SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 35, 1-6a. 10
"Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ chúng tôi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng, và khen ngợi rằng: Ðã ban cho Israel được vinh quang của xứ Liban, huy hoàng của Carmel và Saron. Chính chúng sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa, và huy hoàng của Thiên Chúa chúng ta.
Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm cho tăng sức những đầu gối mỏi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi.
Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết sẽ trốn xa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10
Ðáp: Lạy Chúa, xin đến cứu độ chúng con (x. Is 35, 4).
Xướng: 1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.
2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù; Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục. Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân; Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.
3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Ðức Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Gc 5, 7-10
"Hãy vững lòng, vì Chúa gần đến".
Trích thư Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu. Vậy anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng kêu trách lẫn nhau, để khỏi phải bị kết án. Này đây quan toà đã đứng trước cửa. Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Is 61, 1 (x. Lc 4, 12)
Alleluia, alleluia! - Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 11, 2-11
"Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Gioan ở trong ngục nghe nói về các việc làm của Chúa Kitô. Ông sai môn đệ đến thưa Ngài rằng: "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?" Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta".
Khi những người được sai đến đã đi rồi, Chúa Giêsu liền nói với đám đông về Gioan rằng: "Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc lả lướt thì ở nơi cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: "Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con". Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả; nhưng người nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn ông".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Chính Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng trông đợi được Chúa Kitô cứu độ
Chủ đề chung Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể" lại càng hiện tỏ hơn vào Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng hôm nay là thời điểm Chúa gần đến, như phụng vụ hôm nay của Giáo Hội mang một mầu hồng tươi vui chứ không còn mầu tím xám hối nữa.
Đúng thế, ngay trong
Tuần Ba Mùa Vọng này, Giáo Hội sẽ bắt đầu tuần bát nhật trước Giáng Sinh, từ
ngày 17 đến hết 24 tháng 12, một thời điểm với những bài Phúc Âm trực tiếp
liên quan đến biến cố nhập thể và giáng sinh của Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai
Cứu Thế.
Bởi vậy, Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng hôm nay đây chẳng khác gì như một dạo khúc về mầu nhiệm và biến cố "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng sắp đến với dân của Chúa là thành phần đang trông đợi (thậm chí cho đến bây giờ) Người đến như một Vị Thiên Sai Cứu Độ.
Đó là lý do chúng ta thấy Bài Đọc 1 và 2, kể cả bài Đáp Ca đều có nội dung hân hoan vui mừng và đều kêu gọi dân Chúa hãy vui lên.
Bài Đọc 1 hôm nay Tiên Tri Isaia đã cho thấy một bầu khí hãy vui lên tràn đầy hy vọng như sau:
"Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng, và khen ngợi rằng: Ðã ban cho Israel được vinh quang của xứ Liban, huy hoàng của Carmel và Saron. Chính chúng sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa, và huy hoàng của Thiên Chúa chúng ta.... Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết sẽ trốn xa".
Bài Đáp Ca hôm nay Thánh Vịnh gia cũng đã vang lên niềm hân hoan bằng lòng xác tín tin tưởng của mình về một Vị Thiên Chúa cứu độ như thế này:
1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.
2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù; Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục. Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân; Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.
3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Ðức Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.
Ở Bài Đọc
II Thánh Giacôbê Tông Đồ, theo chiều hướng của Bài Đáp Ca, đồng
thanh kêu gọi dân Do Thái hãy tin tưởng chờ đợi Vị Thiên Chúa cứu độ đã đến
nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng "sẽ xuất hiện lần thứ hai để mang ơn cứu độ cho
những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28): "Anh
em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu
quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu. Vậy anh em
hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến".
Bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến chính bản thân của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đang ngồi trong tù sai các môn đệ hỏi Chúa Giêsu là Đấng ngài đã loan báo đến sau ngài nhưng cao trọng hơn ngài, rằng "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?" Qua câu trả lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ của vị tiền hô này rằng "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó", Người chẳng những chứng tỏ rằng Người quả thật đúng như những gì vị tiền hô đã làm chứng, là Đấng đúng như Thánh Vịnh gia và các vị tiên tri đã nói đến, như được thấy ngay trong Bài Đọc I và Bài Đáp Ca hôm nay, mà còn củng cố đức tin cho chính vị tiền hô này nữa, khi ngài "ở trong ngục nghe nói về các việc làm của Chúa Kitô", nhưng cảm thấy hình như cũng chẳng cao trọng hay quyền năng hơn ngài gì hết. Đó là lý do ở cuối câu trả lời của mình, Chúa Giêsu đã cảnh giác như thế này: "phúc cho ai không vấp ngã vì Ta".
Chắc là nhờ lời chứng của Chúa Kitô này mà Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã kiên trung cho đến cùng, đã tiếp tục làm chứng cho Chúa Kitô là "chân lý" (Gioan 14:6) bằng chính cái đầu của mình, và cái chết mất đầu của ngài đã ám chỉ cuộc tử nạn của Chúa Kitô là Đầu của ngài, Đấng đến sau nhưng cao trọng hơn ngài, nhờ đó ngài được nên giống Chúa Kitô hơn ai hết.
Thật vậy, nếu ngay từ ban đầu, khi vừa mới được cưu mang trong lòng thai mẫu 6 tháng, vị tiền hô này đã được Chúa Kitô mang ơn cứu độ đến cho ngài, nên ngài đã hân hoan nhẩy mừng trong lòng mẹ thế nào (xem Luca 1:41), thì trước khi chết, ngài cũng được Chúa Kitô mang ơn cứu độ đến cho ngài như vậy, bằng chính chứng từ của Người, giúp ngài thêm tin tưởng vào Đấng đến sau.
Không biết Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả có nghĩ rằng nếu nhân vật Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai, là Đấng đến sau cao trọng và quyền năng hơn mình mà tại sao không ra tay cứu ngài khỏi bị ngục tù hay chăng, nhưng quả thực Chúa Kitô đã cứu ngài thoát khỏi ngục tù ngờ vực bằng chính lời của Người trong bài Phúc Âm hôm nay. Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã đóng vai trò "quan toà đã đứng trước cửa" ngục thất của vị tiền hô, như Tông Đồ Giacôbê đã đề cập đến trong Bài Đọc II hôm nay.
Việc Chúa Kitô củng cố niềm tin cho Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đang cảm thấy bối rối về chính Đấng đến sau ngài cũng nên trọn những lời tiên tri Isaia trong Bài Đọc I hôm nay về chung dân Do Thái, trong đó bao gồm cả chính bản thân của vị tiền hô này, như trong Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm cho tăng sức những đầu gối mỏi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi".
Nhờ được Chúa Kitô củng cố đức tin cho Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chẳng những tiếp tục sứ vụ làm chứng cho Đấng đến sau ngài bằng mạng sống của ngài mà còn nhờ đó ngài củng cố đức tin cho chung những ai đã đến lãnh nhận phép rửa của ngài ở Sông Jordan cũng như cho riêng thành phần môn đệ của ngài, nhờ đó, với tư cách là một vị tiên tri, vị tiên tri đệ nhất trong các tiên tri, ngài mới xứng đáng trở thành gương mẫu như Tông Đồ Giacôbê đã nêu lên trong Bài Đọc II hôm nay: "Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa".
Như thế, chính Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả được sai đến trước Chúa Kitô để dọn đường của Người và cho Người cũng sống trong niềm tin tưởng của Mùa Vọng đợi trông. Tuy ngài đã được tận mắt thấy Đấng đến sau ngài, đã làm chứng về Đấng ấy, và đã làm phép rửa cho Người, theo ơn gọi và sứ vụ tiền hô của mình, nhưng tự bản thân của mình, ngài vẫn phải sống đức tin, bất khả châm chước, như chính Đức Maria Mẹ Chúa Kitô đầy ơn phúc đã phải trải qua cuộc sống đức tin, hay như các tông đồ được sống ngay bên cạnh Chúa Kitô cũng bị thử thách đức tin, một đức tin liên quan đến chính thực tại thần linh nơi nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, tức đến chính sự thật về con người Giêsu Nazarét này, một sự thật đã được Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ở trong tù đặt lại vấn đề: "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?", một sự thật đã được vị lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô tuyên xưng vô cùng chính xác: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), nhưng vị này vẫn chối bỏ Người 3 lần, một sự thật cuối cùng đã được Tông Đồ Toma tuyên xưng trước Đấng Phục Sinh từ trong cõi chết "là Chúa và là Thiên Chúa" (Gioan 20:28), nhưng là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta - Emmanuel.
