SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chia sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Chay Tuần 3
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Xh 20, 1-17
"Luật do Môsê đã ban ra".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán bảo những lời sau đây: Ta là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã dẫn dắt ngươi ra khỏi vùng Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta, đừng chạm trổ tượng gỗ, hay vẽ hình các vật trên trời, dưới đất, trong nước, dưới lòng đất. Ðừng thờ lạy và phụng sự các hình tượng ấy, vì Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi, Chúa hùng mạnh, Chúa ganh tị, trừng phạt con vì tội lỗi cha, cho đến ba bốn đời, những kẻ ghét Ta; Ta tỏ lòng nhân lành đến ngàn đời đối với những ai kính mến Ta và tuân giữ các giới răn Ta.
Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt.
Ngươi hãy nhớ thánh hoá ngày Sabbat. Ngươi làm lụng và làm tất cả mọi việc trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy là ngày Sabbat, thì thuộc về Chúa, Thiên Chúa ngươi; trong ngày đó, ngươi, con trai, con gái, tôi tớ nam nữ, súc vật, ngoại kiều trọ trong nhà ngươi, tất cả không được làm việc gì. Vì trong sáu ngày, Chúa đã tạo dựng trời, đất, biển, và tất cả mọi vật trong đó, rồi Người nghỉ trong ngày thứ bảy: cho nên Chúa chúc phúc và thánh hoá ngày Sabbat.
Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết người, chớ phạm tội ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối hại anh em mình, chớ tham lam nhà của kẻ khác, chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Xh 20, 1-3. 7-8. 12-17
"Luật do Môsê đã ban ra".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán bảo những lời sau đây: Ta là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã dẫn dắt ngươi ra khỏi vùng Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta. Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt. Ngươi hãy nhớ thánh hoá ngày Sabbat.
Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết người; chớ phạm tội ngoại tình; chớ trộm cắp; chớ làm chứng dối hại anh em mình; chớ tham lam nhà của kẻ khác; chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 11
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời (Ga 6, 69).
Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Ðáp.
2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Ðáp.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy. - Ðáp.
4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng, ngọt hơn mật và hơn cả mật tàng ong. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 1, 22-25
"Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho nhiều người, nhưng là sự khôn ngoan của Thiên Chúa đối với những người được gọi".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, các người Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo, nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì Ngài là Ðức Kitô, quyền năng của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Chúa Cha, vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và điều yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự mạnh mẽ của loài người.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4, 4b
Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Phúc Âm: Ga 2, 13-25
"Các ngươi cứ phá huỷ đền thờ này, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêru-salem. Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".
Bầy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
Trong thời gian Người ở lại Giêrusalem mừng lễ Vượt qua, nhiều kẻ tin danh Người, vì mục kích những phép lạ Người làm. Nhưng chính Chúa Giêsu không tin tưởng họ, vì Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nhiệm Lời Chúa
Sau Bài Phúc Âm cho Chúa I Mùa Chay về biến cố Chúa Giêsu vào hoang địa chay
tịnh cùng chịu cám dỗ, ám chỉ mầu nhiệm khổ giá của Người, và Bài Phúc Âm
cho Chúa Nhật II Mùa Chay về biến cố Chúa Kitô biến hình trên núi cao của
Chúa Kitô, ám chỉ đến mầu nhiệm Phục Sinh của Người, các bài Phúc Âm cho Chúa Nhật III
tới hết Mùa Vọng là Chúa Nhật V hoàn toàn không theo Phúc Âm của Thánh Ký
Marco mà là của Thánh ký Gioan, những bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan được
Giáo Hội cố ý chọn vì trong đó chất chứa mầu nhiệm vượt qua của Người mà
Phúc Âm Thánh ký Marco không có.
Ở chu kỳ Năm A theo Thánh ký Mathêu cũng thế, Giáo Hội cũng chọn 3 bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan cho Chúa Nhật III, IV và V Mùa Chay, còn chu kỳ Năm C theo Phúc Âm Thánh ký Luca, Giáo Hội chỉ chọn 1 bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan cho Chúa Nhật V Mùa Chay mà thôi. Tuy nhiên, trong ngày thường, nghĩa là không phải Chúa Nhật, mà là ngày trong tuần, Phúc Âm theo Thánh ký Gioan được Giáo Hội chọn đọc liên tục suốt tuần Thứ IV và tuần Thứ V Mùa Chay, những bài Phúc Âm cho thấy Chúa Kitô tự chứng về Người, nhưng các tự chứng của Người ấy lại khiến cho chung dân chúng và thành phần trí thức cùng lãnh đạo của dân không thể nào chấp nhận được, đến độ họ đã tìm cách giết Người là tên phạm thượng lộng ngôn, và chính tới lúc này Giáo Hội bắt đầu tiến vào Tuần Thánh cũng là Tuần Thương Khó với Tam Nhật Vượt Qua cuối tuần.
Thật vậy, Bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật III Mùa Chay chu kỳ Năm B hôm nay về sự kiện Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ, ở chỗ: "Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: 'Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán'".
Thế nhưng, việc thẳng tay thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu chưa từng có như thế đã bị người Do Thái chất vấn về thẩm quyền của Người: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy", và để trả lời, Chúa Giêsu cho họ biết về một dấu lạ cả thể liên quan đến thẩm quyền của Người như sau: "Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong 3 ngày Ta sẽ dựng lại".
Ở đây chúng ta nên lưu ý là người Do Thái xin Chúa Giêsu một "dấu" (sign), dấu lạ hay dấu chỉ, chứ không phải là "phép lạ" (micracle), và Phúc Âm Thánh ký Gioan thường dùng từ ngữ dấu lạ thay vì phép lạ cho dù Chúa Giêsu thực sự làm phép lạ, như phép lạ Người hóa nước lã thành rượu ở tiệc cưới Cana (xem Gioan 2:11), hay khi Người chữa lành cho đứa con trai của viên sĩ quan cũng ở Cana (xem Gioan 4:54). Dấu chỉ hay dấu lạ đây chính là ý nghĩa ám chỉ việc Chúa Kitô làm nói chung và phép lạ Người làm nói riêng.
Đó là lý do, sau khi Chúa Giêsu trả lời cho yêu cầu của dân Do Thái xin Người một dấu chỉ nào cho thấy Người có quyền thanh tẩy đền thờ như vậy, thì Thánh ký Gioan đã chú giải ý nghĩa về câu tuyên bố này của Chúa Giêsu như sau: "Người cố ý nói đến đền thờ là thân thể Người". Tức là Chúa Giêsu tiên báo cho dân Do Thái biết rằng cái dấu chỉ mà họ xin Người làm để chứng tỏ thẩm quyền thanh tẩy đền thờ của Người đó là Người sẽ bị họ sát hại trong cuộc khổ nạn và tử giá của Người nhưng sau ba ngày Người sẽ sống lại từ trong kẻ chết, một "dấu" cho thấy Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, bất tử, hằng sống, cứu độ, chiến thắng tội lỗi và sự chết của con người, nơi con người và cho con người, bao gồm cả dân Do Thái của Người.
Vấn đề đặt ra ở đây là mối liên hệ giữa bài Phúc Âm và hai bài đọc còn lại. Ở chỗ, nếu Phúc Âm trình thuật về biến cố Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ và lời tiên báo về cuộc vượt qua của Người, thì nội dung của bài phúc âm có liên hệ gì tới bài đọc 1 về 10 giới răn (Xuất Hành 20:1-17), và bài đọc 2 về giá trị tác dụng của thập giá Chúa Kitô (1Corinto 1:22-25) hay chăng? Nếu có thì ở chỗ nào??
Đúng thế, nếu phần nhất của bài Phúc Âm trình thuật về sự kiện Chúa Kitô thanh tẩy đền thờ, mà bài đọc 1 về 10 giới luật của Chúa, tức là về những gì liên quan đến tâm hồn của con người là nơi Chúa ngự như là đền thờ của Ngài, một nơi nếu không tuân giữ lề luật của Chúa, tức theo đường lối của Chúa, chẳng khác gì đã bị biến thành hang trộm cướp hay nơi buôn bán, cần được thanh tẩy, thì cả hai bài đọc đã ăn khớp với nhau ở chỗ này. Bài Đáp Ca rất thích hợp với Bài Đọc I hôm nay như sau:
1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.
2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy.
4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng, ngọt hơn mật và hơn cả mật tàng ong.
Và nếu phần thứ hai của bài Phúc Âm nhắc lại lời Chúa Kitô tiên báo về cuộc vượt
qua của Người, một cuộc vượt qua từ khổ nạn và tử giá ("phá đền thờ này đi") đến
phục sinh ("nội trong 3 ngày Ta sẽ dựng lại") thì ở bài đọc 2 Thánh Phaolô nói
về "một Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do
Thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo, nhưng đối với những
người được gọi thì Người là Đức Kitô, quyền năng của Thiên Chúa và sự khôn ngoan
của Chúa Cha" ở nơi cuộc vượt qua của Người. "Vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì
vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và điều yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt
hẳn sự mạnh mẽ của loài người", mà đó mới là dấu lạ cho người Do Thái, đó mới
thực sự “là
việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta” (Bài Phúc Âm Thứ
Sáu tuần này).
