SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Chay Tuần 4

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

Chúa Nhật

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: 2 Sb 36, 14-16. 19-23

"Cơn thịnh nộ và lòng từ bi của Chúa được tỏ bày qua sự lưu đày và giải phóng của dân tộc".

Trích sách Sử Biên Niên quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giêrusalem.

Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, đã luôn luôn đêm ngày sai sứ giả đến với họ, vì Người thương xót dân Người và đền thờ của Người. Nhưng họ nhạo báng các sứ giả Chúa, coi thường lời Chúa, và nhạo báng các tiên tri, đến nỗi, sau hết, cơn thịnh nộ của Chúa đã đổ lên dân Người, và vô phương cứu chữa. Quân thù đã đốt đền thờ Chúa, phá huỷ tường thành Giêrusalem, phóng hoả tất cả các lâu đài và thiêu huỷ mọi đồ vật quý giá. Nếu có ai thoát khỏi lưỡi gươm, thì bị dẫn về Babylon để làm nô lệ nhà vua và con cái vua, cho đến thời vua nước Ba-tư thống trị; như thế ứng nghiệm lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia mà phán, cho đến khi đất nước được mừng ngày Sabbat; vì trong tất cả những ngày xáo trộn, họ sẽ không giữ được ngày Sabbat trọn bảy mươi năm trường.

Năm thứ nhất triều đại Cyrô, vua xứ Ba-tư, để lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia phán trước được thực hiện, thì Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: "Ðây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 136, 1-2. 3. 4-5. 6

Ðáp: Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi (c. 6a).

Xướng: 1) Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở, khi tưởng nhớ đến núi Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm của chúng tôi. - Ðáp.

2) Vì nơi này, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng tôi rằng: "Hãy vui mừng; hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion!". - Ðáp.

3) Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa trên đất khách quê người? Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét. - Ðáp.

4) Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi. Nếu tôi không đặt Giêrusalem trên tất cả mọi niềm vui thoả. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Ep 2, 4-10

"Anh em chết bởi tội và được cứu rỗi bởi ân sủng".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Ðức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi; Người đã cho chúng ta được cùng chung sống lại và đồng ngự trị trên nước trời trong Ðức Giêsu Kitô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô? Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Ðiều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa; cũng không phải do việc làm, để không ai được tự phụ. Vì chúng ta là thụ tạo của Người, đã được tạo thành trong Ðức Giêsu Kitô, để làm các việc lành mà Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực hành.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 3, 16

Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Mình, để tất cả những ai tin Con Ngài, sẽ được sống đời đời.

 

Phúc Âm: Ga 3, 14-21

"Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa".

Ðó là lời Chúa.

Image result for JOHN 3, 14-21

 

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật 4 Mùa Chay Năm B hôm nay được phản ánh nơi cảm nhận đầy xác tín của Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại trong bài đọc 2 (Êphêsô 2:4-10) sau đây:

 

"Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Ðức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi; Người đã cho chúng ta được cùng chung sống lại và đồng ngự trị trên nước trời trong Ðức Giêsu Kitô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô".

 

Đúng thể, hai yếu tố Thiên Chúa nhân từ và con người tội lỗi đã gặp nhau ở phụng vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật 4 Mùa Chay năm B này, nhưng tình thương bao la của Thiên Chúa đã thắng vượt tội lỗi và cứu chuộc nhân loại. Như trong bài đọc 1 (2Niên Ký 36:14-16,19-23) đã nhận định về tình trạng càng ngày càng tội lỗi của dân Chúa đến độ họ bị đi đầy sang Babylon, nhưng Chúa vẫn thương mang họ về lại đất hứa sau thời gian 70 năm đúng như lời Ngài đã phán qua tiên tri Giêrêmia. 

 

"Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giêrusalem... Cơn thịnh nộ của Chúa đã đổ lên dân Người... Quân thù đã đốt đền thờ Chúa, phá huỷ tường thành Giêrusalem, phóng hoả tất cả các lâu đài và thiêu huỷ mọi đồ vật quý giá. Nếu có ai thoát khỏi lưỡi gươm, thì bị dẫn về Babylon để làm nô lệ nhà vua và con cái vua, cho đến thời vua nước Ba-tư thống trị.."

 

"Năm thứ nhất triều đại Cyrô, vua xứ Ba-tư, để lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia phán trước được thực hiện, thì Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: 'Ðây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên'".

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan (3:14-21) càng cho thấy rõ Thiên Chúa yêu thương nhân loại biết là dường nào. Ở chỗ:

 

"Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt". 

 

Thật vậy, Thiên Chúa ban Con Một của Ngài cho thế gian là để cứu thế gian chứ không phải để luận phạt thế gian. Thế nhưng, để được cứu, hay để lãnh nhận ơn cứu độ con người phải tin vào Con của Ngài, phải chấp nhận Con của Ngài, phải nhận biết Con của Ngài. Đó là lý do Thánh Phaolô, cũng trong bài đọc hai đã khẳng định nguyên tắc cứu độ như sau: "Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Ðiều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa; cũng không phải do việc làm, để không ai được tự phụ".

 

Đối với thành phần không tin Con của Ngài, không chấp nhận và nhận biết Con của Ngài thì tự họ luận phạt họ, như Chúa Kitô khẳng định trong bài Phúc Âm như sau: "Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa".

 

Theo tiến trình phụng vụ Lời Chúa từ Chúa Nhật thứ 1 Mùa Chay cho tới nay thì nếu Chúa Nhật tuần thứ 1 về một Chúa Kitô chay tịnh 40 đêm ngày trong hoang địa và bị ma quỉ cám dỗ, ám chỉ Người sẽ đạp nát đầu rắn quỉ (xem Khởi Nguyên 3:15) bằng cuộc tử giá của Người, Chúa Nhật tuần thứ 2 về một Chúa Kitô biến hình, ám chỉ cuộc phục sinh vinh hiển của Người, hoàn toàn chiến thắng tội lỗi và sự chết, và Chúa Nhật thứ 3 về một Chúa Kitô như một đền thờ của Thiên Chúa bị bàn tay con người phá hủy bằng cách sát hại nhưng Người đã dựng lại nội trong 3 ngày, ám chỉ đến mầu nhiệm vượt qua từ sự chết (bị phá hủy) đến sự sống (dựng lại) của Người, thì Chúa Nhật thứ 4 cũng chất chứa mầu nhiệm vượt qua như vậy, ở chỗ: 

 

"Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào (để chữa lành cho những ai bị rắn cắn mà nhìn lên nó - xem Dân Số 21:4-9, và loài người cũng bị rắn quỉ cắn trong địa đường nên cũng phải nhìn lên Đấng bị tử giá), thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy (khổ nạn và tử giá), để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời (phục sinh)". 

 

Vấn đề được đặt ra ở đây là chẳng lẽ con rắn là loài độc hại lại ám chỉ Chúa Kitô cứu độ hay sao? Nếu đọc kỹ chúng ta thấy Lời Chúa Giêsu chỉ so sánh hình ảnh "treo lên" mà thôi, của con rắn và của Người. Con rắn bị "treo lên" ở một cây cột thẳng đứng (pole), còn Chúa Giêsu bị treo lên ở cây thập tự giá (cross), hoàn toàn khác nhau giữa cây cột và cây thập giá. Chỉ có hình ảnh "treo lên" là giống nhau thôi. Thế nhưng, hình ảnh "treo lên" của con rắn ám chỉ ám chỉ hình ảnh "treo lên" của Đấng đến "để tiêu diệt công việc của ma quỉ" (1Gioan 3:8) là tội lỗi và sự chết do hắn gây ra cho chính mình (xem Khải Huyền 12:1-9) cũng như cho con người ngay từ ban đầu (xem Khởi Nguyên 3:1-7), bởi thế hình ảnh "treo lên" của con rắn ám chỉ nó bị tiêu diệt bởi sự kiện "treo lên" của Chúa Cứu Thế.

 

Tóm lại, qua phụng vụ lời Chúa trong Mùa Chay nói chung và Chúa Nhật IV nói riêng, Giáo Hội muốn cho con cái của mình thấy được chẳng những một Chúa Kitô vượt qua để thấy được Đấng đã sai Người là Cha trên trời vô cùng yêu thương nhân loại, đến độ lợi dụng chính tội lỗi của con người để tỏ lòng thương con người, mà còn nhờ đó cảm nghiệm được tình thương bao la vô cùng bất tận của Thiên Chúa và tin vào Con của Ngài là tất cả mạc khải thần linh của Ngài và về Ngài, là hiện thân sống động tình thương của Ngài đối với nhân loại tội lỗi không thể cứu mình và vô cùng hèn hạ khốn nạn bất xứng chỉ đáng sa phạt đời đời mà thôi! Chính vì con người không thể tự cứu mình, mà là được Thiên Chúa cứu, mà họ phải tin vào Ngài nơi Người Con khổ giá của Ngài mới được cứu độ, một đức tin bất khuất và bền đỗ đến cùng, bất chấp mọi cám dỗ và gian nan.

Đúng thế, trong chính những gian nan khốn khó và bị đọa đẩy bởi chính tội lỗi của mình, những gian nan khốn khó và đọa đầy bất đắc dĩ Thiên Chúa muốn sử dụng như "gậy ông đập lưng ông" để đánh động con người tội lỗi đáng thương, và cuối cùng để cứu độ con người một khi nhờ đó họ bừng tỉnh mà trở về với Ngài, như tâm tình của dân Chúa khi bị đi đầy ở Babylon trong Bài Đáp Ca hôm nay: 

 

1) Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở, khi tưởng nhớ đến núi Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm của chúng tôi.

2) Vì nơi này, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng tôi rằng: "Hãy vui mừng; hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion!".

3) Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa trên đất khách quê người? Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét.

4) Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi. Nếu tôi không đặt Giêrusalem trên tất cả mọi niềm vui thoả.

 

 

Thứ Hai

 

 Lời Chúa

Bài Ðọc I: Is 65, 17-21

"Thiên hạ sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Thiên Chúa phán: "Này Ta tác tạo trời mới, đất mới; người ta sẽ không còn nhớ lại dĩ vãng, và cũng sẽ không bận tâm đến dĩ vãng nữa. Nhưng các ngươi hãy hân hoan và nhảy mừng cho đến muôn đời trong các việc Ta tác tạo, vì đây Ta tác tạo một Giêrusalem hân hoan và một dân tộc vui mừng. Ta sẽ hân hoan ở Giêrusalem, sẽ vui mừng nơi dân Ta, và từ đây người ta sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa. Ở đó sẽ không còn trẻ nhỏ chết yểu, không còn người già chết sớm nữa, vì người chết trăm tuổi cũng còn gọi là chết trẻ, người không sống đến trăm tuổi, kể là bị chúc dữ. Họ sẽ xây cất nhà cửa và cư ngụ ở đó, sẽ trồng nho và ăn trái nho".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11e-12a và 13b

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.

2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Lc 15, 18

Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha.

 

Phúc Âm: Ga 4, 43-54

"Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: "Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình". Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.

Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Ðược tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông: "Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin". Viên quan chức trình lại Người: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước khi con tôi chết". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi". Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về.

Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: "Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt". Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: "Con ông mạnh rồi", nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin. Ðó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.

Ðó là lời Chúa.

 

Suy niệm

 

 

Sự Sống tỏ mình

 

Hôm nay, Thứ Hai trong Tuần IV Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa bắt đầu có chiều hướng càng sát nghĩa hơn bao giờ hết với chủ đề "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17) của chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh. Bởi vì, từ hôm nay, dọc suốt 2 tuần liền của thời điểm cuối cùng của Mùa Chay, Giáo Hội cố ý chọn đọc cho các ngày thường trong tuần toàn là các bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan, không còn Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, Marco hay Luca như ba tuần trước đây nữa. 

Tại sao? Tại vì chỉ có Phúc Âm của Thánh Gioan, cuốn Phúc Âm cuối cùng trong 4 cuốn Phúc Âm được Giáo Hội công nhận trong sổ bộ Thánh Kinh Tân Ước, cuốn Phúc Âm về thần tính của Chúa Kitô và về Giáo Hội, mới có những đoạn Chúa Giêsu tỏ thần tính của mình ra, hay nói cách khác, Người tỏ nguồn gốc thần linh của Người ra, vừa bằng phép lạ hay dấu lạ vừa bằng chính lời tự chứng của Người liên quan đến ý Cha là Đấng đã sai Người. 