Ngày 11: Thánh Ðamasô I, Giáo Hoàng
Thánh Ðamasô sinh tại La Mã vào khoảng năm 305. Năm 366, sau khi Ðức Thánh
Cha Liberiô băng hà, Hội Thánh phải trải qua một cơn khủng hoảng trầm trọng
do tình hình chính trị tạo nên. Chính trong hoàn cảnh khó khăn này, thầy phó
tế Ðamasô được bầu lên ngôi Giáo Hoàng.
Vừa lên cầm quyền, ngài đem hết tài lực ra để ổn cố Giáo Hội, cổ vũ việc học
hỏi Sách Thánh, đặc biệt ngài đã ủy thác cho thánh Hiêronimô dịch bản Thánh
Kinh ra La ngữ. Ngài còn tổ chức lại phụng vụ, phổ biến việc đọc và hát
thánh vịnh trong toàn Giáo Hội. Ðồng thời cũng thúc đẩy việc khảo cứu và tôn
sùng các thánh tử đạo.
Ngoài những công việc cải tổ trên, ngài còn phải đương đầu với các bè rối
đang tàn phá Giáo Hội bấy giờ, nhất là phái Ariô. Trong cuộc chiến đấu với
đối phương, ngài luôn tỏ ra giàu lòng quảng đại, rộng lượng tha thứ nên đã
thức tỉnh được nhiều người lầm lạc trở về. Trong công đồng chung ở
Constantinople, ngài được coi như chiến lũy của Ðức Tin vì thái độ cương
quyết đối với các bè rối.
Thánh Ðamasô tạ thế năm 384, hưởng thọ 80 tuổi.
Thứ Hai
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ds 24, 2-7. 15-17a
"Ngôi sao từ nhà Giacóp mọc lên".
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, Balaam ngước mắt lên nhìn Israel cắm trại theo từng bộ lạc, và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên ông, ông liền tuyên sấm và nói: "Lời sấm của Balaam, con ông Beor, lời sấm của người đang mở mắt; lời sấm của người nghe lời Thiên Chúa, của người chiêm ngắm Ðấng Toàn Năng, của người ngã mà mắt vẫn mở. Hỡi nhà Giacóp, doanh trại của ngươi đẹp biết bao! Hỡi Israel, chỗ cư ngụ của ngươi tốt dường nào! Nó rộng lớn như thung lũng, như những vườn bên dòng sông, như cây trầm hương mà Thiên Chúa đã trồng, như cây hương nam bên suối nước. Nước tràn ra khỏi thùng chứa, và hạt giống của ngươi được tưới dư dật. Vua ngươi sẽ trổi vượt Agag, và vương quốc ngươi sẽ uy hùng".
Balaam lại tuyên sấm và nói: "Lời sấm của Balaam, con của Beor, lời sấm của người đang mở mắt, lời sấm của người nghe lời Thiên Chúa, của người biết ý nghĩ Ðấng Tối Cao, của người xem thấy hình ảnh Ðấng Toàn Năng, của người ngã mà mắt vẫn mở. Tôi thấy Người, chưa phải bây giờ. Tôi thấy Người không phải gần. Một ngôi sao từ Giacóp mọc lên. Một phủ việt từ Israel xuất hiện".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9
Ðáp: Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa (c. 4b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.
3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa đến, hãy ra đón Người; chính Người là Hoàng tử Bình an. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 21, 23-27
"Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy Chúa Giêsu vào Ðền thờ. Lúc Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão trong dân đến hỏi Người rằng: "Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?" Chúa Giêsu trả lời: "Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó. - Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?" Họ bàn tính với nhau rằng: "Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri". Bấy giờ họ trả lời Chúa Giêsu rằng: "Chúng tôi không được biết". Chúa Giêsu nói với họ: "Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
nhập thể chứng từ
Hôm nay, Thứ Hai Mùa Vọng Tuần Thứ Ba, Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại lời đối đáp giữa "các trưởng tế và kỳ lão trong dân" hỏi Chúa Giêsu trong "đền thờ" về thẩm quyền của Chúa Kitô, Đấng vừa ra tay đánh đuổi thành phần dân chúng buôn bán trong đền thờ, và cả câu Người trả lời họ.
"Khi ấy Chúa Giêsu vào Ðền thờ. Lúc Người giảng dạy, các
thượng tế và kỳ lão trong dân đến hỏi Người rằng: 'Ông lấy quyền nào mà làm
những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?' Chúa Giêsu trả lời: 'Tôi cũng
hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các
ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó. - Phép Rửa của Gioan bởi đâu
mà có? Bởi trời hay bởi người ta?' Họ bàn tính với nhau rằng: 'Nếu ta nói
bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và
nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi
Gioan như một vị tiên tri'. Bấy giờ họ trả lời Chúa Giêsu rằng: 'Chúng tôi
không được biết'. Chúa Giêsu nói với họ: 'Tôi cũng không nói cho các ông
biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó'".
Ở đây, chúng ta không bàn đến những chi tiết nào khác ngoài chi tiết liên quan đến Mùa Vọng cũng là chi tiết liên quan tới chính bản thân của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng như đến phép rửa của ngài được Chúa Giêsu nhắc đến trong câu vừa trả lời vừa chất vấn của Người.
Tại sao Chúa Giêsu lại nhắc đến Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của Người ở đây, trong trường hợp này, liên quan đến thẩm quyền thanh tẩy đền thờ của Người, và vào thời điểm sắp sửa xẩy ra biến cố Vượt Qua của Người? Vẫn biết, để chứng tỏ mình là ai và từ đâu đến, Chúa Giêsu chỉ cần chứng từ bởi trời là Cha của Người qua những việc Người làm cũng đủ và mới chính xác, chứ không cần đến chứng từ của loài người là Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này, như Người đã khẳng định cùng dân Do Thái như thế:
1)
Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước
của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là
Thiên Chúa cứu độ con.
2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.
3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.
Thứ Ba
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Xp 3, 1-2. 9-13
"Chúa hứa ban ơn cứu độ cho những người nghèo khó".
Trích sách tiên tri Xôphônia.
Chúa phán: Khốn cho thành phản nghịch và ô uế, cho thành làm sự hung bạo. Nó không nghe lời, không chịu sửa dạy, không tin tưởng vào Thiên Chúa, không đến gần Chúa mình.
Bấy giờ Ta sẽ cho dân Ta môi miệng thanh sạch để mọi người kêu cầu danh Chúa và nhất tâm phụng sự Người. Từ phía bên kia các sông xứ Ethiôpi, con cái những kẻ tha hương kêu cầu Ta, đem lễ vật đến dâng cho Ta.
Ngày đó, ngươi sẽ không còn phải xấu hổ vì các lỗi lầm của ngươi đã phạm đến Ta. Vì Ta sẽ cất xa khỏi ngươi những kẻ chiến thắng kiêu căng và từ đây, ngươi sẽ mãi mãi được vinh quang trên núi thánh Ta. Ta sẽ để lại giữa ngươi một dân tộc nghèo khó và thiếu thốn và họ sẽ tin tưởng vào danh Chúa. Những người Israel còn sót lại sẽ không làm điều gian ác, không nói dối, người ta không thấy chúng nói lời phỉnh gạt. Chúng sẽ như đàn chiên ăn cỏ và nghỉ ngơi, và sẽ không ai làm phiền chúng.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 6-7. 17-18. 19 và 23
Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Ngài. Trong Chúa, linh hồn tôi hãnh diện. Bạn nghèo hãy nghe và hãy vui mừng. - Ðáp.