Như thế, theo tiến trình Mùa Chay, sau Chúa Nhật I với bài Phúc Âm Chúa Giêsu
chay tịnh 40 ngày trong hoang địa, ám chỉ Người sẽ tiêu diệt vương quốc của ma
quỉ, và bài Phúc Âm Chúa Nhật II với một Chúa Kitô biến hình trên núi ám chỉ
cuộc phục sinh của Người, chiến
thắng tội lỗi và sự chết (1Corinto 15:56-57) bằng “sự sống lại và sự sống”
(Gioan 11:25),
đến bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa Chay này bắt đầu hướng về cuộc vượt qua của
Người.
Nếu tột đỉnh của phụng niên là Tam Nhật Thánh hay Tam Nhật Vượt Qua, liên quan
đến chẳng những Mầu Nhiệm Khổ Nạn và Tử Giá của Chúa Kitô mà còn đến Mầu Nhiệm
Phục Sinh của Người nữa, vì Mầu Nhiệm Vượt Qua là tất cả mạc khải thần linh của
Thiên Chúa và về Thiên Chúa, thì tất cả những gì Chúa Kitô nói và làm đều hướng
về Mầu Nhiệm Vượt Qua này.
Chẳng hạn, biến cố Chúa Giêsu chay tịnh 40 đêm ngày trong sa mạc và chịu ma quỉ
cám dỗ ở Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay là sự kiện báo trước việc Chúa Kitô chiến
thắng Satan và bọn ngụy thần bằng cuộc khổ nạn của Người. Hay biến cố Chúa Giêsu
biến hình trên núi ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 2 Mùa Chay là sự kiện báo trước việc
Chúa Kitô sống lại từ trong kẻ chết.
Các phép lạ Chúa Giêsu làm, như chữa lành bệnh nạn tật nguyền và khu trừ ma quỉ,
đều là những biểu hiệu ám chỉ việc Người đến để gian để cứu con người khỏi tội
lỗi (quỉ ám) và sự chết (bệnh tật), cứu con người cả về than xác (bệnh tật) lẫn
linh hồn (quỉ ám), bằng cuộc vượt qua của Người.
Về lời nói, trong Phúc Âm Nhất Lãm, Người đã báo trước 3 lần cuộc vượt qua của
Người cho các môn đệ biết. Nhưng trong Phúc Âm Thánh ký Gioan, Người chỉ nói
trống vậy thôi, với chung dân chúng. Chẳng hạn Người còn nói đến mầu nhiệm vượt
qua của Người khi nói với dân chúng về thân phận của hạt lúa miến gieo xuống đất cần phải mục nát đi mới sinh nhiều hoa
trái (xem Gioan 12:24), hay khi Người phán: “Khi Tôi bị treo lên, Tôi sẽ kéo mọi
người lên cùng tôi” (Gioan 12:32).
Trong bài Phúc Âm hôm nay, lần đầu tiên Người
nói đến Mầu Nhiệm Vượt Qua này,
khi Ngưới thách thức con người cứ phá đền thờ là thân thể của Người (khổ nạn và
tử giá) nhưng Người sẽ dựng lại nó trong vòng 3 ngày (sống lại). Nghĩa là con
người
dù có gây ra sự dữ, có cố tình
phạm đến Ngài chăng nữa thì Thiên Chúa vẫn có thể
hoàn thành dự án thần linh vô cùng sâu nhiệm và toàn năng
của Ngài trong việc yêu thương cứu độ họ và cho họ được hiệp thông thần linh với
Ngài mà hoan hưởng sự sống toàn hảo viên mãn của Ngài và với Ngài, đúng như mục
đích và chủ đích Ngài đã tạo dựng nên họ ngay từ ban đầu.
Thánh Casimirô sinh tại Cracovie năm 1458. Ngài là con vua Casimir IV, hoàng
đế Ba Lan. Hình ảnh nổi bật nhất nơi ngài phải là hình ảnh của con người cầu
nguyện. Ðược giáo dục đầy đủ và hoàn hảo, ngài có được đức tính nhân từ,
kiên nhẫn. Nhất là biết chế ngự thân xác bất chấp cơn bệnh luôn hành hạ
ngài. Ngài luôn lợi dụng những đau khổ thân xác để suy ngẫm về cuộc khổ nạn
của Chúa. Ngài không bao giờ quên cầu nguyện cho đức tin Công Giáo, cho anh
em ly giáo Rythenes và cho chính bản thân mình nữa. Ngài có tấm lòng quảng
đại thương người cách đặc biệt, nhất là đối với dân nghèo và người tàn tật.
Nhưng như đã biết, con người của ngài là con người cầu nguyện..., chính
trong việc thờ lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, lòng sùng kính Ðức Trinh Nữ và sự
hy sinh từ bỏ mà ngài kín múc được sinh lực dồi dào cho đức tin. Những người
Công Giáo Ba Lan đã tìm thấy trong ngài một mẫu gương sáng chói trong cuộc
chiến thầm lặng nhưng đầy cam go mà họ phải trải qua.
Bệnh lao vẫn không ngừng theo đuổi ngài cho đến khi ngài kiệt sức và an nghỉ
trong Chúa năm 1483 tại lâu đài Grodno, hưởng thọ 25 tuổi.
Nhờ các phép lạ danh tiếng, ngài được Ðức Giáo Hoàng Lêô X tôn phong lên bậc
Hiển Thánh năm 1521.
Thứ Hai
Lời Chúa
Bài Ðọc I: 2 V 5, 1-15a
"Có nhiều người phong cùi trong Israel, nhưng không có một người nào trong
bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Naaman, tướng đạo binh của vua xứ Syria, là người có uy
thế đối với vua và được tôn trọng, vì Chúa đã dùng ông mà cứu dân Syria; ông
còn là người hùng mạnh và giàu có, nhưng lại mắc bịnh phong cùi. Lúc bấy giờ
một vài toán dân Syria bắt một thiếu nữ ở đất Israel dẫn về để hầu hạ bà
Naaman. Cô ta nói với bà chủ: "Chớ chi ông chủ tôi đến gặp vị tiên tri ở
Samaria, chắc chắn vị tiên tri ấy sẽ chữa ông khỏi phong cùi". Naaman đến
tâu vua rằng: "Cô nhỏ xứ Israel đã nói thế này thế này". Vua xứ Syria liền
nói: "Khanh hãy đi, trẫm sẽ gởi cho vua Israel một bức thơ". Naaman ra đi,
mang theo mười lạng bạc, sáu ngàn nén vàng và mười bộ áo. Ông trao cho vua
Israel bức thơ nội dung như sau: "Khi bức thơ này đến tay nhà vua, nhà vua
biết tôi sai Naaman, tôi tớ tôi, đến với nhà vua, để xin nhà vua chữa ông
khỏi phong cùi".
Sau khi đọc bức thơ, vua Israel liền xé áo và nói: "Ta có phải là Chúa, có
thể giết chết và cho sống hay sao mà vua ấy gởi người đến xin ta chữa lành
phong cùi? Các ngươi thấy không, vua ấy tìm cớ hại Ta đó". Khi Êlisêô, người
của Thiên Chúa, nghe tin vua Israel đã xé áo mình, nên sai người đến tâu vua
rằng: "Tại sao nhà vua lại xé áo? Ông ấy cứ đến với tôi thì sẽ biết trong
Israel có một vị tiên tri".
Naaman lên xe ngựa đi, và dừng lại trước cửa nhà Êlisêô. Tiên tri nói với
Naaman rằng: "Ông hãy đi tắm bảy lần ở sông Giođan, thì da thịt ông sẽ được
lành sạch". Naaman nổi giận bỏ đi nói rằng: "Tôi tưởng ông ấy ra đón tôi và
đứng trước tôi kêu cầu danh Chúa là Thiên Chúa của ông, rồi đặt tay lên chỗ
phong cùi của tôi và chữa tôi lành mạnh. Các con sông Abana và Pharphar ở
Ðamas không sạch hơn các con sông ở Israel để tôi tắm và được lành sạch hay
sao?" Ông trở về lòng đầy tức giận.
Các đầy tớ của ông đến nói với ông rằng: "Thưa cha, vị tiên tri có yêu cầu
cha làm một việc lớn lao thì cha cũng phải làm. Phương chi bây giờ người bảo
cha: "Hãy đi tắm, thì được sạch". Naaman xuống tắm bảy lần ở sông Gio-đan
như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như
da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch.
Sau đó ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ðến nơi, ông
đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: "Thật tôi biết không có Thiên
Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 41, 2. 3, và Tv 42, 3. 4
Ðáp: Hồn
con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt
Chúa Trời? (x. Tv 41, 3)
Xướng: 1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời
ôi! - Ðáp.
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra
mắt Chúa Trời? - Ðáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng
dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được
hoan hỉ, mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên
Chúa của con. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 129, 5 và 7
Con trông cậy Chúa, con mong đợi lời hứa của Chúa, vì nơi Chúa sẵn có lòng
từ bi và chan chứa ơn cứu độ.
