SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Xh 17, 3-7
"Xin cho chúng tôi nước để chúng tôi uống".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, dân chúng khát nước, nên phàn nàn với ông Môsê rằng: "Tại sao ông dẫn dắt chúng tôi ra khỏi Ai-cập, để cho chúng tôi cùng con cái và đoàn súc vật chúng tôi phải chết khát như vầy". Môsê kêu lên cùng Chúa rằng: "Con sẽ phải làm gì cho dân này? Còn một chút nữa là họ ném đá con rồi". Chúa liền phán bảo Môsê: "Ngươi hãy tiến lên, đi trước dân chúng và dẫn các bậc kỳ lão Israel đi theo, tay ngươi cầm gậy mà ngươi đã dùng mà đánh trên nước sông. Này đây, Ta sẽ đứng trước mặt ngươi, trên tảng đá Horeb, ngươi sẽ đánh lên tảng đá, từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống". Môsê làm các điều nói trên trước mặt các bậc kỳ lão Israel. Ông đặt tên nơi đó là "Thử Thách", vì con cái Israel đã phàn nàn và thách thức Chúa mà rằng: "Chúa có ở với chúng tôi hay không?"
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Các ngươi đừng cứng lòng!" (c. 8)
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người! - Ðáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 5, 1-2. 5-8
"Lòng mến Chúa đổ xuống lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, khi được đức tin công chính hoá, chúng ta được hoà thuận với Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng cho chúng ta nhờ đức tin mà tiến đến ân sủng, đứng vững ở đó, và được hiển vinh trong niềm hy vọng vinh quang của con cái Chúa. Nhưng cậy trông không làm hổ thẹn, vì lòng mến Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta. Ngay từ khi chúng ta còn yếu hèn, Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay cho người công chính, hoạ chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 4, 42 và 15
Lạy Chúa, Chúa thật là Ðấng cứu chuộc thế gian; xin ban cho con nước hằng sống, để con không còn khát nữa.
Phúc Âm: Ga 4, 5-42 (bài dài)
"Mạch nước vọt đến sự sống đời đời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.
Một người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: "Xin bà cho tôi uống nước" (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria thưa lại: "Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?" (Vì người Do-thái không giao thiệp gì với người Sa-maria).
Chúa Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: "Xin cho tôi uống nước", thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống".
Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này và chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vật của người?"
Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời". Người đàn bà thưa: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa". Chúa Giêsu bảo: "Bà hãy đi gọi chồng bà rồi trở lại đây". Người đàn bà đáp: "Tôi không có chồng". Chúa Giêsu nói tiếp: "Bà nói "tôi không có chồng" là phải, vì bà có năm đời chồng rồi, và người đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng bà, bà đã nói đúng đó".
Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri. Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở Giêrusalem".
Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Ðấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do-thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý".
Người đàn bà thưa: "Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Chúa Giêsu bảo: "Ðấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây".
Vừa lúc đó các môn đệ về tới. Các ông ngạc nhiên thấy Ngài nói truyện với một người đàn bà. Nhưng không ai dám hỏi: "Thầy hỏi bà ta điều gì, hoặc: tại sao Thầy nói truyện với người đó?" Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về thành bảo mọi người rằng: "Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?" Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài, trong khi các môn đệ giục Ngài mà rằng: "Xin mời Thầy ăn". Nhưng Ngài đáp: "Thầy có của ăn mà các con không biết". Môn đệ hỏi nhau: "Ai đã mang đến cho Thầy ăn rồi chăng?" Chúa Giêsu nói: "Của Thầy ăn là làm theo ý Ðấng đã sai Thầy và chu toàn công việc Ngài. Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt. Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ".
Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng: "Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm". Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: "Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Ga 4, 5-15. 19b-26. 39a. 40-42
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.
Một người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: "Xin bà cho tôi uống nước" (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria thưa lại: "Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?" (vì người Do-thái không giao thiệp gì với người Samaria).
Chúa Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: "Xin cho tôi uống nước", thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống".
Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này, và chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vật của người?"
Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời". Người đàn bà thưa: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát, và khỏi phải đến đây xách nước nữa".
Và người đàn bà nói với Chúa Giêsu: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri. Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở Giêrusalem". Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Ðấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do-thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý".
Người đàn bà thưa: "Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Chúa Giêsu bảo: "Ðấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây".
Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng. Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: "Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Từ một tội nhân lẻ loi cô độc đột nhiên biến thành một ngôn sứ công khai
Sau hai Chúa Nhật 1 và 2 mở đầu cho Mùa Chay hơn 5 tuần lễ cho đến Tuần Thánh, Phụng Vụ Lời Chúa cho riêng chu kỳ phụng niên Năm A bắt đầu các bài Phúc Âm chủ đề theo Thánh Ký Gioan hơn là theo Thánh ký Mathêu là Phúc Âm vốn giành cho chu kỳ phụng vụ Năm A. Và loạt 3 bài Phúc Âm theo chủ đề của Thánh ký Gioan cho 3 Chúa Nhật 3, 4 và 5 Mùa Chay này hoàn toàn thích hợp cho tiến trình tái sinh của thành phần dự tòng Kitô giáo.
Vì nội dung của bài Phúc Âm Chúa Nhật 3 Mùa Chay liên quan đến mạch nước sự sống (bể nước rửa tội Thanh Tẩy), của bài Phúc Âm Chúa Nhật 4 Mùa Chay liên quan đến ánh sáng sự sống (nến sáng đức tin Công Chính), và của bài Phúc Âm Chúa Nhật 5 Mùa Chay liên quan đến sự sống bất tử (sự sống thần linh Thánh Sủng).
Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật 3 Mùa Chay hôm nay liên quan đến mạch nước sự sống, và vì thế phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều tập trung vào đề tài nước sự sống này.
Trước hết, ở Bài Đọc 1, được trích từ Sách Xuất Hành, mạch nước sự sống này: 1- xuất phát từ một tảng đá trong sa mạc; 2- khi tảng đá (ám chỉ Chúa Kitô là Đá tảng) được đập vào bởi cái gậy (ám chỉ đức tin là khả năng giao tiếp thần linh) của Moisen; 3- để dân Do Thái được giãn cơn khát.
Sau nữa, ở Bài Đọc 2, được trích từ Thư Thánh Phaolô gửi Kitô hữu giáo đoàn Rôma, mạch nước sự sống này được gói ghém trong lời Vị Tông Đồ Dân Ngoại, ám chỉ tình yêu của Thiên Chúa và Thánh Thần của Ngài: "tình yêu của Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta".
Sau hết, ở chính Bài Phúc Âm, mạch nước sự sống ấy được Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai ban cho những ai tin vào Người, điển hình là người nữ Samaritanô ngoại lai tội lỗi, và mạch nước Người ban đây không phải là mạch nước tự nhiên được người phụ nữ này hằng ngày phải từ nhà mất công ra kín lấy tự dưới Giếng Giacóp, trái lại, mạch nước sự sống Người ban cho chị sẽ khiến chị "không bao giờ còn khát nữa" - Tại sao? - "vì nước Tôi ban cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời".
"Mạch nước sự sống đời đời" đây là gì đã được chính Thánh ký Gioan chú thích ở đoạn 7 câu 39: "(Ở đây Người ám chỉ Thần Linh mà những ai tin vào Người được lãnh nhận...)", Vị Thần Linh được ban cho họ qua cuộc phục sinh vinh hiển của Người (xem cùng đoạn chú thích này và ở đoạn 20:22). Đúng thế, con người được cứu chuộc bằng giá máu của Chúa Kitô tử giá, nhưng được công chính hóa bằng cuộc phục sinh của Người, nhờ Thánh Thần Người thông ban cho họ. Đó là lý do Giáo Hội Công giáo cử hành Phép Rửa cho thành phần dự tòng vào Thánh Lễ Vọng Phục Sinh hằng năm.
Hình ảnh "thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước" ngay từ ban đầu, trước khi Thiên Chúa tạo dựng nên mọi sự, cho thấy quả thực "không ai được vào Nước Trời nếu không được tái sinh bởi nước và Thần Linh" (Gioan 3:5), và muốn làm con cái của Thiên Chúa cần phải có Thánh Thần của Ngài:
"Quả thế, những ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn thì đều là con cái Thiên Chúa. Vì Thần Trí mà anh em đã lãnh nhận không phải là thứ thần trí nô lệ khiến anh em cảm thấy sợ sệt như trước; nhưng là Thần Trí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: 'Abba! Cha ơi!' Chính Thần Trí này chứng thực cho thần trí của chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa". (Roma 8:14-16).
Vậy vấn đề được đặt ra ở đây là người nữ Samaritanô ngoại lai trong bài Phúc Âm hôm nay đã được Chúa Giêsu ban cho mạch nước sự sống này hay chưa, thứ nước mà chị chỉ mới hiểu một cách mơ hồ theo hướng lợi ích tự nhiên cho bản thân của chị nhưng vẫn cứ xin: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát, và khỏi phải đến đây xách nước nữa"?
Căn cứ vào những diễn biến sau đó thì chị đã được Chúa Giêsu ban cho chị mạch nước sự sống này rồi, vì chính Người là mạch nước sự sống ấy, khi Người tỏ mình ra cho chị: "Ðấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây". Đó là lý do, ngay sau khi Chúa Giêsu tỏ mình ra cho chị, tức ban cho chị mạch nước sự sống thì chị liền được biến đổi.
Ở chỗ, nếu trước đó, chị sợ dân làng bao nhiêu, nên không dám ra kín nước ban sáng cho mát, mà chỉ dám lén ra ban trưa dù nắng nóng cho an toàn, vì ai cũng biết chị là một người đàn bà lăng loàn, sống với 6 người đàn ông không phải là chồng của chị, thì ngay sau khi được gặp gỡ Chúa Giêsu và được Người tỏ mình ra cho như mạch nước sự sống, chị đã mạnh dạn hẳn lên, không còn sợ gì nữa, hoàn toàn được biến đổi, từ thân phận một tội nhân lẻ loi cộ độc đột nhiên thành một ngôn sứ công khai bằng chính lời loan báo và chứng từ của bản thân mình: "Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về thành bảo mọi người rằng: 'Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?'"
Như thế, lời Chúa Kitô phán với người đàn bà Samaritanô ở bờ giếng Giacóp này quả thực đã hoàn toàn ứng nghiệm và trở thành hiện thực: "Nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời", chẳng những nơi chính bản thân của chị, ở chỗ biến đổi con người tội lỗi của chị thành một vị ngôn sứ khả tín, sống động, hùng hồn đầy thuyết phục, mà còn nhờ vai trò làm ngôn sứ của chị mà "Nước" Người ban cho chị đã "vọt đến sự sống đời đời" nơi cả dân làng ngoại lai của chị nữa:
"Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng. Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: 'Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế'".
Tóm lại, cuộc gặp gỡ có vẻ tình cờ này đã được dàn dựng hết sức tài tình bởi một đạo diễn chuyên nghiệp câu cá đó là Nhân Vật Giêsu Nazarét:
1- Câu cá không phải ở bờ sông hồ mà là ở một cái giếng nước sâu, đó là giếng Giacóp, và câu cá bằng cách ngồi chờ hơn là đứng;
2- Con cá xộp này ở dưới giếng sâu tù túng kín đáo hơn là ở sông hồ lộ thiên phơi phới vì nó có một đời sống quá lăng loàn bê bối đầy mặc cảm;
3- Đó chính là người phụ nữ Samaritanô ở khu làng gần Giếng Giacóp này, một người đàn bà sống với 6 người đàn ông không phải là chồng mình;
4- Vì mặc cảm và sợ dân làng nên con cá này không dám ra giếng kín nước ban sáng cho mát như mọi người mà là ban trưa không có một ai;
5- Không ngờ hôm ấy lại có một con người xa lạ ngối đấy, qua cách ăn mặc và nét mặt là người Do Thái, nên con cá không lo sợ bị điểm mặt chỉ tên;
6- Chính vị nam nhân Do Thái lạ mặt này cũng đã cố tình đến giếng nước này vào buổi trưa, lúc các môn đệ của mình phải rủ nhau vào làng kiếm ăn;
7- Bằng không làm sao nam nhân lạ mặt Do Thái này có thể dễ dàng gặp được người đàn bà lăng loàn vốn sợ đám đông và câu được con cá xộp này;
8- Cuộc gặp gỡ này được mở đầu bằng lời "xin cho tôi uống" của vị nam nhân Do Thái, khởi đầu đóng vai trò thụ động của một người khốn khó ăn xin;
9- Con cá xộp đầy im lặng và mặc cảm này nghe thế thoạt tiên muốn phản ứng chạy trốn bằng câu thoái thác như thể giữa ông và tôi kỵ nhau mà;
10- Nhưng nam nhân đạo diễn chuyên nghiệp câu cá này nhất định không buông tha nên bắt đầu lật ngược thế cờ: nếu chị biết tôi và ơn Chúa thì...
