SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Mùa Thường Niên Tuần V 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 58, 7-10

"Sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Này đây Chúa phán: "Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông, các vết thương của ngươi sẽ lành nhanh chóng; công lý của ngươi sẽ đi trước mặt ngươi, vinh quang của Chúa sẽ hậu thuẫn cho ngươi. Như thế, ngươi gọi, Chúa sẽ trả lời; ngươi la lên, Chúa sẽ phán: "Này Ta đây". Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích, thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 111, 4-5. 6-7. 8a và 9

Ðáp: Trong u tối người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay (c. 4a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Trong u tối, người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. Phước đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. - Ðáp.

2) Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ được ghi nhớ muôn đời. Người không kinh hãi vì nghe tin buồn thảm, lòng người vững vàng cậy trông vào Chúa. - Ðáp.

3) Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi, người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 2, 1-5

"Tôi đã công bố cho anh em bằng chứng của Chúa Kitô chịu đóng đinh".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, phần tôi, khi tôi đến với anh em, tôi không đến với uy thế của tài hùng biện hoặc của sự khôn ngoan; tôi đến công bố bằng chứng của Thiên Chúa. Thật vậy, tôi không cho là tôi biết điều gì khác giữa anh em, ngoài Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Phần tôi, chính trong sự yếu hèn, sợ hãi và run rẩy mà tôi đã đến với anh em; lời tôi nói và việc tôi rao giảng không dựa vào những lời quyến rũ của sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và quyền năng, để đức tin của anh em không dựa vào sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào quyền năng của Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là ánh sáng thế gian; ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 13-16

"Các con là sự Sáng thế gian".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn sử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.

"Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image


Suy niệm

 

 

"Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ

- "Việc tôi rao giảng không dựa vào những lời quyến rũ của sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và quyền năng"

 

 

Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật V Thường Niên Năm A hôm nay tiếp tục ngay sau bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Thường Niên Năm A, một bài Phúc Âm về Các Phúc Đức Trọn Lành được Chúa Giêsu chỉ dạy riêng cho các môn đệ thân tín của Người, để các vị có thể "giảng dạy cho họ tất cả những gì Thày đã truyền dạy các con" (Mathêu 28:20), trước hết bằng đời sống chứng nhân của các vị, như "ánh sáng" chiếu tỏa trên "thế gian" này.  

Đúng thế, nội dung của những lời Chúa Giêsu tiếp tục dạy cho các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay (5:13-16) đã cho thấy rõ ý hướng của Người, như câu mở đầu của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước, tỏ lộ, ở chỗ Người dạy riêng cho các môn đệ nhưng nhắm đến lợi ích chung dân chúng và riêng đoàn chiên của các vị sau này: "Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng...". 

Đó là lý do Người đã khẳng định với các môn đệ của Người rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời". 

Chúa Giêsu đã ví các môn đệ của Người như "muối đất" và như "ánh sáng thế gian". Tại sao Người không đề cập đến "ánh sáng thế gian" trước mà là "muối đất" trước. Phải chăng Người có ý nói đến 2 phương diện tối yếu bất khả thiếu và bất khả phân ly của thành phần môn đệ được Người tuyển chọn, đó là phương diện nội tâm (cần phải có trước) và phương diện làm chứng (thành quả tất yếu đến sau)?  

Đúng vậy, nếu một người tông đồ mà không có đời sống nội tâm sâu xa mặn mà như "muối đất", trái lại, nội tâm của họ hết sức nông cạn, hời hợt, sống theo tình cảm, đầy ắp kiến thức suông, mang tâm tình tự phụ tự mãn v.v., chẳng kết hợp với Chúa Kitô và theo tác động thần linh của Chúa Thánh Thần, thì làm sao họ có thể có cùng một tâm tưởng của Chúa Kitô, có những lời nói sưởi ấm lòng người như Chúa Kitô, có những tác hành và phản ứng nhân ái yêu thương với Chúa Kitô, và vì thế họ không thể nào làm chứng cho Người theo đúng như ơn gọi và sứ vụ chuyên biệt trổi vượt cao cả của họ như "một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được nữa". 