Phúc Âm: Lc 4, 24-30
"Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà
thôi đâu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội
đường rằng): "Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được
tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia
có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành
khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người
nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn
thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng
không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người
Syria".
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy
Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô
Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự
Sống thiên
sai
Hành
trình Mùa
Chay 40 ngày tiếp
tục và đã
tiến vào
tuần lễ Thứ Ba, và hôm nay là Thứ Hai trong Tuần Ba Mùa Chay này, chủ đề
"Tôi tự bỏ mạng sống của mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) cho
chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, vẫn
phản ảnh qua ý nghĩa của chung phụng vụ lời Chúa hôm nay, nhất là Bài
Phúc Âm.
Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, hình như chúng ta chỉ thấy được nửa phần đầu của chủ đề Mùa Chay là "Ta tự ý bỏ sự sống của mình đi", chẳng thấy đâu là "để rồi lấy nó lại". Bởi vì, Thánh ký Luca trình thuật lại trong Bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày hôm nay là sự kiện "mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực".
Tại sao "mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ" đến độ muốn sát hại Người, bằng cách "xô Người xuống vực" như thế? Phải chăng vì họ đã bị Chúa Giêsu ngấm ngầm chê là thiếu đức tin, ở chỗ không chịu tin vào Người, một con người rất tầm thường đã từng sống trong khu làng của họ và với họ trước kia, giờ đây đã dám cho mình như hai vị đại tiên tri Thời Cựu Ước là Elia và Elise nữa, như lời Người đã nói với họ và về họ khi họ đặt vấn đề về sự khôn ngoan và quyền năng khác thường của Người:
"Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử
tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều
bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp
nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người
nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn
thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô,
nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman,
người Syria".
Hai trường hợp được Chúa Giêsu dẫn chứng trên đây cho thấy cả hai nạn nhân được chữa lành đều là thành phần dân ngoại nhưng lại tin vào các vị tiên tri của dân Do Thái và nhờ đó họ đã có được một cảm nghiệm thần linh về Vị Thiên Chúa của dân Do Thái, Đấng hằng ở cùng dân tộc được tuyển chọn này và tỏ mình ra cho dân Do Thái dọc suốt giòng lịch sử cứu độ của họ.
Bài Đọc 1 hôm nay chỉ liên quan đến trường hợp thứ hai: "có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria". Sách Các Vua Quyền Thứ 2 đã cho biết là viên quan bị phong cùi này, vì muốn khỏi bệnh nên tin người tớ gái Do Thái, và đã tìm sang đất Do Thái.
"Trong những ngày ấy, Naaman, tướng đạo binh của vua xứ Syria, là người
có uy thế đối với vua và được tôn trọng, vì Chúa đã dùng ông mà cứu dân
Syria; ông còn là người hùng mạnh và giàu có, nhưng lại mắc bịnh phong
cùi. Lúc bấy giờ một vài toán dân Syria bắt một thiếu nữ ở đất Israel
dẫn về để hầu hạ bà Naaman. Cô ta nói với bà chủ: 'Chớ chi ông chủ tôi
đến gặp vị tiên tri ở Samaria, chắc chắn vị tiên tri ấy sẽ chữa ông khỏi
phong cùi'. Naaman đến tâu vua rằng: 'Cô nhỏ xứ Israel đã nói thế này
thế này'. Vua xứ Syria liền nói: 'Khanh hãy đi, trẫm sẽ gởi cho vua
Israel một bức thơ'. Naaman ra đi, mang theo mười lạng bạc, sáu ngàn nén
vàng và mười bộ áo".
Nhưng sau khi đến gặp Tiên Tri Êlise, ông đã hoàn toàn thất vọng đến độ tức giận bất mãn bỏ đi, vì ông thấy ông là một vị quan có thế giá với nhà vua Syria mà bấy giờ lại bị một vị tiên tri Do Thái coi thường, chẳng những không thèm ra mặt tiếp ông, lại còn truyền ông phải làm một việc quá ư là tầm thường, ai làm cũng được và làm ở đâu cũng được, chứ không xuất hiện để trực tiếp chữa lành cho ông một cách uy nghi trang trọng giống như ở trong các nghi thức có tính cách cung đình:
"Naaman lên xe ngựa đi, và dừng lại trước cửa nhà Êlisêô. Tiên tri nói với Naaman rằng: 'Ông hãy đi tắm bảy lần ở sông Giođan, thì da thịt ông sẽ được lành sạch'. Naaman nổi giận bỏ đi nói rằng: 'Tôi tưởng ông ấy ra đón tôi và đứng trước tôi kêu cầu danh Chúa là Thiên Chúa của ông, rồi đặt tay lên chỗ phong cùi của tôi và chữa tôi lành mạnh. Các con sông Abana và Pharphar ở Ðamas không sạch hơn các con sông ở Israel để tôi tắm và được lành sạch hay sao?' Ông trở về lòng đầy tức giận".
Đến đây chúng ta mới thấy đâu là biên giới giữa tự nhiên và siêu nhiên, giữa người sống theo tự nhiên và người sống theo đức tin và sống bằng đức tin. Đức tin nơi viên quan Naaman người Syria bị phong cùi này là ở chỗ thắng vượt bản tính tự nhiên và khuynh hướng tự nhiên của ông, để làm theo những gì vượt lên trên sự khôn ngoan và hiểu biết hạn hẹp của ông, nhất lạ biết hạ mình xuống lắng nghe sự thật, dù sự thật đó xuất phát từ thành phần tôi tớ tầm thường của ông:
"Các đầy tớ của ông đến nói với ông rằng: 'Thưa cha, vị tiên tri có yêu cầu cha làm một việc lớn lao thì cha cũng phải làm. Phương chi bây giờ người bảo cha: 'Hãy đi tắm, thì được sạch'. Naaman xuống tắm bảy lần ở sông Gio-đan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch".
Chỉ có đức tin mới làm được những gì bản tính tự nhiên và khả năng trần thế của con người không thể nào làm được, dù họ có chức vị, khôn ngoan và quyền lực đến đâu chăng nữa, như bản thân của viên quan Naaman người Syria trong Bài đọc 1 hôm nay. Và cũng chỉ có đức tin mới làm cho con người cảm thấy được thực tại thần linh siêu việt ở bên trên họ nhưng lại ở ngay cõi lòng họ và trong cuộc sống của họ, như đã xẩy ra cho viên quan người Syria bị phong cùi được chữa lành:
"Sau đó ông và đoàn tùy tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ðến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: 'Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel'".
Cho dù Chúa Giêsu trong trình thuật của Bài Phúc Âm hôm nay có vẻ không được thành công như Tiên Tri Elisa trong Bài Đọc 1, nhưng Người, Đấng bị dân làng Nazarét của Người muốn sát hại Người, vẫn có thể tỏ mình ra cho thành phần không tin Người biết rằng:
1- Chính vì họ không tin mà họ không thấy phép lạ Người làm ở nơi họ và giữa họ như họ đã từng nghe thấy Người làm ở các nơi khác, nhất là ở Carphanaum; nhưng sở dĩ họ tức với Người đến độ xúm lại định sát hại Người là vì Người đã hạ cấp họ xuống tận cùng, ở dưới cả thành phần dân ngoài là những kẻ vẫn bị họ khinh bỉ như đồ bỏ, đồ nhơ nhớp, nay họ còn bị Người coi còn thua cả thứ đồ bỏ ấy nữa, đồ nhơ nhớp xấu xa dân ngoại nữa;
2- Cho dù họ có muốn sát hại Người mà cũng không được như ý muốn, bởi "Người tiến qua giữa họ mà đi", cho họ thấy rằng Ngưòi quả là Đấng quyền năng, là Đấng được Tiên Tri Isaia nói đến như chính Người đã minh định với họ.
Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã "lấy lại sự sống" của mình khi Người bị dân chúng sát hại, không phải chỉ ở chỗ "Người tiến qua giữa họ mà đi", ở chỗ họ không làm gì được Người, mà chính là ở chỗ Người tỏ mình ta cho họ thấy được những gì Tiên Tri Isaia nói về Người đã thực sự được ứng nghiệm, ứng nghiệm nơi chính đám dân chúng muốn sát hại Người, vì đám dân làng Nazarét bấy giờ quả thực tiêu biểu cho các thành phần được Thiên Chúa gửi Vị Thiên Sai được xức dầu Thần Linh và đầy Thần Linh là Chúa Kitô đến cho họ, vì họ "nghèo khổ" về đức tin, "bị giam cầm" bởi cứng lòng, "mù lòa" bởi thành kiến, và "ngục tù" trong tội lỗi (xem Luca 4:18).
Nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét bị dân làng Nazarét trong Bài Phúc Âm hôm nay mưu toan sát hại Người, nhưng không làm gì được Người, trái lại, chính họ lại trở thành chứng cớ hiển nhiên về vai trò Thiên Sai của Chúa Kitô, Đấng được Thiên Chúa tiên báo qua Tiên Tri Isaia, một Vị Thiên Sai nơi các thành phần cần được Người "loan báo cho Năm Hồng Ân của Chúa" (Luca 4:19), và chính vì thế mà ai nhận ra Người bằng đức tin sẽ có được một cảm nghiệm thần linh như thánh vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi!
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời?
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ, mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con.
Thứ Ba
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ðn 3, 25. 34-43
"Với tâm thần sám hối và tinh thần khiêm tốn, chúng tôi được chấp nhận".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, Adaria đứng giữa lửa mở miệng cầu nguyện rằng: "Vì danh
Chúa, xin đừng bỏ con mãi mãi cho quân thù, và xin đừng huỷ bỏ lời giao ước
của Chúa. Xin chớ cất lòng từ bi Chúa khỏi chúng con. Vì Abraham kẻ Chúa
yêu, Isaac tôi tớ Chúa, và Israel người lành thánh của Chúa, những kẻ Chúa
đã hứa cho sinh con cháu ra nhiều như sao trên trời và như cát bãi biển. Vì
lạy Chúa, chúng con đã trở nên yếu hèn hơn mọi dân tộc và hôm nay, vì tội
lỗi chúng con, chúng con bị nhục nhã ở mọi nơi. Hiện giờ không còn vua chúa,
thủ lãnh, tiên tri, không còn của lễ toàn thiêu, lễ hiến tế, lễ vật, nhũ
hương và nơi để dâng lên Chúa của đầu mùa để được Chúa thương. Nhưng với tâm
hồn sám hối và với tinh thần khiêm tốn, chúng con xin Chúa chấp nhận; chúng
con như những con dê, bò rừng và những chiên béo được dâng lên Chúa làm của
lễ toàn thiêu, xin cho của hiến tế chúng con dâng trước tôn nhan Chúa hôm
nay, được đẹp lòng Chúa, vì những ai tin tưởng nơi Chúa không phải hổ thẹn.
Và bây giờ chúng con hết lòng theo Chúa, kính sợ Chúa và tìm kiếm tôn nhan
Chúa. Xin đừng để chúng con phải hổ thẹn, nhưng xin hãy đối xử với chúng con
theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa. Lạy Chúa, xin làm những
việc lạ lùng mà cứu thoát chúng con, và xin cho thánh danh Chúa được vinh
quang".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9
Ðáp: Lạy
Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài (c. 6a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về
lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa
là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn
đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu
của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.
3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường
lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm
cung đường lối của Ngài. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4, 4b
Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa
phán ra.
Phúc Âm: Mt 18, 21-35
"Nếu mỗi người trong chúng con không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng
không tha thứ cho chúng con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm
đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?" Chúa
Giêsu đáp: "Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần
bảy. Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ
với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn
nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả
tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van
lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất
cả". Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y. Khi ra về, tên
đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói
rằng: "Hãy trả nợ cho ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn
rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh". Y
không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các
bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả
câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã
tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không
chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý
hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các
con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh
em mình".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống bao dung
Mùa Chay hôm nay ở vào ngày Thứ Ba của Tuần Thứ Ba, ngày được bao trùm bởi bầu khí của lòng thương xót Chúa như được cảm nghiệm thấy ở phụng vụ lời Chúa trong ngày, một lòng thương xót Chúa được tỏ hiện rõ ràng nhất và tối hậu nhất nơi việc khoan dung độ lượng tha thứ của Thiên Chúa đối với loài người tội lỗi.
Đúng thế, Bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thường cho rằng "tên đầy tớ độc ác" trong dụ ngôn Chúa dạy về sự tha thứ đóng vai chính, một dụ ngôn Chúa muốn dùng để trả lời cho vấn nạn được tông đồ Phêrô đặt ra hỏi Người: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?"
Nhưng thật ra, căn cứ vào chung phụng vụ lời Chúa hôm nay, và riêng Bài Phúc Âm, chúng ta mới khám phá thấy rằng lòng thương xót Chúa là điểm then chốt được Giáo Hội muốn nhấn mạnh đến hôm nay khi Giáo Hội chọn đọc Bài Phúc Âm này cùng với Bài Đọc 1 cho cùng ngày.
Trước hết, chúng ta thấy dụ ngôn Chúa Giêsu sử dụng để trả lời cho câu hỏi phải tha thứ cho anh chị em mình bao nhiêu lần trong Bài Phúc Âm hôm nay, về bố cục, có hai phần rõ ràng: phần đầu về "người đầy tớ độc ác" bày tôi được vị vương chủ của hắn rộng lượng tha thứ, và phần sau về "người đầy tớ độc ác" này không chịu tha thứ cho con nợ của mình như chính bản thân đã được vị vương chủ tha nợ cho.
Thế nhưng, về nội dung, ý nghĩa chính yếu của dụ ngôn về tha thứ trong bài Phúc Âm này là ở chỗ "các con hãy thương xót như Cha là Đấng thương xót" (Luca 6:36), đúng như lời Chúa Giêsu khuyên các môn đệ của Người để kết luận bài Phúc Âm hôm nay: "Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".
Nghĩa là, chúng ta được Thiên Chúa là Cha tha thứ thế nào chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau như vậy, tha một cách bao dung, quảng đại, liên lỉ, không bao giờ cùng, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định và muốn các tông đồ môn đệ của người thi hành: "Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".
Việc tha thứ cho nhau một cách quảng đại bao dung và liên tục bất tận như Cha trên trời như thế đã được Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn về sự tha thứ của vị vương chủ "động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y", một con nợ bầy tôi đã "mắc nợ" vua "mười ngàn nén bạc", nhưng "không có gì trả", có nghĩa là không thể nào trả nổi, bởi thế cho "nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ", nghĩa là tất cả những gì quí báu nhất con nợ có được, liên quan đến chính bản thân hắn cùng gia đình hắn và gia tài của hắn, để bù đắp phần nào món nợ hắn không thể trả thôi.
Chúng ta nên chú ý một chi tiết về lòng bao dung quảng đại đến vô lý của lòng thương xót Chúa trong dụ ngôn này, đó là trong khi người bầy tôi "sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: 'Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả'", thì cho dù người con nợ bầy tôi này không xin tha nợ, mà chỉ xin khất nợ và hứa sẽ trả sau, không biết cho tới bao giờ mới trả hết, ấy vậy mà vị vương chủ lại "động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y" mới là chuyện kỳ cục chứ, mới hay chứ.
Ấy thế mà, khi đã được hoàn toàn "trả tự do", không còn nợ nần gì với vị vương chủ của mình nữa, không còn sợ bị đòi nợ nữa, không còn phải lo lắng làm sao để trả nợ đầy đủ và đúng hẹn nữa, thì "người đầy tớ độc ác" này lại đối xử với một con nợ của hắn hoàn toàn ngược lại với những gì hắn đã được đối xử. Ở chỗ, hắn là bầy tôi được vương chủ cao cả tha hết nợ, trong khi người bạn của hắn, ngang hàng với hắn, hắn lại muốn làm vua của người bạn hắn.
Thật vậy, theo dụ ngôn của Chúa, "một người bạn" của hắn chỉ nợ hắn một chút xíu thôi, "một trăm bạc", vì vai vế bạn bè ngang hàng với nhau, chỉ là tạo vật như nhau, không nhiều như món nợ khổng lồ hắn không thể trả, vì hắn đóng vai bầy tôi với chủ nợ là vương đế cao cả, nhưng đã được chủ nợ cao cả này hoàn toàn tha bổng, "mười ngàn nén bạc", thế mà, dù con nợ của hắn đã van xin hắn khất nợ như hắn đã làm: "Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: 'Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh'", nhưng hắn đã đối xử với con nợ của hắn hoàn toàn trái ngược lại với vị vương chủ của hắn đã đối xử với hắn: "Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong".
Dụ ngôn trong Bài Phúc Âm hôm nay về lòng "thương xót như Cha là Đấng thương xót" ở chỗ chúng ta đã được Thiên Chúa tha thứ thế nào, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau như vậy. Nghĩa là Lòng Thương Xót Chúa không phải chỉ là một đặc ân cho riêng một ai xứng đáng, mà là cho tất cả mọi người, cần phải truyền đạt và loan truyền qua những ai đã nhận lãnh đặc ân này, qua những ai đã được thương xót.
Những ai không biết tha thứ cho anh chị em mình: "xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con", sống hẹp hòi, luôn có những thái độ chấp nhất với những người anh chị em ngang hàng với họ xúc phạm đến họ, là những người chưa cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa là Đấng vô cùng cao cả bị họ xúc phạm đến, chưa hiểu được lòng thương xót Chúa là gì, hay thậm chí lợi dụng lòng thương xót Chúa, bóp méo lòng thương xót Chúa, giam nhốt lòng thương xót Chúa và hủy hoại lòng thương xót Chúa nơi bản thân mình, và vì thế, họ đã bị tẩu hỏa nhập ma, vì chính lòng thương xót Chúa từ một hồng ân đã biến thành tai họa cho họ, biến thành một "tên lý hình" như phần kết luận của dụ ngôn cho thấy:
"Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: 'Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?' Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ".