11- Con cá xộp nhất định tìm cách làm chủ tình hình nếu không thể thoát thân: ông không có gầu thì làm sao kín nước được nếu không nhờ đến tôi;
12- Vị nam nhân càng tỏ ra cao cờ hơn ai hết khi đánh trúng tim đen của chị này, khiến chị đang làm chủ trở thành thụ động xin vị này thứ nước lạ;
13- Đến độ chị ta đã dễ dàng và sẵn sàng tiết lộ đời tư của chị ra cho vị nam nhân lạ mặt Do Thái mới gặp lần đầu này biết rằng: tôi không có chồng;
14- Cho đến khi chị thấy vị nam nhân lạ mặt không biết từ đâu tới này biết hết đời tư lăng loàn trắc nết của mình, chị mời giật mình trước một vị tiên tri;
15- Để rồi chị đã tự động bỏ vò nước ở lại đó và chạy vội về làng để công khai loan báo về một vị mà chị đã gặp và cho rằng đó là Đấng Thiên Sai...
Thứ Hai
Lời Chúa
Ngày 19: Thánh Giuse bạn Ðức Trinh Nữ Maria
(Lễ trọng kính Thánh Giuse được dời sang Thứ Hai hôm nay vì không thể át Chúa Nhật Mùa Chay)
Liên hệ phụng vụ
Theo sự sắp xếp cố ý đầy ý nghĩa chính đáng hợp tình hợp lý của Giáo Hội về mối liên hệ giữa các lễ trong phụng niên, Lễ Trọng Mẹ Thai Lời (tức Lễ Thiên Sứ Truyền Tin Mẹ Maria Thụ Thai Lời Nhập Thể) 25/3 bao giờ cũng trước Đại Lễ Giáng Sinh 25/12 đúng 9 tháng, hay Lễ Trọng Sinh Nhật Tiền hô Gioan Tẩy Giả 24/6 bao giờ cũng trước Lễ Giáng Sinh 6 tháng, đúng như lời Thiên Sứ Truyền Tin cho Đức Mẹ (xem Luca 1:36). Lễ Trọng Thánh Giuse cũng thế, phải xẩy ra trước Lễ Mẹ Thai Lời, và xẩy ra trước 6 ngày, khoảng thời gian ám chỉ 6 tháng, khoảng thời gian từ khi Thánh Giuse đính hôn với Mẹ Maria cho tới khi bào thai trong cung lòng trinh nguyên của Mẹ Maria đủ trở thành lộ liễu để Thánh Giuse là con người công chính có ý định bỏ Mẹ cách kín đáo, như bài Phúc Âm Thánh ký Mathêu thuật lại, bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Lễ Trọng Kính Thánh Giuse hằng năm.
Nhân Lễ Trọng Kính Thánh Giuse, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại sau đây:
1- Ơn gọi của ngài sống đời hôn phu trinh khiết với Mẹ Maria, theo Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II; và
2- Vai trò dưỡng phụ và bảo hộ Chúa Giêsu theo Thánh Benadino Sienna.
|
1- Khi tỏ cho thấy Mẹ Maria như là một “trinh nữ”, Phúc Âm Thánh Luca còn thêm rằng Mẹ đã “được đính hôn với một người tên là Giuse thuộc giòng dõi Đavít” (Lk 1:27). Hai chi tiết này thoạt tiên chúng ta thấy có vẻ mâu thuẫn với nhau.
Cần phải để ý là tiếng Hy Lạp được dùng trong đoạn văn này không có ý nói đến trường hợp của một người phụ nữ đã có hôn ước và vì thế đang sống đời sống hôn nhân, mà là đến trường hợp của một người đính hôn. Tuy nhiên, không giống như những gì xẩy ra nơi các nền văn hóa tân tiến, tục lệ Do Thái xưa kia về việc đính hôn đã công nhận đó là một khế ước và bình thường đã có giá trị vĩnh viễn, tức là nó đã thực sự đưa con người đính ước vào đời sống hôn nhân, cho dù cuộc hôn nhân hoàn tất chỉ khi nào người nam đem người nữ về nhà mình.
Như thế, vào thời điểm Truyền Tin, Mẹ Maria đã ở trong tình trạng của một người đính hôn. Chúng ta có thể tự nghĩ là tại sao Mẹ lại chấp nhận đính hôn, vì Mẹ đã có ý định vĩnh viễn giữ mình đồng trinh cơ mà. Thánh Luca đã biết được vấn đề này, nhưng vẫn ghi lại sự kiện ấy mà không có một lời giải thích nào cả. Sự kiện mà vị Thánh Ký, trong khi nhấn mạnh đến chủ ý giữ mình đồng trinh của Mẹ Maria, đồng thời lại cho thấy Mẹ là hôn thê của Thánh Giuse, đã là một dấu chứng có tính cách khả tín của lịch sử về hai phần của sự kiện này.
2- Chúng ta có thể cho rằng, vào lúc đính hôn của mình, Thánh Giuse và Mẹ Maria đã biết được dự định của nhau trong việc muốn sống đời trinh khiết. Vả lại, Chúa Thánh Thần, Đấng đã soi động cho Mẹ Maria có ý muốn giữ mình đồng trinh là tình trạng liên quan đến mầu nhiệm Nhập Thể, cũng là Đấng muốn Thánh Giuse thuộc về một đời sống gia đình xứng hợp với việc tăng trưởng của Con Trẻ, cũng rất có thể đã gợi lên lên nơi Thánh Giuse tư tưởng giữ mình đồng trinh nữa.
Thiên thần Chúa đã hiện ra trong giấc mộng mà bảo ngài rằng: “Hỡi Giuse, con Đavít, đừng sợ nhận Maria làm vợ, vì người đã thụ thai bởi Chúa Thánh Thần” (Mt 1:20). Như thế là ngài đã nhận được lời xác nhận cho thấy rằng ngài đã được kêu gọi để sống cuộc sống hôn nhân của mình một cách hoàn toàn đặc biệt. Qua việc hiệp thông trinh khiết với một người nữ được chọn sinh ra Chúa Giêsu như thế, Thiên Chúa muốn kêu gọi thánh nhân hãy cộng tác vào việc thực hiện dự án cứu độ của Ngài.
Loại hôn nhân Chúa Thánh Thần đã kết hợp Mẹ Maria và Thánh Giuse lại với nhau chỉ có thể hiểu được trong tương quan với dự án cứu độ cũng như với một linh đạo cao vời. Sự kiện hiện thực cụ thể của mầu nhiệm Nhập Thể đòi phải có một cuộc hạ sinh trinh khiết vẹn tuyền, một cuộc hạ sinh làm nổi bật tính cách của một người con thần linh, và đồng thời cũng cần đến một gia đình có thể đáp ứng với việc phát triển bình thường nhân cách của Con Trẻ.
Thật vậy, đối với việc đóng góp của mình vào mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời, Thánh Giuse và Mẹ Maria đã được ơn sống cùng một lúc vừa đặc sủng đồng trinh lẫn tặng ân hôn nhân. Mối hiệp thông của Mẹ Maria và Thánh Giuse trong mối tình yêu trinh khiết, mặc dù là một trường hợp đặc biệt liên hệ đến việc hiện thực cụ thể mầu nhiệm Nhập Thể, cũng là một cuộc hôn nhân thực sự (x Tông Huấn Redemptoris Custos, 7).
Cái khó khăn trong việc chấp nhận mầu nhiệm hiệp thông phu phụ cao cả này của các vị đã làm cho một số, từ thế kỷ thứ hai, cho rằng Thánh Giuse đã già lão và coi ngài như vị bảo hộ của Mẹ hơn là hôn phu của Mẹ. Tuy nhiên, cũng có trường hợp lại cho rằng ngài không phải là một ông già vào lúc ấy, song sự trọn lành nội tâm của ngài, hoa trái của ân sủng, đã khiến ngài sống tương quan vợ chồng với Mẹ Maria bằng một mối tình trinh khiết.
3- Việc Thánh Giuse cộng tác vào mầu nhiệm Nhập Thể cũng bao gồm cả việc thực thi vai trò làm cha của Chúa Giêsu nữa. Vị thiên thần đã công nhận phận vụ này của ngài khi hiện ra trong giấc mộng và xin ngài đặt tên cho Con Trẻ: “Người sẽ hạ sinh một con trai và ngươi sẽ đặt tên cho Ngài là Giêsu, vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1:21).
Trong khi không dính dáng đến vấn đề truyền sinh về thể lý, thì vai trò làm cha của Thánh Giuse lại là một điều có thực chứ không phải chỉ bề ngoài vậy thôi. Phân tích giữa một người làm cha và một người thụ thai, có một bản văn cổ nói về đức đồng trinh của Mẹ Maria, đó là De Margarita (ở thế kỷ thứ bốn), như thế này: “Việc Trinh Nữ và Thánh Giuse dấn thân chấp nhận vai trò làm chồng và làm vợ khiến ngài có thể được gọi bằng danh xưng (cha) này; tuy nhiên là một người cha không truyền sinh”. Như thế, Thánh Giuse đã thi hành vai trò làm cha của Chúa Giêsu, thi hành một thứ quyền bính được Đấng Cứu Chuộc tự nguyện “vâng phục” (Lk 2:51), thi hành việc góp phần vào tình trạng tăng trưởng của Người cũng như vào những chỉ dẫn cho Người trong nghề thợ mộc.
Kitô hữu luôn luôn nhìn nhận Thánh Giuse là một người đã sống hiệp thông thân tình với Mẹ Maria và Chúa Giêsu, họ cũng cho rằng cả trong giờ lâm chung, thánh nhân cũng được an ủi nơi sự hiện diện âu yếm của các ngài. Theo truyền thống Kitô hữu liên tục này, nhiều nơi đã tỏ lòng tôn sùng đặc biệt với Thánh Gia, cũng như với Thánh Giuse, Vị Bảo Hộ của Đấng Cứu Chuộc. Như mọi người đều biết, Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã phú thác toàn thể Giáo Hội cho việc bảo hộ của thánh nhân.
(ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Tư 21/8/1996,
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, trích dịch từ tuần san L’Osservatore Romano,
ấn bản Anh ngữ ngày 28/8/1996)
(St. Bernardine of Siena, Sermo 2, de S. Joseph: Opera 7, 16. 27-30)
Có một luật chung liên quan đến tất cả mọi ơn đặc biệt được ban cho bất cứ một người nào. Bất cứ khi nào dự án thần linh chọn ai ban cho một ân huệ đặc biệt nào đó, hay chấp nhận một ơn gọi cao cả nào đó, Thiên Chúa đều trang bị cho con người được tuyển chọn này tất cả những tặng ân của Thần Linh cần thiết cho việc hoàn thành công việc Ngài trao phó cho họ.
Luật chung này đặc biệt được chứng tỏ nơi trường hợp của Thánh Giuse, cha nuôi của Chúa và là phu quân của Nữ Vương thế giới chúng ta, vị nữ vương ngự trên các thần trời. Thánh nhân được Cha hằng hữu chọn làm vị bảo hộ và bảo vệ tín cẩn các kho tàng cao quí nhất của Ngài, tức là Người Con thần linh của Ngài và Maria, hiền thê của Thánh Giuse. Thánh nhân đã thực thi ơn gọi này hết mực trung thành cho đến khi Thiên Chúa cuối cùng đã lên tiếng gọi: Hỡi đầy tớ tốt lành và tín trung, hãy vào vui hưởng cùng Chủ của ngươi.
Vậy thì Thánh Giuse đóng vai trò như thế nào trong toàn thể Giáo Hội Chúa Kitô? Thánh nhân chẳng phải là một con người được tuyển chọn và giành riêng hay sao? Nhờ thánh nhân, và, đúng thế, dưới thánh nhân, Chúa Kitô đã được đưa vào trần gian một cách xứng hợp và danh dự. Toàn thể Hội Thánh nợ ơn Vị Trinh Mẫu, vì nhờ Người Giáo Hội đã xứng đáng lãnh nhận Chúa Kitô. Thế nhưng, sau Mẹ, chúng ta chắc chắn phải đặc biệt nhớ ơn và tôn kính Thánh Giuse.