Tuy nhiên, đa số dân Do Thái nói chung và thành phần lãnh đạo dân Do Thái bấy giờ nói riêng đã không thể chấp nhận chứng từ cùng chứng cớ rất chân thực bất khả chối cãi của Người, cho đến giờ của Người, tức cho đến thời điểm họ có thể thực hiện mưu đồ sát hại Người, theo đúng như dự án cứu độ của Thiên Chúa và công cuộc cứu độ của Người, Đấng đã "tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó lại" bằng Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, một mầu nhiệm là tột đỉnh của chung phụng niên và của riêng Tuần Thánh, đặc biệt là của Tam Nhật Thánh!

Hai bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan đầu tiên cho 2 tuần cuối cùng của Mùa Chay liên quan đến 2 phép lạ Chúa Giêsu làm, phép lạ trước, trong bài Phúc Âm hôm nay, Người làm ở Galilêa, vùng đất miền bắc xa xôi, nơi có nhiều dân ngoại sinh sống, còn phép lạ sau, trong bài Phúc Âm ngày mai, Người làm ở ngay Giêrusalem xứ Giuđêa ở miền nam, một phép lạ xẩy ra ở ngay giáo đô của dân Do Thái, do đó, đã trở thành nguyên cớ dẫn đến cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và dân của Người, nhất là với thành phần lãnh đạo ở đó bấy giờ. 

Phép lạ được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, "là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa", tiếp theo phép lạ Người đã hóa nước thành rượu ngon ở tiệc cưới Cana trước đó để tỏ mình ra cho các môn đệ và làm cho các vị tin vào Người là phép lạ đầu tiên (xem Gioan 2:11). Nếu phép lạ thứ nhất liên quan đến hôn nhân thì phép lạ thứ hai này liên quan đến gia đình. Bởi thế mà cuối Bài Phúc Âm Thánh ký Gioan đã cho biết tác dụng xuất phát từ phép lạ Chúa Giêsu thực hiện: "nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin".

Tuy nhiên, sở dĩ Giáo Hội chọn bài Phúc Âm về phép lạ Chúa Giêsu làm cho "một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt", không phải để cho chúng ta thấy cái cân xứng giữa hai phép lạ: phép lạ thứ nhất Người làm cho các môn đệ tin Người và phép lạ thứ hai Người làm cho dân chúng tin Người, mà chính là để cho chúng ta thấy rằng thành phần dân ngoại dễ tin vào Người hơn là chính dân của Người, như phép lạ trong bài Phúc Âm ngày mai chứng thực.

Đó là lý do ở đầu bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Gioan đã ghi nhận lòng khao khát thần linh và thái độ mộ mến của dân chúng đối với Đấng Thiên Sai của chính dân Do Thái: "Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: 'Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình'. Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ".

"Chính Người đã nói: 'Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình'" ở câu Phúc Âm này không phải ám chỉ dân chúng ở Nazarét quê quán của Người đã đối xử với Người được Thánh ký Luca thuật lại (xem 4:14-30), mà là ám chỉ chung dân Do Thái là dân tộc của Người theo huyết nhục trần gian. Tuy nhiên, thành phần dân tộc của Người ít là cũng đưc chia làm hai loại hay hai hạng, hạng bình dân cởi mở và hạng trí thức lẫn quyền lực. 

Hình như dân Do Thái ở Galilêa thuộc miền bắc xa xôi, xa giáo đô Giêrusalem và sống chung với nhiều người dân ngoại đã có được một tinh thần cởi mở và phóng khoáng hơn là những người Do Thái ở Giuđêa nói chung và ở giáo đô Giêrusalem nói riêng. Bởi thế nên, Thánh Gioan đã cho thấy dân Do Thái ở Galilêa đã cởi mở hơn với Chúa Giêsu: "Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ".

Sự kiện "dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ" đây có nghĩa là họ rất cảm phục Người, vì Người chỉ là một người Galilêa tầm thường như họ mà đã dám làm những gì không ai có thể làm và dám làm như Người. Chẳng hạn như Người đã chẳng những dám đánh đuổi đám buôn bán trong đền thờ mà còn dám thách thức những người Do Thái chính qui ở đó bấy giờ đã ngỏ ý muốn thấy dấu lạ Người làm để chứng tỏ thẩm quyền thực sự của Người trong việc Người thanh tẩy đền thờ là nhà của Cha Người như thế (xem Gioan 2:13-23).

Chính vì tấm lòng cởi mở của chung dân Do Thái ở Galilêa như vậy mà hầu như các phép lạ Người làm đều xẩy ra ở Galilêa, hơn là ở Giuđêa. Phép lạ thứ hai Người làm ở Galilêa trong Bài Phúc Âm hôm nay lại xẩy ra ở Cana là "nơi Người đã biến nước thành rượu", một phép lạ được Chúa Giêsu thực hiện cho người con trai của một viên chức triều đình (royal officer), không biết là người Do Thái hay dân ngoại, nhưng có thể nắm chắc là dân Do Thái, vì họ là thành phần thích dấu lạ điềm thiêng: "Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin", cho dù ở cuối bài Phúc Âm Thánh ký Gioan đã ghi chú thêm một chi tiết như thể viên quan trong triều này là dân ngoại: "ông và toàn thể gia quyến ông đều tin", như trường hợp của gia đình viên đại đội trưởng Roma Cornelio (xem Tông Vụ 10:1-48), .

Trong Phúc Âm của Thánh Gioan, thường Chúa Giêsu tự động làm phép lạ để tỏ mình ra cho người ta tin vào Người, hơn là người ta phải có đức tin đã rồi Người mới làm phép lạ, như thường xẩy ra hầu hết ở bộ Phúc Âm Nhất Lãm. Tuy nhiên, trong bài Phúc Âm hôm nay, Người lại đề cập đến đức tin như là một điều kiện cần thiết trước khi Người làm phép lạ. 

Nhưng người đề cập đến đức tin không phải chỉ với riêng viên chức triều đình đang van xin mà là cho chung những người ở đó bấy giờ: "các ông". Như thể Người nhắc nhở hết mọi người rằng hãy tin sẽ được, như viên chức triều đình vẫn đang gắn bó tin tưởng vào Người bấy giờ: "xin Ngài xuống trước khi con tôi chết". Bởi thế, sau khi nghe "Chúa Giêsu bảo ông: 'Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi'. Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về". 

Quả thật, ông đã tin sao thì được đúng như vậy, như bài Phúc Âm ở đoạn cuối cho thấy: "Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: 'Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt'. Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: 'Con ông mạnh rồi'". 

Ngay trong cách thức Chúa Giêsu chữa lành ở bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan hôm nay, chỉ bằng ý muốn là xong, là phép lạ xẩy ra, chứ Người không cần phải hiện diện, phải đến tận nơi, phải đụng chạm, phải tỏ cử chỉ đặc biệt nào đó..., cũng là cách Chúa Giêsu muốn tỏ thần tính của Người ra, một tỏ mình thần linh chẳng những làm tan biến đi tất cả những gì là yếu hèn bệnh hoạn mà còn mang lại sự sống sinh động nữa. Đó là lý do Phúc Âm Thánh ký Gioan liên quan đến thần tình của Chúa Giêsu thường sử dụng chữ "dấu lạ" (hơn là "phép lạ" ám chỉ việc làm bề ngoài) để ám chỉ nội dụng và mục đích của các phép lạ Chúa Giêsu làm để tỏ mình ra. Chính bản thân Người, một nhân vật lịch sử mang danh Giêsu ở Nazarét, là "dấu lạ" thần linh, là dấu tỏ mình ra của "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24).

Nội dung của Bài Đọc 1 hôm nay quả thực đã phản ảnh ý nghĩa tỏ mình ra của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay qua việc Người tỏ thần tính của Người ra nơi phép lạ chữa lành bằng ý muốn toàn năng vô cùng hiệu lực của Người, một phép lạ cho thấy ý muốn cứu độ của Thiên Chúa trong việc tiêu diệt tội lỗi và sự chết mà ban cho con người sự sống và hạnh phúc:

"Này Ta tác tạo trời mới, đất mới; người ta sẽ không còn nhớ lại dĩ vãng, và cũng sẽ không bận tâm đến dĩ vãng nữa. Nhưng các ngươi hãy hân hoan và nhảy mừng cho đến muôn đời trong các việc Ta tác tạo, vì đây Ta tác tạo một Giêrusalem hân hoan và một dân tộc vui mừng. Ta sẽ hân hoan ở Giêrusalem, sẽ vui mừng nơi dân Ta, và từ đây người ta sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa. Ở đó sẽ không còn trẻ nhỏ chết yểu, không còn người già chết sớm nữa, vì người chết trăm tuổi cũng còn gọi là chết trẻ, người không sống đến trăm tuổi, kể là bị chúc dữ. Họ sẽ xây cất nhà cửa và cư ngụ ở đó, sẽ trồng nho và ăn trái nho".

Theo chiều hướng của Bài Phúc Âm và Bài Đọc 1 hôm nay, Bài Đáp Ca được Giáo Hội chọn đọc cùng ngày đã chất chứa tâm tình thần linh của thánh vịnh gia cũng là của những tâm hồn thực sự nhận thức được Thiên Chúa là Đấng yêu thương và cứu độ của con người nói chung và của bản thân mình nói riêng:

1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. 

2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ. 

3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. 

 

 

 

Thứ Ba

 

 Lời Chúa

Bài Ðọc I: Ed 47, 1-9. 12

"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai, thì tất cả đều được cứu rỗi".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải. Khi đó có người đàn ông đi ra về hướng đông, tay cầm sợi dây, ông đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước tới mắt cá chân. Ông đo một ngàn thước tay nữa và dẫn tôi đi qua dưới nước đến đầu gối. Ông còn đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước đến ngang lưng. Ông lại đo thêm một ngàn thước tay nữa, và đây là suối nước, tôi không thể đi qua được, vì nước suối dâng lên cao quá, phải lội mới đi qua được, nên người ta không thể đi qua được. Người ấy nói với tôi: "Hỡi người, hẳn ngươi đã xem thấy". Rồi ông dẫn tôi đi, rồi dẫn trở lại trên bờ suối. Khi trở lại, tôi thấy hai bên suối có nhiều cây cối. Người ấy lại nói với tôi: "Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa, rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến.

Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9

Ðáp: Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, và ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ (c. 8).

Xướng: 1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển cả. - Ðáp.

2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh sương, thành được Chúa cứu giúp. - Ðáp.

3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 50, 12a và 14a

Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ.

 

Phúc Âm: Ga 5, 1-3a. 5-16

"Tức khắc người ấy được lành bệnh".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Tại Giêrusalem, gần cửa "Chiên", có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm. Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành bệnh không?" Người đó thưa: "Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi". Chúa Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về". Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do-thái bảo người vừa được khỏi bệnh rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng". Anh ta trả lời: "Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà đi". Họ hỏi: "Ai là người đã bảo anh "Vác chõng mà đi?" Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.

Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước". Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh.

Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat.

Ðó là lời Chúa.

  

 

Suy niệm

 

 

Sự Sống tươi mát

 

 

 

Mùa Chay tiếp tục với ngày Thứ Ba trong Tuần IV Mùa Chay hôm nay, phụng vụ lời Chúa, bao gồm cả Bài Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1, đều liên quan đến hình ảnh về nước. 

Trước hết, nước trong Bài Phúc Âm hôm nay là một thứ nước có khả năng chữa lành, như Thánh ký Gioan thuật lại ở đầu bài Phúc Âm như sau: "Tại Giêrusalem, gần cửa 'Chiên', có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt".

Lý do tại sao cái hồ này lại "có rất nhiều người đau yếu, mù lòa, què quặt, bất toại nằm la liệt" như vậy, là vì mỗi khi nước hồ động lên đều có thể chữa lành cho bệnh nhân hay tật nguyền nhân nào xuống hồ đầu tiên. 

Đó là lý do, "có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm" đã trần tình cùng "Chúa Giêsu", Đấng bấy giờ đã "thấy người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: 'Anh muốn được lành bệnh không?'", và đã than thở với Người về hoàn cảnh nuôi hy vọng trong thất vọng và tuyệt vọng của anh ta như sau: "Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi".