Phải, mang thân phận là tội nhân, không một con người tạo vật nào không cần đến lòng thương xót Chúa, nhất là thành phần được hưởng lòng thương xót Chúa mà không sống lòng thương xót Chúa, đến độ bị chính lòng thương xót Chúa hành hạ cho đến khi họ biết sống lòng thương xót Chúa: "cho đến khi trả hết nợ".
Lòng thương xót Chúa quả thực là một hồng ân đối với loài người tội nhân, ở chỗ, Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho tội nhân không phải vì họ mà là vì chính Ngài - nếu vì họ thì họ chỉ đáng phạt, xứng với tội lỗi của họ. Nhưng cho dù họ tội lỗi bất xứng với Ngài và đáng bị phạt như thế chăng nữa, Ngài vẫn thương xót họ và tha thứ cho họ bởi Ngài chính là tình yêu vô cùng nhân hậu.
Đó là lý do, trong Bài Đọc 1 hôm nay, khi cầu xin cho dân tộc của mình đang trải qua hoạn nạn khốn khổ: "chúng con đã trở nên yếu hèn hơn mọi dân tộc và hôm nay, vì tội lỗi chúng con, chúng con bị nhục nhã ở mọi nơi...", Adaria đã nại đến chính Thiên Chúa cho thân phận dân tộc của mình: "Vì danh Chúa, xin đừng bỏ con mãi mãi cho quân thù, và xin đừng hủy bỏ lời giao ước của Chúa. Xin chớ cất lòng từ bi Chúa khỏi chúng con".
Chẳng những thế, Adaria còn xin lòng thương xót Chúa tỏ mình ra nơi thân phận đáng phạt của họ để cho lòng thương xót Chúa được sáng tỏ hơn nữa, đúng như dự án và đường lối tỏ mình ta tối đa hết cỡ của lòng thương xót Chúa: "Bây giờ chúng con hết lòng theo Chúa, kính sợ Chúa và tìm kiếm tôn nhan Chúa. Xin đừng để chúng con phải hổ thẹn, nhưng xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa. Lạy Chúa, xin làm những việc lạ lùng mà cứu thoát chúng con, và xin cho thánh danh Chúa được vinh quang".
Bài Đáp Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh ý nghĩa và chiều hướng của chung phụng vụ Lời Chúa trong ngày, cách riêng với Bài Đọc 1 cùng ngày về lòng thương xót Chúa, vị "Thiên Chúa cứu độ", vị Thiên Chúa thương xót nhân loại tội lỗi khốn khổ bởi chính mình Ngài là Đấng "nhân hậu và công minh", chỉ biết đối xử với loài người tạo vật thấp hèn đầy những yếu đuối của họ bằng "lòng thương xót tự muôn đời vẫn có":
1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước
của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên
Chúa cứu độ con.
2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn
đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu
của Ngài, thân lạy Chúa.
3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.
Thứ Tư
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ðnl 4, 1. 5-9
"Các ngươi hãy tuân giữ các giới răn và đem thực hành bằng việc làm".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môi-sen nói với dân chúng rằng: "Hỡi Israel, giờ đây hãy nghe các lề luật và
huấn lệnh mà tôi dạy bảo các ngươi phải thực hành, để được sống và được vào
chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các
ngươi. Các ngươi nên biết, tôi thừa lệnh Chúa là Thiên Chúa tôi mà truyền
dạy cho các ngươi biết lề luật và huấn lệnh của Chúa, để các ngươi thi hành
các điều ấy trong phần đất mà các ngươi chiếm hữu; các ngươi phải tuân giữ
và thực hành, vì đó là sự khôn ngoan và sáng suốt của các ngươi trước mặt
muôn dân, để khi nghe nói đến tất cả các lề luật ấy, họ nói: "Thật, dân tộc
vĩ đại này là một dân khôn ngoan và sáng suốt". Không một dân tộc vĩ đại nào
được các thần ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa chúng ta ở bên cạnh
chúng ta khi chúng ta kêu cầu Người. Có dân tộc thời danh nào khác có lễ
nghi, huấn lệnh công chính, và bộ luật như tôi trình bày trước mặt các ngươi
hôm nay không?
"Vậy các ngươi hãy ý tứ và giữ mình. Trong suốt đời các ngươi, đừng quên và
đừng để lòng xao lãng những điều các ngươi đã thấy. Hãy dạy cho con cháu các
ngươi biết các điều ấy".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 15-16. 19-20
Ðáp: Giêrusalem
hỡi, hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. Hãy ngợi khen Thiên Chúa của
ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các chốt cửa thành ngươi; Người đã chúc
phúc cho con cái ngươi trong thành nội. - Ðáp.
2) Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy
rảo. Người khiến tuyết rơi như thể lông cừu, Người gieo rắc sương đông như
tro bụi trắng. - Ðáp.
3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh
Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không
công bố cho họ các huấn lệnh của Người. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Xh 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối
và được sống".
Phúc Âm: Mt 5, 17-19
"Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Ta đến để
huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn.
Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy
trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai
huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như
vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người
ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự
Sống ứng
nghiệm
Hôm nay là Thứ Tư của Tuần Thứ Ba Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày này nhấn mạnh đến việc tuân giữ lề luật Chúa, đúng như hai câu tiêu biểu ở trên đầu của Bài Đọc 1 cũng như của Bài Phúc Âm cho thấy: "Các ngươi hãy tuân giữ các giới răn và đem thực hành bằng việc làm" (Bài Đọc 1) và "Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời" (Bài Phúc Âm).
Ở Bài Phúc Âm, chính Chúa Giêsu đã chẳng những đề cao tính chất bất khả thay đổi của lề luật mà còn đến việc trung thành với lề luật, bao gồm cả việc tuân giữ lề luật cũng như giảng dạy lề luật, kèm theo tác dụng tích cực hay tiêu cực trong việc tuân giữ lề luật và giảng dạy lề luật như thế nào nữa:
"Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy
trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai
hủy bỏ
một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể
là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ
những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là nếu lề luật quan trọng như vậy và bất khả di dịch như thế thì tại sao Chúa Giêsu lại phán một câu, cũng ngay trong Bài Phúc Âm hôm nay, như thể lề luật vẫn là những gì chưa trọn hảo, cần phải được hoàn hảo hóa bởi Người nữa: "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn".
Trong câu khẳng định này của Chúa Giêsu chúng ta thấy chất chứa một mối liên hệ giữa lề luật và bản thân Chúa Giêsu, Đấng mà "khi thời điểm viên trọn, đã được sinh hạ bởi một người nữ, được hạ sinh theo lề luật để cứu những ai lệ thuộc lề luật khỏi lề luật hầu chúng ta lãnh nhận thân phận làm dưỡng tử" (Galata 4:4).
Quả thực, đúng như Chúa Giêsu đã minh định "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri". Người không hủy bỏ những gì Cha Người đã sử dụng để hướng dẫn dân Do Thái trong lịch sử cứu độ của họ, nhờ đó, dân tộc như là sản nghiệp của Thiên Chúa trên trần gian này mới thực sự tỏ ra là một dân tộc nổi bật nhất trong các dân tộc trên thế gian này, vì họ là dân của Chúa, chẳng khác gì ngọn hải đăng đối với các dân tộc khác được gọi chung là dân ngoại, không phải dân Do Thái.
Vị trung gian môi giới Moisen của họ đã bày tỏ cho họ thấy cảm nhận cái diễm phúc được Thiên Chúa hướng dẫn bằng các lề luật siêu việt của Ngài ấy trong Bài Đọc 1 như sau:
"Các ngươi phải tuân giữ và thực hành, vì đó là sự khôn ngoan và sáng suốt
của các ngươi trước mặt muôn dân, để khi nghe nói đến tất cả các lề luật ấy,
họ nói: 'Thật, dân tộc vĩ đại này là một dân khôn ngoan và sáng suốt'. Không
một dân tộc vĩ đại nào được các thần ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa
chúng ta ở bên cạnh chúng ta khi chúng ta kêu cầu Người. Có dân tộc thời
danh nào khác có lễ nghi, huấn lệnh công chính, và bộ luật như tôi trình bày
trước mặt các ngươi hôm nay không?"
Và cũng chính vì lề luật được Thiên Chúa thương yêu truyền dạy cho họ như thế để họ xứng đáng với ơn gọi chuyên biệt của họ giữa tất cả mọi dân tộc cũng như với thân phận ưu tuyển của mình như là sản nghiệp của Thiên Chúa trên thế gian này, hơn tất cả mọi dân tộc khác, mà họ phải trung thành tuân giữ lề luật của Ngài cũng như truyền dạy lề luật của Ngài cho nhau nữa:
"Hỡi Israel, giờ đây hãy nghe các lề luật và huấn lệnh mà tôi dạy bảo các ngươi phải thực hành, để được sống và được vào chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các ngươi. Các ngươi nên biết, tôi thừa lệnh Chúa là Thiên Chúa tôi mà truyền dạy cho các ngươi biết lề luật và huấn lệnh của Chúa, để các ngươi thi hành các điều ấy trong phần đất mà các ngươi chiếm hữu... Vậy các ngươi hãy ý tứ và giữ mình. Trong suốt đời các ngươi, đừng quên và đừng để lòng xao lãng những điều các ngươi đã thấy. Hãy dạy cho con cháu các ngươi biết các điều ấy".