Nơi thánh nhân, Cựu Ước đã được đúc kết một cách xứng hợp. Thánh nhân đã dẫn hàng ngũ tổ phụ và tiên tri cao quí đến chỗ trọn vẹn theo lời hứa. Những gì Thiên Chúa thiện hảo đã tuyên hứa với họ thì thánh nhân đã ôm giữ trong hai cánh tay của mình.
Chúa Kitô thật sự bấy giờ đã không thể nào không tỏ ra mật thiết, tôn kính và trọng vọng đối với thánh nhân trên thế gian này, như một người con đối với cha mình vậy. Hơn nữa, chúng ta phải nói rằng, trên trời, Chúa Kitô làm trọn và hoàn trọn tất cả những gì Người đã ban phát ở Nazarét.
Giờ đây chúng ta thấy được những lời triệu mời cuối cùng của Chúa thật là xứng hợp với trường hợp của Thánh Giuse: Hãy vào vui hưởng cùng Chủ của ngươi. Thật vậy, mặc dù niềm vui hoan hưởng hạnh phúc trường sinh ở trong linh hồn con người, nhưng Chúa vẫn thích nói cùng Giuse rằng: Hãy vào vui hưởng. Ý Ngài muốn nói là những lời đó ẩn chứa một ý nghĩa thiêng liêng bí nhiệm đối với chúng ta. Những lời ấy chẳng những cho chúng ta thấy con người thánh hảo này chiếm được một niềm vui nội tâm, mà còn là một niềm vui bao quanh thánh nhân và phủ ngợp thánh nhân nữa, như một vực thẳm khôn cùng.
Lạy Thánh Giuse, xin hãy nhớ đến chúng tôi, và xin hãy cầu cùng dưỡng tử của mình cho chúng tôi. Ngài hãy xin vị hiền thê rất thánh của mình là Trinh Nữ Maria đoái thương nhìn đến chúng tôi, vì Người là mẹ của Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Amen.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 1368-1369)
Lời Nguyện Kinh Phụng Vụ Lễ Trọng Kính Thánh Giuse:
Lạy Chúa, Chúa đã trao phó Đức Giêsu cho Thánh Cả Giuse, và Thánh nhân đã trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ. Xin nhận lời Thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho Giáo Hội biết luôn luôn cộng tác với Đức Giêsu, để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
(bản dịch của nhóm phiên dịch phụng vụ giờ kinh)
Năm nào không bị Lễ Thánh Giuse át đi thì Phụng Vụ Lời Chúa theo ngày trong tuần như sau:
Bài Ðọc I: 2 V 5, 1-15a
"Có nhiều người phong cùi trong Israel, nhưng không có một người nào trong
bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Naaman, tướng đạo binh của vua xứ Syria, là người có uy
thế đối với vua và được tôn trọng, vì Chúa đã dùng ông mà cứu dân Syria; ông
còn là người hùng mạnh và giàu có, nhưng lại mắc bịnh phong cùi. Lúc bấy giờ
một vài toán dân Syria bắt một thiếu nữ ở đất Israel dẫn về để hầu hạ bà
Naaman. Cô ta nói với bà chủ: "Chớ chi ông chủ tôi đến gặp vị tiên tri ở
Samaria, chắc chắn vị tiên tri ấy sẽ chữa ông khỏi phong cùi". Naaman đến
tâu vua rằng: "Cô nhỏ xứ Israel đã nói thế này thế này". Vua xứ Syria liền
nói: "Khanh hãy đi, trẫm sẽ gởi cho vua Israel một bức thơ". Naaman ra đi,
mang theo mười lạng bạc, sáu ngàn nén vàng và mười bộ áo. Ông trao cho vua
Israel bức thơ nội dung như sau: "Khi bức thơ này đến tay nhà vua, nhà vua
biết tôi sai Naaman, tôi tớ tôi, đến với nhà vua, để xin nhà vua chữa ông
khỏi phong cùi".
Sau khi đọc bức thơ, vua Israel liền xé áo và nói: "Ta có phải là Chúa, có
thể giết chết và cho sống hay sao mà vua ấy gởi người đến xin ta chữa lành
phong cùi? Các ngươi thấy không, vua ấy tìm cớ hại Ta đó". Khi Êlisêô, người
của Thiên Chúa, nghe tin vua Israel đã xé áo mình, nên sai người đến tâu vua
rằng: "Tại sao nhà vua lại xé áo? Ông ấy cứ đến với tôi thì sẽ biết trong
Israel có một vị tiên tri".
Naaman lên xe ngựa đi, và dừng lại trước cửa nhà Êlisêô. Tiên tri nói với
Naaman rằng: "Ông hãy đi tắm bảy lần ở sông Giođan, thì da thịt ông sẽ được
lành sạch". Naaman nổi giận bỏ đi nói rằng: "Tôi tưởng ông ấy ra đón tôi và
đứng trước tôi kêu cầu danh Chúa là Thiên Chúa của ông, rồi đặt tay lên chỗ
phong cùi của tôi và chữa tôi lành mạnh. Các con sông Abana và Pharphar ở
Ðamas không sạch hơn các con sông ở Israel để tôi tắm và được lành sạch hay
sao?" Ông trở về lòng đầy tức giận.
Các đầy tớ của ông đến nói với ông rằng: "Thưa cha, vị tiên tri có yêu cầu
cha làm một việc lớn lao thì cha cũng phải làm. Phương chi bây giờ người bảo
cha: "Hãy đi tắm, thì được sạch". Naaman xuống tắm bảy lần ở sông Gio-đan
như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như
da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch.
Sau đó ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ðến nơi, ông
đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: "Thật tôi biết không có Thiên
Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 41, 2. 3, và Tv 42, 3. 4
Ðáp: Hồn
con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt
Chúa Trời? (x. Tv 41, 3)
Xướng: 1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời
ôi! - Ðáp.
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra
mắt Chúa Trời? - Ðáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng
dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được
hoan hỉ, mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên
Chúa của con. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 129, 5 và 7
Con trông cậy Chúa, con mong đợi lời hứa của Chúa, vì nơi Chúa sẵn có lòng
từ bi và chan chứa ơn cứu độ.
Phúc Âm: Lc 4, 24-30
"Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà
thôi đâu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội
đường rằng): "Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được
tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia
có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành
khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người
nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn
thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng
không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người
Syria".
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy
Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô
Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
vì họ "nghèo khổ" về đức tin,
bị giam cầm" bởi cứng lòng,
"mù lòa" bởi thành kiến,
và "ngục tù"
trong tội lỗi
Hành
trình Mùa
Chay 40 ngày tiếp
tục và đã
tiến vào
tuần lễ Thứ Ba, và hôm nay là Thứ Hai trong Tuần Ba Mùa Chay này, chủ đề
"Tôi tự bỏ mạng sống của mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) cho
chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, vẫn
phản ảnh qua ý nghĩa của chung phụng vụ lời Chúa hôm nay, nhất là Bài
Phúc Âm.
Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, hình như chúng ta chỉ thấy được nửa phần đầu của chủ đề Mùa Chay là "Ta tự ý bỏ sự sống của mình đi", chẳng thấy đâu là "để rồi lấy nó lại". Bởi vì, Thánh ký Luca trình thuật lại trong Bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày hôm nay là sự kiện "mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực".
Tại sao "mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ" đến độ muốn sát hại Người, bằng cách "xô Người xuống vực" như thế? Phải chăng vì họ đã bị Chúa Giêsu ngấm ngầm chê là thiếu đức tin, ở chỗ không chịu tin vào Người, một con người rất tầm thường đã từng sống trong khu làng của họ và với họ trước kia, giờ đây đã dám cho mình như hai vị đại tiên tri Thời Cựu Ước là Elia và Elise nữa, như lời Người đã nói với họ và về họ khi họ đặt vấn đề về sự khôn ngoan và quyền năng khác thường của Người:
"Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria".
Hai trường hợp được Chúa Giêsu dẫn chứng trên đây cho thấy cả hai nạn nhân được chữa lành đều là thành phần dân ngoại nhưng lại tin vào các vị tiên tri của dân Do Thái và nhờ đó họ đã có được một cảm nghiệm thần linh về Vị Thiên Chúa của dân Do Thái, Đấng hằng ở cùng dân tộc được tuyển chọn này và tỏ mình ra cho dân Do Thái dọc suốt giòng lịch sử cứu độ của họ.
Bài Đọc 1 hôm nay chỉ liên quan đến trường hợp thứ hai: "có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria". Sách Các Vua Quyền Thứ 2 đã cho biết là viên quan bị phong cùi này, vì muốn khỏi bệnh nên tin người tớ gái Do Thái, và đã tìm sang đất Do Thái.
"Trong những ngày ấy, Naaman, tướng đạo binh của vua xứ Syria, là người có uy thế đối với vua và được tôn trọng, vì Chúa đã dùng ông mà cứu dân Syria; ông còn là người hùng mạnh và giàu có, nhưng lại mắc bịnh phong cùi. Lúc bấy giờ một vài toán dân Syria bắt một thiếu nữ ở đất Israel dẫn về để hầu hạ bà Naaman. Cô ta nói với bà chủ: 'Chớ chi ông chủ tôi đến gặp vị tiên tri ở Samaria, chắc chắn vị tiên tri ấy sẽ chữa ông khỏi phong cùi'. Naaman đến tâu vua rằng: 'Cô nhỏ xứ Israel đã nói thế này thế này'. Vua xứ Syria liền nói: 'Khanh hãy đi, trẫm sẽ gởi cho vua Israel một bức thơ'. Naaman ra đi, mang theo mười lạng bạc, sáu ngàn nén vàng và mười bộ áo".
Nhưng sau khi đến gặp Tiên Tri Êlise, ông đã hoàn toàn thất vọng đến độ tức giận bất mãn bỏ đi, vì ông thấy ông là một vị quan có thế giá với nhà vua Syria mà bấy giờ lại bị một vị tiên tri Do Thái coi thường, chẳng những không thèm ra mặt tiếp ông, lại còn truyền ông phải làm một việc quá ư là tầm thường, ai làm cũng được và làm ở đâu cũng được, chứ không xuất hiện để trực tiếp chữa lành cho ông một cách uy nghi trang trọng giống như ở trong các nghi thức có tính cách cung đình:
"Naaman lên xe ngựa đi, và dừng lại trước cửa nhà Êlisêô. Tiên tri nói với Naaman rằng: 'Ông hãy đi tắm bảy lần ở sông Giođan, thì da thịt ông sẽ được lành sạch'. Naaman nổi giận bỏ đi nói rằng: 'Tôi tưởng ông ấy ra đón tôi và đứng trước tôi kêu cầu danh Chúa là Thiên Chúa của ông, rồi đặt tay lên chỗ phong cùi của tôi và chữa tôi lành mạnh. Các con sông Abana và Pharphar ở Ðamas không sạch hơn các con sông ở Israel để tôi tắm và được lành sạch hay sao?' Ông trở về lòng đầy tức giận".
Đến đây chúng ta mới thấy đâu là biên giới giữa tự nhiên và siêu nhiên, giữa người sống theo tự nhiên và người sống theo đức tin cũng như sống bằng đức tin. Đức tin nơi viên quan Naaman người Syria bị phong cùi này là ở chỗ thắng vượt bản tính tự nhiên và khuynh hướng tự nhiên của ông, để làm theo những gì vượt lên trên sự khôn ngoan và hiểu biết hạn hẹp của ông, nhất lạ biết hạ mình xuống lắng nghe sự thật, dù sự thật đó xuất phát từ thành phần tôi tớ tầm thường của ông:
"Các đầy tớ của ông đến nói với ông rằng: 'Thưa cha, vị tiên tri có yêu cầu cha làm một việc lớn lao thì cha cũng phải làm. Phương chi bây giờ người bảo cha: 'Hãy đi tắm, thì được sạch'. Naaman xuống tắm bảy lần ở sông Gio-đan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch".
Chỉ có đức tin mới làm được những gì bản tính tự nhiên và khả năng trần thế của con người không thể nào làm được, dù họ có chức vị, khôn ngoan và quyền lực đến đâu chăng nữa, như bản thân của viên quan Naaman người Syria trong Bài đọc 1 hôm nay. Và cũng chỉ có đức tin mới làm cho con người cảm thấy được thực tại thần linh siêu việt ở bên trên họ nhưng lại ở ngay cõi lòng họ và trong cuộc sống của họ, như đã xẩy ra cho viên quan người Syria bị phong cùi được chữa lành:
"Sau đó ông và đoàn tùy tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ðến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: 'Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel'".