Chính vì ý thức được thâm sâu những gì Chúa Giêsu truyền dạy như thế mà Giáo Hội, qua Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962 - 8/12/1965), đã khẳng định về căn tính và sứ vụ chính yếu bất khả thiếu của mình là "Ánh Sáng Chư Dân - Lumen Gentium", nhan đề của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, một căn tính và sứ vụ chiếu soi muôn dân, sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô: "Tự bản chất, Giáo Hội lữ hành là truyền giáo" (Công Đồng Chung Vaticanô II - Sắc Lệnh 'Ad Gentes - Cho Chư Dân' về Việc Truyền Giáo của Giáo Hội - đoạn 2).

"Các con là ánh sáng" trở thành căn tính chính yếu và sứ vụ bất khả thiếu của các tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm nay chỉ có thể trở thành hiện thực nơi từng vị tông đồ nói riêng và nơi thành phần môn đệ của Người nói chung nếu trước hết và trên hết họ không trở thành "muối đất". Đó là lý do Chúa Giêsu đã, theo thứ tự giáo huấn của Người, bảo các vị "là muối đất" trước khi "là ánh sáng thế gian". Nghĩa là, nếu "ánh sáng thế gian" ám chỉ sứ vụ làm chứng và truyền giáo của các vị, của Giáo Hội trước thế giới, thì "muối đất" ám chỉ đời sống nội tâm và bỏ mình khổ chế của các vị, nhất là việc các vị cần phải hy sinh đến bồi cho thế gian. Bởi vậy, nếu các vị không có một đời sống nội tâm như "muối đất" như thế làm sao các vị có thể trở thành "ánh sáng thế gian", hay ngược lại, làm cho thế gian càng ung thối hơn bởi gương mù gương xấu của các vị, như thành phần "phản kitô".

Chính vì chiều hướng "muối đất" và "ánh sáng thế gian" liên quan đến phần rỗi của nhân gian, đến đức ái trọn hảo như thế mà Bài Đọc 1 hôm nay cũng đã cho thấy ý nghĩa sâu xa của "ánh sáng" cần phải chiếu tỏa nhờ đức bác ái của những ai sống công chính như sau:

"Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông, các vết thương của ngươi sẽ lành nhanh chóng; công lý của ngươi sẽ đi trước mặt ngươi, vinh quang của Chúa sẽ hậu thuẫn cho ngươi.... Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích, thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày".

Bài Đáp Ca hôm nay cũng theo chiều hướng "ánh sáng" yêu thương của Bài Đọc 1 như sau: "Trong u tối, người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. Phước đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình" (câu 1), và "Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi, người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang" (câu 2).

"Các con là ánh sáng thế gian", như Chúa Kitô khẳng định về căn tính của thành phần môn đệ tông đồ của Người, đã được thực sự thể hiện rạng ngời nơi một vị tông đồ được chính Người sai đi như "Ta sẽ làm cho con trở thành ánh sáng chư dân để mang ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất"  (Tông Vụ 13:47), đó là vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, một vị tông đồ đã sống ơn gọi và sứ vụ là "ánh sáng chư dân" của mình như chính ngài tỏ lộ ở Bài Đọc 2 hôm nay như sau:

"Anh em thân mến, phần tôi, khi tôi đến với anh em, tôi không đến với uy thế của tài hùng biện hoặc của sự khôn ngoan; tôi đến công bố bằng chứng của Thiên Chúa. Thật vậy, tôi không cho là tôi biết điều gì khác giữa anh em, ngoài Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Phần tôi, chính trong sự yếu hèn, sợ hãi và run rẩy mà tôi đã đến với anh em; lời tôi nói và việc tôi rao giảng không dựa vào những lời quyến rũ của sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và quyền năng, để đức tin của anh em không dựa vào sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào quyền năng của Thiên Chúa".

 

Kitô hữu cần phải là một con người sáng ngời

 

Trong đoạn Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, ngay sau các Phúc Đức Trọn Lành, Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ của Người rằng: "Các con là muối đất... Các con là ánh sáng thế gian" (Mt 5:13-14). Điều này khiến chúng ta hơi lạ lùng một chút khi chúng ta nghĩ đến những ai bấy giờ ở trước mặt Chúa Giêsu khi Người nói những lời ấy. Thành phần môn đệ ấy là những ai? Họ là thành phần đánh cá, là thành phần đơn sơ chất phác... Thế nhưng, Chúa Giêsu nhìn họ bằng con mắt của Thiên Chúa, và chủ trương của Người có thể hiểu được một cách chính xác như là thành quả của các Phúc Đức Trọn Lành. Người muốn nói rằng: Nếu các con nghèo khó trong tinh thần, nếu các con hiền lành, nếu các con tinh tuyền trong lòng, nếu các con từ bi thương xót... các con sẽ là muối đất và là ánh sáng thế gian!