2) Hãy nhìn về Chúa, để các bạn sẽ vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Ngài đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.
3) Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.
4) Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương tan nát. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Này đây Chúa đến để cứu dân Người; hạnh phúc thay những ai sẵn sàng đón rước Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 21, 28-32
"Gioan đến và những kẻ tội lỗi tin ngài".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn cho cha!" Nó thưa lại rằng: "Con không đi". Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: "Thưa cha, vâng, con đi". Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?" Họ đáp: "Người con thứ nhất". Chúa Giêsu bảo họ: "Quả thật, Ta bảo các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
nhập thể nhận thức
Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Mùa Vọng trong Tuần Thứ Ba hôm nay, tiếp theo ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua, vẫn liên quan đến Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả và vẫn với thành phần lãnh đạo dân do Thái.
Nếu trong Bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu mới đặt vấn đề với thành phần lãnh đạo trong dân này, như để gợi ý cho họ suy nghĩ, một thành phần trả lời lập lửng nửa vời như chối từ sự thật được Người gợi lên trong câu trả lời mang tính cách chất vấn của Người, và chính câu trả lời "chúng tôi không biết" của họ đã cho thấy niềm tin của họ tới đâu và ra sao.
Bởi thế không lạ gị Chúa Giêsu đã phải sử dụng đến một dụ ngôn nữa ám chỉ về chính họ, hy vọng họ sẽ không còn chạy quanh chối cãi về tình trạng quanh quéo giả hình của họ nữa, đó là dụ ngôn 2 người con trước ý muốn của người cha mong đứa nào của ông cũng đi làm vườn nho cho ông.
"Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: 'Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn cho cha!' Nó thưa lại rằng: 'Con không đi'. Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: 'Thưa cha, vâng, con đi'. Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?'"
Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua câu vừa trả lời vừa chất vấn của Chúa Giêsu với thành phần lãnh đạo trong dân chúng này liên quan đến phép rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã gián tiếp trả lời cho họ về thẩm quyền của Người được họ hạch hỏi Người họ không muốn trả lời, thì trong bài Phúc Âm hôm nay họ đã mắc bẫy Người khi lắng nghe dụ ngôn về 2 người con được cha sai đi làm vườn nho cho cha mình: "Họ đáp: 'Người con thứ nhất'".
Thấy họ đã rơi vào bẫy sự thật để nhờ đó sự thật mới có thể giải phóng họ (xem Gioan 8:32), "Chúa Giêsu bảo họ: 'Quả thật, Tôi bảo các ông hay, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài'".
Ở đây, Chúa Giêsu như nhắc nhở thành phần lãnh đạo dân Do Thái này về hiện tượng Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã được chính Thánh ký Mathêu của bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ở phần đầu Phúc Âm của ngài, liên quan đến chung dân chúng, trong đó bao gồm cả "những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài" cũng như chính thành phần lãnh đạo này như sau:
"Hồi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: 'Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần'. Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối...".
"Ngày đó, ngươi sẽ không còn phải xấu hổ vì các lỗi lầm của ngươi đã phạm đến Ta. Vì Ta sẽ cất xa khỏi ngươi những kẻ chiến thắng kiêu căng và từ đây, ngươi sẽ mãi mãi được vinh quang trên núi thánh Ta. Ta sẽ để lại giữa ngươi một dân tộc nghèo khó và thiếu thốn và họ sẽ tin tưởng vào danh Chúa. Những người Israel còn sót lại sẽ không làm điều gian ác, không nói dối, người ta không thấy chúng nói lời phỉnh gạt. Chúng sẽ như đàn chiên ăn cỏ và nghỉ ngơi, và sẽ không ai làm phiền chúng".
Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa tâm tình hân hoan vui sướng của những con người cảm nghiệm thần linh về một Vị Thiên Chúa cứu độ của mình như sau:
1)
Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Ngài.
Trong Chúa, linh hồn tôi hãnh diện. Bạn nghèo hãy nghe và hãy vui mừng.
2) Hãy nhìn về Chúa, để các bạn sẽ vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Ngài đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.
3) Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo.
4) Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương tan nát. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi.
Ngày 13: Thánh Lucia, đồng trinh nữ đạo
Thánh Lucia Ðồng Trinh Tử Ðạo (+ 304)
Thánh nữ Lucia quê tại Syracusas thuộc nước Ý. Mồ côi cha từ thuở nhỏ, Lucia hằng ấp ủ ý tưởng hiến trọn cuộc đời cho Chúa, nhưng mẹ ngài ép phải lập gia đình. Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, Chúa đã làm một phép lạ tỏ tường để chữa bà mẹ khỏi cơn bệnh loạn huyết trầm trọng nhờ lời cầu nguyện của Lucia.
Sau biến cố này, Lucia từ chối lời cầu hôn và bán hết phần gia tài mà bà mẹ dành cho làm của hồi môn, rồi phân phát cho người nghèo khó. Vì quá thất vọng, chàng công tử bị khước từ kia đã tố cáo với hoàng đế là Lucia có đạo, nên ngài đã bị bắt và dẫn đến trước mặt quan Paschase. Vị quan này dùng lời đường mật cũng như mọi hình khổ để bắt ngài phải dâng hương tế thần, nhưng thất bại. Ông truyền điệu ngài tới nơi tội lỗi để hủy diệt đức trinh khiết của ngài, nhưng lạ thay Chúa đã khiến thân xác của ngài trở nên nặng như núi đá đến nỗi không ai kéo đi được. Ông còn ra lệnh tẩm dầu vào người rồi đốt, nhưng một lần nữa Chúa đã gìn giữ thân xác ngài toàn vẹn giữa đống lửa hồng.
Cuối cùng thánh nữ Lucia đã được lãnh phúc tử đạo dưới lưỡi gươm của lý hình năm 304 dưới thời bách đạo của Ðioclêtianô. Trước khi chết, ngài còn tiên đoán Giáo Hội sắp được bình an. Xác ngài được chôn cất ngay tại quê nhà hương.
Thứ Tư
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 45, 6b-8. 18. 21b-26
"Trời cao, hãy đổ sương mai!"
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chính Ta là Chúa, và không có Chúa nào khác. Ta đã dựng nên ánh sáng và tối tăm. Ta đã dựng nên hạnh phúc và tai hoạ. Chính Ta là Thiên Chúa đã làm những sự ấy. Trời cao, hãy đổ sương mai! Ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công Chính! Ðất hãy mở ra và trổ sinh Ðấng Cứu Ðộ, và đồng thời sự công chính hãy xuất hiện. Chính Ta là Chúa đã dựng nên loài người. Vì Thiên Chúa, Ðấng đã dựng nên các tầng trời, chính Người đã dựng nên địa cầu, đã tạo ra và làm cho (nó) bền vững. Người không dựng nên địa cầu hoang vu, nhưng đã dựng nên cho người ta ở, chính Người phán: Ta là Chúa và không có Chúa nào khác. Nào Ta chẳng phải là Chúa, và ngoài Ta, còn có Chúa nào khác đâu? Không có Thiên Chúa công bình và cứu độ nào khác ngoài Ta.
Hỡi các người ở tận cùng trái đất, hãy trở lại cùng Ta và các ngươi sẽ được cứu thoát. Vì Ta là Thiên Chúa và không có Chúa nào khác. Ta lấy tên Ta mà thề; lời công chính phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở lại: mọi gối sẽ quỳ xuống trước mặt Ta, và mọi lưỡi sẽ lấy tên Ta mà thề rằng: Nhờ Chúa mà tôi sẽ được công chính và sức mạnh. Người ta sẽ đến cùng Chúa, và mọi kẻ chống đối Người sẽ phải hổ thẹn. Toàn thể dòng dõi Israel sẽ được công chính hoá và được hiển vinh.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14
Ðáp: Hỡi các tầng trời, hãy đổ sương mai! Hỡi ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công Chính! (Is 45,8).
Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng ta. - Ðáp.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh từ trời nhìn xuống. - Ðáp.
3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng ta sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa đến, hãy ra đón Người, chính Người là Hoàng tử Bình an. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 19-23 (Hl 18b-23)
"Hãy thuật lại với Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Gioan gọi hai người trong số môn đệ của mình, sai họ đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?" Khi những người này đến cùng Chúa Giêsu, họ thưa Ngài rằng: "Gioan Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi Ngài: Ngài có phải là Ðấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?" Ngay lúc đó, Chúa chữa những người khỏi bệnh hoạn tật nguyền và quỷ ám, và cho nhiều người mù được thấy. Ngài đáp lại rằng: "Các ông hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy: người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng; và phúc cho ai không vấp phạm vì Ta".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
nhập thể phải đến
Hôm nay, Thứ Tư Tuần III Mùa Vọng, Bài Phúc Âm theo Thánh ký Luca hôm nay là bài Phúc Âm chuyển tiếp rất hay, rất khít khao với Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh (17-24/12). Ở chỗ, chuyển từ Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là vị được sai đến trước sang Đức Giêsu Kitô là Đấng đến sau ngài.
Thật vậy, từ 3 ngày trong tuần cuối cùng của Tuần II Mùa Vọng cho tới hôm qua, Thứ Ba Tuần III Mùa Vọng, chúng ta thấy Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả xuất hiện qua những lời Chúa Giêsu nói trong các bài Phúc Âm khác nhau. Thế nhưng, hôm nay, trước khi bước vào Tuần Bát Nhật trước Giáng Sinh, với những bài Phúc Âm liên quan trực tiếp hướng đến hay dẫn đến biến cố Giáng Sinh, một Đức Giêsu Kitô xuất hiện nơi vấn nạn được các môn đệ của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đặt ra cho Người: "Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?"
Tại sao có câu hỏi này, theo bài Phúc Âm hôm nay thì đó là do Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, bấy giờ đang bị quận vương Hêrôđê giam trong ngục, đã "gọi hai người trong số môn đệ của mình, sai họ đến thưa Chúa Giêsu" như thế. Vấn đề quan trọng được đặt ra ở đây là phải chăng vấn nạn này của chính Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, hay từ các môn đệ của vị tiền hô?
Chẳng lẽ Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cảm thấy chán nản ở trong tù, vì không thấy Đấng đến sau ngài và quyền năng hơn ngài đến cứu ngài mà ngài có nẩy lên ý nghĩ ngờ vực về Đấng đã được ngài chẳng những tự mình nhận biết (xem Gioan 1:33-34) mà còn giới thiệu cho chung dân chúng (xem Gioan 1:29) cũng như cho riêng môn đệ của ngài (xem Gioan 1:35-36)?
Cũng không phải là không có thể xẩy ra với Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này như thế, như đã từng xẩy ra cho vị đại tiên tri Elia mà ngài là hậu thân như một Elia cần phải đến trước, như trong Bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước cho biết, một Elia ngày xưa vừa mới làm cho toàn dân Do Thái mở mắt ra mà bỏ thần Baal quay về với Thiên Chúa, lại cảm thấy lo sợ bị bà hoàng hậu vốn tôn sùng vị thần này hăm dọa lấy mạng, đến độ chạy trốn và tỏ ra chán nản (xem Sách Các Vua, quyển 1, đoạn 18 và 19).
Nếu câu hỏi này không phải của chính Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả thì có thể từ các môn đệ của ngài thắc mắc về các công việc Chúa Giêsu làm, những việc làm theo như họ nhận xét có thể không được chính xác với những lời giới thiệu to tát của thày các vị trước kia về một Đấng đến sau, và vì thế nên các vị được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả khuyên họ nên đi tìm chính Đức Kitô mà hỏi, như thành phần lãnh đạo Do Thái xưa đến hỏi ngài có phải là Đức Kitô chăng?
Không cần biết câu hỏi "Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?" từ chính Tiền Hô Gioan Tẩy Giả hay từ các môn đệ của ngài, chúng ta chỉ biết rằng, dường như là của chính Thánh Gioan Tẩy Giả, vì trong câu trả lời, Chúa Giêsu có nói rằng: "Các ông hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy", và đồng thời cũng có thể là từ các môn đệ của ngài, bởi thế trong câu trả lời của mình, Chúa Giêsu đã tỏ cho họ thấy quyền năng của Người vượt hẳn thày của các vị: "người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng".
Vấn đề chính yếu trong bài Phúc Âm hôm nay không phải là câu hỏi "Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?" được đặt ra từ đâu mà có, từ chính Tiền Hô Gioan Tẩy Giả hay từ các môn đệ của ngài, nhưng là chính nội dung của câu Chúa Giêsu trả lời, một nội dung được Người vạch ra cho thấy sứ vụ cứu độ của Người là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, một sứ vụ được thể hiện vào lúc ban đầu như dấu báo Ơn Cứu Độ sắp tới, qua việc Người chẳng những chữa lành phần xác cho dân chúng là thành phần đang trông chờ Người đến ("người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại"), mà còn cứu rỗi cả phần hồn ("kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng").
Phải, Thiên Chúa sai Con của Ngài xuống trần gian là để cứu độ trần gian, bởi Ngài là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, Đấng đã tự hứa cứu độ loài người ngay từ ban đầu (xem Khởi Ngyên 3:15) thì Ngài không thể nào không hoàn thành, bằng bất cứ phương cách nào khôn ngoan thượng trí nhất (kể cả chuyện gây ra tai họa), lời hứa của Ngài, Đấng đã dựng nên con người là để cho họ được sống và sống viên mãn chứ không phải chết, như những gì Thiên Chúa đã nói qua miệng Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Chính Ta là Chúa, và không có Chúa nào khác. Ta đã dựng
nên ánh sáng và tối tăm. Ta đã dựng nên hạnh phúc và tai hoạ. Chính Ta là
Thiên Chúa đã làm những sự ấy. Trời cao, hãy đổ sương mai! Ngàn mây, hãy mưa
Ðấng Công Chính! Ðất hãy mở ra và trổ sinh Ðấng Cứu Ðộ, và đồng thời sự công
chính hãy xuất hiện. Chính Ta là Chúa đã dựng nên loài người. Vì Thiên Chúa,
Ðấng đã dựng nên các tầng trời, chính Người đã dựng nên địa cầu, đã tạo ra
và làm cho (nó) bền vững. Người không dựng nên địa cầu hoang vu, nhưng đã
dựng nên cho người ta ở, chính Người phán: Ta là Chúa và không có Chúa nào
khác. Nào Ta chẳng phải là Chúa, và ngoài Ta, còn có Chúa nào khác đâu?
Không có Thiên Chúa công bình và cứu độ nào khác ngoài Ta".
Bởi thế, muốn được cứu độ, con người cần phải tin tưởng vào Ngài và trông chờ chỉ một mình Ngài mà thôi, như Ngài kêu gọi con người ở đoạn cuối của Bài Đọc 1 hôm nay:
"Hỡi các người ở tận cùng trái đất, hãy trở lại cùng Ta và các ngươi sẽ được cứu thoát. Vì Ta là Thiên Chúa và không có Chúa nào khác. Ta lấy tên Ta mà thề; lời công chính phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở lại: mọi gối sẽ quỳ xuống trước mặt Ta, và mọi lưỡi sẽ lấy tên Ta mà thề rằng: Nhờ Chúa mà tôi sẽ được công chính và sức mạnh. Người ta sẽ đến cùng Chúa, và mọi kẻ chống đối Người sẽ phải hổ thẹn. Toàn thể dòng dõi Israel sẽ được công chính hoá và được hiển vinh".