Ở đây, trong câu trả lời của nạn nhân "đau liệt 38 năm này", một nạn nhân cô độc chẳng ai giúp đỡ ấy, như thể đã hoàn toàn bị bỏ rơi, và đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn trông mong được khỏi tật bệnh kéo dài có thể nói gần nửa đời người như thế nữa, nên khi được Chúa Giêsu hỏi "Anh muốn được lành bệnh không?", anh ta đã trả lời một cách có vẻ rất hững hờ, chẳng có chút gì là hào hứng, chỉ trình bày và than phiền về thân phận hẩm hiu bất hạnh đến vô vọng của mình thôi.

Nếu anh ta còn một chút hy vọng, còn ham sống, thì phản ứng của anh ta khi vừa được Chúa Giêsu hỏi: "Anh muốn được lành bệnh không?", anh ta như chộp được thời cơ, chụp được cơ hội ngàn vàng, cơ hội ngàn năm một thuở mà thưa ngay với Người rằng: "Thưa có chứ... Vậy thì ông có thể giúp tôi được không...". 

Thế nhưng, anh ta đâu có ngờ rằng, chính lúc anh ta đã nản lòng không còn muốn sống nữa, muốn buông xuôi theo số phận hẩm hiu bất hạnh, anh ta lại được cứu, cho dù anh ta không hội đủ điều kiện là lòng tin tưởng cần có của anh ta. Nhưng vì Chúa Giêsu, ở trong trường hợp của anh ta, không cần anh ta tin, vì anh ta đã biết Người đâu mà tin, cho bằng Người làm cho anh ta tin, bằng quyền năng của Người nơi anh ta. 

Bởi thế, Người đã tự động chữa lành cho anh ta: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về", sau khi đã hỏi phép anh ta đàng hoàng trước đó. Cho dù anh ta không tỏ ra tích cực và minh nhiên theo câu hỏi của Người, nhưng nội dung của câu anh ta trả lời Người đã cho thấy rằng anh ta thực s là muốn được chữa lành. Và tác dụng thần linh của lời Người truyền đã tuyệt đối công hiệu ngay bấy giờ, nơi đương sự nạn nhân đã tỏ ý muốn được chữa lành: "Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi".

Phép lạ Chúa Giêsu chữa lành cho "một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm" ấy đã kèm theo cả một hiện tượng phải gọi là quái lạ hay quái gở chưa hề thấyỞ chỗ, trong bài Phúc Âm không thấy nói gì đến việc nạn nhân đương sự được chữa lành sụp lạy Chúa Giêsu để tạ ơn Người về phép lạ bất ngờ anh ta không thể nào tưởng tượng được rằng phép lạ đã xẩy ra cho anh ta ở vào lúc anh ta tuyệt vọng nhất như thế. Có thể là vì trong thời khoảng anh ta đang lồm cồm bò ngồi dậy sau 38 năm không bao giờ có thể ngồi lên như lời Người truyền thì "Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó".

Cứ cho là như thế đi! Thế nhưng, sau khi anh ta bị những người khác nhắc bảo rằng: "'Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng'. Anh ta trả lời: 'Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: Vác chõng mà đi'. Họ hỏi: 'Ai là người đã bảo anh Vác chõng mà đi?' Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là ai". 

Nạn nhân đương sự được chữa lành này không biết Người cũng phải và vì thế anh ta đã trả lời đúng sự thật. Tuy nhiên vấn đề ở đây là sau đó, sau khi anh ta biết được Người là ai rồi thì anh ta cũng vẫn không ngỏ lời cám ơn Người, trái lại, quái gở thay, anh ta lại đi tố cáo phản lại Người: 

"Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: 'Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước'. Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh. Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat".

Trường hợp chín trong mười người phong cùi được Chúa Giêsu chữa lành cho, khi thấy mình được khỏi trên đườngđi trình diện với các vị tư tế như lời Người bảo họ, mà không trở lại tạ ơn Người như một người Samaritanô trong số họ (xem Luca 17:11-19), đằng này nạn nhân đương sự được Chúa Giêsu bất ngờ chữa lành cho khỏi tật bệnh kéo dài suốt 38 năm trường lại quay ra tố cáo người nữa thì quả là vô cùng quái gở, không thể nào tượng tưởng được.

Đó là lý do, thấy trước được con người này, Chúa Giêsu đã cảnh giác anh ta về đặc ân nhưng không anh ta vừa được hưởng về phần xác có thể sẽ trở thành tai họa về phần hồn cho anh ta rằng: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước". 

Vấn đề được đặt ra ở đây là thế thì tại sao Chúa Giêsu lại chữa lành cho một nạn nhân mà Người biết rằng ân phúc nạn nhân đương sự này được hưởng có thể trở thành tai họa cho phần hồn của họ như vậy? Có thể nói, lý do Chúa Giêsu chữa lành cho nạn nhân đương sự này là vì tự mình họ đáng thương và cần được cứu vớt trong lúc anh ta không được ai cứu giúp và trong lúc anh ta có vẻ như đã hoàn toàn tuyệt vọng. 

Ngoài ra, không phải vì anh ta là con người "xấu" mà anh ta không đáng được hưởng ơn lành như những người tốt hơn anh ta và xứng đáng hơn anh ta. Ơn Chúa là của Chúa, là những gì nhưng không từ Chúa, Người muốn ban cho ai tùy ý của Ngài, hay muốn ban thế nào và ban vào lúc nào cũng không ai cản được, và không ai có quyền ghen tị với người khác và đặt vấn đề với Người. 

Nhưng về phần người nhận ân huệ của Người có biết ơn Người và đáp ứng xứng đáng với ân huệ họ lãnh nhận hay chăng, hoàn toàn là do họ. Trường hợp nạn nhân đương sự trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đâu có ép anh ta phải được lành mạnh - anh ta có thể nói với Chúa khi Người hỏi anh ta "Anh muốn được lành bệnh không?" rằng: "No, thank you. I'm fine!" 

Bởi thế, chỉ sau khi anh ta ngỏ ý muốn được chữa lành Người mới ra tay thỏa đáng ước muốn đã trở thành tuyệt vọng của anh ta thôi, nhờ đó, Người có thể làm cho anh ta phấn khởi lên mà sống, và sống một cách xứng đáng với số phn lành mạnh của con người vốn đã được Thiên Chúa ngay từ ban đầu dựng nên tốt đẹp mọi bề về cả hồn lẫn xác

Trường gợp của người liệt bại 38 năm bỗng nhiên được chữa lành nhưng lại chẳng biết ơn thì chớ còn trắng trợn phản lại vị đại ân nhân của mình như thế cũng không phải là không có ở nơi tất cả con người trần gian chúng ta. Ở chỗ, có những ơn Chúa ban một cách nhưng không nhưng chúng ta đã chẳng những không biết ơn Ngài và sử dụng các ơn ấy cho nên mà còn quay ra phản lại Ngài bằng cách lạm dụng các ơn ấy để thỏa mãn đam mê nhục dục và tham vọng của mình. Chẳng hạn thời giờ, sức khỏe, nhan sắc, tài năng v.v. không phải là ơn Chúa ban cho chúng ta hay sao, nhất là so sánh với những người bần cùng vất vả kiếm sống đến độ không có thời gian nghỉ ngơi, những con người yếu liệt, những anh chị em xấu dạng hoặc dị dạng, vụng về kém cỏi về đủ mọi phương diện... là những gì chẳng ai muốn, thế mà chúng ta lại sử dụng thời gian (hoang phí vào những việc vô nghĩa), nhan sắc (khiêu dâm v.v.), sức khỏe (nghiện ngập v.v.), tài năng (kiêu hãnh, tự phụ, tự mãn v.v.).


Sau n
ữa, "nướctrong Bài Đọc 1 hôm nay được Tiên Tri Êzêkiên diễn tả xuất phát từ "nhà Chúa" và "chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ (dường như ám chỉ máu và nước chảy ra từ cạnh suờn Chúa Kitô tử giá), về phía nam bàn thờ (ám chỉ chảy xuống phía dưới cạnh sườn bị đâm thâu qua của Chúa Kitô tử giá)". Nước càng ngày càng dâng cao, đầu tiên chỉ ở mức "mắt cá chân", sau đó "đến đầu gối", rồi "đến ngang lưng" và cuối cùng "vì nước suối dâng lên cao quá, phải lội mới đi qua được".

Chưa hết, Bài Đọc 1 hôm nay còn cho thấy tác dụng của giòng suối nước này, cả ở dưới suối nước lẫn trên bờ suối nước. Ở dưới suối nước: "Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến".

Còn ở trên bờ suối nước thì sao, chúng ta thấy được Tiên Tri Êzêkiên diễn tả ở phần cuối Bài Đọc 1 hôm nay như thế này: "Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống".

Hình ảnh nước và suối nước theo Bài Đọc 1 hôm nay diễn tả, càng lúc càng dâng cao và mang lại sức sống cùng phát triển cho sinh vật cả ở dưới nước lẫn trên bờ như thế khiến cho chúng ta liên tưởng đến những gì Chúa Giêsu nói về nước ám chỉ Thần Linh, một Vị Thần Linh ban sự sống, được tuôn đổ xuống trên Giáo Hội bởi Chúa Kitô phục sinh (xem Gioan 7:37-39; 20:22) trong mầu nhiệm Vượt Qua và nhờ biến cố Vượt Qua.

Tâm tình của những ai được chữa lành bởi nước, như người đau liệt 38 năm trong Bài Phúc Âm hôm nay, và những ai được no thỏa suối nước xuất phát tự nhà Chúa trong Bài Đọc 1 hôm nay, đều có một cảm nghiệm thần linh như vị thánh vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay: 

1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển cả. 

2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh sương, thành được Chúa cứu giúp.

3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. 

 

 

Thứ Tư

Lời Chúa

Bài Ðọc I: Is 49, 8-15

"Ta đã đặt ngươi nên giao ước của dân, để ngươi phục hưng xứ sở".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán: "Trong thời thuận tiện, Ta đã nghe lời ngươi; trong ngày cứu độ, Ta đã cứu giúp ngươi; Ta đã gìn giữ ngươi và đã đặt ngươi nên giao ước của dân, để ngươi phục hưng xứ sở, và thu hồi các tài sản bị phân tán, để ngươi nói với tù nhân rằng: "Các ngươi hãy ra", và nói với những kẻ ở trong tối tăm rằng: "Các ngươi hãy ra ngoài sáng". Họ được nuôi dưỡng trên các nẻo đường, và các đồi trọc sẽ trở thành đồng cỏ. Họ sẽ không còn đói khát nữa, gió nóng và mặt trời không làm khổ họ, vì Ðấng thương xót họ sẽ là người hướng dẫn họ và đưa họ đến uống ở suối nước. Ta sẽ biến đổi tất cả các núi của Ta thành đường đi, và các lối đi của Ta sẽ được bồi đắp cho cao. Này đoàn người từ xa đến. Kìa những kẻ từ hướng bắc và hướng tây lại, và những người từ miền nam lên.

Trời hãy ca ngợi, đất hãy nhảy mừng, núi đồi hãy hân hoan chúc tụng! Vì Chúa đã an ủi dân Người và sẽ xót thương những người cùng khổ.

Nhưng Sion nói: "Chúa bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi". Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 8-9. 13cd-14. 17-18

Ðáp: Chúa là Ðấng nhân ái và từ bi (c. 8a).

Xướng: 1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.

2) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. - Ðáp.

3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2

Ðây là lúc thuận tiện. Ðây là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Ga 5, 17-30

"Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai sống là tuỳ ý Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy". Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng:

"Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống. Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử. Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy niệm

 

 

Sự Sống thông ban

 

Hôm nay, Thứ Tư trong Tuần IV Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa nói chung và Phúc Âm nói riêng liên quan đến mạc khải thần linh của Thiên Chúa, một mạc khải thần linh đã đạt đến tột đỉnh ở nơi bản thân của Chúa Giêsu Kitô, và được chính Chúa Kitô bắt đầu chứng thực cho dân do Thái biết bằng các cuộc đối đáp giữa Người và họ.   

Như đã nhận định từ hôm Thứ Hai tuần này, chiều hướng của các bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan được Giáo Hội chọn đọc cho ngày trong tuần liên tục suốt 2 tuần cuối cùng IV và V của Mùa Chay, nhất là từ hôm nay trở đi, sau hai bài về 2 phép lạ Người làm như được thuật lại ở bài Phúc Âm Thứ Hai hôm kia và Thứ Ba hôm qua. 