 

... Chúng ta, những Kitô hữu đã chịu Phép Rửa, là thành phần môn đệ thừa sai và chúng ta được kêu gọi để trở nên một Phúc Âm sống động trên thế giới này: bằng một đời sống thánh thiện, chúng ta sẽ "ướp" các môi trường khác nhau và bênh vực chúng khỏi bị băng rữa như muối gây tác dụng vậy; và chúng ta sẽ mang ánh sáng của Chúa Kitô bằng chứng từ bác ái chân thực..... Kitô hữu cần phải là một con người sáng ngời, một con người cưu mang ánh sáng, một con người luôn tỏa sáng! Một thứ ánh sáng không phải của họ mà là tặng ân từ Thiên Chúa, một tặng ân từ Chúa Giêsu. Chúng ta chất chứa ánh sáng ấy. Nếu Kitô hữu làm tắt lịm ánh sáng này thì đời sống của họ vô nghĩa: họ là một Kitô hữu chỉ có tên mà thôi, một con người không chất chứa ánh sáng; đời sống của họ vô nghĩa. Giờ đây tôi muốn hỏi anh chị em rằng anh chị em muốn sống ra sao nhé? Như một cây đèn bừng cháy hay một cây đền không cháy? Cháy hay không? Anh chị em muốn sống ra sao đây? [Dân chúng đáp lại: Bừng cháy!] Như các cây đèn cháy sáng! Thực sự là Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ánh sáng này và chúng ta cần phải cống hiến nó cho những người khác. Đó là ơn gọi của Kitô hữu vậy.

 

 

http://w2.vatican.va/content/francesco/en/angelus/2014/documents/papa-francesco_angelus_20140209.html
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL chuyển dịch

 

 

 

Ngày 05: Thánh Agata, đồng trinh tử đạo

Thánh Agata sinh tại Sicilia trong một gia đình danh giá. Các chị em của người là Anê, Lucia và Cêcilia đã đổ máu ra minh chứng Chúa Kitô dưới thời bạo vương Ðêciô, năm 251.

Tương truyền rằng từ thuở bé, Agata đã hứa giữ mình đồng trinh. Nhưng quan trấn ở Sicilia là Quintianô ngỏ ý xin cưới thánh nữ. Bị từ khước, ông tức giận bắt giam thánh nữ, lấy cớ ngài là người Công Giáo. Người ta đã hành hạ, khinh khi làm nhục ngài. Ðể trả thù, bạo quan hạ lệnh nướng ngài trên giường sắt. Sau đó, người ta lại tống giam thánh nữ. Lạ thay, trong đêm đó, thánh Phêrô đã hiện ra và chữa lành cho ngài. Dù bị quan trấn Quintianô nhiều lần dụ dỗ, ngài vẫn một lòng trung kiên với đạo Chúa. Dù đau đớn lăn lộn trên than hồng và mảnh chai nhọn, ngài vẫn tin cậy vào Chúa, Ðấng sẽ cứu linh hồn ngài. Chính cử chỉ của thánh nữ khiến cả thành phố náo động, Quintianô sợ dân nổi loạn nên truyền giam thánh nữ trong ngục. Ngài đã chết rũ tù ngày 05/12/251. Thánh nữ đã làm nhiều phép lạ như che chở thành Catana khỏi hiểm họa núi lửa Etna. Ngay từ thời đó, người ta đã cầu khẩn và cậy trông vào sự cầu bầu của thánh nữ. Giáo Hội mừng kính ngài vào ngày 05/02 mỗi năm.

 



Thứ Hai


Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 1, 1-19

"Thiên Chúa phán: và xảy ra như vậy".

Trích sách Sáng Thế.

Từ nguyên thủy Thiên Chúa đã tạo thành trời đất. Ðất còn hoang vu trống rỗng, tối tăm bao trùm vực thẳm, và Thần trí Thiên Chúa bay sà trên mặt nước.

Thiên Chúa phán: "Hãy có ánh sáng". Và có ánh sáng. Thiên Chúa thấy ánh sáng tốt đẹp, Người phân rẽ ánh sáng khỏi tối tăm. Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, tối tăm là đêm. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.