Chính dân Do Thái, qua thánh vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay, cũng đã cảm thấy đúng như vậy, khi vang lên những ý thức thần linh về lời thần linh của Thiên Chúa là chính cốt lõi của lề luật cho họ và làm nên lề luật của họ như sau:
1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các chốt cửa thành ngươi; Người đã chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội.
2) Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. Người khiến tuyết rơi như thể lông cừu, Người gieo rắc sương đông như tro bụi trắng.
3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người.
Thật ra, lời Chúa Giêsu tuyên bố trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn", liên quan đến chính bản thân của Người, đến mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm cứu độ tất cả loài người, chứ không riêng gì dân Do Thái, đúng như ý định cứu độ của Thiên Chúa ngay từ ban đầu sau nguyên tội xẩy ra cho chung loài người (xem Khởi Nguyên 3:15).
Đúng thế, chính Chúa Giêsu sau khi sống lại từ trong kẻ chết Người để chiến thắng tội lỗi và sự chết nơi bản tính đã bị băng hoại từ nguyên tội và bởi nguyên tội, đã chứng tỏ rằng Người đã "kiện toàn", chứ không "hủy bỏ", "lề luật và các tiên tri", hay nói cách khác, tất cả những gì đã được viết ra hay đề cập đến trong lề luật và bởi các vị tiên tri đều đã được trọn vẹn ứng nghiệm nơi Người, như chính Người đã sử dụng đến chính "lề luật và các tiên tri" để chứng thực rằng Người đã sống lại, và vì thế Người là "Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16).
Lần thứ nhất Người đã chứng thực với hai môn đệ đi Emmau (Luca 24: 25-27):
"Bấy
giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: 'Các anh chẳng hiểu gì cả ! Lòng trí
các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải
chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt
đầu từ ông Mô-sê và tất cả các
ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong
tất cả Sách Thánh".
Lần thứ hai Người đã chứng thực với 11 tông đồ ngay trong cùng tối của ngày thứ nhất trong tuần đó (Luca 24: 44-46):
"Rồi Người
bảo: 'Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách
Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và
các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm'. Bấy giờ Người mở
trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: 'Có lời Kinh Thánh chép rằng:
Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại...'".
Trong Biến Cố Biến Hình, được Giáo Hội chọn đọc từ các bài Phúc Âm của bộ Phúc Âm Nhất Lãm, bao giờ cũng cho Chúa Nhật II Mùa Chay, như chu kỳ phụng niên Năm C, Thánh ký Luca cho biết: "Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem", đã cho thấy rõ lời tính chất xác thực của lời Chúa Giêsu tuyên bố trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn" bằng cuộc Vượt Qua của Người.
Như thế, Chúa Giêsu quả thực đã tự mình ứng nghiệm những gì được cho là chủ đề của chung Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh liên quan đến Cuộc Vượt Qua của Người: "Tôi tự ý bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17).
Ngày 07: Thánh
Perpêtua và Fêlicita, tử đạo
Khi hoàng đế Sévere ra lệnh cấm đạo, thánh nữ Perpêtua và người nữ nô lệ là
Fêlicita đang mang thai sắp đến ngày sinh cùng với những người bạn khác nữa
là Revocatus, Saturnin và Secundulus, tất cả đều bị tống giam vì đã tin vào
danh Chúa Giêsu. Trước đó, các ngài là những dự tòng nên được Rửa Tội ngay
trong tù.
Thánh Perpêtua thuộc gia đình quyền quý, nên cha ngài tìm mọi cách khuyên
ngài bỏ đạo để được sống. Ngài đã cương quyết chọn cái chết để trung thành
với Thiên Chúa và đã trở nên lò lửa nung nấu đức tin của các bạn mình.
Còn thánh nữ Fêlicita, trong cơn đau đớn lúc sinh con, bị tên lính canh chế
nhạo, ngài đã trả lời: "Bây giờ chính tôi chịu đau khổ, nhưng mai kia có
Ðấng khác chịu đau khổ thay tôi, vì tôi chịu đau khổ vì Người".
Khi bị điệu ra pháp trường trước mặt mọi người, các ngài vẫn hiên ngang ca
hát để chúc tụng Thiên Chúa. Các ngài bị đánh đập, hành hạ rồi sau đó cùng
bị thú rừng giày xéo cho đến chết.
Các ngài được lãnh phúc tử đạo ngày 07/3/203.
Thứ Năm
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Gr 7, 23-28
"Này là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của họ".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ðây Chúa phán: Ta truyền cho họ lời này: Các ngươi hãy nghe lời Ta, thì Ta
sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân Ta. Các ngươi hãy đi
trong mọi đường lối mà Ta truyền dạy cho các ngươi, để các ngươi được hạnh
phúc.
Nhưng họ không nghe, họ không chịu lắng tai, họ vẫn chạy theo ý định và lòng
xấu xa của họ, họ đã ngoảnh mặt đi chứ không nhìn Ta. Từ ngày cha ông họ ra
khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay, ngay từ sáng sớm, Ta lần lượt sai các tiên
tri tôi tớ của Ta đến với họ, nhưng họ không nghe Ta, không chịu lắng tai
nghe. Họ tỏ ra cứng đầu cứng cổ, và còn sống tệ hơn cha ông họ! Ngươi có nói
cho họ biết tất cả các điều ấy, thì họ sẽ không nghe ngươi đâu; Vậy ngươi
hãy nói cho họ biết: Này là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của
họ, không chấp nhận kỷ luật, lòng trung tín đã mất và miệng họ không còn
nhắc đến nữa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9
Ðáp: Ước
chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Các bạn đừng cứng lòng (c. 8).
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ
của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi; chúng ta hãy xướng ca để
hoan hô Người. - Ðáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy; hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng
tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn
dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba,
như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách
Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2
Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.
Phúc Âm: Lc 11, 14-23
"Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được
và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói rằng: "Ông ta
nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin
Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán:
"Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên
nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi
các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ
quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ
xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là
nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải
người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn,
thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước
đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là
phân tán".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống liên kết
Ngày Thứ Năm trong Tuần Thứ Ba Mùa Chay hôm nay, phụng vụ lời Chúa được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày này, nội dung của cả Bài Đọc 1 lẫn Bài Phúc Âm đều trở nên như một lời khẳng định rằng chỉ khi nào con người vào qua cửa hẹp và đi theo con đường hẹp mới có thể đạt đến sự sống chân thật và phúc thật, bằng ngược lại sẽ toàn là bất hạnh và diệt vong (xem Mathêu 7:13-14).
Đúng thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca thuật lại những lời Chúa Giêsu, sau khi "trừ một quỷ câm", và "khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được", khiến "dân chúng đều bỡ ngỡ", đã vạch trần những tâm tưởng thiển cận có tính cách xuyên tạc và chụp mũ cho việc Người làm: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ", một việc không ai trên trần gian này có thể làm được ngoại trừ Thiên Chúa hay những ai được Thiên Chúa ở cùng.
Thậm chí việc Người trừ quỉ như thế, một việc không ai là loài người thuần túy có thể làm được vẫn chưa hay lắm, vẫn chưa thể làm cho một số người trong họ tin, đến độ, như Bài Phúc Âm cho thấy, họ còn muốn "xin Người một dấu lạ từ trời xuống", nghĩa là những gì đúng như ý của họ, có tính cách chủ quan như họ nghĩ, thì họ mới tin, còn những gì khác, cho dù là việc của Thiên Chúa đi nữa, cho dù lạ lùng mấy chăng nữa, cho dù họ không thể nào làm được v.v., họ cũng không tin.
Chẳng hạn, việc trừ quỉ, dù họ không làm được nhưng họ vẫn hiểu được nên cũng chẳng đáng tin. Theo kiến thức của họ về việc Chúa Giêsu trừ quỉ đó là vì quỉ nhỏ phải sợ quỉ lớn, mà Chúa Giêsu lấy quyền quỉ lớn mà trừ quỉ con thì tất nhiên phải có công hiệu 100%, đâu có gì là lạ, đâu có gì đáng phục, bởi thế, đối với họ, Người còn cần phải thực hiện thêm "một dấu lạ từ trời xuống" nữa.
Bởi thế, Chúa Giêsu, cho dù bản thân của Người và phẩm vị là Con Thiên Chúa của Người bị xúc phạm một cách trắng trợn và vô cùng trầm trọng như vậy, ở chỗ, Người bị coi như cũng bị quỉ ám, bị chính tướng quỉ ám thì Người mới có thể trừ được quỉ con nơi con người nạn nhân ở đầu bài Phúc Âm hôm nay.