Phép lạ Người chữa lành cho một nạn nhân yếu liệt 38 năm vào ngày hưu lễ ở Bài Phúc Âm hôm qua đã trở thành như đầu mối cho cuộc đụng độ bắt đầu công khai hóa giữa Chúa Giêsu và dân Do Thái nói chung, nhất là thành phần biệt phái và lãnh đạo của họ.

Đó là lý do ngay sau phép lạ chữa lành cho nạn nhân yếu liệt 38 năm vào ngay ngày hưu lễ ở bài Phúc Âm hôm qua, Thánh ký Gioan đã ghi chú thêm ngay sau biến cố then chốt này như sau: "Do đó, người Do-thái chống đối Đức Giê-su, vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát". 

Chúa Giêsu đã lợi dụng chính vấn đề ngày hưu lễ cần phải nghỉ ngơi theo luật lệ và thông lệ của dân Do Thái để mạc khải cho họ thấy tất cả ý nghĩa sâu xa về việc làm đối với Đấng hiện hữu luôn sống động và năng động không bao giờ nghỉ ngơi, như chính Chúa Kitô khẳng định ở ngày đầu bài Phúc Âm hôm nay: "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". 


Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho việc "người Do-thái chống đối (Người) vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát". Nghĩa là sở dĩ Người "hay chữa bệnh ngày sa-bát" là vì "Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". Đúng thế, nếu căn cứ vào luật phải nghỉ ngày hưu lễ, tức là ngày thứ bảy, là vì ngày thứ bảy là ngày chính Thiên Chúa đã nghỉ, hoàn toàn không còn tiếp tục việc tạo dựng của Ngài như 6 ngày trước đó nữa, thì Chúa Giêsu đã làm điều sai trái, ở chỗ Người chẳng những phạm luật Moisen (cũng là luật Thiên Chúa ban cho dân do Thái qua ông) mà Người còn không đúng với ý nghĩa của ngày thứ bảy ban đầu nữa (xem Khởi Nguyên 2:2-3).


Tuy nhiên, nếu hiểu đúng nghĩa của ngày thứ bảy, thời điểm Thiên Chúa nghỉ việc tạo dựng, nhưng lại là thời điểm được thánh hóa: "Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày này..." (Khởi Nguyên 2:3). Nghĩa là ngày thứ bảy là ngày thánh trong tuần, ngày để làm những việc thiêng liêng với Chúa và lành thánh với tha nhân, xa lánh những mối bận tâm trần thế, chỉ chú tâm đến phần hồn hơn là phần xác (như làm việc xác v.v.). Đó là lý do Kitô giáo đã giữ ngày Chúa Nhật, thay ngày thứ bảy, vì là ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Kitô phục sinh. Chúa Kitô đến không phải để hủy lề luật mà làm cho nó nên tọn là như thế.


Con người ta là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa dựng nên sau cùng nhưng lại là loài tạo vật được Ngài chăm chú tạo dựng một cách rất đặc biệt theo chủ ý riêng của Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-28). Bởi thế, sau khi tạo dựng nên họ theo hình ảnh của Ngài và tương tự như Ngài, Ngài đã tiếp tục ở với con người, tiếp tục tỏ mình ra cho họ, nghĩa là thánh hóa họ, một việc thánh hóa chỉ xẩy ra trong ngày thứ bảy là thời điểm Ngài nghỉ việc tạo dựng bề ngoài để chuyên vào việc thánh hóa bề trong, ở chỗ làm cho con người tin vào Ngài, như Chúa Giêsu đã khẳng định về công việc của Cha Người: "Công việc của Thiên Chúa đó là hãy tin vào Đấng Ngài sai" (Gioan 6:29).


Vậy Chúa Giêsu chữa lành trong ngày thứ bảy là một việc rất chính đáng, chẳng những nên làm mà còn cần phải làm nữa, vì việc chữa lành của Người hợp với mục đích của ngày thứ bảy là ngày làm việc lành thánh, ngày thánh hóa con người, để nhờ được chữa lành nạn nhân đương sự và những ai quen biết đương sự tin vào Người mà được cứu độ, đúng như bản chất việc làm của Thiên Chúa trong ngày thứ bảy là ngày thánh, ngày Ngài thánh hóa con người nơi việc tỏ mình ra của Con Ngài, Đấng Ngài muốn con người tin tưởng mà được cứu độ và thánh hóa.


Chúa Giêsu quả thực đã chí lý khi cho dân Do Thái bấy giờ biết lý do tạo sao Người hay chữa lành vào ngày thứ bảy, đó là vì "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc".Trong bài Phúc Âm hôm nay, ở đoạn ngay sau đó, Người còn cho họ biết "Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy". Chẳng hạn, như Người trưng dẫn một việc quan trọng và chính yếu nhất của ngày thứ bảy là ngày thánh hóa đó là: "Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai sống là tùy ý Người", nên "Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời". 



 Cho dù việc Người làm phép lạ trong ngày hưu lễ chính đáng và chí lý mấy đi nữa, đúng như mục đích và ý nghĩa của ngày thứ bảy theo ý định thần linh của Thiên Chúa, vẫn là một hành động phạm luật và sai trái, nên Người đã bị "người Do-thái chống đối", vậy mà Người lại còn như đổ thêm dầu vào lửa qua cách xưng hô của Người với Đấng đã sai Người, mà tình hình căng thăng và đụng độ càng trở nên kịch liệt hơn nữa, đến độ họ tìm cách sát hại Người, như Thánh ký Gioan ghi nhận ở ngay câu Người nói: "Bởi vậy, người Do-thái lại càng tìm cách giết Đức Giê-su, vì không những Người phá luật sa-bát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa".

Thế nhưng là "ánh sáng thật soi chiếu mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), như "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tối tăm không át được ánh sáng" (Gioan 1:5), Chúa Giêsu đã lợi dụng cái tối tăm và lầm lạc của dân Người nơi chính tình trạng rất đạo đức tốt lành của dân mình, ở chỗ họ hết sức bảo vệ luật lệ (liên quan đến phép lạ Người làm vào ngày hưu lễ) và coi trọng phẩm vị cao cả của Thiên Chúa (liên quan đến lời Người cưng hô với Thiên Chúa), nhưng không hoàn toàn phản ảnh tất cả sự thật của mạc khải thần linh mà Người là tột đỉnh và là tất cả. 

Bởi thế, qua bài Phúc Âm hôm nay, Người đã chứng thực về Người liên quan đến mối liên hệ mật thiết với Cha của Người là Đấng đã sai Người, bằng cách Người đã nói cho họ biết rõ: Người và Cha cùng làm một việc như nhau (1); Người là hiện thân đại diện của Cha và cho Cha nơi loài người (2), và Người là thừa tác viên ban sự sống của Cha cho loài người (3).

1- Người và Cha cùng làm một việc như nhau: "Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tùy ý Ngài". 

2- Người là hiện thân đại diện của Cha và cho Cha nơi loài người: "Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống". 

3- Người là thừa tác viên ban sự sống của Cha cho loài người: "Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử. Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".

Qua lời tự chứng của Chúa Kitô về bản thân Người trong bài Phúc Âm hôm nay, như vừa được thứ tự tóm gọn làm 3 đoạn trên đây, chúng ta thấy Người muốn chứng thực với dân Do Thái rằng: 

1- Người quả thực là Đấng Thiên Sai của họ, từ Cha mà đến: ""Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy"; 

2- Nên Người chỉ làm những gì Cha là Đấng đã sai Người muốn Người làm: "Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta";  

3- Mà việc Người cần phải làm trên hết theo đúng như ý muốn của Cha đó là ban sự sống của Người cũng là của Cha cho loài người: "cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tùy ý Ngài... Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy";

4- Vì con người tạo vật, bởi nguyên tội, đã bị băng hoại và sống trong chết chóc, cần được hồi sinh và tái sinh: "đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống...  vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử". 

5- Và đường lối để được sự sống đó là nhận biết Đấng Thiên Sai và chấp nhận những gì Người mạc khải cho biết: "Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống".

Đúng thế, mục đích chính yếu và duy nhất Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh thần linh của Ngài và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-27) đó là cho họ được hiệp thông thần linh với Ngài, để họ được tham phần vào sự sống thần linh của Người và với Người. 

Cho dù loài người, bởi nguyên tội, đã đánh mất sự sống thần linh vô cùng cao quí này từ mối hiệp thông thần linh ngay từ ban đầu ấy, Thiên Chúa vẫn tìm cách ban lại cho họ, ở một mức độ còn dồi dào sung mãn hơn nữa, nơi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14). 

Ở Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy được hình ảnh của một Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu không bao giờ bỏ rơi nhân loại được Ngài cố ý dựng nên để làm con cái của Ngài, để yêu thương họ và cho họ thông phần vào sự sống của Ngài: "Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu".

Chính vì Thiên Chúa luôn chăm sóc cho tạo vật vô cùng thấp hèn lại tội lỗi vô cùng khốn nạn của Ngài như thế mà Ngài "đã yêu thế gian đến ban Con Một của Ngài để ai tin vào Con thì không phải chết nhưng được sự sống" (Gioan 3:16), đúng như những gì chính Chúa Kitô đã nói về Người trong Bài Phúc Âm hôm nay, một Người Con đã được báo trước trong Bài Đọc 1 cùng ngày về sứ vụ giải phóng của Người để mang lại sự sống mới cho những ai được trao phó cho Người

"Nên giao ước của dân, để người phục hưng xứ sở, và thu hồi các tài sản bị phân tán, để người nói với tù nhân rằng: 'Các ngươi hãy ra', và nói với những kẻ ở trong tối tăm rằng: 'Các ngươi hãy ra ngoài sáng'. Họ được nuôi dưỡng trên các nẻo đường, và các đồi trọc sẽ trở thành đồng cỏ. Họ sẽ không còn đói khát nữa, gió nóng và mặt trời không làm khổ họ, vì Ðấng thương xót họ sẽ là người hướng dẫn họ và đưa họ đến uống ở suối nước. Ta sẽ biến đổi tất cả các núi của Ta thành đường đi, và các lối đi của Ta sẽ được bồi đắp cho cao. Này đoàn người từ xa đến. Kìa những kẻ từ hướng bắc và hướng tây lại, và những người từ miền nam lên".

Trước một Vị Thiên Chúa yêu thương nhân hậu đối với nhân loại lầm than khốn khổ cần được cứu độ như thế, con người không thể nào không cùng với thánh vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay dâng lên Ngài những cảm nhận thần linh chí thiết sau đây:

1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. 

2) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. 

3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. 

 

 

Thứ Năm

Lời Chúa

 Bài Ðọc I: Xh 32, 7-14

"Xin Chúa tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa".

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: "Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập". Chúa phán cùng Môsê: "Ta thấy rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ một dân tộc vĩ đại".

Môsê van xin Chúa là Thiên Chúa của ông rằng: "Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa đừng để cho người Ai-cập nói rằng: "Người đã khéo dẫn họ đến đây, để giết họ trên núi và huỷ diệt họ khỏi mặt đất". Xin Chúa nguôi cơn giận và tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa. Xin Chúa nhớ đến Abraham, Isaac, và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng: "Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời, Ta sẽ ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi". Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 19-20. 21-22. 23

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).

Xướng: 1) Họ đã đúc con bò tại Horeb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ. - Ðáp.

2) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.

3) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

 

Phúc Âm: Ga 5, 31-47

"Có người tố cáo các ngươi, đó là Môsê, người mà các ngươi vẫn tin tưởng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do-thái rằng: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực. Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực. Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật. Phần Ta, Ta không cần chứng của loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát. Gioan là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời gian. Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta. Nhưng chưa bao giờ các ngươi được nghe tiếng Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời Người, các ngươi cũng chẳng giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống.

Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi không chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn nhau mà không tìm vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có thể tin được? Các ngươi đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ngươi là Môsê, tức là người mà các ngươi vẫn tin tưởng. Vì nếu các ngươi tin Môsê, thì có lẽ các ngươi cũng đã tin Ta, bởi vì chính Môsê đã viết về Ta. Nhưng mà nếu các ngươi không tin điều Môsê đã viết, thì làm sao các ngươi tin lời Ta được?"

Ðó là lời Chúa.  

 

 

 

Suy niệm
 

Sự Sống chứng thực

 

Thứ Năm trong Tuần IV Mùa Chay hôm nay, phụng vụ lời Chúa bề ngoài có vẻ liên quan đến hiện tượng hay khuynh hướng ngẫu tượng nơi dân Do Thái, cả Cựu Ước lẫn vào thời Chúa Kitô, nhưng sâu xa liên quan đến mạc khải thần linh của Thiên Chúa, một mạc khải thần linh đã đạt đến tột đỉnh ở nơi bản thân của Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại là một mạc khải thần linh bị chính dân Người chống đối và trù dập. 

