho ḷng đă cưu mang Ngài và vú đă cho Ngài bú'" (Lc 11:27), và c̣n
cho "mọi đời về sau sẽ chúc khen (Mẹ) diễm phúc" (Lc 1:48).
Như thế, "Mùa Xuân Maria" chẳng những là của Chúa Xuân Giêsu Kitô mà c̣n
cho chung tất cả mọi người và mọi thời, cho riêng Giáo Hội là nhiệm thể
của Chúa Kitô nữa, và qua việc rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội, "cho tất
cả mọi tạo vật" (Mc 16:15) "đă phải chịu lụy thuộc trong cảnh hư hoại
ngoài ư muốn của ḿnh... đang ngong ngóng...chia sẻ tự do vinh hiển của
con cái Thiên Chúa" (Rm 8:20,19,21).
"Mùa Xuân Viên Măn" là nhờ Hồn Xuân. "Mùa Xuân Maria" chẳng những "viên
măn" do Chúa Xuân là Chúa Giêsu, mà c̣n nhờ Hồn Xuân là chính Đức Tin của
Trinh Nữ "đầy ơn phúc".
Không phải v́ được đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, nhờ đó, không có đam mê
t́nh dục, không có khuynh hướng phạm tội, mà Mẹ Maria không có thử thách
(cám đỗ) và không thể phạm tội. Nếu thế th́ đă không có Nguyên Tội khi hai
nguyên tổ c̣n ở trong Sự Công Chính Nguyên Thủy, trong t́nh trạng vô tội
và không biết đến tội lỗi là ǵ. Đặt trường hợp Trinh Nữ "đầy ơn phúc", v́
bất cứ lư do ǵ, một khi đă biết rơ ư định của Thiên Chúa về ḿnh và cho
ḿnh như sứ thần tŕnh bày, không chịu thưa "xin vâng" (Lc 1:38), th́
Người có c̣n đáng nhận lời chúc tụng của mẹ thai nhi tiền hô Gioan hay
không: "Phúc cho Người là vị đă tin rằng lời Chúa phán cùng Người sẽ được
thực hiện" (Lc 1:45).
Phải, chính nhờ Đức Tin là "Hồn Xuân" này mà "Mùa Xuân Maria" chẳng những
không tự tàn héo, mà càng trở thành "Mùa Xuân Viên Măn", đúng như ngụ ư
của câu Chúa Giêsu trả lời người phụ nữ lạ khen tụng Mẹ Người: "Phúc hơn
cho người nghe lời Thiên Chúa mà giữ lấy" (Lc 11:28). Đôi tân hôn cùng với
khách dự tiệc cưới ở Cana là những người đă không ngờ được thưởng thức một
thứ rượu ngon hơn thứ rượu đă hết của họ. "Thứ rượu ngon hơn" này chắc
chắn sẽ làm cho họ "vui vẻ" trọn vẹn hơn và hoàn toàn hơn, không phải là
nhờ có Mẹ Maria hay sao!?! Đâu có Mẹ ở đấy có hy vọng, có niềm vui, có sự
sống. Là Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ chính là "Mẹ Sự Sống" (x.STK 3:20, Gioan 14:6,
1Gioan 1:2).
"Mùa Đông Lịch Sử": Sự Chết. Thế giới hiện đại, thế giới ngay trước ngưỡng
cửa của đệ tam thiên niên (mà năm 2001 là năm đầu tiên mở màn) theo Tây
Lịch này cũng có thể t́m thấy Sự Sống nơi "Mùa Xuân Viên Măn" Maria. Nhân
loại về cuối đệ nhị thiên niên và từ giữa thập niên cuối cùng của kỷ
nguyên thứ hai đang ở vào giai đoạn "lịch sử mùa đông".
Thật vậy, nhờ khoa học siêu đẳng và kỹ thuật tối tân, con người ngày nay
xa dần thiên nhiên, không c̣n phải lao động "đổ mồ hôi" nhiều nữa, như lúc
con người đang ở trong giai đoạn "lịch sử mùa hè" là giai đoạn tiền sử và
bán khai, giai đoạn lịch sử mà lúc gay gắt nhất là lúc Con Thiên Chúa "đổ
mồ hôi máu nhỏ xuống đất" (Mt 22:44) và lúc chính ngọ là lúc ánh sáng phục
sinh của Mặt Trời Công Chính chiếu giăi. Thế nhưng, thực tế cho thấy, càng
xa thiên nhiên, càng gần nhân tạo, càng tự động (autonomy), càng tự do
(right of freedom), càng tự nhiên (naturalism), con người h́nh như càng xa
Đấng Hóa Công, càng bại hoại về luân lư, như xă hội loài người đă từng
trải qua giai đoạn "lịch sử mùa thu" từ đầu thế kỷ 19, giai đoạn kỹ nghệ
mở màn.