Cho dù Chúa Giêsu trong trình thuật của Bài Phúc Âm hôm nay có vẻ không được thành công như Tiên Tri Elisa trong Bài Đọc 1, nhưng Người, Đấng bị dân làng Nazarét của Người muốn sát hại Người, vẫn có thể tỏ mình ra cho thành phần không tin Người biết rằng:
1- Chính vì họ không tin mà họ không thấy phép lạ Người làm ở nơi họ và giữa họ như họ đã từng nghe thấy Người làm ở các nơi khác, nhất là ở Carphanaum;
2- Cho dù họ có muốn sát hại Người mà cũng không được như ý muốn, bởi "Người tiến qua giữa họ mà đi", cho họ thấy rằng Ngưòi quả là Đấng quyền năng, là Đấng được Tiên Tri Isaia nói đến như chính Người đã minh định với họ.
Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã "lấy lại sự sống" của mình khi Người bị dân chúng sát hại, không phải chỉ ở chỗ "Người tiến qua giữa họ mà đi", ở chỗ họ không làm gì được Người, mà chính là ở chỗ Người tỏ mình ta cho họ thấy được những gì Tiên Tri Isaia nói về Người đã thực sự được ứng nghiệm, ứng nghiệm nơi chính đám dân chúng muốn sát hại Người, vì đám dân làng Nazarét bấy giờ quả thực tiêu biểu cho các thành phần được Thiên Chúa gửi Vị Thiên Sai được xức dầu Thần Linh và đầy Thần Linh là Chúa Kitô đến cho họ, vì họ "nghèo khổ" về đức tin, "bị giam cầm" bởi cứng lòng, "mù lòa" bởi thành kiến, và "ngục tù" trong tội lỗi (xem Luca 4:18).
Nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét bị dân làng Nazarét trong Bài Phúc Âm hôm nay mưu toan sát hại Người, nhưng không làm gì được Người, trái lại, chính họ lại trở thành chứng cớ hiển nhiên về vai trò Thiên Sai của Chúa Kitô, Đấng được Thiên Chúa tiên báo qua Tiên Tri Isaia, một Vị Thiên Sai nơi các thành phần cần được Người "loan báo cho Năm Hồng Ân của Chúa" (Luca 4:19), và chính vì thế mà ai nhận ra Người bằng đức tin sẽ có được một cảm nghiệm thần linh như thánh vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi!
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời?
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ, mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con.
Thứ Ba
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ðn 3, 25. 34-43
"Với tâm thần sám hối và tinh thần khiêm tốn, chúng tôi được chấp nhận".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, Adaria đứng giữa lửa mở miệng cầu nguyện rằng: "Vì danh
Chúa, xin đừng bỏ con mãi mãi cho quân thù, và xin đừng huỷ bỏ lời giao ước
của Chúa. Xin chớ cất lòng từ bi Chúa khỏi chúng con. Vì Abraham kẻ Chúa
yêu, Isaac tôi tớ Chúa, và Israel người lành thánh của Chúa, những kẻ Chúa
đã hứa cho sinh con cháu ra nhiều như sao trên trời và như cát bãi biển. Vì
lạy Chúa, chúng con đã trở nên yếu hèn hơn mọi dân tộc và hôm nay, vì tội
lỗi chúng con, chúng con bị nhục nhã ở mọi nơi. Hiện giờ không còn vua chúa,
thủ lãnh, tiên tri, không còn của lễ toàn thiêu, lễ hiến tế, lễ vật, nhũ
hương và nơi để dâng lên Chúa của đầu mùa để được Chúa thương. Nhưng với tâm
hồn sám hối và với tinh thần khiêm tốn, chúng con xin Chúa chấp nhận; chúng
con như những con dê, bò rừng và những chiên béo được dâng lên Chúa làm của
lễ toàn thiêu, xin cho của hiến tế chúng con dâng trước tôn nhan Chúa hôm
nay, được đẹp lòng Chúa, vì những ai tin tưởng nơi Chúa không phải hổ thẹn.
Và bây giờ chúng con hết lòng theo Chúa, kính sợ Chúa và tìm kiếm tôn nhan
Chúa. Xin đừng để chúng con phải hổ thẹn, nhưng xin hãy đối xử với chúng con
theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa. Lạy Chúa, xin làm những
việc lạ lùng mà cứu thoát chúng con, và xin cho thánh danh Chúa được vinh
quang".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9
Ðáp: Lạy
Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài (c. 6a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về
lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa
là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn
đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu
của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.
3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường
lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm
cung đường lối của Ngài. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4, 4b
Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa
phán ra.
Phúc Âm: Mt 18, 21-35
"Nếu mỗi người trong chúng con không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng
không tha thứ cho chúng con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm
đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?" Chúa
Giêsu đáp: "Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần
bảy. Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ
với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn
nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả
tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van
lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất
cả". Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y. Khi ra về, tên
đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói
rằng: "Hãy trả nợ cho ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn
rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh". Y
không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các
bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả
câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã
tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không
chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý
hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các
con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh
em mình".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Những ai không biết tha thứ cho anh chị em mình, sống hẹp hòi, luôn có những thái độ chấp nhất ...
là những người chưa thực sự cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa
Mùa Chay hôm nay ở vào ngày Thứ Ba của Tuần Thứ Ba, ngày được bao trùm bởi bầu khí của lòng thương xót Chúa như được cảm nghiệm thấy ở phụng vụ lời Chúa trong ngày, một lòng thương xót Chúa được tỏ hiện rõ ràng nhất và tối hậu nhất nơi việc khoan dung độ lượng tha thứ của Thiên Chúa đối với loài người tội lỗi.
Đúng thế, Bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thường cho rằng "tên đầy tớ độc ác" trong dụ ngôn Chúa dạy về sự tha thứ đóng vai chính, một dụ ngôn Chúa muốn dùng để trả lời cho vấn nạn được tông đồ Phêrô đặt ra hỏi Người: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?"
Nhưng thật ra, căn cứ vào chung phụng vụ lời Chúa hôm nay, và riêng Bài Phúc Âm, chúng ta mới khám phá thấy rằng lòng thương xót Chúa là điểm then chốt được Giáo Hội muốn nhấn mạnh đến hôm nay khi Giáo Hội chọn đọc Bài Phúc Âm này cùng với Bài Đọc 1 cho cùng ngày.
Trước hết, chúng ta thấy dụ ngôn Chúa Giêsu sử dụng để trả lời cho câu hỏi phải tha thứ cho anh chị em mình bao nhiêu lần trong Bài Phúc Âm hôm nay, về bố cục, có hai phần rõ ràng: phần đầu về "người đầy tớ độc ác" bày tôi được vị vương chủ của hắn rộng lượng tha thứ, và phần sau về "người đầy tớ độc ác" này không chịu tha thứ cho con nợ của mình như chính bản thân đã được vị vương chủ tha nợ cho.
Thế nhưng, về nội dung, ý nghĩa chính yếu của dụ ngôn về tha thứ trong bài Phúc Âm này là ở chỗ "các con hãy thương xót như Cha là Đấng thương xót" (Luca 6:36), đúng như lời Chúa Giêsu khuyên các môn đệ của Người để kết luận bài Phúc Âm hôm nay: "Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".
Nghĩa là, chúng ta được Thiên Chúa là Cha tha thứ thế nào chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau như vậy, tha một cách bao dung, quảng đại, liên lỉ, không bao giờ cùng, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định và muốn các tông đồ môn đệ của người thi hành: "Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".
Việc tha thứ cho nhau một cách quảng đại bao dung và liên tục bất tận như Cha trên trời như thế đã được Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn về sự tha thứ của vị vương chủ "động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y", một con nợ bầy tôi đã "mắc nợ" vua "mười ngàn nén bạc", nhưng "không có gì trả", có nghĩa là không thể nào trả nổi, bởi thế cho "nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ", nghĩa là tất cả những gì quí báu nhất con nợ có được, liên quan đến chính bản thân hắn cùng gia đình hắn và gia tài của hắn, để bù đắp phần nào món nợ hắn không thể trả thôi.
Chúng ta nên chú ý một chi tiết về lòng bao dung quảng đại đến vô lý của lòng thương xót Chúa trong dụ ngôn này, đó là trong khi người bầy tôi "sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: 'Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả'", thì cho dù người con nợ bầy tôi này không xin tha nợ, mà chỉ xin khất nợ và hứa sẽ trả sau, không biết cho tới bao giờ mới trả hết, ấy vậy mà vị vương chủ lại "động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y" mới là chuyện kỳ cục chứ, mới hay chứ.
Ấy thế mà, khi đã được hoàn toàn "trả tự do", không còn nợ nần gì với vị vương chủ của mình nữa, không còn sợ bị đòi nợ nữa, không còn phải lo lắng làm sao để trả nợ đầy đủ và đúng hẹn nữa, thì "người đầy tớ độc ác" này lại đối xử với một con nợ của hắn hoàn toàn ngược lại với những gì hắn đã được đối xử. Ở chỗ, hắn là bầy tôi được vương chủ cao cả tha hết nợ, trong khi người bạn của hắn, ngang hàng với hắn, hắn lại muốn làm vua của người bạn hắn.
Thật vậy, theo dụ ngôn của Chúa, "một người bạn" của hắn chỉ nợ hắn một chút xíu thôi, "một trăm bạc", vì vai vế bạn bè ngang hàng với nhau, chỉ là tạo vật như nhau, không nhiều như món nợ khổng lồ hắn không thể trả, vì hắn đóng vai bầy tôi với chủ nợ là vương đế cao cả, nhưng đã được chủ nợ cao cả này hoàn toàn tha bổng, "mười ngàn nén bạc", thế mà, dù con nợ của hắn đã van xin hắn khất nợ như hắn đã làm: "Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: 'Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh'", nhưng hắn đã đối xử với con nợ của hắn hoàn toàn trái ngược lại với vị vương chủ của hắn đã đối xử với hắn: "Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong".
Dụ ngôn trong Bài Phúc Âm hôm nay về lòng "thương xót như Cha là Đấng thương xót" ở chỗ chúng ta đã được Thiên Chúa tha thứ thế nào, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau như vậy. Nghĩa là Lòng Thương Xót Chúa không phải chỉ là một đặc ân cho riêng một ai xứng đáng, mà là cho tất cả mọi người, cần phải truyền đạt và loan truyền qua những ai đã nhận lãnh đặc ân này, qua những ai đã được thương xót.
Những ai không biết tha thứ cho anh chị em mình: "xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con", sống hẹp hòi, luôn có những thái độ chấp nhất với những người anh chị em ngang hàng với họ xúc phạm đến họ, là những người chưa thực sự cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa là Đấng vô cùng cao cả bị họ xúc phạm đến, chưa hiểu được lòng thương xót Chúa là gì, hay thậm chí lợi dụng lòng thương xót Chúa, bóp méo lòng thương xót Chúa, giam nhốt lòng thương xót Chúa và hủy hoại lòng thương xót Chúa nơi bản thân mình, và vì thế, họ đã bị tẩu hỏa nhập ma, vì chính lòng thương xót Chúa từ một hồng ân đã biến thành tai họa cho họ, biến thành một "tên lý hình" như phần kết luận của dụ ngôn cho thấy:
"Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: 'Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?' Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ".
Phải, mang thân phận là tội nhân, không một con người tạo vật nào không cần đến lòng thương xót Chúa, nhất là thành phần được hưởng lòng thương xót Chúa mà không sống lòng thương xót Chúa, đến độ bị chính lòng thương xót Chúa hành hạ cho đến khi họ biết sống lòng thương xót Chúa: "cho đến khi trả hết nợ".
Là một tội nhân được Thiên Chúa tha thứ mà không biết thứ tha cho những ai phạm đến mình thì chẳng khác gì người con cả đối xứ với đứa em hoang đàng của mình trong dụ ngôn người cha nhân hậu với hai đứa con đáng thương (xem Gioan đoạn 15), hay như thành phần đòi ném đá người đàn bà ngoại tình như thể mình không có tội gì (xem Gioan đoạn 8).
Là một tội nhân, mỗi khi xưng tội là chúng ta chỉ thực hiện cử chỉ "khất nợ" hơn là trả nợ, vì cho dù được LTXC qua vị linh mục giải tội chúng ta được tha tội nhưng rồi chúng ta lại tái phạm cùng tội vừa xưng thì quả thực việc xưng tội của chúng ta chỉ mang tính cách khất nợ... cho tới chết. Tuy nhiên, Kitô hữu nào sống trên đời mà không hề đoán xét ai, hay không bao giờ chấp nhất bất cứ một ai phạm đến mình, thì khi qua đời, Thiên Chúa sẽ chẳng phán xét họ hay chấp tội họ, cân xứng với cái đấu họ đong cho tha nhân khi còn sống, nghĩa là họ như được hưởng ơn toàn xá, được vào thẳng Thiên Đàng, không cần qua luyện ngục vậy.