Ở ngay đầu đoạn cuối của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã công khai và thẳng thắn cho chung dân Do Thái đang tụ tập lại nghe Người bấy giờ biết chính vì cái khuynh hướng trần tục của họ đã trở thành lý do tại sao họ không thể nào có thể chấp nhận được chứng từ chân thực của Người về Người: 

"Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi không chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn nhau mà không tìm vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có thể tin được?"

Khi khẳng định với dân Do Thái về họ bấy giờ rằng "Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó", Chúa Giêsu đã đánh trúng tim đen của họ, đã tấn công vào ngay nhược điểm của họ. Ở chỗ, họ đang mong một đấng thiên sai về chính trị để có thể giải cứu họ khỏi quyền lực của đế quốc Roma, mà ai có thể thực hiện được việc giải phóng này thì họ sẽ tin phục, hoan hô và theo đuổi, chẳng cần biết người anh hùng dân tộc đó có thực sự được Thiên Chúa sai đến hay chăng, có thể thắng được đế quốc Roma hay chăng...

Phần Chúa Giêsu, vì "không tìm vinh quang nơi loài người" mà Người không thể nào có những hành động mị dân để được họ hoan hô ủng hộ, để thu hút lòng mộ mến của họ, trái lại, Người nói tất cả sự thật về bản thân cũng như về nguồn gốc thần linh của Người, vì như Người tuyên bố với họ chỉ có chân lý mới giải thoát được họ thôi (xem Gioan 8:32), chứ không phải quyền lực chính trị nào hết, bởi họ cần phải được giải thoát trước hết và trên hết cho khỏi tội lỗi và sự chết liên quan đến phần rỗi đời đời của họ, chứ không phải được giải thoát khỏi một thứ quyền lực thế gian chỉ là những gì tiêu biểu như hình bóng cho thứ quyền lực tối tăm chết chóc của hỏa ngục.

Đó là lý do, trong bài Phúc Âm hôm nay, chứng từ của Chúa Giêsu về bản thân của Người không phải từ chứng cớ riêng của Người: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực", mà là từ một thẩm quyền cao hơn Người: "Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực".

Và Người chỉ trưng dẫn những chứng cớ về Người mà Người thấy rằng hoàn toàn "xác thực" nơi bản thân Người, những chứng cớ được thẩm quyền cao hơn Người đã sử dụng để chứng thực về Người, hiển nhiên nhất ở trong biến cố Người biến hình trên núi cao: "Đây là Con của Ta, người Ta đã tuyển chọn; hãy lắng nghe Người" (Luca 9:35). 

Chính Người cũng đã căn cứ vào 3 chứng cớ đã được thẩm quyển sai Người sử dụng để chứng thực về Người, trước hết là chứng cớ liên quan đến loài người, sau nữa, nhất là chứng cớ liên quan đến chính Thiên Chúa cùng với mạc khải của Ngài, và sau cùng là chứng cớ liên quan đến mạc khải thần linh trong Thánh Kinh

Trước hết là chứng cớ liên quan đến loài người: "Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật. Phần Ta, Ta không cần chứng của loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát. Gioan là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời gian".

Sau nữa là chứng cớ liên quan đến chính Thiên Chúa: "Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta". 

Sau hết là chứng cớ liên quan đến mạc khải thần linh của Thiên Chúa, tức liên quan đến Thánh Kinh là những gì chân thực không sai lầm mà họ cần phải tin theo: "Nhưng chưa bao giờ các ngươi được nghe tiếng Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời Người, các ngươi cũng chẳng giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống".

Cho dù Chúa Giêsu có chứng thực về mình bằng 3 nguồn chứng rõ ràng bất khả thiếu ấy, dân Do Thái nói chung vẫn không chịu chấp nhận Người, bởi khuynh hướng và tinh thần trần tục của họ, như đã đề cập đến trên đây, chẳng những vì họ "không có lòng yêu mến Thiên Chúa... không tìm vinh quang do một Thiên Chúa", trái lại, họ chỉ theo đuổi tìm kiếm "vinh quang lẫn nhau". 

Tinh thần và khuynh hướng trần tục này của họ chẳng khác gì của dân ngoại là thành phần vẫn bị họ khinh bỉ là thứ đồ nhơ nhớp tội lỗi, trong khi họ cũng chẳng hơn gì dân ngoại, thậm chí còn tệ hơn cả dân ngoại nữa, vì họ được Thiên Chúa ở cùng họ, liên lỉ tỏ mình ra cho họ, ban lề luật thánh của Ngài để dẫn dắt họ, nhờ đó họ sống xứng với phẩm vị con người và ơn gọi trở thành một dân tộc thánh hảo của Ngài giữa muôn dân nước, thế mà họ vẫn tôn thờ tà thần ngẫu tượng như dân ngoại, chứ đâu có khá hơn dân ngoại.

Không phải hay sao, lịch sử cứu độ của họ đã cho thấy dân Do Thái còn sống tệ hơn cả dân ngoại nữa, trong khi dân ngoại chẳng được diễm phúc biết đến mạc khải thần linh và cũng chẳng được ban cho lề luật thánh hảo nên tôn thờ tà thần là phải, còn dân Do Thái thì lại biến Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất từng tỏ mình ra cho họ, nhất là ở cuộc vượt qua của họ từ đất nước Ai Cập băng qua Biển Đỏ mà vào sa mạc, thành một thứ ngẫu tượng của họ, như Sách Xuất Hành thuật lại chính lời của Thiên Chúa phán cùng Moisen về họ trong Bài Đọc 1 hôm nay

"Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: 'Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập'. Chúa phán cùng Môsê: 'Ta thấy rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ một dân tộc vĩ đại'".

Thế nhưng, mạc khải thần linh của Thiên Chúa không phải chỉ như là ánh sáng chiếu giữa ban ngày mà là chiếu vào bóng tối để xua tan tối tăm. Bởi thế, dân Do Thái càng mù tối càng cần đến ánh sáng, nhờ đó mạc khải thần linh của Thiên Chúa mới ngày càng trở nên sáng tỏ hơn nơi họ. Ở chỗ, dân Do Thái càng phản bội Thiên Chúa của mình, càng muốn biến Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ thành ngẫu tượng của họ thì Thiên Chúa lại càng phải tỏ ra thủy chung với họ, để họ càng thấy được quả thực ngoài Ngài ra không có một vị Thiên Chúa nào khác dưới tầng trời này. 

Trong lời khẩn cầu chống đỡ của mình để ngăn cản ý định tru diệt dân Do Thái của Thiên Chúa, vị trung gian môi giới Moisen đã căn cứ vào chính Thiên Chúa, vào lời hứa của Ngài, vào mục đích giải thoát dân Do Thái của Ngài, vào tình yêu nhân hậu của Ngài, vào mối liên hệ của Ngài với các vị tổ phụ của họ để xin Ngài tha cho dân Do Thái, một lời khẩn cầu không thể nào lại không đẹp lòng Thiên Chúa vì nó đã thực sự chạm đến chính cõi lòng của Thiên Chúa và khuấy động lên lòng thương của Ngài:

"Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa đừng để cho người Ai-cập nói rằng: 'Người đã khéo dẫn họ đến đây, để giết họ trên núi và huỷ diệt họ khỏi mặt đất'. Xin Chúa nguôi cơn giận và tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa. Xin Chúa nhớ đến Abraham, Isaac, và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng: 'Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời, Ta sẽ ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi'. Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người".

Hành động tôn thờ ngẫu tượng của dân Do Thái trong Bài Đọc 1 hôm nay, được Bài Đáp Ca cùng ngày chẳng những thuật lại mà còn được thánh vịnh gia cảm nhận về tính cách của việc dân Do Thái ấy như là việc "Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ":

1) Họ đã đúc con bò tại Horeb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ.

2) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. 

3) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. 




Ngày 15: Thánh Nữ Louise de Marillac, vị thánh của gia đình

 

Chúng ta cùng nhau chiêm ngắm chân dung một vị Thánh của gia đình và của xã hội: Thánh Nữ Louise de Marillac, lễ kính vào ngày 15 tháng 3 hàng năm.

Các thánh nhân của Giáo Hội Công Giáo là những con người thánh thiện nhưng lại rất nhân bản. Các ngài đã sống những cuộc đời phi thường. Mỗi một vị thánh mà Giáo Hội tôn kính đều đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa mà phát huy hết các đặc sủng mà Ngài đã ban cho từng vị. Thiên Chúa cũng mời gọi từng người một trong chúng ta trở thành một vị thánh với những hồng ân mà Chúa đã ban cho mỗi người.

Louise sinh tại Meux, nước Pháp. Cô mồ côi mẹ khi còn rất bé. Ðến năm cô 15 tuổi, người cha yêu dấu của cô cũng qua đời. Khao khát của cô muốn đi tu bị cha giải tội của cô bác bỏ. Người ta sắp đặt một cuộc hôn nhân cho cô. Cô sinh được một đứa con trai. Nhưng chẳng mấy chốc cuộc hôn nhân đó chỉ còn là việc bổn phận chăm sóc người chồng bị đau lâu ốm dài cho tới khi chàng ta mất.

Louise may mắn tìm được hai cha giải tội khôn ngoan và thông cảm với cô, một người về sau cũng được phong Thánh: Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-di-ô, người kia là bạn của ngài, Ðức Giám Mục Giáo Phận Belley, Pháp. Có điều cả hai vị này chỉ có thể gặp Louise theo định kỳ thôi. Nhưng trong lòng Louise được ơn soi sáng cho biết rằng cô sẽ đón nhận một công cuộc lớn lao dưới sự hướng dẫn của một người mà cô chưa hề gặp: Cha Thánh Vinh-sơn Phao-lô (St. Vincent de Paul).

Khi cô gặp được cha Vinh-sơn ngài rất miễn cưỡng trở thành cha giải tội cho cô vì ngài rất là bận rộn với Hội Ðoàn Bác Ái do ngài sáng lập. Ðây là nơi quy tụ các mệnh phụ phu nhân quý tộc làm việc từ thiện hỗ trợ ngài chăm sóc người nghèo và trẻ em bị bỏ rơi, một nhu cầu nhức nhối vào thời đó. Có điều các quý bà này còn bề bộn với bao việc gia đình và bổn phận khác. Công việc của ngài lại cần đến nhiều người cộng tác khác có thể dành toàn thời gian cho người nghèo, đặc biệt là các thôn nữ vì họ dễ dàng gần gũi và chinh phục cảm tình của những người nghèo. Ngài còn cần có ai đó tổ chức và dạy dỗ đám thôn nữ.

Phải mất một thời gian dài, sau khi cha Vinh-sơn biết đến Louise nhiều hơn, ngài mới nhận ra Louise chính là người Thiên Chúa gởi đến để đáp lại lời cầu nguyện của cha. Louise thông minh, quảng đại, cứng cáp, kiên trì trái ngược với chứng đau ốm dai dẳng của cô. Công việc cha giao cho cô làm đã có kết qủa là có bốn cô quê mùa gia nhập nhóm. Cha Vinh-sơn thuê một căn nhà ở Paris để làm trung tâm huấn luyện cho những người mới gia nhập trong việc chăm sóc người đau yếu và người nghèo. Công việc nhanh chóng phát triển và đã đến lúc phải đề ra nội quy. Chính Louise, dưới sự hướng dẫn của cha Vinh-sơn, đã soạn ra bản hiến pháp cho Các Nữ Tu Bác Ái Vinh-sơn Phao-lô. Riêng cha Vinh-sơn chỉ thích gọi Tu Hội bằng một cái tên đơn sơ hơn: Nữ Tử Bác Ái (Daughters of Charity - Filles de la Charité).

Cha Vinh-sơn luôn ngần ngại và cẩn trọng trong quan hệ với Louise và Tu Hội. Cha nói rằng cha không hề bao giờ mảy may có một ý tưởng là sẽ lập nên một cộng đoàn mới, chính Chúa mới là Ðấng làm nên mọi sự. Cha nói với nhóm chị em: "Nhà của người đau ốm sẽ là Tu Viện của chúng con. Một căn phòng thuê tạm bợ vá víu sẽ là phòng của chúng con. Nhà Thờ của chúng con sẽ là nhà Thờ của Giáo Xứ. Các hang cùng ngõ hẻm của đường phố, các phòng bệnh trong bệnh viện sẽ là lối đi của Tu Viện."