Tuy nhiên, là hiện thân của Cha trên trời là Đấng Thương Xót (xem Luca 6:36), Người vẫn tỏ ra "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), vẫn tỏ ra nhân từ đối với những con người lầm lạc đáng thương, nhưng Người vẫn không thể nào chấp nhận cái sai lầm của họ, nên đã vạch ra cho họ thấy cái mẫu thuẫn nơi lập luận lý lẽ có tính cách ác cảm của họ với Người như sau:
"Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Qua câu minh giải này của mình, Chúa Giêsu cho những ai có ý nghĩ Người "nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ" chẳng những thấy được cái mâu thuẫn sai lầm của họ: "Nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được?", mà còn cho họ thấy trách nhiệm gây ra bởi những gì họ nói: "Chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi", nhất là cho họ biết được thật sự Người đã lấy quyền nào mà trừ quỉ, và chính quyền lực ấy là "một dấu lạ từ trời xuống" đúng như họ mong muốn: "Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Thật vậy, "một dấu lạ từ trời xuống" chứng thực "nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi" đó là việc Thiên Chúa bắt đầu trực tiếp nhúng tay vào công cuộc cứu chuộc loài người cho khỏi quyền lực tối tăm và sự chết do ma quỉ gây ra từ nguyên tội. Bởi vì, "ngón tay Thiên Chúa" đây ám chỉ Thần Linh của Thiên Chúa, như Thánh ký Mathêu ghi lại lời Chúa Giêsu minh định cũng trong cùng một trường hợp này: "Nếu bởi Thần Linh của Thiên Chúa mà Tôi trừ quỉ thì triều đại Thiên Chúa đã đến trên quí vị rồi đó" (12:28).
Câu nói của Chúa Giêsu ở cuối Bài Phúc Âm hôm nay cũng ám chỉ đến chính quyền lực của Thần Linh Thiên Chúa mạnh hơn quyền lực của tướng quỉ Belzebul, chẳng những có thể trừ được cả đám quỉ con mà còn trừ được cả quỉ vương, diệt trừ được cả vương quốc của hỏa ngục, của ngụy thần nữa, thành phần là quyền lực sự dữ và chết chóc đã thống trị loài người từ nguyên tội và đang bị tiêu diệt qua việc trừ quỉ của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét Thiên Sai Cứu Thế:
"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán".
"Nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn" ở đây không phải là ám chỉ đến "Thần Linh của Thiên Chúa" hay sao, vì chỉ có "ngón tay Thiên Chúa" mới có thể "tước hết khí giới hắn tin tưởng (ám chỉ khí giới của ma quỉ là giả dối gian ác, kiêu căng tự ái, hận thù ghen ghét, bất tuân phản loạn v.v.), và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt (những gì đã bị ma quỉ tước đoạt đây ám chỉ chính loài người đã loài trở thành nô lệ của ma quỉ, thuộc về ma quỉ)".
Sự kiện Chúa Giêsu trừ quỉ tiên báo vương quốc của ma quỉ đã đến lúc bị hủy diệt, và con người được giải thoát khỏi quyền lực thống trị và cầm buộc của chúng mà tự họ không thể nào thoát được. Thế nhưng, chỉ có ai muốn được giải cứu, chấp nhận việc giải cứu của Người mới thoát được quyền lực của hỏa ngục mà thôi. Phải chăng đó là ý nghĩa lời Chúa Giêsu kết thúc Bài Phúc Âm hôm nay: "Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán": "Thuận với Ta" ở chỗ tin vào Người - "ai không tin sẽ bị luận phạt" (Marco 16:16) - thành phần cho Người nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ trong Bài Phúc Âm hôm nay là thành phần "không thuận với Ta", tức không tin Người. "Ai không thu góp với Ta là phân tán", chẳng hạn người đầy tớ được giao cho 1 nén trong dụ ngôn các nén bạc, cho dù giữ nguyên nén bạc được trao cho vẫn là thành phần phân tán, bởi "không thu góp với (Người)" trong việc sinh lợi cho nén bạc theo ý chủ của nó, như ân sủng Chúa ban cần phải thông chia mà không thông chia thì mất hết ý nghĩa và nghịch lại với mụch đích của ân sủng Chúa ban!
"Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán" là một nguyên tắc còn được phản ảnh nơi nội dung của Bài Đọc 1 hôm nay. Qua miệng lưỡi của Tiên tri Giêrêmia, Thiên Chúa đã kêu gọi dân của Ngài hãy sống "thuận" theo Ngài như Ngài mong muốn để xứng đáng với Ngài là Đấng yêu thương tuyển chọn họ, và nhờ đó họ cũng được và mới được hạnh phúc: "Các ngươi hãy nghe lời Ta, thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân Ta. Các ngươi hãy đi trong mọi đường lối mà Ta truyền dạy cho các ngươi, để các ngươi được hạnh phúc". Thế nhưng, tiếc thay, dân của Ngài vẫn tiếp tục sống "nghịch" với Ngài, như chính Ngài đã nhận định về họ như sau:
"Nhưng họ không nghe, họ không chịu lắng tai, họ vẫn chạy theo ý định và lòng xấu xa của họ, họ đã ngoảnh mặt đi chứ không nhìn Ta. Từ ngày cha ông họ ra khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay, ngay từ sáng sớm, Ta lần lượt sai các tiên tri tôi tớ của Ta đến với họ, nhưng họ không nghe Ta, không chịu lắng tai nghe. Họ tỏ ra cứng đầu cứng cổ, và còn sống tệ hơn cha ông họ! Ngươi có nói cho họ biết tất cả các điều ấy, thì họ sẽ không nghe ngươi đâu; Vậy ngươi hãy nói cho họ biết: Này là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của họ, không chấp nhận kỷ luật, lòng trung tín đã mất và miệng họ không còn nhắc đến nữa".
Đó là lý do trong Bài Đáp Ca hôm nay, thánh vịnh gia đã kêu gọi dân của mình hãy nhận biết Thiên Chúa và nghe lời Ngài chứ đừng cứng lòng trước những mạc khải thần linh cứu độ của Ngài nữa:
1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi; chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy; hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta".
Ngày 08: Thánh
Gioan Thiên Chúa, tu sĩ lập dòng
Thánh Gioan Thiên Chúa sinh năm 1495 tại một làng nhỏ bên nước Bồ Ðào Nha.
Ðến tuổi trưởng thành, một hôm khi nghe thánh Gioan Avila rao giảng, ngài đã
rung cảm tự đáy lòng về đức từ bi bao la của Chúa. Vì thế, ngài đã bán hết
tất cả gia sản để có thể vươn tới đỉnh tình yêu như Chúa dạy. Ngài đã trở
nên như điên dại vì lòng kính mến Chúa và thương yêu đồng loại, đặc biệt là
những người nghèo khó. Ngài kiếm nhà để dung nạp và tìm cách chữa trị những
bệnh nhân tật nguyền bị xã hội ruồng bỏ. Thật vậy, chúng ta có thể nói: Tháh
nhân đã yêu tha nhân hơn chính mình.
Trong mọi hoàn cảnh khó khăn. Ngài luôn đặt niềm tin cậy vào sự quan phòng
của Chúa. Ðể đáp lại tấm lòng quảng đại của ngài, Chúa đã xui khiến nhiều
nhà hảo tâm dâng tiền giúp đỡ ngài.
Sau những ngày tận tâm phụng sự Chúa và đồng loại, ngài đã được Chúa gọi về
nhận triều thiên công phúc ngày 08/3/1550, hưởng thọ 55 tuổi.
Tuy khuất bóng nhưng lòng nhiệt thành của thánh Gioan vẫn bừng sáng và tiếp
tục giúp đỡ các bệnh nhân trên khắp thế giới qua dòng ngài đã lập.
Chúng ta hãy xin Chúa làm cho ngọn lửa đức ái trở nên thần dược hàn gắn vết
thương đau của nhân loại.
Thứ Sáu
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Hs 14, 2-10
"Chúng tôi sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay
chúng tôi làm ra".
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Ðây Chúa phán: Hỡi Israel, hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa ngươi, vì ngươi
đã gục ngã trong đường tội ác. Các ngươi hãy mang lấy lời Chúa và trở về với
Chúa; các ngươi hãy thưa rằng: "Xin hãy xoá bỏ mọi tội ác, và nhận điều
lành. Chúng tôi dâng lên Chúa của lễ ca tụng. Asurô sẽ không giải thoát
chúng tôi, chúng tôi sẽ không cỡi ngựa và sẽ không còn nói rằng: Thần minh
chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra, vì nơi Chúa, kẻ mồ côi tìm
được sự thương xót".
Ta sẽ chữa sự bất trung của họ và hết lòng yêu thương họ, vì Ta đã nguôi
giận họ. Ta sẽ như sương sa, Israel sẽ mọc lên như bông huệ và đâm rễ như
chân núi Liban. Các nhánh của nó sẽ sum sê, vẻ xinh tươi của nó như cây
ô-liu và hương thơm của nó như hương thơm núi Liban. Thiên hạ sẽ đến ngồi
núp dưới bóng mát của nó, họ sống bằng lúa mì và lớn lên như cây nho. Nó sẽ
được lừng danh như rượu Liban.