Lòng thương xót Chúa quả thực là một hồng ân đối với loài người tội nhân, ở chỗ, Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho tội nhân không phải vì họ mà là vì chính Ngài - nếu vì họ thì họ chỉ đáng phạt, xứng với tội lỗi của họ. Nhưng cho dù họ tội lỗi bất xứng với Ngài và đáng bị phạt như thế chăng nữa, Ngài vẫn thương xót họ và tha thứ cho họ bởi Ngài chính là tình yêu vô cùng nhân hậu.
Đó là lý do, trong Bài Đọc 1 hôm nay, khi cầu xin cho dân tộc của mình đang trải qua hoạn nạn khốn khổ: "chúng con đã trở nên yếu hèn hơn mọi dân tộc và hôm nay, vì tội lỗi chúng con, chúng con bị nhục nhã ở mọi nơi...", Adaria đã nại đến chính Thiên Chúa cho thân phận dân tộc của mình: "Vì danh Chúa, xin đừng bỏ con mãi mãi cho quân thù, và xin đừng hủy bỏ lời giao ước của Chúa. Xin chớ cất lòng từ bi Chúa khỏi chúng con".
Chẳng những thế, Adaria còn xin lòng thương xót Chúa tỏ mình ra nơi thân phận đáng phạt của họ để cho lòng thương xót Chúa được sáng tỏ hơn nữa, đúng như dự án và đường lối tỏ mình ta tối đa hết cỡ của lòng thương xót Chúa: "Bây giờ chúng con hết lòng theo Chúa, kính sợ Chúa và tìm kiếm tôn nhan Chúa. Xin đừng để chúng con phải hổ thẹn, nhưng xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa. Lạy Chúa, xin làm những việc lạ lùng mà cứu thoát chúng con, và xin cho thánh danh Chúa được vinh quang".
Bài Đáp Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh ý nghĩa và chiều hướng của chung phụng vụ Lời Chúa trong ngày, cách riêng với Bài Đọc 1 cùng ngày về lòng thương xót Chúa, vị "Thiên Chúa cứu độ", vị Thiên Chúa thương xót nhân loại tội lỗi khốn khổ bởi chính mình Ngài là Đấng "nhân hậu và công minh", chỉ biết đối xử với loài người tạo vật thấp hèn đầy những yếu đuối của họ bằng "lòng thương xót tự muôn đời vẫn có":
1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước
của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên
Chúa cứu độ con.
2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự
muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân
hậu của Ngài, thân lạy Chúa.
3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.
Thứ Tư
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ðnl 4, 1. 5-9
"Các ngươi hãy tuân giữ các giới răn và đem thực hành bằng việc làm".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môi-sen nói với dân chúng rằng: "Hỡi Israel, giờ đây hãy nghe các lề luật và
huấn lệnh mà tôi dạy bảo các ngươi phải thực hành, để được sống và được vào
chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các
ngươi. Các ngươi nên biết, tôi thừa lệnh Chúa là Thiên Chúa tôi mà truyền
dạy cho các ngươi biết lề luật và huấn lệnh của Chúa, để các ngươi thi hành
các điều ấy trong phần đất mà các ngươi chiếm hữu; các ngươi phải tuân giữ
và thực hành, vì đó là sự khôn ngoan và sáng suốt của các ngươi trước mặt
muôn dân, để khi nghe nói đến tất cả các lề luật ấy, họ nói: "Thật, dân tộc
vĩ đại này là một dân khôn ngoan và sáng suốt". Không một dân tộc vĩ đại nào
được các thần ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa chúng ta ở bên cạnh
chúng ta khi chúng ta kêu cầu Người. Có dân tộc thời danh nào khác có lễ
nghi, huấn lệnh công chính, và bộ luật như tôi trình bày trước mặt các ngươi
hôm nay không?
"Vậy các ngươi hãy ý tứ và giữ mình. Trong suốt đời các ngươi, đừng quên và
đừng để lòng xao lãng những điều các ngươi đã thấy. Hãy dạy cho con cháu các
ngươi biết các điều ấy".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 15-16. 19-20
Ðáp: Giêrusalem
hỡi, hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. Hãy ngợi khen Thiên Chúa của
ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các chốt cửa thành ngươi; Người đã chúc
phúc cho con cái ngươi trong thành nội. - Ðáp.
2) Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy
rảo. Người khiến tuyết rơi như thể lông cừu, Người gieo rắc sương đông như
tro bụi trắng. - Ðáp.
3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh
Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không
công bố cho họ các huấn lệnh của Người. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Xh 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối
và được sống".
Phúc Âm: Mt 5, 17-19
"Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Ta đến để
huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn.
Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy
trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai
huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như
vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người
ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
"Các
con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ
lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ,
nhưng để kiện toàn", liên
quan đến chính bản thân của Người, đến mầu nhiệm Vượt Qua
Hôm nay là Thứ Tư của Tuần Thứ Ba Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày này nhấn mạnh đến việc tuân giữ lề luật Chúa, đúng như hai câu tiêu biểu ở trên đầu của Bài Đọc 1 cũng như của Bài Phúc Âm cho thấy: "Các ngươi hãy tuân giữ các giới răn và đem thực hành bằng việc làm" (Bài Đọc 1) và "Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời" (Bài Phúc Âm).
Ở Bài Phúc Âm, chính Chúa Giêsu đã chẳng những đề cao tính chất bất khả thay đổi của lề luật mà còn đến việc trung thành với lề luật, bao gồm cả việc tuân giữ lề luật cũng như giảng dạy lề luật, kèm theo tác dụng tích cực hay tiêu cực trong việc tuân giữ lề luật và giảng dạy lề luật như thế nào nữa:
"Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai hủy bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là nếu lề luật quan trọng như vậy và bất khả di dịch như thế thì tại sao Chúa Giêsu lại phán một câu, cũng ngay trong Bài Phúc Âm hôm nay, như thể lề luật vẫn là những gì chưa trọn hảo, cần phải được hoàn hảo hóa bởi Người nữa: "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn".
Trong câu khẳng định này của Chúa Giêsu chúng ta thấy chất chứa một mối liên hệ giữa lề luật và bản thân Chúa Giêsu, Đấng mà "khi thời điểm viên trọn, đã được sinh hạ bởi một người nữ, được hạ sinh theo lề luật để cứu những ai lệ thuộc lề luật khỏi lề luật hầu chúng ta lãnh nhận thân phận làm dưỡng tử" (Galata 4:4).
Quả thực, đúng như Chúa Giêsu đã minh định "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri". Người không hủy bỏ những gì Cha Người đã sử dụng để hướng dẫn dân Do Thái trong lịch sử cứu độ của họ, nhờ đó, dân tộc như là sản nghiệp của Thiên Chúa trên trần gian này mới thực sự tỏ ra là một dân tộc nổi bật nhất trong các dân tộc trên thế gian này, vì họ là dân của Chúa, chẳng khác gì ngọn hải đăng đối với các dân tộc khác được gọi chung là dân ngoại, không phải dân Do Thái.
Vị trung gian môi giới Moisen của họ đã bày tỏ cho họ thấy cảm nhận cái diễm phúc được Thiên Chúa hướng dẫn bằng các lề luật siêu việt của Ngài ấy trong Bài Đọc 1 như sau:
"Các ngươi phải tuân giữ và thực hành, vì đó là sự khôn ngoan và sáng suốt của các ngươi trước mặt muôn dân, để khi nghe nói đến tất cả các lề luật ấy, họ nói: 'Thật, dân tộc vĩ đại này là một dân khôn ngoan và sáng suốt'. Không một dân tộc vĩ đại nào được các thần ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa chúng ta ở bên cạnh chúng ta khi chúng ta kêu cầu Người. Có dân tộc thời danh nào khác có lễ nghi, huấn lệnh công chính, và bộ luật như tôi trình bày trước mặt các ngươi hôm nay không?"
Và cũng chính vì lề luật được Thiên Chúa thương yêu truyền dạy cho họ như thế để họ xứng đáng với ơn gọi chuyên biệt của họ giữa tất cả mọi dân tộc cũng như với thân phận ưu tuyển của mình như là sản nghiệp của Thiên Chúa trên thế gian này, hơn tất cả mọi dân tộc khác, mà họ phải trung thành tuân giữ lề luật của Ngài cũng như truyền dạy lề luật của Ngài cho nhau nữa:
"Hỡi Israel, giờ đây hãy nghe các lề luật và huấn lệnh mà tôi dạy bảo các ngươi phải thực hành, để được sống và được vào chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các ngươi. Các ngươi nên biết, tôi thừa lệnh Chúa là Thiên Chúa tôi mà truyền dạy cho các ngươi biết lề luật và huấn lệnh của Chúa, để các ngươi thi hành các điều ấy trong phần đất mà các ngươi chiếm hữu... Vậy các ngươi hãy ý tứ và giữ mình. Trong suốt đời các ngươi, đừng quên và đừng để lòng xao lãng những điều các ngươi đã thấy. Hãy dạy cho con cháu các ngươi biết các điều ấy".
Chính dân Do Thái, qua thánh vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay, cũng đã cảm thấy đúng như vậy, khi vang lên những ý thức thần linh về lời thần linh của Thiên Chúa là chính cốt lõi của lề luật cho họ và làm nên lề luật của họ như sau:
1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các chốt cửa thành ngươi; Người đã chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội.
2) Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. Người khiến tuyết rơi như thể lông cừu, Người gieo rắc sương đông như tro bụi trắng.
3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người.
Thật ra, lời Chúa Giêsu tuyên bố trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn", liên quan đến chính bản thân của Người, đến mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm cứu độ tất cả loài người, chứ không riêng gì dân Do Thái, đúng như ý định cứu độ của Thiên Chúa ngay từ ban đầu sau nguyên tội xẩy ra cho chung loài người (xem Khởi Nguyên 3:15).
Đúng thế, chính Chúa Giêsu sau khi sống lại từ trong kẻ chết Người để chiến thắng tội lỗi và sự chết nơi bản tính đã bị băng hoại từ nguyên tội và bởi nguyên tội, đã chứng tỏ rằng Người đã "kiện toàn", chứ không "hủy bỏ", "lề luật và các tiên tri", hay nói cách khác, tất cả những gì đã được viết ra hay đề cập đến trong lề luật và bởi các vị tiên tri đều đã được trọn vẹn ứng nghiệm nơi Người, như chính Người đã sử dụng đến chính "lề luật và các tiên tri" để chứng thực rằng Người đã sống lại, và vì thế Người là "Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16).
Lần thứ nhất Người đã chứng thực với hai môn đệ đi Emmau (Luca 24: 25-27):
"Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: 'Các anh chẳng hiểu gì cả ! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh".
Lần thứ hai Người đã chứng thực với 11 tông đồ ngay trong cùng tối của ngày thứ nhất trong tuần đó (Luca 24: 44-46):
"Rồi Người
bảo: 'Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách
Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và
các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm'. Bấy giờ Người mở
trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: 'Có lời Kinh Thánh chép rằng:
Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại...'".
Trong Biến Cố Biến Hình, được Giáo Hội chọn đọc từ các bài Phúc Âm của bộ Phúc Âm Nhất Lãm, bao giờ cũng cho Chúa Nhật II Mùa Chay, như chu kỳ phụng niên Năm C, Thánh ký Luca cho biết: "Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem", đã cho thấy rõ lời tính chất xác thực của lời Chúa Giêsu tuyên bố trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn" bằng cuộc Vượt Qua của Người.
Như thế, Chúa Giêsu quả thực đã tự mình ứng nghiệm những gì được cho là chủ đề của chung Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh liên quan đến Cuộc Vượt Qua của Người: "Tôi tự ý bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17).
Thứ Năm
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Gr 7, 23-28
"Này là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của họ".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ðây Chúa phán: Ta truyền cho họ lời này: Các ngươi hãy nghe lời Ta, thì Ta
sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân Ta. Các ngươi hãy đi
trong mọi đường lối mà Ta truyền dạy cho các ngươi, để các ngươi được hạnh
phúc.