Ban đầu tu phục của các cô chỉ là y phục thường ngày của các cô gái thôn dã. Phải qua nhiều năm sau, cha Vinh-sơn Phao-lô rốt cuộc mới cho phép bốn cô gái có những lời khấn từng năm một về Khó Nghèo, Trinh Khiết và Vâng Phục. Và phải chờ đợi nhiều năm nữa Tu Hội mới được Rô-ma chính thức châu phê và đặt dưới sự hướng dẫn của Tu Hội Các Linh Mục của cha Vinh-sơn (Dòng Lazariste).

Nhiều thiếu nữ trẻ không được đi học cho nên Tu Hội non trẻ rất ngần ngại khi nhận nhiệm vụ chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi. Louise luôn luôn có mặt ở mọi nơi cần đến bàn tay của cô dù cho sức khoẻ cô luôn bết bát. Cô đi khắp nước Pháp và thiết lập các cộng đoàn các nữ tu tại các bệnh viện, các nhà mồ côi và ở các nơi cần đến họ. Vào ngày cô qua đời, 15.3.1660, Tu Hội đã có 40 Cộng Ðoàn trong nước Pháp. Sáu tháng sau, cha Vinh-sơn Phao-lô cũng qua đời ngày 27.9.1660.

Louise de Marillac được phong Thánh năm 1934 và thánh nhân được đặt làm Quan Thầy những người làm công tác bác ái từ thiện năm 1960.

Vào thời của Louise, việc giúp đỡ người nghèo là một việc xa xỉ mà chỉ có các quý bà giầu sang quý tộc có khả năng làm vào những lúc vô công rỗi nghề. Louise hết sức ngưỡng mộ Thánh Vinh-sơn Phao-lô đã khôn ngoan nhận ra rằng các thiếu nữ quê mùa nghèo khổ mới dễ dàng phục vụ người nghèo hữu hiệu hơn, các Nữ Tu Bác Ái đã được khai sinh dưới sự lãnh đạo của Louise. Cho đến ngày hôm nay, Tu Hội vẫn tiếp tục sứ mạng chăm sóc người đau ốm, già nua, mang đến chỗ nương tựa cho các em mồ côi. Có nhiều hội viên của Tu Hội làm công tác từ thiện bác ái dưới sự bảo trợ của Thánh Louise de Marillac. Tất cả mọi người chúng ta phải học nơi chị thánh sự quan tâm ưu ái với những người bất hạnh.

Theo Bách Khoa Tự Ðiển Encarta của hãng Microsoft, một tự điển hoàn toàn có tích cách thế tục, hai Thánh Vinh-sơn Phao-lô và Louise de Marillac, qua các việc bác ái từ thiện, đã có công đầu tại Pháp vào thế kỷ 17 trong việc chặn đứng phong trào ly giáo.

(Because of the Wars of Religion in France, the Counter Reformation did not pick up momentum there until the 17th century. Devotion to the poor, as exemplified by St. Vincent de Paul and St. Louise de Marillac, especially characterized the French experience. Considerable attention was given there, as it was in Italy, to popular missions among the peasantry. Meanwhile, St. Francis of Sales, bishop of Geneva, published his Introduction to the Devout Life (1608), among the most popular of all works of Christian spirituality. "Counter Reformation", Microsoft  Encarta  Encyclopedia 2000.  1993 - 1999 Microsoft Corporation. All rights reserved.)

Ðất nước Việt Nam chúng ta mang ơn các Nữ Tử Bác Ái rất nhiều. Ða số công việc phục vụ của các chị đều âm thầm vô danh tuy một số được nhiều người biết đến như thiết lập và điều hành các trại phong Bến Sắn, Di Linh, Phước Tân, và mới đây là Trung tâm Mai Hòa chăm sóc bệnh nhân AIDS trong những ngày sau cùng. Ðặc điểm nổi bật nhất của các chị là luôn phục vụ người nghèo và trong yêu thương và khiêm tốn với tư cách người đầy tớ theo lời căn dặn của cha Thánh Vinh-sơn: "Khi các con cho người nghèo bánh ăn, các con còn phải xin lỗi họ."

Ngày 15.3.2003, một Thánh Lễ mừng 70 năm khấn dòng của chị Jean Gabriel Ðặng Thị Cúc; 60 năm của chị Aimée Nguyễn Thị Nữ; và 25 năm của 11 chị khác. Trên tấm thiệp báo đơn sơ ta chỉ đọc được vỏn vẹn hàng chữ đơn sơ: "Tất cả là Hồng Ân".

Xét cho cùng không có Hồng Ân nào to lớn hơn là được sai đi phục vụ Chúa Giê-su nơi người nghèo.

Hoàng Thiên Ân 

(Trích dẫn từ Ephata Việt Nam số 104, năm 2003) 

 

Ngày 15: 2. Thánh Clemente Maria Hofbauer, linh mục dòng Chúa Cứu Thế

 

Clemente Hofbauer sinh ngày 26.12.1752 tại đất nước Áo, vừa đúng 30 năm sau khi Thánh An Phong sáng lập DCCT. Có một chi tiết hết sức dễ thương trong tuổi thơ ấu của cậu bé Clemente Hofbauer. Năm cậu vừa lên 7 thì người cha qua đời. Bà mẹ dắt cậu đến dưới chân Thánh Giá, chỉ lên tượng Chúa Giê-su chịu đóng đinh và bảo: "Con ơi, kể từ nay, người này sẽ là cha của con" Tất cả như là một hạt giống ban đầu của Ơn Gọi Thiên Chúa muốn gieo vào lòng cậu bé Clemente. Có thể nói, chính lời dặn dò nhắn nhủ của bà mẹ đã xác định cho Clemente rằng: kể từ nay chỉ có Chúa Giê-su mới là Ðấng duy nhất mà cậu sẽ phải tuân phục và tận hiến cuộc đời cho Ngài.

Năm 1769, khi vừa tròn 24 tuổi, chàng thanh niên Clemente quyết định xin vào tu trong Ðan Viện Tivoli, để rồi 2 năm sau đó, thầy tình nguyện xin vào sa mạc để ẩn tu. Trong 3 năm liền cầu nguyện chiêm niệm, thầy lại khám phá ra ý định Thiên Chúa muốn thầy không dừng lại ở nếp sống ẩn tu, nhưng quả cảm dấn thân cho Ơn Gọi hoạt động truyền giáo. Thế là thầy lại khẳng khái trình với Bề Trên để xin chia tay ra đi. Suốt trong 4 năm ròng, thầy Clemente đã rong ruổi vượt đường xa hành hương về Rô-ma không dưới 5 lần để chọn một Dòng Tu hoạt động.

Và thế là lại thêm một chi tiết lý thú ghi dấu trong đời thánh nhân. Tháng 9 năm 1784, một lần nữa lại đến Rô-ma, băn khoăn không biết chọn Dòng nào giữa quá nhiều Dòng Tu, thầy nảy ra ý rủ một thầy bạn, một buổi sớm mai, hễ tiếng chuông của Nhà Nguyện Tu Viện nào ở Rô-ma rung lên những tiếng chuông đầu tiên thì hai người sẽ tìm đến để xin nhập Dòng. Hai người thao thức cả đêm, đến khi vừa mới chợp mắt thì tiếng chuông một Tu Viện DCCT ở Rô-ma đã vang lên trước nhất, cả hai trỗi dậy vội vã lên đường tìm đến Nhà Dòng và đã được đón nhận. Ngày 24.10.1784, thầy Clemente mặc áo Dòng, và một năm sau, ngày 19.3.1785, đúng lễ kính Thánh Giu-se, ngài tuyên khấn và nhận sứ vụ Linh Mục trong DCCT, một Linh Mục DCCT đầu tiên không phải là người Ý, nhưng là người Áo.

Cuộc đời mục vụ của cha Clemente khởi đi từ cộng đoàn Saint-Bennon tại thành phố Varsovie. Cha đặc biệt quan tâm phục vụ trẻ em bị bỏ rơi, những thanh niên mù chữ, những cô gái điếm bất đắc dĩ, những người già bị hất hủi, và cả đến những bệnh nhân tâm thần. Cha và cộng đoàn DCCT ở đây cũng không quên tổ chức những tuần Ðại Phúc, hay phải nói cho đúng, ngài đã biến mỗi ngày trong tuần thành một phiên Ðại Phúc với kinh nguyện, Thánh Lễ, Chầu Thánh Thể, giảng thuyết bằng nhiều thứ tiếng cho từng đối tượng người Ðức hay người Ba-lan, và nhất là miệt mài ngồi tòa Giải Tội cho hàng đoàn người sám hối từ khắp nơi tuôn về...

Rồi đây, xuyên qua các biến cố lịch sử chiến tranh và bạo động, trải qua những chống đối và bách hại, những ngộ nhận và ngăn trở của chính quyền lẫn giáo quyền, cha Clemente sẽ nghiệm chứng trong cuộc đời mình Lời Chúa trong Tin Mừng Lu-ca: "Anh em hãy ra đi, này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói..." (Lc 10, 3) bởi cha không thể dừng chân mãi tại Saint-Bennon cho dẫu nhu cầu mục vụ ở đây ngày một đòi hỏi bức thiết.

Cha Clemente không bao giờ quên sự thúc bách của Tin Mừng, của "lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít..." (Lc 10, 2) để tiếp tục lên đường, "không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép..." (Lc 10, 4), cha chỉ một lòng thực hiện Thánh Ý Thiên Chúa để đưa DCCT vượt ra khỏi dãy núi Alpes của vương quốc Napoli để đến các nước miền Âu Châu như Ba Lan, Tiệp Khắc, rồi qua Áo, Thụy Sĩ..., và cứ thế mà lan tỏa đi khắp thế giới, đến miền Bắc Mỹ để rồi từ Canada, DCCT sẽ đặt chân đến Việt Nam năm 1925 mà có được Tỉnh DCCT Việt Nam như ngày nay.

Chia sẻ đến đây, tự nhiên chúng tôi nhớ đến một lời kinh nguyện hằng ngày của anh em DCCT Việt Nam đã được phổ thành bài hát: "Lạy Chúa, ngay giữa lòng Hội Thánh, Chúa đã cho khai sinh gia đình Dòng chúng con mang tên Chúa Cứu Thế sáng danh Vua Trời. Như là một cây nho Chúa thương vun trồng và chăm sóc, mang đến những chùm nho, Ơn Cứu Thế bình an, chan chứa khắp trần gian..."

Thư Thánh Phao-lô Tông Ðồ gửi cộng đoàn Cô-rin-tô có khẳng định: Phao-lô trồng, A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Ðấng làm cho lớn lên, mới đáng kể (x. 1 Cr 3, 6 - 7).

Trong tâm tình khiêm tốn của Linh Mục và Tu Sĩ Dòng Chúa Cứu Thế khám phá ra chính Thánh Ý Chúa đã chọn để cho Thánh An-phong gieo hạt giống đầu tiên mà mọc lên thành một cây nho sinh hoa kết quả tốt tươi, trong đó có công sức vun tưới của Thánh Clemente Hofbauer, thế nhưng trên hết, chúng ta vẫn phải chung nhau một lời tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Ðức Giê-su, Ðấng mà Nhà Dòng đã xin được mang tên là Chúa Cứu Thế. Chính Ngài chứ không phải ai khác, đã chọn Thánh An-phong làm người sáng lập Dòng, đã sai Thánh Clemente đưa Dòng lan tỏa vươn nhánh ra khắp nơi trên thế giới, trong đó có quê hương Việt Nam chúng ta.

Cha Clemente Maria Hofbauer được Chúa gọi về ngày 15.3.1820. Mọi ngộ nhận và ngăn trở từ mọi phía không còn nữa, ngược lại, đám tang của ngài trở thành một cuộc khải hoàn của Tình Yêu Thiên Chúa Quan Phòng. Những ước mơ và công trình dở dang của ngài rồi sẽ được nối tiếp, hoàn tất và phát triển rực rỡ. Người ta tuôn về bên mộ ngài để cầu nguyện xin ơn chữa lành cả thể xác lẫn tâm hồn, các anh em DCCT cũng như nhiều tu sĩ các Dòng tìm đến, cúi đầu mặc niệm và tĩnh tâm để như thể tìm nơi ngài một nghị lực lên đường cho sứ vụ truyền giáo. Năm 1909, cha được Ðức Giáo Hoàng Pi-ô 10 nâng lên hàng Hiển Thánh. Mãi mãi, DCCT đề cao ngài như vị Thánh Tổ thứ hai, sau Thánh An-phong.