Hỡi Ephraim, tượng thần giúp ích gì cho ngươi không? Chính Ta sẽ nhậm lời và
săn sóc ngươi, cho ngươi mọc lên như cây hương nam xinh tươi. Nhờ Ta, ngươi
sẽ sinh hoa kết quả.
Ai là người khôn ngoan hiểu được các việc này, ai là người sáng suốt biết
được các việc đó? Vì chưng đường lối của Chúa là đường ngay thẳng và những
người công chính sẽ đi trên đó, còn các người gian ác sẽ gục ngã trên đó".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 80, 6c-8a. 8bc-9. 10-11ab. 14 và 17
Ðáp: Ta
là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, hãy nghe Ta răn bảo (x. c. 11 và 9a).
Xướng: 1) Tôi đã nghe lời nói mới lạ rằng: Ta đã cứu vai ngươi khỏi mang
gánh nặng, tay ngươi không còn phải mang thúng mủng. Trong cảnh gian truân
ngươi cầu cứu, và Ta giải thoát ngươi. - Ðáp.
2) Ta đáp lời ngươi từ trong áng mây vang ran sấm sét, Ta thử thách ngươi
gần suối nước Mêriba. Hỡi dân tộc Ta, hãy nghe Ta răn bảo, Israel, ước chi
ngươi biết nghe lời Ta! - Ðáp.
3) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác cả, ngươi cũng đừng thờ tự một
chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi
ra khỏi Ai-cập. - Ðáp.
4) Phải chi dân của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối Ta mà ăn
ở: Ta sẽ lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc
đá chảy ra. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm:
Phúc cho những ai thành tâm thiện chí giữ lấy lời Chúa, và nhẫn nại sinh hoa
kết quả.
Phúc Âm: Mc 12, 28b-34
"Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy kính mến Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Marcô.
Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng:
"Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: "Hỡi Israel, hãy nghe đây:
Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa
ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi". Còn đây là
giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". Không
có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó". Luật sĩ thưa Ngài: "Thưa Thầy,
đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài
Người, chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức
mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ
vật hy sinh". Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không
còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì
nữa.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống nhận biết
Hôm nay, Thứ Sáu trong Tuần Thứ Ba Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa trong ngày cùng nhắm đến một thực tại thần linh duy nhất cũng là một ơn gọi duy nhất vô cùng quan trọng cho phần rỗi của con người, đó là "Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy kính mến Người" (Bài Phúc Âm), và chính vì thế mà "chúng tôi sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra" (Bài Đọc 1).
Ngày 09: Thánh
Phanxica Rômana, quả phụ nữ tu
Thánh Phanxica sinh năm 1384 tại kinh thành La Mã trong gia đình quý tộc và
đạo đức. Ngay từ buổi thiếu thời, thánh nhân đã có được nhiều đức tính như
nhu mì, đơn sơ, trầm lặng, nết na, và không để cho mình bị lôi kéo theo cuộc
sống thác loạn xa hoa của người đời. Ngài thường lui tới các bệnh viện và
các trại tế bần để an ủi và chăm sóc các bệnh nhân, vì ngài thường nói:
"Chính ở đó, Chúa dạy tôi nhiều bài học".
Khi lớn, Phanxica vâng lời cha mẹ đi kết hôn và sinh hạ được hai trai một
gái. Trong cuộc sống gia đình, thánh nữ luôn tỏ ra là một người vợ đảm đang,
một người mẹ dịu hiền và tận tâm.
Sau khi đã chu toàn bổn phận gia đình, thánh nữ đã dâng mình cho Chúa trong
nhà dòng do chính ngài sáng lập. Ngài qua đời ngày 09/3/1440, hưởng thọ 56
tuổi. Xác người được mai táng trong nhà thờ của tu viện. Nơi đây, Chúa đã
làm nhiều phép lạ do lời cầu bầu của thánh nữ.
Ðức Giáo Hoàng Phaolô V đã tôn ngài lên bậc Hiển Thánh năm 1608.
Thứ Bảy
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Hs 6, 1b-6
"Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ".
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Ðây Chúa phán: Trong cảnh khốn khổ, từ ban mai, họ chỗi dậy chạy tìm kiếm
Ta. "Hãy đến, và chúng ta quay trở về với Chúa, vì Chúa bắt chúng ta, rồi sẽ
tha chúng ta; Chúa đánh chúng ta, rồi sẽ lại chữa chúng ta. Sau hai ngày
Người cho chúng ta sống lại, đến ngày thứ ba, Người đỡ chúng ta đứng lên, và
chúng ta sẽ sống trước mặt Người. Chúng ta hãy nhận biết Chúa và hãy ra sức
nhận biết Chúa. Người sẵn sàng xuất hiện như vừng đông, và sẽ đến cùng chúng
ta như mưa thuận và như mưa xuân trên mặt đất".
Hỡi Ephraim, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Hỡi Giuđa, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Tình
thương các ngươi như đám mây ban sáng, như sương sớm tan đi. Vì thế, Ta dùng
các tiên tri nghiêm trị chúng, và Ta dùng lời từ miệng Ta phán ra mà giết
chúng. Án phạt các ngươi bừng lên như ánh sáng. Vì chưng, Ta muốn tình yêu,
chớ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn
thiêu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 18-19. 20-21ab
Ðáp: Ta
muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ (Hs 6, 6).
Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con
theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng
tội ác. - Ðáp.
2) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu Chúa sẽ không
ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê
tấm lòng tan nát, khiêm cung. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin thịnh tình với Sion theo lòng nhân hậu, hầu xây lại thành
trì của Giêrusalem. Bấy giờ Chúa con sẽ nhận những lễ vật chính đáng, những
hy sinh với lễ toàn thiêu. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 8, 12b
Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự
sống".
Phúc Âm: Lc 18, 9-14
"Người thu thuế ra về được khỏi tội".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là
người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: "Có hai người lên đền thờ cầu
nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng,
cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác:
tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi
tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi". Người thu
thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: "Lạy
Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội". Ta bảo các ngươi: người này ra về
được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên,
sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống biết phận
Ngày Thứ Bảy, ngày cuối cùng trong Tuần Thứ Ba Mùa Chay hôm nay, Giáo Hội chọn đọc các bài phụng vụ lời Chúa cho ngày này có nội dung đề cao giá trị của đức bác ái yêu thương cao cả và bất khả thiếu trong đời sống đạo của Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô, hơn là hy tế hay lễ vật của con người dâng lên Thiên Chúa, dù tự bản chất, các thứ hy tế hay lễ vật ấy vốn cao quí, tốt lành và cần thiết, liên quan đến phận vụ tôn thờ của con người đối với Thiên Chúa.
Đó là lý do, Chúa Giêsu đã nói với Chị Thánh Faustina rằng: "Giữa Cha và con có một vực thẳm vô đáy, một vực thẳm phân chia Tạo Hoá với tạo vật. Thế nhưng, vực thẳm này đã được tình thương của Cha lấp đầy" (Nhật ký 1576). Không phải hay sao, vực thẳm giữa họ là tạo vật với Ngài là Thiên Chúa, như từ đất tới trời, được lấp đầy khi "Lời hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), và giữa họ là tội nhân với Ngài là Tình Yêu, như từ hỏa ngục lên tới thiên đàng, đã được lấp đầy bằng chiều cao của cây Thánh Giá Người tử nạn.
Thế nên, hình như càng tội lỗi càng gần Nước Trời, càng gần với Lòng
Thương Xót Chúa, càng nên thánh nhanh, một cách đốt giai đoạn như người
thu thuế trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, đúng như lời Chúa Giêsu
đã khẳng định với Chị Thánh Faustina: "Các đệ nhất đại tội nhân
cũng đạt được tầm mức thánh thiện cao cả, chỉ cần họ tin
tưởng vào tình thương của Cha" (Nhật ký
1784). Tôi
vẫn hằng xin Chúa cho con luôn là một tội nhân mà luôn cảm thấy mình
đáng thương, hơn là một thánh nhân mà lại cứ tưởng người khác đáng
thương hơn mình.
Vì nếu bản chất của Thiên Chúa là tình yêu cô cùng nhân hậu, lúc nào cũng muốn tỏ ra hết cỡ bản chất thần linh này của mình để chứng thực mình là ai và như thế nào, thì ở đâu hay con người nào càng trở thành trống rỗng, bằng tất cả tấm lòng tan nát khiêm cung và tin tưởng của họ, thì họ càng được Ngài thông bản tính vô cùng trọn lành của Ngài là lòng thương xót cho họ, để lấp đầy tất cả mọi yếu hèn, khiếm khuyết, sai lầm và tội lỗi của họ, nhờ đó, bản thân họ hóa thánh, tức trở thành như là một cuộc thần hiển của Ngài, như một bụi gai (bản tính tội lỗi) bốc lửa (được thương xót) mà không bị thiêu rụi (không kiêu hãnh vì được thương) - (xem Xuất Hành 3:2).