Thiên Chúa phán: "Hãy có một vòm trời ở giữa nước, phân rẽ nước với nước", và Thiên Chúa làm nên vòm trời, và phân rẽ nước phía trên vòm trời với nước dưới vòm trời. Và xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi vòm đó là trời. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.

Thiên Chúa phán: "Nước dưới trời hãy tụ tại một nơi, để lộ ra chỗ khô cạn. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ khô cạn là đất, và Người gọi khối nước là biển. Thiên Chúa thấy tốt đẹp. Và Thiên Chúa phán: "Ðất hãy trổ sinh thảo mộc xanh tươi mang hạt giống, và cây ăn trái phát sinh trái theo giống nó, và trong trái có hạt giống, trên mặt đất. Và đã xảy ra như vậy. Tức thì đất sản xuất thảo mộc xanh tươi mang hạt theo giống nó, và cây phát sinh trái trong có hạt tuỳ theo loại nó. Và Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.

Thiên Chúa còn phán: "Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi sáng mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã làm nên hai vầng sáng lớn: Vầng sáng lớn hơn làm chủ ban ngày, và vầng sáng nhỏ hơn làm chủ ban đêm; và Ngài cũng làm nên các tinh tú. Thiên Chúa đặt chúng trên vòm trời để soi sáng trên mặt đất, và làm chủ ngày đêm, và phân chia ánh sáng với tối tăm. Thiên Chúa thấy tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 103, 1-2a. 5-6. 10 và 12. 24 và 35c

Ðáp: Nguyện cho Chúa hân hoan vì công cuộc của Chúa (c. 31b).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa. Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, Ngài rất ư vĩ đại! Ngài mặc lấy oai nghiêm huy hoàng, ánh sáng choàng thân như mang áo khoác. - Ðáp.

2) Ngài dựng vững địa cầu trên nền tảng, cho tới muôn đời nó chẳng lung lay. Ngài dùng biển che phủ nó như áo che thân, trên ngọn núi non muôn ngàn nước đọng. - Ðáp.

3) Ngài lệnh cho mạch nước tràn ra thành suối, chúng chảy rì rào giữa miền non núi. Bên cạnh chúng, chim trời cư ngụ, từ trong ngành cây vang ra tiếng hót. - Ðáp.

4) Lạy Chúa, thực nhiều thay công cuộc của Ngài! Ngài đã tạo thành vạn vật cách khôn ngoan, địa cầu đầy dẫy loài thụ tạo của Ngài. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa. - Ðáp.

  

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 6, 53-56

"Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh.

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 


   

Suy niệm

 

 

 

    "Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh" - "qua một buổi chiều và một buổi sáng"


Hôm nay, Thứ Hai Tuần V Thường Niên, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kéo dài tới Thứ Tư Lễ Tro mở đầu Mùa Chay hằng năm, lại càng rõ nét hơn bao giờ nơi Bài Phúc Âm hôm nay, một bài phúc âm được Thánh ký Marco thuật lại về quyền năng chữa lành của Người như sau:

"Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".

Thật vậy, cảnh tượng được Bài Phúc Âm hôm nay trình thuật đã làm cho chúng ta thấy được hình ảnh đáng thương của thành phần dân chúng đau khổ bởi tật nguyền bệnh nạn cần được chữa lành luôn sống trong hy vọng, đợi chờ và tìm kiếm Đấng Cứu Tinh của mình: "nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng". 

Bài Phúc Âm hôm nay còn cho thấy cả hình ảnh chính yếu về một Đấng Cứu Thế đầy quyền lực, đến độ Người không cần trực tiếp giơ tay đụng đến bất cứ một bệnh nhân hay một người bị tật nguyền nào, thế mà họ vẫn được chữa lành, chỉ cần họ tin tưởng sờ đến gấu áo của Người (chứ không phải hay không cần chạm đến thân xác của Người) là đủ: "tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".

Hiện tượng chữa lành hay được chữa lành kiểu mới, hoàn toàn không theo truyền thống này, xuất phát từ sáng kiến và hành động đầy đức tin của người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm ở bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước, một người đàn bà đã được Chúa Giêsu có ý công khai hóa việc bà làm giữa một đám thật đông đang chen nhau theo Người lúc ấy. Biết được cái mẹo vặt mà tuyệt này, dân chúng bảo nhau làm, vừa giản tiện vừa mau chóng nữa, giúp cho chính Chúa Giêsu cũng có thể nhờ đó chữa lành nhiều người trong một thời gian ngắn. 