Những hiện tượng đang xẩy ra cho thấy từ hậu bán thế kỷ 20, khởi sự từ
thập niên 1960, con người bắt đầu đi vào giai đoạn "lịch sử mùa đông". Mùa
đông là mùa lạnh lẽo và tối tăm, những biểu tượng của sự chết. Hơn bao giờ
hết, ngày nay người ta trực tiếp ra tay giết nhau: các cường quốc giết
nhau qua hai trận Thế Chiến I và II, các chủng tộc giết nhau như đang diễn
ra ở Âu Châu cũng như Phi Châu, thậm chí, các thầy thuốc vốn làm nghề cứu
nhân độ thế cũng biến thành thợ giết bệnh nhân "v́ nhân đạo", giết thai
nhi v́ tôn trọng quyền tự do (pro-choice) của người mẹ v.v. Người ta giết
nhau như thế là do t́nh trạng "lạnh", lạnh kiểu "thương hàn", lạnh từ
trong ra, lạnh t́nh, lạnh cảm. Họ không c̣n biết yêu, đúng hơn, không có
t́nh yêu: "Ai không yêu thương th́ ở trong sự chết. Ai ghét anh em ḿnh là
kẻ sát nhân" (1Gioan 3:14-15).
"Mùa Xuân Viên Măn": Sự Sống. Thế nhưng, theo chu kỳ của thời gian, sau
giai đoạn "lịch sử mùa đông", biểu hiệu cho sự chết, sẽ là và phải đến
giai đoạn "lịch sử mùa xuân", biểu hiệu cho sự sống cũng là dấu hiệu của
sự sống: "Sự chết giống như một giấc ngủ triền miên của vũ trụ khi mùa
đông tới chờ sang xuân mới thức dậy. Đối với thiên nhiên cũng như đối với
các linh hồn, đó là b́nh minh của phục sinh". Chúa Giêsu đă nói với người
nữ sứ giả giáo dân Magarita của Người trong Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu
ngày 18-11-1966 như thế.
Chúa Cứu Thế đă không giáng sinh vào mùa đông cách đây 2000 năm hay sao?
Giữa mùa đông giá buốt, tối tăm, mù mịt đêm hôm ấy, đă không hiện lên
những dấu chỉ của một mùa xuân hay sao: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời và
b́nh an dưới thế cho người thiện tâm" (Lc 2:14). Phải chăng giai đoạn
"lịch sử mùa đông" càng ngày càng rùng rợn và kinh hoàng trên thế giới
hiện nay chính là "những điềm thời đại" (Mt 16:3) báo hiệu Chúa Kitô sắp
tái giáng?
Không ai dám quả quyết và biết chắc được lúc nào tận thế. Tuy nhiên, những
biến cố liên quan đến lịch sử thế giới nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói
riêng trong thế kỷ 20 này, không phải hay sao, là "những điềm trời" (Mt
16:1) đă hiện lên báo động. Bức tường Bá-Linh sụp đổ ngày 9-11-1989 ngay
sau biến cố Đông Âu 1989 không phải là "điềm trời" báo hiệu giai đoạn
"lịch sử mùa đông" đang tan dần như một tảng băng tuyết trên miền bắc cực
của trời đất (cũng là địa thế của Liên Bang Sô Viết trên bản đồ thế giới)
hay sao? Thế nhưng, theo thú nhận của chính nhà lănh đạo vô thần cuối cùng
của chế độ Cộng Sản Sô Viết, cũng là nhân vật chủ chốt gây nên cuộc sụp đổ
ở Đông Âu, th́ hiện tượng cộng sản tự giải thể, như tảng băng tuyết tan
dần này là do vai tṛ chủ chốt của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, và Đức
Thánh Cha lại qui về Biến Cố Fatima, như ngài minh định trong cuốn Vượt
Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của ngài.
Phải, nhờ ảnh hưởng 25 năm Biến Cố Fatima mới có cuộc hiến dâng thế giới
cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria ngày 31-10-1942 do Đức Thánh Cha
Piô XII thực hiện lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội. Cuộc hiến dâng
quyết liệt liên quan đến vận mệnh của thế giới này được trọn vẹn kết thúc
vào ngày 25-3-1984 do Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cùng với hàng giáo
phẩm thế giới thực hiện. Song song với việc làm chủ yếu trên đây của thẩm
quyền Giáo Hội, c̣n có phong trào Mẹ Thánh Du Quốc Tế từ ngày 13-5-1947,
đến nay vẫn liên tục tiếp diễn khắp nơi trên thế giới. Tất cả những diễn
tiến đó, không phải hay sao, đều là "những điềm trời" báo hiệu "Mùa Xuân
Maria", "Mùa Xuân Muôn Thuở", Mùa Xuân Viên Măn Chúa Kitô, "Đấng một lần
đă chết nhưng hiện vẫn sống muôn đời" (KH 1:18). "Mùa Xuân Maria" ấy đang
tưng bừng mở hội cho một Mùa "Trời Mới Đất Mới" (KH 21:1) là Thời "Canh
Tân Mọi Sự" (KH 21:5).
(bài này đă được phổ biến trên các Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ 1/1995, Đức
Mẹ Hằng Cứu Giúp 2/2000, Hiệp Nhất 2/2000, Tam Cá Nguyệt San Vào Đời
2/2000,
và Nguyệt San Dân Chúa Mỹ Châu số kép 1-2/2012)
Cùng Mẹ Ngợi Khen Chúa
TGP/LA Lễ Các Thánh 1/11/1994
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|