Bài Đáp Ca hôm nay bày tỏ tấm lòng của con người hướng về Chúa và mong chờ Ơn Cứu Độ của Ngài, một Ơn Cứu Độ xẩy ra như một cuộc hội ngộ thần linh giữa trời và đất, giữa "lòng nhân hậu và trung thành", giữa "đức trung thành và đức công minh".
1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng ta.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh từ trời nhìn xuống.
3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng ta sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người.
Ngày 14: Thánh Gioan Thánh Giá, linh mục Tiến Sĩ Hội Thánh
Thánh nhân
sinh năm 1542 tại Fontibéros nước Tây Ban Nha. Sau quãng đời niên thiếu
phải làm lụng vất vả, ngài đã vào dòng Carmêlô tận hiến cho Chúa năm
1563. Hôm trước ngày thụ phong linh mục (1567), ngài đã gặp thánh Têrêxa
cả, một cuộc gặp gỡ quyết định hướng đi cho cuộc sống của ngài. Lúc bấy
giờ thánh Têrêxa đang cố gắng đưa dòng Carmêlô trở về tuân giữ những quy
chế đầu tiên, đã viết như sau: "Mặc dù thân xác nhỏ bé nhưng tôi tin
rằng tâm hồn ngài thật quảng đại dưới mắt Thiên Chúa". Ngài đã cộng tác
trong công việc đó cho đến khi thánh nữ qua đời (1582). Ngài mang tên
hiệu là Gioan Thánh Giá cùng với hai người bạn đã tìm đến và sống trong
một túp lều tồi tàn tại Duruelo. Nhưng cả nhà dòng đều chống lại cuộc
cải cách của các ngài. Năm 1577, ngài bị giam tại một căn phòng ở
Tolède, và ngài đã trốn thoát khỏi đó chín tháng sau. Trong thời gian
này, ngài đã sáng tác những lời thơ thần bí nổi tiếng nhất. Ít lâu sau,
cuộc cải cách của ngài được chấp thuận và ngài được trao phó nhiều chức
vụ quan trọng trong nhà dòng. Cuộc đời của ngài như một ngọn lửa tình
yêu soi chiếu trong đêm tối để hướng dẫn cho dòng Carmêlô. Ngài đã bay
lên tới đỉnh trọn lành và sẵn sàng nâng đỡ những ai bước theo đức tin
với một nếp sống đơn sơ. "Nếu nơi nào không có tình yêu, chúng ta hãy
thắp lên một ngọn lửa tình yêu vào đó và chúng ta sẽ nhận được ánh sáng
của tình yêu. Và khi cuộc đời chấm dứt, chúng ta sẽ được xét xử căn cứ
vào tình yêu". Năm 1591, một cơn bệnh trầm trọng đã đưa ngài về với
Chúa, hưởng thọ 59 tuổi.
Ðức Piô XI
đã ban cho ngài tước hiệu "Tiến Sĩ Hội Thánh" năm 1926.
Thứ Năm
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 54, 1-10
"Chúa kêu gọi ngươi như gọi người thiếu phụ sầu khổ".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa phán: Hỡi người son sẻ, hãy reo mừng! Hãy vui mừng, hãy hân hoan, hỡi người không sinh nở. Vì con cái người phụ nữ bị bỏ rơi sẽ nhiều hơn con cái người có đôi bạn. Hãy mở rộng trại ngươi ở, hãy giăng trướng nhà ngươi, chớ để chật hẹp; hãy giăng dây cho dài, đóng cọc cho chắc. Ngươi sẽ bành trướng ra bên tả bên hữu, dòng dõi ngươi sẽ được các nước làm gia nghiệp.
Ðừng sợ, vì ngươi sẽ không phải thất vọng, đừng xấu hổ, vì ngươi sẽ quên sự hổ thẹn thời niên thiếu, và nỗi nhục nhã của thời goá bụa, ngươi cũng quên đi. Vì Ðấng thống trị ngươi là Ðấng đã tạo thành ngươi, Danh Ngài là Chúa Thiên Binh; Ðấng Cứu Chuộc ngươi là Ðấng Thánh Israel, Người là Thiên Chúa khắp địa cầu.
Chúa ngươi phán: như người thiếu phụ bị bỏ rơi và sầu muộn, Chúa gọi ngươi. Sao có thể ly dị người vợ trong buổi thanh xuân? Trong một thời gian ngắn, Ta đã bỏ ngươi, nhưng với lượng từ bi, Ta sẽ đón nhận ngươi. Chúa Cứu Chuộc ngươi phán: Trong cơn nóng giận, Ta đã ẩn mặt khỏi ngươi, nhưng trong tình yêu vĩnh cửu, Ta xót thương ngươi. Cũng như trong thời Noe, Ta đã thề rằng nước lụt Noe sẽ không tràn ra trên đất nữa, thì Ta cũng thề rằng Ta sẽ không giận ngươi, không trách ngươi nữa. Chúa thương xót ngươi phán: Dù núi dời, dù đồi chuyển, tình yêu của Ta đối với ngươi không hề thay đổi, và giao ước bình an của Ta luôn vững bền.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11-12a và 13b
Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.
2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con. Lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con. Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Này đây Chúa đến để cứu dân Người. Hạnh phúc thay những ai sẵn sàng đón rước Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 24-30
"Gioan là sứ thần dọn đường Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi những người Gioan sai đến đi rồi, Chúa Giêsu nói với đám đông về Gioan rằng: "Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc óng ả và đời sống xa hoa thì ở trong cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Chính về ông đã có lời chép rằng: "Này đây Ta sai sứ thần Ta đi trước con, và sẽ dọn đường cho con". Ta nói cho các ngươi biết, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan, nhưng người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông".
Toàn thể dân chúng đã nghe Ngài, cả những người thu thuế đều vâng lời Thiên Chúa, và chịu phép rửa của Gioan. Còn những người Biệt phái và Luật sĩ đã khinh chê ý định của Thiên Chúa, và họ không chịu để Gioan thanh tẩy cho.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Nếu để ý chúng ta sẽ thấy, trong khi các bài Phúc Âm cho các Chúa Nhật trong Mùa Vọng thì Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đóng vai chính trong sứ vụ ngài nói về hay làm chứng hoặc giới thiệu Đấng đến sau ngài là Chúa Giêsu Kitô, hay kêu gọi dân chúng dọn đường cho Đấng đến sau ngài, thì ở những bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho các ngày thường trong Mùa Vọng, chẳng hạn trong tuần III này, chính Chúa Giêsu lại đóng vai chính trong việc nói về Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của Người. Tại sao vậy?
Xin thưa, theo cảm nhận và nhận thức của người viết ở đây, chính vì Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là một trong những tiên tri sát với Người, "tiên tri của Đấng tối cao" (Luca 1:76), "nhận ra Người (xem Gioan 1:33 và Mathêu 3:13-14), làm chứng về Người (xem Gioan 1:34), giới thiệu Người cho cả dân chúng lẫn môn đệ của ngài (xem Gioan 1:29, 36), và là hình ảnh về Người (xem Mathêu 17:10-13), đến độ, nếu dân chúng thật sự tin tưởng vào vị tiền hô này thì mới có thể nhận ra Người là Đấng Thiên Sai, Đấng đến sau nhân vật đến trước mình, Đấng cao trọng và quyền năng hơn vị tiền hô của mình, đúng như vị tiền hô đã xác nhận (xem Gioan 1:27, 30).
Sau này Chúa Giêsu còn nói rõ Người, ngoài chứng từ do Người tự chứng về Người, Người còn hai chứng từ nữa, một bởi trời là Cha của Người và một bởi người ta là chính vị tiền hô Gioan Tẩy Giả của Người, một chứng từ tuy không cao trọng bằng chứng từ bởi trời nhưng dù sao vẫn cần thiết, bởi Người là một Vị Thiên Chúa hóa thân làm người, một Ngôi Vị Thần Linh có hai bản tính:
"Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. Có Ðấng khác làm chứng về tôi và tôi biết: lời Người làm chứng về tôi là lời chứng thật. Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gioan, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điêu này để các ông được cứu độ. Ông Gioan là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian. Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gioan: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi" (Gioan 5:31-36).