Hiện tượng chữa lành như trong bài Phúc Âm hôm nay còn xẩy ra cả ở nơi Thánh Tông Đồ Phêrô nữa, như Sách Tông Vụ thuật lại ở đoạn 5 câu 15-16, một vị thánh có một thần lực đến độ cả đến bóng của ngài đi ngang qua phủ trên ai thì người ấy được chữa lành, một thần lực bề ngoài có thể hơn cả chính bản thân Chúa Kitô, Đấng đã khẳng định trước với các môn đệ ở Bữa Tiệc Ly rằng "ai tin vào Thày ... họ sẽ làm được những việc lớn lao hơn những gì Thày làm, vì Thày về cùng Cha(Gioan 14:12).

Đúng thế, cho dù thành phần tật nguyện bệnh hoạn không cần sờ đến gấu áo của Thánh Phêrô, như gấu áo của Chúa Kitô, mà chỉ cần được bóng của ngài thoáng qua thôi đã được chữa lành, thì thần lực xuất phát từ ngài cũng không phải tự ngài và của ngài, mà là bởi Chúa Kitô ở trong ngài, như cây nho thông nhựa sống của mình cho cành nho, nhờ đó và vì thế chỉ có cành nho (là các môn đệ của Người) mới sinh trái và mới có thể sinh hoa trái, chứ hoa trái không bao giờ xuất phát từ chính thân nho (là Chúa Kitô).

Vấn đề chính yếu ở đây có thể chứng thực Đức Giêsu Nazarét là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" là thần lực của Người và là thần lực từ Người xuất phát, ngoài ra không bao giờ có một con người thuần túy nào ở trên đời này như Người, có thể chữa lành cho con người ta, không phải chỉ bằng cách trực tiếp đặt tay, đụng chạm đến con người cần được chữa lành, mà chỉ cần bằng gấu áo của Người, thậm chí còn qua cả thành phần môn đệ trung gian của Người sau này nữa.

Cách thức chữa lành bằng gấu áo và qua trung gian môn đệ như thế là hình bóng tiên báo về bản chất thần linh cùng tác dụng thần linh nơi các Bí Tích của Chúa Giêsu, những khí cụ thần linh được Người thiết lập để tiếp tục hiện diện với Giáo Hội cho đến tận thế, và qua thừa tác vụ của Giáo Hội trong việc cử hành cùng ban phát các Bí Tích Thánh, Người tiếp tục chữa lành cho chung nhân loại và riêng đàn chiên của Người, đến độ chính Giáo Hội đã trở thành bí tích cứu độ của Người và cho Người (xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 1).

Thế nhưng, về phần người được chữa lành hay muốn được chữa lành thì vấn đề quan trọng và then chốt đối với họ là tin tưởng. Bằng không, cho dù Chúa Kitô có thần lực đến đâu chăng nữa, Người cũng chẳng có tác dụng thần linh gì nơi họ, dù họ có tật nguyện bệnh nạn về cả phần xác lẫn phần hồn đáng thương đến đâu chăng nữa.

Như thế không phải là thần lực của Chúa Giêsu có giới hạn và bị bất lực trước những ai không chấp nhận Người, và do đó Người không làm gì được họ, cho dù Người hết sức muốn thông ban và cứu độ, trái lại, chính đương sự tự vô hiệu hóa thần lực cứu độ vô cùng linh hiệu của Người nơi bản thân của họ, và chính bản thân họ cũng chứng thực là thần lực chữa lành của Người chỉ giành cho người nào xứng đáng lãnh nhận mà thôi, một thứ vô cùng quí báu của Người như thế không thể nào lấy quẳng cho loài chó hay loài heo dơ bẩn (xem Mathêu 7:6).

"Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày nhất..., thứ hai..., thứ ba..., thứ tư". Đó là câu Thánh Kinh của Sách Khởi Nguyên ở Bài Đọc 1 hôm nay, một câu cho thấy rất thích hợp với sự kiện Chúa Giêsu chữa lành cho các bệnh nhân bằng thần lực của Người trong Bài Phúc Âm hôm nay. Tại sao theo quan niệm và cảm nhận chung của nhân gian từ trước đến nay thì một ngày được bắt đầu từ sáng đến tối, đằng này 6 ngày tạo dựng của Thiên Chúa lại hoàn toàn ngược hẳn, từ chiều tối tới sáng mai?