Nhưng họ không nghe, họ không chịu lắng tai, họ vẫn chạy theo ý định và lòng
xấu xa của họ, họ đã ngoảnh mặt đi chứ không nhìn Ta. Từ ngày cha ông họ ra
khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay, ngay từ sáng sớm, Ta lần lượt sai các tiên
tri tôi tớ của Ta đến với họ, nhưng họ không nghe Ta, không chịu lắng tai
nghe. Họ tỏ ra cứng đầu cứng cổ, và còn sống tệ hơn cha ông họ! Ngươi có nói
cho họ biết tất cả các điều ấy, thì họ sẽ không nghe ngươi đâu; Vậy ngươi
hãy nói cho họ biết: Này là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của
họ, không chấp nhận kỷ luật, lòng trung tín đã mất và miệng họ không còn
nhắc đến nữa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9
Ðáp: Ước
chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Các bạn đừng cứng lòng (c. 8).
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ
của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi; chúng ta hãy xướng ca để
hoan hô Người. - Ðáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy; hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng
tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn
dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba,
như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách
Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2
Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.
Phúc Âm: Lc 11, 14-23
"Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được
và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói rằng: "Ông ta
nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin
Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán:
"Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên
nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi
các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ
quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ
xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là
nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải
người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn,
thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước
đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là
phân tán".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự kiện Chúa Giêsu trừ quỉ tiên báo vương quốc của ma quỉ đã đến lúc bị hủy diệt, và con người được giải thoát khỏi quyền lực thống trị và cầm buộc của chúng mà tự họ không thể nào thoát được.
Ngày Thứ Năm trong Tuần Thứ Ba Mùa Chay hôm nay, phụng vụ lời Chúa được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày này, nội dung của cả Bài Đọc 1 lẫn Bài Phúc Âm đều trở nên như một lời khẳng định rằng chỉ khi nào con người vào qua cửa hẹp và đi theo con đường hẹp mới có thể đạt đến sự sống chân thật và phúc thật, bằng ngược lại sẽ toàn là bất hạnh và diệt vong (xem Mathêu 7:13-14).
Đúng thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca thuật lại những lời Chúa Giêsu, sau khi "trừ một quỷ câm", và "khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được", khiến "dân chúng đều bỡ ngỡ", đã vạch trần những tâm tưởng thiển cận có tính cách xuyên tạc và chụp mũ cho việc Người làm: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ", một việc không ai trên trần gian này có thể làm được ngoại trừ Thiên Chúa hay những ai được Thiên Chúa ở cùng.
Thậm chí việc Người trừ quỉ như thế, một việc không ai là loài người thuần túy có thể làm được vẫn chưa hay lắm, vẫn chưa thể làm cho một số người trong họ tin, đến độ, như Bài Phúc Âm cho thấy, họ còn muốn "xin Người một dấu lạ từ trời xuống", nghĩa là những gì đúng như ý của họ, có tính cách chủ quan như họ nghĩ, thì họ mới tin, còn những gì khác, cho dù là việc của Thiên Chúa đi nữa, cho dù lạ lùng mấy chăng nữa, cho dù họ không thể nào làm được v.v., họ cũng không tin.
Chẳng hạn, việc trừ quỉ, dù họ không làm được nhưng họ vẫn hiểu được nên cũng chẳng đáng tin. Theo kiến thức của họ về việc Chúa Giêsu trừ quỉ đó là vì quỉ nhỏ phải sợ quỉ lớn, mà Chúa Giêsu lấy quyền quỉ lớn mà trừ quỉ con thì tất nhiên phải có công hiệu 100%, đâu có gì là lạ, đâu có gì đáng phục, bởi thế, đối với họ, Người còn cần phải thực hiện thêm "một dấu lạ từ trời xuống" nữa.
Bởi thế, Chúa Giêsu, cho dù bản thân của Người và phẩm vị là Con Thiên Chúa của Người bị xúc phạm một cách trắng trợn và vô cùng trầm trọng như vậy, ở chỗ, Người bị coi như cũng bị quỉ ám, bị chính tướng quỉ ám thì Người mới có thể trừ được quỉ con nơi con người nạn nhân ở đầu bài Phúc Âm hôm nay.
Tuy nhiên, là hiện thân của Cha trên trời là Đấng Thương Xót (xem Luca 6:36), Người vẫn tỏ ra "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), vẫn tỏ ra nhân từ đối với những con người lầm lạc đáng thương, nhưng Người vẫn không thể nào chấp nhận cái sai lầm của họ, nên đã vạch ra cho họ thấy cái mẫu thuẫn nơi lập luận lý lẽ có tính cách ác cảm của họ với Người như sau:
"Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Qua câu minh giải này của mình, Chúa Giêsu cho những ai có ý nghĩ Người "nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ" chẳng những thấy được cái mâu thuẫn sai lầm của họ: "Nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được?", mà còn cho họ thấy trách nhiệm gây ra bởi những gì họ nói: "Chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi", nhất là cho họ biết được thật sự Người đã lấy quyền nào mà trừ quỉ, và chính quyền lực ấy là "một dấu lạ từ trời xuống" đúng như họ mong muốn: "Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Thật vậy, "một dấu lạ từ trời xuống" chứng thực "nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi" đó là việc Thiên Chúa bắt đầu trực tiếp nhúng tay vào công cuộc cứu chuộc loài người cho khỏi quyền lực tối tăm và sự chết do ma quỉ gây ra từ nguyên tội. Bởi vì, "ngón tay Thiên Chúa" đây ám chỉ Thần Linh của Thiên Chúa, như Thánh ký Mathêu ghi lại lời Chúa Giêsu minh định cũng trong cùng một trường hợp này: "Nếu bởi Thần Linh của Thiên Chúa mà Tôi trừ quỉ thì triều đại Thiên Chúa đã đến trên quí vị rồi đó" (12:28).
Câu nói của Chúa Giêsu ở cuối Bài Phúc Âm hôm nay cũng ám chỉ đến chính quyền lực của Thần Linh Thiên Chúa mạnh hơn quyền lực của tướng quỉ Belzebul, chẳng những có thể trừ được cả đám quỉ con mà còn trừ được cả quỉ vương, diệt trừ được cả vương quốc của hỏa ngục, của ngụy thần nữa, thành phần là quyền lực sự dữ và chết chóc đã thống trị loài người từ nguyên tội và đang bị tiêu diệt qua việc trừ quỉ của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét Thiên Sai Cứu Thế:
"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán".
"Nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn" ở đây không phải là ám chỉ đến "Thần Linh của Thiên Chúa" hay sao, vì chỉ có "ngón tay Thiên Chúa" mới có thể "tước hết khí giới hắn tin tưởng (ám chỉ khí giới của ma quỉ là giả dối gian ác, kiêu căng tự ái, hận thù ghen ghét, bất tuân phản loạn v.v.), và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt (những gì đã bị ma quỉ tước đoạt đây ám chỉ chính loài người đã loài trở thành nô lệ của ma quỉ, thuộc về ma quỉ)".
Sự kiện Chúa Giêsu trừ quỉ tiên báo vương quốc của ma quỉ đã đến lúc bị hủy diệt, và con người được giải thoát khỏi quyền lực thống trị và cầm buộc của chúng mà tự họ không thể nào thoát được. Thế nhưng, chỉ có ai muốn được giải cứu, chấp nhận việc giải cứu của Người mới thoát được quyền lực của hỏa ngục mà thôi. Phải chăng đó là ý nghĩa lời Chúa Giêsu kết thúc Bài Phúc Âm hôm nay: "Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán", một lời còn được phản ảnh nơi nội dung của Bài Đọc 1 hôm nay.
Qua miệng lưỡi của Tiên tri Giêrêmia, Thiên Chúa đã kêu gọi dân của Ngài hãy sống "thuận" theo Ngài như Ngài mong muốn để xứng đáng với Ngài là Đấng yêu thương tuyển chọn họ, và nhờ đó họ cũng được và mới được hạnh phúc: "Các ngươi hãy nghe lời Ta, thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân Ta. Các ngươi hãy đi trong mọi đường lối mà Ta truyền dạy cho các ngươi, để các ngươi được hạnh phúc". Thế nhưng, tiếc thay, dân của Ngài vẫn tiếp tục sống "nghịch" với Ngài, như chính Ngài đã nhận định về họ như sau:
"Nhưng họ không nghe, họ không chịu lắng tai, họ vẫn chạy theo ý định và lòng xấu xa của họ, họ đã ngoảnh mặt đi chứ không nhìn Ta. Từ ngày cha ông họ ra khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay, ngay từ sáng sớm, Ta lần lượt sai các tiên tri tôi tớ của Ta đến với họ, nhưng họ không nghe Ta, không chịu lắng tai nghe. Họ tỏ ra cứng đầu cứng cổ, và còn sống tệ hơn cha ông họ! Ngươi có nói cho họ biết tất cả các điều ấy, thì họ sẽ không nghe ngươi đâu; Vậy ngươi hãy nói cho họ biết: Này là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của họ, không chấp nhận kỷ luật, lòng trung tín đã mất và miệng họ không còn nhắc đến nữa".
Đó là lý do trong Bài Đáp Ca hôm nay, thánh vịnh gia đã kêu gọi dân của mình hãy nhận biết Thiên Chúa và nghe lời Ngài chứ đừng cứng lòng trước những mạc khải thần linh cứu độ của Ngài nữa:
1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi; chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy; hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta".
Ngày 23: Thánh Turibiô Mongrôvêjô, giám mục
Thứ Sáu
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Hs 14, 2-10
"Chúng tôi sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay
chúng tôi làm ra".
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Ðây Chúa phán: Hỡi Israel, hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa ngươi, vì ngươi
đã gục ngã trong đường tội ác. Các ngươi hãy mang lấy lời Chúa và trở về với
Chúa; các ngươi hãy thưa rằng: "Xin hãy xoá bỏ mọi tội ác, và nhận điều
lành. Chúng tôi dâng lên Chúa của lễ ca tụng. Asurô sẽ không giải thoát
chúng tôi, chúng tôi sẽ không cỡi ngựa và sẽ không còn nói rằng: Thần minh
chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra, vì nơi Chúa, kẻ mồ côi tìm
được sự thương xót".
Ta sẽ chữa sự bất trung của họ và hết lòng yêu thương họ, vì Ta đã nguôi
giận họ. Ta sẽ như sương sa, Israel sẽ mọc lên như bông huệ và đâm rễ như
chân núi Liban. Các nhánh của nó sẽ sum sê, vẻ xinh tươi của nó như cây
ô-liu và hương thơm của nó như hương thơm núi Liban. Thiên hạ sẽ đến ngồi
núp dưới bóng mát của nó, họ sống bằng lúa mì và lớn lên như cây nho. Nó sẽ
được lừng danh như rượu Liban.
Hỡi Ephraim, tượng thần giúp ích gì cho ngươi không? Chính Ta sẽ nhậm lời và
săn sóc ngươi, cho ngươi mọc lên như cây hương nam xinh tươi. Nhờ Ta, ngươi
sẽ sinh hoa kết quả.
Ai là người khôn ngoan hiểu được các việc này, ai là người sáng suốt biết
được các việc đó? Vì chưng đường lối của Chúa là đường ngay thẳng và những
người công chính sẽ đi trên đó, còn các người gian ác sẽ gục ngã trên đó".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 80, 6c-8a. 8bc-9. 10-11ab. 14 và 17
Ðáp: Ta
là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, hãy nghe Ta răn bảo (x. c. 11 và 9a).
Xướng: 1) Tôi đã nghe lời nói mới lạ rằng: Ta đã cứu vai ngươi khỏi mang
gánh nặng, tay ngươi không còn phải mang thúng mủng. Trong cảnh gian truân
ngươi cầu cứu, và Ta giải thoát ngươi. - Ðáp.
2) Ta đáp lời ngươi từ trong áng mây vang ran sấm sét, Ta thử thách ngươi
gần suối nước Mêriba. Hỡi dân tộc Ta, hãy nghe Ta răn bảo, Israel, ước chi
ngươi biết nghe lời Ta! - Ðáp.
3) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác cả, ngươi cũng đừng thờ tự một
chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi
ra khỏi Ai-cập. - Ðáp.
4) Phải chi dân của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối Ta mà ăn
ở: Ta sẽ lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc
đá chảy ra. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm:
Phúc cho những ai thành tâm thiện chí giữ lấy lời Chúa, và nhẫn nại sinh hoa
kết quả.
Phúc Âm: Mc 12, 28b-34
"Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy kính mến Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Marcô.
Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng:
"Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: "Hỡi Israel, hãy nghe đây:
Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa
ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi". Còn đây là
giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". Không
có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó". Luật sĩ thưa Ngài: "Thưa Thầy,
đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài
Người, chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức
mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ
vật hy sinh". Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không
còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì
nữa.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
vì chỉ có một "Thiên Chúa chân thật duy nhất" (Gioan 17:3) mà ý thức thần linh về Ngài trong nội tâm của con người cần phải trở thành một mối liên hệ thần linh với Ngài trong đời sống đức tin của họ
Hôm nay, Thứ Sáu trong Tuần Thứ Ba Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa trong ngày cùng nhắm đến một thực tại thần linh duy nhất cũng là một ơn gọi duy nhất vô cùng quan trọng cho phần rỗi của con người, đó là "Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy kính mến Người" (Bài Phúc Âm), và chính vì thế mà "chúng tôi sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra" (Bài Đọc 1).
Thứ Bảy
Dẫn nhập phụng vụ
Trong 4 Tín Điều Thánh Mẫu về Mẹ Maria, thì có 3 Lễ Trọng Buộc liên quan đến 3 trong 4 tín điều, đó là Lễ Trọng Buộc Mẹ Vô Nhiễm ngày 8/12 hằng năm trong Mùa Vọng là thời điểm khởi đầu phụng niên ám chỉ thời điểm khởi đầu công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô; Lễ Trọng Buộc Mẹ Thiên Chúa ngày 1/1 đầu năm dương lịch, ám chỉ Mẹ đã có trước muôn loại trong dự án cứu độ của Thiên Chúa; Lễ Trọng Buộc Mẹ Mông Triệu 15/8 hằng năm. Còn tín điều Mẹ trọn đời trinh nguyên cả trước, đang và sau sinh con, có thể áp dụng vào Lễ Trọng Mẹ Thai Lời (Mẹ Thụ Thai Lời Nhập Thể trong Biến Cố Truyền Tin) 25/3, nhưng lại là Lễ Trọng không buộc.
Lễ Mẹ Thai Lời không phải chỉ liên quan đến Mẹ Maria mà còn trực tiếp liên quan đến Mầu Nhiệm Nhập Thể, Mầu Nhiệm Ngôi Hiệp (hypostatic union) của hai bản tính nơi Ngôi Vị Thần Linh là Chúa Giêsu Kitô trong cung lòng trinh nguyên của thôn nữ Maria Nazarét bởi quyền phép Thánh Linh. Lễ Trọng Truyền Tin là một cử hành giây phút trời đất giao hòa, thời điểm vĩnh cửu đi vào thời gian và thời gian trở thành vĩnh cửu, thời điểm lịch sử loài người trở thành Lịch Sử Cứu Độ, thời điểm Thiên Chúa vô cùng cao cả làm người để con người tạo vật vô cùng thấp hèn được trở thành Thiên Chúa nơi Lời Nhập Thể, thời điểm loài người tạo vật hữu hình hữu hạn được Thiên Chúa thần linh vô hình vô hạn dựng nên trở thành Mẹ của chính Đấng dựng nên mình.
Vậy chúng ta cùng nhau ôn lại những gì được các thánh nhân chiêm ngưỡng và chia sẻ với chúng ta về Mầu Nhiệm Nhập Thể nơi Biến Cố Truyền Tin Mẹ Thai Lời sau đây:
Maria là một Tân Evà đã tự nguyện tuân
phục Thiên Chúa
|
Nhận định về biến cố Truyền Tin, Công Đồng Chung Vaticanô II đa đặc biệt nhấn mạnh đến giá trị của việc Mẹ Maria đa tỏ ra ưng thuận chấp nhận nhưng lời từ vị sứ giả của Thiên Chúa. Không giống như nhưng gì đa xẩy ra ở các trình thuật Thánh Kinh tương tự, vị thiên thần đa thực sự đợi chờ việc ưng thuận của Mẹ Maria: “Vị Cha của nguồn mạch xót thương muốn việc Nhập Thể phải được mở lối bằng việc ưng thuận về phía của người mẹ tiền định, để, như một người nư đa góp phần vào việc mang lại sự chết thế nào thì một người nư cung phải đóng góp vào sự sống như vậy” (Lumen Gentium, 56).
Hiến chế Lumen Gentium đa nhắc lại sự tương phản giưa tác hành của Evà và tác hành của Mẹ Maria, một tác hành đa được Thánh Irênê diễn tả thế này: “Như nhân vật trước là Evà đa bị nhưng lời của một thiên thần dụ dỗ làm cho bà bỏ Thiên Chúa bằng việc bất tuân phục lời của Ngài thế nào, thì nhân vật sau là Mẹ Maria đa lanh nhận tin mừng từ lời loan báo của một thiên thần một cách cởi mở đối với Thiên Chúa bằng việc tuân phục lời Ngài như vậy; như nhân vật trước bị dụ dỗ đến độ tỏ ra bất tuân phục Thiên Chúa thế nào thì nhân vật sau tỏ ra thâm tín tuân phục Thiên Chúa như vậy, bởi thế, Trinh Nư Maria đa trở nên người bênh chưa cho trinh nư Evà. Và như loài người đa bị chết bởi một trinh nư thế nào thì cung được giải thoát bởi một Vị Nư Trinh như vậy; thế là việc bất phục tùng của một trinh nư đa được cân đối lại bằng việc phục tùng của một Vị Nư Trinh” (Adv. Haer., V, 19, 1).
2-Trong việc nói lên lời “xin vâng” toàn vẹn của mình
đối với dự án thần linh, Mẹ Maria hoàn toàn tự do trước nhan Thiên Chúa.
Đồng thời Mẹ cung cảm thấy bản thân mình có trách nhiệm đối với tương lai
nhân loại, một tương lai có liên hệ đến lời thân thưa của Mẹ.
Thiên Chúa đặt định mệnh của tất cả loài người vào tay của một người nư trẻ
trung. Lời “xin vâng” của Mẹ Maria là căn bản cho việc hoàn tất dự án mà
Thiên Chúa đa yêu thương sửa soạn cho việc cứu độ thế giới.
Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo tóm tắt một cách ngắn gọn và đầy đủ giá trị
quyết liệt của việc Mẹ Maria ưng thuận đối với toàn thể loài người trong dự
án cứu độ thần linh như sau: “Trinh Nư Maria ‘cộng tác vào việc cứu độ loài
người bằng đức tin tự do và bằng đức tuân phục’. Mẹ đa ‘nhân danh tất cả bản
tính loài người’ thưa tiếng xin vâng. Bằng việc tuân phục của mình, Mẹ đa
trở nên một Tân Evà, mẹ của sinh linh” (số 511).
|
3-Bằng việc làm của mình, Mẹ Maria đa nhắc nhở mỗi một người chúng ta về trách nhiệm nghiêm chỉnh trong việc chấp nhận dự án của Thiên Chúa đối với cuộc đời của chúng ta. Trong việc hoàn toàn tuân phục ý định cứu độ của Thiên Chúa, một ý định được bộc lộ qua lời nói của thiên thần, Mẹ đa trở nên một mẫu gương cho nhưng ai Chúa tuyên bố cho biết là có phúc, vì họ “nghe lời Thiên Chúa và tuân giư” (Lk 11:28). Để trả lời cho người đàn bà trong đám đông chúc tụng Mẹ Người có phúc, Chúa Giêsu đa tiết lộ lý do thực sự làm cho Mẹ Maria được diễm phúc, đó là việc Mẹ gắn bó với ý muốn của Thiên Chúa, một nỗi gắn bó khiến Mẹ chấp nhận vai trò Thiên Chúa Thánh Mẫu.
Trong Thông Điệp Redemptoris Mater, Tôi đa cho thấy là vai trò làm mẹ thiêng
liêng mới mẻ được Chúa Giêsu nói tới ấy chẳng qua chỉ liên quan đến một mình
Mẹ mà thôi. Thật vậy, “không phải hay sao, Mẹ Maria là người đầu tiên trong
số ‘nhưng ai nghe lời Thiên Chúa và thực hiện’? Thế nên, niềm hạnh phúc Chúa
Giêsu nói tới khi trả lời cho người đàn bà trong đám đông không thực sự ám
chỉ về Mẹ hay sao?” (số 20). Bởi vậy, theo một ý nghĩa nào đó, Mẹ Maria đa
được công nhận là người môn đệ đầu tiên của Con Mẹ (x cùng nguồn vừa dẫn),
và bằng mẫu gương của mình, Mẹ mời gọi tất cả mọi tín hưu hay quảng đại đáp
lại ơn Chúa.
4-Công Đồng Chung Vaticanô II đã cắt nghĩa việc toàn hiến của Mẹ Maria cho
con người Chúa Kitô cũng như cho công cuộc của Chúa Kitô như thế này: “Như
một nữ tỳ của Chúa Mẹ đã toàn hiến bản thân mình cho con người của Con mình
cũng như cho công cuộc của Con mình, với tư cách phụ giúp Người cũng như
đóng vai trò cùng với Người trong việc phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc, nhờ ân
sủng của Thiên Chúa toàn năng” (Lumen Gentium, 56).
Đối với Mẹ Maria, việc Mẹ hiến thân cho con người của Chúa Giêsu cũng như
cho công việc của Chúa Giêsu nghĩa là việc Mẹ hiệp nhất với Con Mẹ, việc Mẹ
dấn thân nuôi dưỡng Con Mẹ phát triển về phương diện loài người cũng như
việc Mẹ cộng tác với công cuộc cứu độ của Người.
Mẹ Maria thực hiện khía cạnh cuối cùng trong việc hiến thân cho Chúa Giêsu
này với tư cách “phụ giúp Người”, tức với thân phận phụ thuộc, thân phận là
hoa trái của ân sủng. Tuy nhiên, đây là một việc cộng tác thực sự, vì việc
cộng tác này được thực hiện “cùng với Người”, và kể từ biến cố Truyền Tin
việc cộng tác ấy cho thấy Mẹ tích cực tham phần vào công cuộc cứu chuộc.
Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhận định: “Bởi thế, các Nghị Phụ thực sự
thấy Mẹ Maria không phải chỉ được Thiên Chúa sử dụng một cách thụ động, mà
là chủ động cộng tác vào công cuộc cứu độ loài người bằng đức tin và đức
tuân phục. Như Thánh Irênêô nói, vì nhờ vâng phục, Mẹ ‘đã trở nên căn do cứu
độ cho chính bản thân Mẹ cũng như cho toàn thể loài người’ (Adv. Haer. III,
22, 4)” (cùng nguồn vừa dẫn).
Liên kết với việc Chúa Kitô chiến thắng tội lỗi gây ra do nhị vị cha mẹ
nguyên tổ của chúng ta, Mẹ Maria đã xuất hiện như là “mẹ sinh linh” thực sự
(cùng nguồn vừa dẫn). Tự nguyện tỏ ra vâng phục chấp nhận dự án thần linh,
vai trò mẫu thân của Mẹ đã trở nên nguồn mạch sự sống cho toàn thể loài
người.
(ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Tư 11/9/1996,
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ngày
18/9/1996)
Mầu Nhiệm Của Việc Con Người Hòa Giải Với
Thiên Chúa
(St. Lêô Cả, Epist. 28 ad Flavianum, 3-4: PL
54, 763-767)
Thấp hèn được bảo toàn nơi uy nghi, yếu đuối nơi quyền năng và sự chết nơi
hằng hữu. Để trả món nợ cho tình trạng tội lỗi của chúng ta, một bản tính
bất khả khổ đau đã hợp với một bản tính có thể đau khổ. Bởi thế, để thực
hiện việc chữa lành cần thiết cho chúng ta, Đấng trung gian duy nhất giữa
Thiên Chúa và loài người này là con người Giêsu Kitô đã có thể chết đi nơi
bản tính này và bất khả tử nơi bản tính kia.
Đấng là Thiên Chúa thật, bởi thế, cũng là Đấng đã được sinh ra trong một bản
tính hoàn toàn trọn vẹn của một con người thực sự, toàn thể con người nơi
bản tính riêng của Người, toàn thể con người nơi bản tính của chúng ta. Nói
về bản tính của mình là chúng ta muốn nói đến những gì Thiên Chúa đã hình
thành nơi chúng ta ngay từ ban đầu, và Người cũng đã mặc lấy nó để phục hồi
nó.
Bởi vì, nơi Đấng Cứu Thế, không có một dấu vết nào của những gì tên cám dỗ
đã mở đường dẫn lối đánh lừa con người tự mình bước vào. Như thế không có
nghĩa là vì Người đã chấp nhận tham phần vào nỗi yếu đuối của loài người
chúng ta nên Người cũng can dự vào tội lỗi của chúng ta.