Thật vậy, vai trò của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả thật là quan trọng và cần thiết, ở chỗ, theo ý định thần linh cứu độ của Thiên Chúa, ngài cần phải được sai đến trước để dọn đường cho Người là Đấng đến sau, nên chính bản thân của vị tiền hô này cũng đã được thụ thai cách lạ trước Người 6 tháng (xem Luca 1:36), và là vị "còn hơn một tiên tri nữa", như Chúa Kitô đã minh định ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, bởi vì ngài còn là "sứ thần" của Thiên Chúa, một vai trò tương đương với vai trò của sứ thần Gabiên từ trời xuống truyền tin cho thân phụ của ngài (xem Luca 1:19), hay cho thân mẫu của Chúa Giêsu (xem Luca 1:26), vị sứ thần đã được Trời Cao sai đến với dân Do Thái nên đã được chính Thánh Kinh Cựu Ước của dân này tiên báo, như Chúa Giêsu đã trích lại trong lời Người nói về vị tiền hô của mình: "Này đây Ta sai sứ thần Ta đi trước con, và sẽ dọn đường cho con", và là vị được Chúa Kitô trong cùng bài Phúc Âm hôm nay hết lời khen tặng, khen tặng hết lời: "Ta nói cho các ngươi biết, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan, nhưng người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông".
Chính vì cần phải tin vào Tiền Hô Gioan Tẩy Giả được sai đến trước Chúa Kitô mới có thể tin Chúa Kitô mà cuối bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca đã viết cảm nhận của chính bản thân ngài là một trong hiếm nhân vật được linh ứng viết ra Phúc Âm và là cuốn Phúc Âm thứ ba mới quả quyết rằng: "Toàn thể dân chúng đã nghe Ngài, cả những người thu thuế đều vâng lời Thiên Chúa, và chịu phép rửa của Gioan. Còn những người Biệt phái và Luật sĩ đã khinh chê ý định của Thiên Chúa, và họ không chịu để Gioan thanh tẩy cho". Như thế có nghĩa là, chỉ có ai thật lòng khao khát và trông đợi Đấng Thiên Sai, một Đấng Thiên Sai đích thực của Thiên Chúa (chứ không phải của loài người, theo ý riêng hay định kiến của loài người liên quan đến quyền năng về chính trị), mới có thể nhận biết vị "sứ thần" loài người này của Thiên Chúa, nhờ đó mới sẵn sàng "chịu phép rửa của Gioan".
Vấn đề then chốt được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Kitô lại cần phải có tiền hô dọn đường? Tự mình Người không thể tỏ mình ra cho dân Do Thái được hay sao?? Xin thưa, theo cảm nhận và nhận thức của người viết ở đây, vì Chúa Kitô là một Vị Thiên Chúa hóa thân làm người, bởi thế, Con Người Lịch Sử Giêsu Nazarét là Thiên Chúa Nhập Thể đây, là Đấng Thiên Sai Cứu Thế đây, nơi thân phận của một con người thuần túy trước mắt thế gian, cần phải đươc một nhân chứng trực tiếp giới thiệu cho chung dân chúng cũng như cho riêng thành phần lãnh đạo và trí thức trong dân, nhờ đó họ mới có thể nhận biết Người, mà nhân vật có thế giá nhất trong dân bấy giờ không ai khác hơn là Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, một con người đã khiến chung dân chúng cảm phục và tin theo, mà còn làm cho thành phần trí thức cùng lãnh đạo dân chúng phải thắc mắc tưởng ngài là Đấng Thiên Sai (xem Gioan 1:19-27).
Tuy nhiên, ơn cứu độ của Thiên Chúa bao gồm tất cả mọi người, nhất là những con người có vẻ cứng lòng tin, giả hình, cao ngạo như thành phần biệt phái và luật sĩ trong bài Phúc Âm hôm nay. Họ mới thật sự đáng thương và cần phải cứu trước hết và trên hết. Phải chăng họ chính là thành phần tiêu biểu trong dân Do Thái được Tiên Tri Isaia nói tới trong Bài Đọc I hôm nay: 1- "son sẻ" không sinh hoa trái bởi đời sống nông cạn thuần hình thức của họ; 2- "chật hẹp" ở chỗ thiển cận theo phán đoán trần gian của họ về những gì Thiên Chúa tỏ ra cho họ, nên họ cần phải "mở rộng" con mắt đức tin để có thể "bành trướng ra bên tả bên hữu" là sống lòng thương xót đối với tha nhân. Lời Chúa qua miệng tiên tri Isaia đã kêu gọi và phấn khích họ như sau:
"Ðừng sợ, vì ngươi sẽ không phải thất vọng, đừng xấu hổ, vì ngươi sẽ quên sự hổ thẹn thời niên thiếu, và nỗi nhục nhã của thời goá bụa, ngươi cũng quên đi. Vì Ðấng thống trị ngươi là Ðấng đã tạo thành ngươi, Danh Ngài là Chúa Thiên Binh; Ðấng Cứu Chuộc ngươi là Ðấng Thánh Israel, Người là Thiên Chúa khắp địa cầu. Chúa ngươi phán: như người thiếu phụ bị bỏ rơi và sầu muộn, Chúa gọi ngươi. Sao có thể ly dị người vợ trong buổi thanh xuân? Trong một thời gian ngắn, Ta đã bỏ ngươi, nhưng với lượng từ bi, Ta sẽ đón nhận ngươi. Chúa Cứu Chuộc ngươi phán: Trong cơn nóng giận, Ta đã ẩn mặt khỏi ngươi, nhưng trong tình yêu vĩnh cửu, Ta xót thương ngươi. Cũng như trong thời Noe, Ta đã thề rằng nước lụt Noe sẽ không tràn ra trên đất nữa, thì Ta cũng thề rằng Ta sẽ không giận ngươi, không trách ngươi nữa. Chúa thương xót ngươi phán: Dù núi dời, dù đồi chuyển, tình yêu của Ta đối với ngươi không hề thay đổi, và giao ước bình an của Ta luôn vững bền".
Thứ Sáu
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 56,1-3a,6-8
"Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Thiên Chúa phán: Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện. Phúc thay người làm như vậy, và con người trung thành với điều ấy, giữ ngày Sabbat không hề sai lỗi, và giữ tay mình không làm tội ác.
Và người ngoại bang tin theo Chúa sẽ không nói: Chúa sẽ tách tôi ra khỏi dân Ngài.
Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Ngài, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta.
Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện, Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc.
Chúa là Thiên Chúa đã tập hợp những người Israel tha hương, phán rằng: Ta sẽ tập hợp, những người khác lại với chúng.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 66,2-3,5,6-8
Ðáp: Chư dân, hãy ca tụng Chúa, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài!
Xướng 1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng tôi, xin tỏ ra cho chúng tôi thấy long nhan Ngài tươi sáng, để trên địa cầu thiên hạ nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân người ta được rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.
2) Các dân tộc hãy mừng vui và khoái trá, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.
3) Ðấng đã chúc phúc cho chúng tôi, Ðức Thiên Chúa, Chúa chúng tôi. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng tôi, để cho khắp cùng bờ cõi đất kính sợ Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Ngày của Chúa gần đến; Người sẽ đến cứu chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Jo 5, 33-36
"Gioan là đèn cháy sáng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do Thái rằng: Các ngươi đã sai người đến hỏi Gioan và ông đã làm chứng cho sự thật. Còn Ta, Ta không ỷ vào lời chứng của một người, nhưng Ta nói thế là để các ngươi được cứu thoát.
Gioan là đèn cháy sáng, và các ngươi trong một lúc đã vui mừng vì ánh sáng đó.