Ðể kết thúc, chúng ta hãy cùng nhau chú ý đến một câu, một chi tiết trong bài Tin Mừng Thánh Lễ mừng kính Thánh Clemente ngày 15 tháng 3: "Khi ấy, Ðức Giê-su chỉ định 72 người và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Ðức Giê-su cũng sẽ đến..." (Lc 10, 1). Hóa ra các môn đệ được sai đi trước để dọn đường, để vỡ đất khai hoang trồng trọt. Còn chính Ðức Giê-su, Ngài sẽ làm cho cánh đồng Tin Mừng trổ sinh bao thóc lúa bội thu.

Vì thế, chúng ta xác tín rằng: DCCT, Dòng của Chúa Giê-su, tức là đã được đặt nền móng trên chính Ðức Ki-tô. Và rồi, Thánh Clemente, đến các thế hệ anh em tu sĩ DCCT đã được sai đi mở đường để rồi chính Ðức Giê-su Ngài sẽ đến, để qua anh em Tu Sĩ Linh Mục, qua cả những anh chị em Giáo Dân đang cộng tác nhiệt thành với chúng tôi, Ngài tuôn tràn Ơn Ðức Ðộ cho mọi người, nhất là những người nghèo đói bất hạnh về vật chất lẫn tinh thần, để mọi người cùng nhận ra: "Triều đại Thiên Chúa đã đến gần" (Lc 10, 9).

Xin tạ ơn Thiên Chúa, xin biết ơn Thánh Clemente. Amen. 

Lm. Lê Quang Uy, DCCT 

(Trích dẫn từ Ephata Việt Nam số 104, năm 2003)


Thứ Sáu


Lời Chúa

Bài Ðọc I: Kn 2, 1a. 12-22

"Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã".

Trích sách Khôn Ngoan.

Những kẻ gian ác suy nghĩ chín chắn, đã nói rằng: "Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Nó tự hào mình biết Thiên Chúa và tự xưng là con Thiên Chúa. Chính nó là sự tố cáo những tư tưởng của chúng ta. Vì nguyên việc thấy nó, chúng ta cũng cáu, thấy bực mình, vì nếp sống của nó không giống như kẻ khác, và đường lối của nó thì lập dị. Nó kể chúng ta như rơm rác, nó xa lánh đường lối chúng ta như xa lánh những gì dơ nhớp, nó thích hạnh phúc cuối cùng của người công chính, nó tự hào có Thiên Chúa là Cha. Vậy chúng ta hãy xem coi điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!" Chúng nghĩ như vậy, nhưng chúng lầm, vì tội ác của chúng đã làm cho chúng mù quáng. Và chúng không biết ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa, nên cũng chẳng hy vọng phần thưởng công chính, và chúng cũng không ưa thích vinh dự của những tâm hồn thánh thiện.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 17-18. 19-20. 21 và 23

Ðáp: Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường (c. 19a).

Xướng: 1) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.

2) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. - Ðáp.

3) Ngài gìn giữ họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy. Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab

Hôm nay, các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.

 

Phúc Âm: Ga 7, 1-2. 10. 25-30

"Chúng tìm cách bắt Người, nhưng chưa tới giờ Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.

Có một số người ở Giêrusalem nói: "Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu".

Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng nói rằng: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta". Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người.

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm


  Sự Sống tương phản


Mùa Chay cho tới hôm nay đã ở vào ngày Thứ Sáu trong Tuần thứ IV, phụng vụ lời Chúa nói chung và Phúc Âm nói riêng cho thấy phản ứng tiêu cực của bóng tối lòng người bị chói lòa trước ánh sáng mạc khải thần linh.

Thật vậy, ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, ở đoạn đầu tiên trong ba đoạn, Thánh ký Gioan đã ghi nhận tình hình căng thẳng đến nghẹt thở giữa bóng tối và ánh sáng như sau: 

"Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo".

Hai bài Phúc Âm hôm qua, Thứ Năm, và hôm kia, Thứ Tư, Thánh ký Gioan ở cùng đoạn 5 cho chúng ta thấy chứng từ của Chúa Giêsu chứng thực về bản thân Người và nguồn gốc của Người ở giáo đô Giêrusalem. Sau đó, ở đoạn 6 của cùng Phúc Âm, Người về Galilêa và đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để từ đó mạc khải về Người là Bánh Sự Sống. 

Câu đầu tiên mở đầu đoạn 7 của bài Phúc Âm hôm nay là câu chuyển tiếp cho việc Người đang ở Galilêa và lý do Người không muốn xuất hiện ở Giuđêa: "Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người". 

Thật ra, không phải là Người sợ chết cho bằng chưa tới giờ của Người. Nguyên sự kiện Người tạm lánh mặt đi như thế này thôi cũng đủ cho thấy Người quả thực là Đấng Thiên Sai như Người đã nói và làm bao giờ cũng chỉ theo ý Cha là Đấng đã sai Người mà thôi.

Nếu Người không phải là Đấng Thiên Sai đích thực, mà chỉ tìm vinh quang trần thế, như Người cảnh báo dân Do Thái trong bài Phúc Âm hôm qua, chắc chắn Người sẽ làm theo ý của Người, ở chỗ, một khi thấy rằng mình đã được bao nhiêu là người hậu thuẫn, thậm chí muốn tôn Người lên làm vua (xem Gioan 6:15) sau phép lạ Người hóa bánh ra nhiều để nuôi cả năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con nít, Người sẽ hô hào họ theo Người và cùng Người kéo xuống Giuđea để tiến về Giêrusalem hầu cho cả giáo quyền Do Thái lẫn chính quyền Roma thấy được quyền lực cùng thanh thế hùng mạnh đáng sợ của Người. 

Thế nhưng, vì là chính Đấng Thiên Sai, Đấng Thiên sai đích thực, mà Thánh ký Gioan đã thuật lại về Người trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo".

Tuy nhiên, cho dù lên Giêrusalem một cách kín đáo, ở tại giáo đô này, trong khu vực đền thờ, Người vẫn công khai tỏ mình ra bằng chứng từ của Người, không sợ, vì đó là giờ của Người, là lúc và là nơi Cha của Người là Đấng đã sai Người đến, bằng thúc động của Thánh Linh hằng ngự nơi Người và là Đấng luôn tác động mọi lời nói và việc làm của Người theo đúng ý muốn của Cha. Việc công khai xuất hiện của Người tuy làm cho đám đông ngạc nhiên nhưng họ vẫn không chấp nhận Người:

"Có một số người ở Giêrusalem nói: 'Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu'".

Đúng thế, cho dù Chúa Kitô có làm chứng về Người thế nào chăng nữa, dân chúng vẫn không thể nào tin tưởng được Người là Đấng Thiên Sai của họ, bởi vì, căn cứ vào nguồn gốc trần gian của Người, một tên Giêsu xuất thân từ Nazarét xứ Galilêa: "ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu", nghĩa là ông ta chắc chắn không phải là Đấng Thiên Sai, bởi theo suy luận của họ thì nếu họ biết rõ về thân thế và xuất xứ của Người tất nhiên những gì cần phải xẩy ra đó là Đấng Thiên Sai phải là một nhân vật hoàn toàn bí mật: "khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu".

Trước những nhận định của dân chúng không sai về xuất xứ ở trần gian này của Người: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu"; Chúa Giêsu lại tiếp tục tỏ mình ra cho họ một cách chính xác hơn nữa, để nhờ đó họ có thể thấy được tất cả sự thật về Người mà được sự sống, khi Người cho họ biết rằng: "Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta".

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Kitô chỉ mới đi vòng vòng ở ngoài khi nói đến các việc Người làm được Cha Người trao phó để chứng thực về Người: "công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta", thì trong bài Phúc Âm hôm nay, Người đã bắt đầu tiến vào vòng trong, khi tuyên bố rõ hơn và mạnh hơn về vai trò Thiên Sai của Người: "Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta".

Ánh sáng càng sáng tỏ càng chói lòa bóng tối và càng xua tan bóng tối, tuy nhiên, thành phần "chuộng tối tăm hơn ánh sáng... sợ bị phơi bày ra ánh sáng" (Gioan 3:19-20), sợ chính ánh sáng, nên chỉ muốn tìm hết cách để dập tắt ánh sáng. Thánh ký Gioan đã cho thấy phản ứng của dân chúng trước mạc khải thần linh tràn đầy sự thật càng ngày càng rạng ngời hơn về Chúa Giêsu như sau: "Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người". 

Hành động và phản ứng đầy tính chất tối tăm của dân Do Thái trong Bài Phúc Âm hôm nay, trước mạc khải thần linh của Chúa Kitô về bản thân Người, là những hành động và phản ứng theo tâm lý tự nhiên của con người ở mọi thời đại, như đã được Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 hôm nay vạch trần cho thấy tất cả những âm mưu gian ác của họ như sau: 

"Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Nó tự hào mình biết Thiên Chúa và tự xưng là con Thiên Chúa. Chính nó là sự tố cáo những tư tưởng của chúng ta. Vì nguyên việc thấy nó, chúng ta cũng cáu, thấy bực mình, vì nếp sống của nó không giống như kẻ khác, và đường lối của nó thì lập dị. Nó kể chúng ta như rơm rác, nó xa lánh đường lối chúng ta như xa lánh những gì dơ nhớp, nó thích hạnh phúc cuối cùng của người công chính, nó tự hào có Thiên Chúa là Cha. Vậy chúng ta hãy xem coi điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!" 

Tuy nhiên, lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử cứu độ của dân Do Thái nói riêng đã cho thấy, như nơi trường hợp Giuse bị 10 người anh thay vì sát hại đã bán Giuse sang Ai Cập để phá hủy mộng mị của đứa em Giuse đáng ghét của họ không ngờ lại làm trọn những gì bị họ cho mà mộng mị ấy (xem Khởi Nguyên 37:20; 50:19-20), vì họ chỉ là loài người thiển cận, như cóc ngồi đáy giếng, đúng như Bài Đọc 1 hôm nay cho biết: "nhưng chúng lầm, vì tội ác của chúng đã làm cho chúng mù quáng. Và chúng không biết ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa".

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những nhận thức hoàn toàn phản lại với tâm tưởng đen tối của thành phần gian ác trong Bài Đọc 1 cùng ngày, những nhận thức hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng làm chủ mọi sự và quan phòng mọi sự theo ý định vô cùng khôn ngoan và toàn năng của Ngài:

1) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. 

2) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. 

3) Ngài gìn giữ họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy. Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. 




Thứ Bảy


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Gr 11, 18-20

"Con như chiên con hiền lành bị đem đi giết".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Lạy Chúa, Chúa đã tỏ cho con và con đã biết; vì Chúa đã chỉ cho con những mưu toan của chúng. Còn con, con như chiên con hiền lành bị đem đi giết. Con đã không biết chúng mưu toan hại con khi chúng nói: "Chúng ta hãy bỏ cây vào bánh của nó, chúng ta hãy diệt trừ nó khỏi đất kẻ sống, và người ta không còn nhớ đến tên nó nữa".

Nhưng lạy Chúa các đạo binh, Chúa xét xử công minh, và dò xét tâm can. Chớ gì con sẽ thấy Chúa báo thù chúng, vì con đã phó thác việc con cho Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 7, 2-3. 9bc-10. 11-12

Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài (c. 2a).

Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài, xin cứu con khỏi mọi người đang lùng bắt, và xin giải thoát thân con, kẻo có người như sư tử chộp bắt hồn con, xé nát ra mà không ai cứu gỡ. - Ðáp.

2) Xin minh xét cho con, thân lạy Chúa, theo sự công chính và vô tội ở nơi con. Nguyện cho chấm dứt sự độc dữ kẻ ác nhân, và xin Ngài củng cố người hiền đức, khi Ngài lục soát tâm can, ôi Chúa công minh. - Ðáp.

3) Thuẫn che thân con là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ những kẻ lòng ngay. Thiên Chúa là vị công minh thẩm phán, và Thiên Chúa hăm doạ hằng ngày. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 11, 25a và 26

Chúa phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời đời".