Người đã mặc lấy bản tính của một người tôi tớ mà không bị ô nhơ tội lỗi,
thăng hóa nhân tính của chúng ta mà không suy giảm thần tính của Người.
Người đã tự hư không hóa chính mình; là Đấng vô hình Người đã trở nên hữu
hình, là Hóa Công và là Chúa của tất cả mọi sự Người đã muốn trở thành một
trong những con người hửu tử chúng ta. Tuy nhiên, đây là việc tự hạ của lòng
cảm thương, chứ không phải là sự mất mát của quyền toàn năng. Bởi thế, Đấng
tự bản tính là Thiên Chúa đã dựng nên con người cũng đã trở thành chính con
người nơi bản tính của một tôi tớ.
Như thế là Con Thiên Chúa đã đi vào cái thế giới thấp hèn này. Người đã từ
thiên ngai mà xuống, tuy nhiên Người vẫn không tách mình khỏi vinh quang Cha
của Người. Người đã được sinh ra trong một thân phận mới, bằng một cuộc hạ
sinh mới.
Người đã được sinh ra trong một thân phận mới, vì vô hình nơi bản tính của
mình, Người đã trở nên hữu hình nơi bản tính của chúng ta. Ở ngoài tầm tay
với của chúng ta, Người muốn ở trong tầm tay của chúng ta. Hiện hữu trước
khi có thời gian, Người bắt đầu hiện hữu vào một khoảnh khắc trong thời
gian. Là Chúa của vũ trụ, Người đã che giấu vinh quang vô cùng của mình đi
và mặc lấy bản tính của một tôi tớ. Bất khả khổ đau như là một vị Thiên
Chúa, Người vẫn không ngại trở thành một con người để có thể chịu khổ. Vốn
bất tử, Người đã muốn qui thuận lề luật tử thần.
Đấng là Thiên Chúa thật cũng là người thật. Nơi việc hiệp nhất này không có
vấn dề sai trái, miễn là nỗi thấp hèn của loài người và sự cao sang của
Thiên Chúa cùng nhau hiện hữu trong một mối liên hệ tương giao.
Như Thiên Chúa không đổi thay nơi việc tự hạ của mình thế nào thì con người
cũng không bị mất hút khi được thăng hóa như vậy. Mỗi bản tính thể hiện theo
sinh hoạt của mình trong mối hiệp thông với nhau. Ngôi Lời làm những gì hợp
với mình, xác thịt hoàn tất những gì hợp với xác thịt.
Một bản tính thì rạng rỡ với những phép lạ, còn bản tính kia lại trở thành
nạn nhân của những tổn thương. Như Ngôi Lời không mất đi thân phận ngang
hàng với vinh quang của Cha thế nào, xác thịt cũng không bỏ mất bản tính của
loài người chúng ta như vậy.
Cần phải lập đi lập lại mãi mãi là, cùng một con người duy nhất lại thật sự
là Con Thiên Chúa và cũng thực sự là con của con người. Người là Thiên Chúa,
ở chỗ từ ban đầu đã có Lời và Lời ở nơi Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa.
Người là con người, ở chỗ Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office
of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 1375-1376)
Toàn Thể Hoàn Vũ Đợi Chờ Lời Mẹ Maria Đáp
Ứng
(St. Bênađô, viện phụ, Hom. 4:8-9: Ipera onmia, Edit. Cistere: 4 [1966]: 53-54)
Ôi Đức Nữ Trinh, Đức Nữ đã nghe thấy rằng Đức Nữ sẽ
được thụ thai và hạ sinh một người con trai; Đức Nữ đã nghe thấy rằng việc
này xẩy ra không bởi loài người mà là bởi Thánh Linh. Vị thiên thần đợi chờ
câu trả lời của Đức Nữ; đã đến lúc ngài phải trở về cùng Thiên Chúa là Đấng
đã sai ngài. Ôi Vị Nữ Lưu, cả chúng tôi cũng đợi chờ Người nữa, đợi chờ lời
thương cảm của Người; bản án luận phạt đang đè nặng trên chúng tôi đây này.
Giá cứu chuộc của chúng tôi được trao cho Người. Chúng tôi sẽ được lập tức
giải thoát miễm là Người tỏ ý ưng thuận. Nơi Lời Hằng Sống của Thiên Chúa,
tất cả chúng tôi đã được hiện hữu, thế nhưng, này đây chúng tôi đã chết.
Bằng lời đáp thưa ngắn ngủi của Người, chúng tôi sẽ được tái tạo để nhận lại
sự sống.
Ôi Nữ Trinh ưu ái, trong cuộc lưu đầy khỏi Địa Đường, cùng với gia đình sầu
khổ của mình, Adong đẫm lệ van xin Người hãy đáp lại. Abraham cầu khẩn Người
làm việc này. Đavít van xin Người làm điều ấy. Tất cả mọi vị thánh tổ phụ
khác là tổ tiên của Người trong chốn tối tăm chết chóc cũng xin Người điều
này. Đó là điều mà toàn thể hoàn vũ qùi dưới chân Người đợi trông. Làm như
vậy là phải, vì lời của Người ảnh hưởng đến niềm an ủi cho kẻ bất hạnh, là
giá chuộc cho kẻ tù đầy, là tự do cho kẻ bị luận tội, thật vậy, là cứu độ
cho tất cả mọi con cái của Adong, cho toàn thể giòng giống của Người đấy.
Ôi Trinh Nữ, Người hãy trả lời nhanh lên. Người hãy đáp lại cho vị thiên
thần ngay đi, đúng hơn, Người hãy đáp lại lời Chúa qua vị thiên thần ngay
đi. Một câu đáp lại là Người lãnh nhận Lời của Thiên Chúa. Một lời lên tiếng
là Người thụ thai Lời thần linh. Một lời thoát ra khỏi cửa miệng là Người
được ôm lấy Lời hằng sống.
Vậy tại sao Người lại chần chờ, tại sao Người lại lo sợ cơ chứ? Người hãy
tin tưởng, chúc tụng và nhận lãnh. Lòng khiêm nhượng cần phải cương quyết,
đức đoan trang cần phải tin tưởng. Đây không phải là lúc của đức đơn sơ ngay
lành mà bỏ mất đức khôn ngoan. Ôi Nữ Trinh khôn ngoan, nơi vấn đề này, xin
đừng sợ tự tin. Tuy thinh lặng dịu dàng có đáng yêu nhưng lúc này đây lời tỏ
lòng thuận phục lại cần thiết hơn. Ôi Đức Nữ Trinh, xin Người hãy mở lòng
tin tưởng, hãy mở miệng chúc tụng, mở lòng cho Đấng Hóa Công. Kià, Đấng tất
cả mọi dân nước ước mong đang đứng chờ ở ngoài, g cửa muốn vào. Nếu vì Người
cứ trù trừ mà Ngài đành bỏ ra đi thì Người sẽ phải đau buồn đi tìm kiếm Ngài
trở lại, Đấng Người mến yêu. Người hãy chỗi dậy đi, mau lên, mở lời. Hãy
chỗi dậy trong tin tưởng, hay mau mắn trong sùng mộ, hãy mở lời chúc tụng và
tạ ơn. Người nói: Này tôi là nữ tỳ Chúa, xin thực hiện nơi tôi theo như lời
ngài.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office
of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 69-70)
Nếu ngày trong tuần không bị Lễ Trọng Truyền Tin át đi thì Phụng Vụ Lời Chúa như sau:
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Hs 6, 1b-6
"Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ".
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Ðây Chúa phán: Trong cảnh khốn khổ, từ ban mai, họ chỗi dậy chạy tìm kiếm
Ta. "Hãy đến, và chúng ta quay trở về với Chúa, vì Chúa bắt chúng ta, rồi sẽ
tha chúng ta; Chúa đánh chúng ta, rồi sẽ lại chữa chúng ta. Sau hai ngày
Người cho chúng ta sống lại, đến ngày thứ ba, Người đỡ chúng ta đứng lên, và
chúng ta sẽ sống trước mặt Người. Chúng ta hãy nhận biết Chúa và hãy ra sức
nhận biết Chúa. Người sẵn sàng xuất hiện như vừng đông, và sẽ đến cùng chúng
ta như mưa thuận và như mưa xuân trên mặt đất".
Hỡi Ephraim, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Hỡi Giuđa, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Tình
thương các ngươi như đám mây ban sáng, như sương sớm tan đi. Vì thế, Ta dùng
các tiên tri nghiêm trị chúng, và Ta dùng lời từ miệng Ta phán ra mà giết
chúng. Án phạt các ngươi bừng lên như ánh sáng. Vì chưng, Ta muốn tình yêu,
chớ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn
thiêu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 18-19. 20-21ab
Ðáp: Ta
muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ (Hs 6, 6).
Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con
theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng
tội ác. - Ðáp.
2) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu Chúa sẽ không
ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê
tấm lòng tan nát, khiêm cung. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin thịnh tình với Sion theo lòng nhân hậu, hầu xây lại thành
trì của Giêrusalem. Bấy giờ Chúa con sẽ nhận những lễ vật chính đáng, những
hy sinh với lễ toàn thiêu. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 8, 12b
Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự
sống".
Phúc Âm: Lc 18, 9-14
"Người thu thuế ra về được khỏi tội".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là
người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: "Có hai người lên đền thờ cầu
nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng,
cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác:
tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi
tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi". Người thu
thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: "Lạy
Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội". Ta bảo các ngươi: người này ra về
được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên,
sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
hình như càng tội lỗi càng gần Nước Trời, càng gần với Lòng Thương Xót Chúa, càng nên thánh nhanh, một cách đốt giai đoạn như người thu thuế trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay
Ngày Thứ Bảy, ngày cuối cùng trong Tuần Thứ Ba Mùa Chay hôm nay, Giáo Hội chọn đọc các bài phụng vụ lời Chúa cho ngày này có nội dung đề cao giá trị của đức bác ái yêu thương cao cả và bất khả thiếu trong đời sống đạo của Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô, hơn là hy tế hay lễ vật của con người dâng lên Thiên Chúa, dù tự bản chất, các thứ hy tế hay lễ vật ấy vốn cao quí, tốt lành và cần thiết, liên quan đến phận vụ tôn thờ của con người đối với Thiên Chúa.
Đó là lý do, Chúa Giêsu đã nói với Chị Thánh Faustina rằng: "Giữa Cha và con có một vực thẳm vô đáy, một vực thẳm phân chia Tạo Hoá với tạo vật. Thế nhưng, vực thẳm này đã được tình thương của Cha lấp đầy" (Nhật ký 1576). Không phải hay sao, vực thẳm giữa họ là tạo vật với Ngài là Thiên Chúa, như từ đất tới trời, được lấp đầy khi "Lời hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), và giữa họ là tội nhân với Ngài là Tình Yêu, như từ hỏa ngục lên tới thiên đàng, đã được lấp đầy bằng chiều cao của cây Thánh Giá Người tử nạn.
Thế nên, hình như càng tội lỗi càng gần Nước Trời, càng gần với Lòng Thương Xót Chúa, càng nên thánh nhanh, một cách đốt giai đoạn như người thu thuế trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, đúng như lời Chúa Giêsu đã khẳng định với Chị Thánh Faustina: "Các đệ nhất đại tội nhân cũng đạt được tầm mức thánh thiện cao cả, chỉ cần họ tin tưởng vào tình thương của Cha" (Nhật ký 1784). Tôi vẫn hằng xin Chúa cho con luôn là một tội nhân mà luôn cảm thấy mình đáng thương, hơn là một thánh nhân mà lại cứ tưởng người khác đáng thương hơn mình.
Vì nếu bản chất của Thiên Chúa là tình yêu cô cùng nhân hậu, lúc nào cũng muốn tỏ ra hết cỡ bản chất thần linh này của mình để chứng thực mình là ai và như thế nào, thì ở đâu hay con người nào càng trở thành trống rỗng, bằng tất cả tấm lòng tan nát khiêm cung và tin tưởng của họ, thì họ càng được Ngài thông bản tính vô cùng trọn lành của Ngài là lòng thương xót cho họ, để lấp đầy tất cả mọi yếu hèn, khiếm khuyết, sai lầm và tội lỗi của họ, nhờ đó, bản thân họ hóa thánh, tức trở thành như là một cuộc thần hiển của Ngài, như một bụi gai (bản tính tội lỗi) bốc lửa (được thương xót) mà không bị thiêu rụi (không kiêu hãnh vì được thương) - (xem Xuất Hành 3:2).