Nhưng phần Ta, Ta có chứng cao trọng hơn chứng của Gioan: đó là những việc Cha Ta đã giao cho Ta thực hiện, chính các việc mà Ta đang làm minh chứng rằng Cha đã sai Ta.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Đúng như những gì đã chia sẻ về Bài Phúc Âm hôm qua: 1- về lý do tại sao Chúa Kitô trong suốt tuần này đóng vai chủ động trong bài Phúc Âm liên quan đến việc Người nói về vị tiên hô của mình, như thể chính Người là tiền hô của Gioan Tẩy Giả, dọn đường cho nhân vật đến trước Người vậy, và 2- về lý do tại sao Chúa Kitô lại phải cần đến một vị tiền hô chứ tự mình Người không thể tự tỏ mình ra là Đấng Thiên sai Cứu Thể của riêng dân Do Thái cũng như của chung nhân loại.
Bài Phúc Âm hôm nay không phải là một bài Phúc Âm thuộc bộ Phúc Âm Nhất Lãm, như của Thánh ký Mathêu, Thánh ký Luca hay Thánh ký Marco, mà là một bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô vẫn tiếp tục đóng vai chính, đóng vai làm chứng về vị tiền hô Gioan Tẩy Giả của Người, để nhờ đó Người cho dân chúng thấy chính Người đã được Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chứng thực Người là Đấng "rửa bằng Thánh Linh" (Gioan 1:33) và cũng đã được vị này trực tiếp giới thiệu Người là "Chiên Thiên Chúa" (Gioan 1:29), là "Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" (Gioan 1:34).
Đó là lý do trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã nhắc lại cho "dân Do Thái rằng: 'Các ngươi đã sai người đến hỏi Gioan và ông đã làm chứng cho sự thật'", sự thật về Người là Đấng đến sau vị tiền hô này. Cho dù bấy giờ Người "có chứng cao trọng hơn chứng của Gioan: đó là những việc Cha Ta đã giao cho Ta thực hiện, chính các việc mà Ta đang làm minh chứng rằng Cha đã sai Ta", Người vẫn nhắc lại cho họ nhớ chỉ vì "để các ngươi được cứu thoát".
Thật vậy, họ đã tưởng lầm chính vị tiền hô Gioan Tẩy Giả này là Đấng Thiên Sai vì vị này đã làm phép rửa (xem Gioan 1:25), nhưng chính vị này đã phủ nhận, vì ngài quả thực không phải như vậy, trái lại, lợi dụng dịp ấy để giới thiệu với họ về Đấng đến sau mình mới là chính "Đấng Thiên Sai" (Gioan 1:41)mà hai môn đệ của ngài đã nhận ra và làm chứng sau thời gian vắn vỏi đến mà xem và ở lại với Người (xem Gioan 1:37-41). Và vì thế nên Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay đã khẳng định với dân Do Thái rằng họ đã được vị tiền hô này làm sáng tỏ sự thật về bản thân vị này cũng là sự thật liên quan đến bản thân Người: "Gioan là đèn cháy sáng, và các ngươi trong một lúc đã vui mừng vì ánh sáng đó".
Trong khi Bài Phúc Âm hôm nay chú trọng đến riêng dân Do Thái thì Bài Đọc I và Bài Đáp Ca lại nhắm đến chung Dân Ngoại nhiều hơn:
Bài Đọc 1: "Người ngoại bang tin theo Chúa sẽ không nói: Chúa sẽ tách tôi ra khỏi dân Ngài. Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Ngài, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta. Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện, Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc. Chúa là Thiên Chúa đã tập hợp những người Israel tha hương, phán rằng: Ta sẽ tập hợp, những người khác lại với chúng".
Bài Đáp Ca: Chư dân, hãy ca tụng Chúa, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài!
1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng tôi, xin tỏ ra cho chúng tôi thấy long nhan Ngài tươi sáng, để trên địa cầu thiên hạ nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân người ta được rõ ơn Ngài cứu độ.
2) Các dân tộc hãy mừng vui và khoái trá, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu.
3) Ðấng đã chúc phúc cho chúng tôi, Ðức Thiên Chúa, Chúa chúng tôi. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng tôi, để cho khắp cùng bờ cõi đất kính sợ Ngài.
Tuy nhiên, nếu để ý chúng ta sẽ thấy ngay trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Kitô đã nói đến một chi tiết liên quan đến Dân Ngoại cũng là liên quan đến toàn thể nhân loại, đó là câu: "Ta có chứng cao trọng hơn chứng của Gioan: đó là những việc Cha Ta đã giao cho Ta thực hiện, chính các việc mà Ta đang làm minh chứng rằng Cha đã sai Ta".
Đúng thế, Cha của Người sai Người xuống trần gian này, tuy theo huyết nhục Do Thái và tại Đất Do Thái, nhưng Người lại mặc lấy bản tính chung của nhân loại để có thể cứu độ nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết chứ không phải chỉ cứu dân Do Thái khỏi bị đế quốc Roma đô hộ bấy giờ. Bởi thế, Người làm theo ý Cha là Đấng "muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý" (1Timotheu 2:4) nên đã sai Người đến "không phải để luận phạt thế gian mà để thế gian nhờ Người mà được cứu độ" (Gioan 3:17), nhờ Người đã "hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người" (Mathêu 20:28), ở chỗ: "Cho dù là Con nhưng Người cũng đã biết tuân phục nơi những gì phải chịu để khi thành toàn Người trở nên căn nguyên cứu độ cho tất cả những ai tín phục Người" (Do Thái 5:8-9).
Thứ Bảy
Ngày 17/12
Lời Chúa
Bài Ðọc I: St 49, 2. 8-10
"Phủ việt sẽ không cất khỏi Giuđa".
Bài trích sách Sáng Thế.
Ngày ấy, Giacóp triệu tập con cái lại và nói rằng: "Hỡi con cái Giacóp, hãy hợp lại và nghe cha đây. Hỡi nhà Israel, hãy nghe lời cha của các con. Giuđa, anh em con sẽ ca tụng con. Bàn tay con sẽ đè trên ót quân thù; con cái của cha con sẽ phục lạy con. Giuđa là sư tử con, hỡi con của cha, con đã chồm lên bắt mồi, con đã nằm xuống nghỉ ngơi, như giống sư tử đực, tựa nòi sư tử cái, ai dám khiêu khích nó? Phủ việt sẽ không cất khỏi Giuđa, gậy chỉ huy không rời khỏi chân nó, cho đến lúc Ðấng thiên sai ngự đến, là Ðấng chư dân đợi trông".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 71, 2. 3-4ab. 7-8. 17
Ðáp: Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người tới muôn đời (x. c. 7).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người xét đoán dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2) Núi non đem an hoà cho dân, và nổng đồi mang lại đức công chính. Người bênh chữa kẻ hèn trong dân, và cứu thoát con cái nhóm nghèo. - Ðáp.
3) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.
4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Ðức Thượng Trí của Ðấng Tối Cao, Ngài an bài mọi sự cách mạnh mẽ và dịu dàng, xin hãy đến dạy dỗ chúng con con đường khôn ngoan. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 1, 1-17
"Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara bởi bà Thamar; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Sala-thiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
nhập thể gia phả
Hôm nay, ngày 17 trong tháng 12 trong Tuần III Mùa Vọng, ngày đầu tiên của Tuần Bát Nhật trước đại lễ Giáng Sinh, một thời điểm sẽ kéo dài cho tới Đêm Vọng Phục Sinh 24/12.
Phụng niên của Giáo Hội chỉ có 2 đại lễ có Tuần Bát Nhật, đó là Đại Lễ Giáng Sinh và Đại Lễ Phục Sinh, được gọi là Tuần Bát Nhật Giáng Sinh và Tuần Bát Nhật Phục Sinh, kể từ chính ngày của 2 đại lễ này. Tuy nhiên, cũng chỉ có 2 đại lễ này mới có thêm một tuần bát nhật đặc biệt trước chính đại lễ nữa.