 

Phúc Âm: Ga 7, 40-53

"Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: "Ông này thật là tiên tri". Kẻ khác nói: "Ông này thật là Ðấng Kitô". Người khác nữa lại nói: "Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của Ðavit?" Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người. Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt Người. Vậy khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ rằng: "Tại sao các ngươi không điệu nó tới?" Các người thừa hành thưa rằng: "Chẳng hề có ai nói như người ấy". Các người biệt phái trả lời rằng: "Chớ thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề luật". Nicôđêmô là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói với họ rằng: "Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?" Nhưng họ trả lời rằng: "Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa". Sau đó ai về nhà nấy.

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm


 

   Sự Sống Ẩn Hiện  


Hôm nay, Thứ Bảy, ngày cuối cùng của Tuần IV Mùa Chay, bài Phúc Âm hôm nay không hề có sự hiện diện chính thức của Chúa Giêsu một tí nào. Thế nhưng dù không có lời nào Người phán hay việc nào Người làm, mà Người lại nổi bật hơn bao giờ hết, giữa tình trạng chia rẽ trầm trọng nơi cả dân chúng cũng như thành phần lãnh đạo, và giữa thành phần lãnh đạo với thành phần thừa hành. Đó là chứng cớ cho thấy tầm ảnh hưởng quá ấn tượng của Người.

 

Trước hết, thành phần dân chúng đã chia rẽ nhau về Người như sau: "Khi ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: 'Ông này thật là tiên tri'. Kẻ khác nói: 'Ông này thật là Ðấng Kitô'. Người khác nữa lại nói: 'Đấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của Ðavit?' Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người".

 

Sau nữa, giữa thành phần lãnh đạo với thành phần thừa hành: "Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt Người. Vậy khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ rằng: 'Tại sao các ngươi không điệu nó tới?' Các người thừa hành thưa rằng: 'Chẳng hề có ai nói như người ấy'. Các người biệt phái trả lời rằng: 'Chớ thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề luật'".

 

Sau hết, giữa chính nội bộ lãnh đạo với nhau: "Nicôđêmô là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói với họ rằng: 'Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?' Nhưng họ trả lời rằng: 'Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa' Sau đó ai về nhà nấy".

 

Tình trạng chia rẽ này, cho dù giữa dân chúng với nhau hay giữa nội bộ lãnh đạo với nhau, đều giống nhau và qui tụ lại ở chỗ cả hai thành phần này cùng căn cứ vào xuất xứ của nhân vật Giêsu Nazarét là từ Galilêa chứ không phải từ Giuđêa để suy diễn và quyết đoán về Người có thực sự là tiên tri hay chăng, hoặc là đấng thiên sai hay chăng?

 

Dân chúng: "Đấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của Ðavit?"; Lãnh đạo: "Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa".

 

Đó là về phía thành phần không chấp nhận Người. Còn về thành phần chấp nhận Người thì họ lại căn cứ vào cảm nhận tự nhiên của họ, đúng hơn, căn cứ vào chính những gì Người nói mà họ cảm nhận được Người là ai, đúng như Người chứng thực về Người, rất đáng khả tín, rất đáng chấp nhận. 

 

Trong khi chung dân chúng: "sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: 'Ông này thật là tiên tri'. Kẻ khác nói: 'Ông này thật là Ðấng Kitô'", thì thành phần thừa hành của các vị trong giáo quyền cũng cảm thấy có một cái gì đó đặc biệt nơi Người: "Chẳng hề có ai nói như người ấy".

 

Đến đây và ở trong trường hợp của bài Phúc Âm hôm nay chúng ta mới thấy thật sự và hoàn toàn ứng nghiệm lời tiên tri của tư tế Simeon là vị đã ẵm hài nhi Giêsu trên tay lúc bé mới được 40 ngày mà nói: "Con Trẻ này sẽ trở thành cớ cho nhiều người trong Israel vấp ngã hay chỗi dậy, trở thành một dấu hiệu đối chọi" (Luca 2:34). 

 

Chính Chúa Kitô cũng cho dân Do Thái biết bản thân Người là cả một mầu nhiệm vô cùng cao cả và thần linh, tự mình họ không thể nào thấu biết, cho dù Người không giấu diếm họ một chút nào, trái lại đã nhiều lần và nhiều cách tỏ mình ra cho họ biết tất cả sự thật về Người, theo kiểu cách loài người, đến độ, cả thành phần môn đệ thân tín của Người cũng thế, cũng không hơn gì dân chúng và thành phần lãnh đạo dân chúng, như chính Người đã quả quyết với các vị như đã quả quyết với chung dân Do Thái rằng: 

 

"Các con ơi, Thày không còn ở với các con bao lâu nữa. Các con sẽ tìm kiếm Thày, nhưng này Thày nói với các con những gì Thày đã từng nói với người Do Thái đó là 'nơi Tôi đi quí vị không thể nào đến được'" (Gioan 13:33; 7:33-34). 

 

Thậm chí, Người còn báo trước cho chung dân Do Thái và riêng thành phần lãnh đạo của họ biết rằng: "Quí vị sẽ tìm Tôi nhưng quí vị sẽ chết trong tội lỗi của quí vị" (Gioan 8:21), và quả thực đã xẩy ra hoàn toàn đúng như vậy, trong Tuần Thánh. Ở chỗ, chẳng những cả một Hội Đồng Đầu Mục Do Thái đã đồng thanh lên án tử cho Người ngay khi Người chân nhận mình là Đấng Thiên Sai như họ nhân danh Thiên Chúa hỏi Người, mà còn cả một tông đồ đoàn bỏ chạy, một tông đồ Giuđa phản nộp Thày mình và nhất là một lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô chối bỏ Thày mình ... 

 

Tuy nhiên, không phải vì thế, không phải thấy trước một tương lai đen tối như thế mà Người, Đấng Thiên Sai đích thực của Thiên Chúa cảm thấy sợ hãi và toan tính bỏ chạy. Trái lại, biết vai trò chủ chiên của mình, một "chủ chiên nhân lành thí mạng sống mình vì chiên... cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:11,10) mà Người đã tuyên bố và tiên báo: "Tôi tự ý bỏ mạng sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17).

 

Qua miệng tiên tri Giêrêmia ở Bài Đọc 1 hôm nay, chính Người đã chấp nhận thân phận thiên sai cứu thế đầy bất hạnh và vô cùng khốn nạn của mình một cách ngoan ngoãn như con chiên bị đem đi giết như sau:

 

"Lạy Chúa, Chúa đã tỏ cho con và con đã biết; vì Chúa đã chỉ cho con những mưu toan của chúng. Còn con, con như chiên con hiền lành bị đem đi giết. Con đã không biết chúng mưu toan hại con khi chúng nói: 'Chúng ta hãy bỏ cây vào bánh của nó, chúng ta hãy diệt trừ nó khỏi đất kẻ sống, và người ta không còn nhớ đến tên nó nữa'".

 

Thế nhưng, mục đích Người "tự ý bỏ sự sống mình đi" là "để lấy lại", chứ không phải để bị hủy diệt đời đời. Bởi thế, cũng qua miệng tiên tri Giêrêmia trong Bài Đọc 1 hôm nay, Người đã an tâm chấp nhận mọi sự theo ý Đấng đã sai Người: "Nhưng lạy Chúa các đạo binh, Chúa xét xử công minh, và dò xét tâm can. Chớ gì con sẽ thấy Chúa báo thù chúng, vì con đã phó thác việc con cho Chúa", Đấng đã có cách để "báo thù" một cách kỳ diệu ngoài sức tưởng tưởng của họ. 

  

Đúng thế, cách "báo thù" của Thiên Chúa bao giờ cũng là lấy lành mà thắng dữ, lấy thiện mà báo ác, hay đúng hơn biến ác thành lành, một đường lối siêu việt đến độ thế gian không thể nào hiểu được, chứ đừng nói làm được, mà chỉ bàng hoàng ngỡ ngàng khi thấy chính mưu đồ đầy gian ác, hết sức khôn ngoan và hoàn toàn tự do của mình lại trở thành phương tiện và cơ hội để Thiên Chúa thực hiện tất cả những gì Ngài muốn, theo đúng dự án thần linh của Ngài: "Viên đá bị thợ xây loại bỏ đã trở thành viên đá gốc" (Thánh Vịnh 118:22; Mathêu 21:42; Tông Vụ 4:11).

 

Bài Đáp Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh nội dung của Bài Đọc 1 cùng ngày, chất chứa tâm tình của một con người hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Vị Thiên Chúa của mình, để Ngài muốn làm gì thì làm nơi mình cho ý muốn tối thượng của Ngài được nên trọn:

 

1) Lạy Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài, xin cứu con khỏi mọi người đang lùng bắt, và xin giải thoát thân con, kẻo có người như sư tử chộp bắt hồn con, xé nát ra mà không ai cứu gỡ. 

 

2) Xin minh xét cho con, thân lạy Chúa, theo sự công chính và vô tội ở nơi con. Nguyện cho chấm dứt sự độc dữ kẻ ác nhân, và xin Ngài củng cố người hiền đức, khi Ngài lục soát tâm can, ôi Chúa công minh. 

 

3) Thuẫn che thân con là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ những kẻ lòng ngay. Thiên Chúa là vị công minh thẩm phán, và Thiên Chúa hăm doạ hằng ngày. 

 

 

Nếu theo dõi kỹ, kể từ Thứ Tư Tuần 4 Mùa Chay, chúng ta thấy Chúa Giêsu càng tỏ mình ra càng bị dân Do Thái nói chung và thành phần có thẩm quyền nói riêng chống đối, hay nói ngược lại, dân Do Thái càng tìm biết Người, thì Người càng được dịp tỏ mình ra cho họ, nhưng lại càng khiến họ bị chói lòa đến mù quáng đến độ sát hại Người.

 

 

Ý định của người Do Thái

Chúa tỏ mình cho người Do Thái

Phản ứng của người Do Thái

Thứ 4

muốn giết Người vì Người lộng ngôn - là người mà cho mình ngang hàng với Thiên Chúa

Nhưng Chúa Giêsu lợi dụng dịp này để tỏ  cho họ thấy được rõ ràng mối liên hệ mật thiết giữa Người  và Cha

 

Thứ 5

muốn biết về Người nên dựa vào thế giá của Tiền Hô

Gioan và tìm tòi Thánh Kinh

Nhưng cả hai điều ấy đều chứng thực về Người, nhất là ở chính các việc  NgườI  làm theo ý Đấng sai Người

 

Thứ 6

tưởng rằng biết được nguồn gốc xuất thân của Người căn cứ vào nhận định trần gian của họ

Nhưng Chúa Giêsu đã cho họ biết

Người xuất thân từ trời, từ  trên cao, tức từ Cha là Đấng đã sai Người.

“Họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai dám đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người”

Thứ 7

 

“sau khi nghe Chúa Giêsu giảng”

(về những gì cần chứng thực về Người là Đấng Thiên Sai như những sự trên đây)

“dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người”, nhất là phe thẩm quyền không chấp nhận Người vì Người xuất thân từ Galilêa. “Sau đó ai về nhà nấy”.

Ngày 17: Thánh Patriciô, giám mục

Thánh Patriciô được gọi là tông đồ xứ Ái Nhĩ Lan. Mặc dù chúng ta không có đầy đủ sử liệu hầu làm sáng tỏ về những chặng đường sứ mạng của ngài, tuy nhiên chúng ta có thể chắc chắn rằng ngài sinh tại Bretagne khoảng năm 385. Sau khi bị bọn cướp bắt đi làm nô lệ, ngài trở về quê hương và quyết định dâng hiến cuộc đời vào công cuộc truyền bá Phúc Âm. Ngài đã được Ðức Giáo Hoàng Célestin đặt làm Giám Mục tiên khởi Ái Nhĩ Lan vào năm 431. Ngài đã dùng mọi tài năng khéo léo để rao giảng hầu mọi người nhận biết Chúa Giêsu. Dù vậy, đức tin vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn nhiều người tại vùng đất này.

Ngài đã nêu cao đức tin anh dũng bằng một nếp sống cầu nguyện và khổ hạnh. Ngài qua đời năm 461 tại Down. Nhờ ngài, Giáo Hội Ái Nhĩ Lan đã kiên vững với ngọn lửa tông đồ bừng cháy và đã trở nên hòn đảo của các vị thánh.