Đúng thế, nếu Đại Lễ Phục Sinh có Tuần Thánh, từ Chúa Nhật Lễ Lá mở màn cho Tuần Thương Khó và Tam Nhật Vượt Qua bao gồm cả chính Chúa Nhật Phục Sinh là 8 ngày, thì Đại Lễ Giáng Sinh cũng có tuần bát nhật trước, kể từ ngày 17/12 đến hết 24/12 hay đến Đêm Vọng Giáng Sinh.
Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh là thời điểm sát với mầu nhiệm và biến cố Giáng Sinh, nên bao gồm những Bài Phúc Âm liên quan trực tiếp đến mầu nhiệm và biến cố Giáng Sinh, vừa hướng đến vừa dẫn đến Giáng Sinh, như chúng ta sẽ thấy. Chẳng hạn Bài Phúc Âm hôm nay về gia phả của Đấng Thiên Sai Cứu Thế Giêsu Kitô.
Bài Phúc Âm hôm nay, nghe đọc có vẻ buồn chán, vì trong đó chất chứa toàn là tên với tên, và rất ư là đơn điệu, cứ lập đi lập lại cùng một công thức ngoại trừ thay tên của các nhân vật theo thứ tự được liệt kê trong gia phả. Thế nhưng, về nội dung lại rất ư là quan trọng và bất khả thiếu? Tại sao - vì chính gia phả này là chứng cớ hiển nhiên và hùng hồn nhất cho thấy có một nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét thật, có cha mẹ và tổ tiên trần gian đàng hoàng, chứ không phải là một nhân vật hoang đường, do loài người tạo tĩnh như trong tiểu thuyết hoặc thuộc dã sử.
Có hai gia phả được hai thánh ký thuật lại, nhưng hoàn toàn ngược chiều nhau. Gia phả thứ nhất được Thánh ký Mathêu ghi lại, và vì Phúc Âm của ngài được viết cho dân Do Thái nên gia phả ngài ghi lại để mở đầu của cuốn Phúc Âm của ngài (1:1-17), tính từ tổ phụ Abraham trở xuống dưỡng phụ Giuse của Chúa Kitô, còn gia phả được Thánh ký Luca thuật lại (3:23-38), và vì Phúc Âm của ngài viết cho dân ngoại, nên tính ngược lại từ chính chúa Giêsu về tới Adong là tổ tông của chung loài người.
Sở dĩ Giáo Hội không chọn gia phả trong Phúc Âm Thánh Luca, cho dù là chu kỳ phụng vụ Năm C, là vì gia phả của vị thánh ký này được liệt kê ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, chứ không phải ngay từ đầu trước khi Chúa Kitô sinh vào trần gian như Thánh ký Mathêu. Vả lại, Chúa Giêsu tuy mặc lấy chung bản tính loài người nhưng lại sinh ra bởi giòng dõi Do Thái, nên cần phải căn cứ vào gia phả liên quan đến huyết thống của Người nơi dân Do Thái, từ tổ phụ Abraham và vương phụ Đavít của Người.
Gia phả theo Thánh ký Mathêu trong Bài Phúc Âm hôm nay được chia làm 3 giai đoạn đều nhau, cứ 14 đời một giai đoạn, như chính bài Phúc Âm cho thấy: "Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời".
Ngoài chi tiết về đặc điểm có 3 giai đoạn đều nhau này, gia phả theo Thánh ký Mathêu trong bài Phúc Âm hôm nay còn có một đặc điểm khác nữa đó là bao gồm cả nữ giới thay vì chỉ có nam nhân như trong gia phả theo Thánh ký Luca. Mà thành phần nữ giới 5 vị này không phải toàn tòng Do Thái và hoàn toàn thánh đức. Chẳng hạn như 4 trong 5 phụ nữ au đây:
1- "Bà Thamar", vợ của Giuđa sinh ra Phares, đồng thời bà này cũng chính là con dâu góa chồng của tổ phụ Giuđa, đã đánh lừa để ăn nằm với chính bố chồng của mình vì ông không giữ lời hứa gả đứa con trai thứ ba cho cô (xem Khởi Nguyên 38:1-30);
2- "Bà Rahab", vợ của Salmon sinh ra Boaz, ông cố tổ của Vua Đavít, vốn là một con điếm thuộc dân ngoại, người đã từng cứu các thám tử của dân Do Thái dò tham Đất Hứa và đang bị truy lùng (xem Gioduệ 2:1-24);
3- "Bà Ruth", vợ của ông Boaz sinh ra Giobed là ông nội của Vua Đavít, là một người đàn bà xuất thân từ dân ngoại (xem Ruth 1:1-22);
4- "Vợ của Uria", vợ của Vua Đavít sinh ra Vua Solomon, người đàn bà đã ăn nằm với Vua Đavít khi chồng còn sống khi được vua triệu vào cung (xem 2Samuel 11:1-27).
Như thế, trong 5 người phụ nữ được liệt kê tên trong gia phả của Đấng Thiên Sai Cứu Thế này, 2 thuộc dân ngoại và 2 không trong sạch (ngoại tình), đúng hơn là 3 vì có một phụ nữ vừa dân ngoại vừa làm điếm nữa, chỉ có một mình Mẹ Maria là Mẹ của Chúa Giêsu trọn đời trinh nguyên. Chúng ta có thể đặt vấn đề là tại sao Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa lại được sinh ra bởi một giòng dõi bao gồm những người nữ chẳng những thuộc dân ngoại mà còn không trong sạch nữa?
Xin thưa, vì là giòng dõi loài người mắc nguyên tội không thể nào tránh khỏi những gì là xấu xa gây ra bởi mầm mống nguyên tội, và vì thế bản tính bị hư hoại bởi nguyên tội mới cần phải được cứu chuộc bằng việc chính Con Thiên Chúa làm người mặc lấy. Tuy nhiên, chính nhân tính của Người được sử dụng như phương tiện bất khả thiếu để cứu chuộc nhân loại lại hoàn toàn không bị ảnh hưởng huyết thống hư hoại tội lỗi này. Vì Người được thụ thai và hạ sinh bởi một trinh nữ và bởi quyền phép Thánh Linh chứ không phải bởi huyết nhục loài người.
Bài Đọc 1 hôm nay ghi lại lời tổ phụ Giacóp trước kia qua đời đã nói tiên tri về Giuđa là đứa con trai thứ tư trong 12 người con trai của ông, vì Đấng Thiên Sai Cứu Thế được xuất phát từ chi họ Giuđa này:
"Ngày ấy, Giacóp triệu tập con cái lại và nói rằng: 'Hỡi con cái Giacóp, hãy hợp lại và nghe cha đây. Hỡi nhà Israel, hãy nghe lời cha của các con. Giuđa, anh em con sẽ ca tụng con. Bàn tay con sẽ đè trên ót quân thù; con cái của cha con sẽ phục lạy con. Giuđa là sư tử con, hỡi con của cha, con đã chồm lên bắt mồi, con đã nằm xuống nghỉ ngơi, như giống sư tử đực, tựa nòi sư tử cái, ai dám khiêu khích nó? Phủ việt sẽ không cất khỏi Giuđa, gậy chỉ huy không rời khỏi chân nó, cho đến lúc Ðấng thiên sai ngự đến, là Ðấng chư dân đợi trông'".
Bài Đáp Ca hôm nay cũng hướng về Đấng Cứu Thế Thiên Sai được gọi là "hoàng tử", một vị hoàng tử hòa bình với một triều đại vô cùng bất tận:
1) Lạy
Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính
cho hoàng tử, để người xét đoán dân Chúa cách công minh, và phân xử người
nghèo khó cách chính trực.
2) Núi non đem an hoà cho dân, và nổng đồi mang lại đức công chính. Người bênh chữa kẻ hèn trong dân, và cứu thoát con cái nhóm nghèo.
3) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất.
4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người.