Đúng thế, đó là định luật tạo dựng của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mọi sự từ mầm mống ("chiều") chứ không phải vừa tạo dựng nên tất cả mọi sự đã hoàn toàn nguyên vẹn hình hài tầm vóc của mình, đã toàn hảo ("sáng"), và chỉ từ mầm mống chưa thành toàn ấy hay còn bất toàn ấy mới phát triển cho tới khi thành toàn đúng như tầm vóc theo từng giống loại riêng biệt của mình, đúng như ý định và dự án tạo dựng của Thiên Chúa Hóa Công vô cùng thiện hảo, khôn ngoan và toàn năng, Đấng, qua việc quan phòng thần linh của mình, tiếp tục ở với tạo vật của mình cho tới khi tất cả những gì Ngài muốn được thể hiện nơi chúng nói chung và loài người nói riêng.

Bởi vậy mà chung tạo vật và riêng loài người được dựng nên để Thiên Chúa tỏ mình ra, và chúng càng bất toàn thì lại càng sáng tỏ Vị Thiên Chúa toàn thiện. Sự kiện Chúa Giêsu chữa lành cho đủ mọi thứ bệnh nhân bằng thần lực cứu độ của Người là một chứng thực cho dự án thần linh tạo dựng và quan phòng của Thiên Chúa theo chiều hướng: "Qua một buổi chiều và một buổi sáng": "Đó là ngày Chúa đã làm nên; chúng ta hãy hoan hỉ và mừng vui về ngày ấy" . (Thánh Vịnh 118:24).


 

 

Ngày 06: Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo (+1597)

 

Phaolô Miki là một tu sĩ Nhật Bản rất hăng say với công việc truyền giáo. Ngài sinh vào thế kỷ XVI, giữa cơn bách hại khá gắt gao.

Ngày 05/02/1597, trên một chuyến tàu, Miki và 25 bạn đồng đội bị bắt và bị treo lên những cây thập tự đối diện với bờ biển. Tuy bị treo nhưng Miki và các bạn vẫn luôn vui tươi và không ngừng giảng đạo và khuyên răn những người đến xem. Ngài kêu gọi họ ăn năn trở lại. Ngài tha thứ cho những kẻ sỉ vả và kết án ngài. Quá tức giận, họ đã đâm ngài cùng các bạn.

Phaolô Miki và các bạn được diễm phúc tử đạo. Các ngài đã bị đóng đinh, vì thế các ngài cũng được tôn vinh cùng với Ðức Kitô.

 

 


 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) St 1, 20 - 2, 4a

"Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta".

Trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa phán: "Nước hãy sản xuất những sinh vật bò sát và loài chim bay trên mặt đất, dưới vòm trời". Vậy Thiên Chúa tạo thành những cá lớn, mọi sinh vật sống động mà nước sản xuất theo loại chúng, và mọi chim bay tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, đầy nước biển; loài chim hãy sinh cho nhiều trên mặt đất". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.

Thiên Chúa lại phán: "Ðất hãy sản xuất các sinh vật tuỳ theo giống: gia súc, loài bò sát và dã thú dưới đất tuỳ theo loại". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã dựng nên dã thú dưới đất tuỳ theo loại, gia súc và mọi loài bò sát dưới đất tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp; và Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất, và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất". Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa; Chúa tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ. Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều đầy mặt đất, và thống trị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Thiên Chúa phán: "Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.

Thế là trời đất và mọi trang điểm của chúng đã hoàn thành. Ngày thứ bảy Thiên Chúa hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi. Chúa chúc phúc và thánh hoá ngày thứ bảy, vì trong ngày đó, Người nghỉ việc tạo thành.

Ðó là gốc tích trời đất khi được tạo thành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 8, 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu (c. 2a).

Xướng: 1) Khi con ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, vầng trăng và muôn tinh tú mà Chúa gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa nhớ tới? con người là chi mà Chúa để ý chăm nom? - Ðáp.

2) Chúa dựng nên con người kém thiên thần một chút, Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang, Chúa ban cho quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo, Chúa đặt muôn vật dưới chân con người. - Ðáp.

3) Nào chiên nào bò, thôi thì tất cả, cho tới những muông thú ở đồng hoang, chim trời với cá đại dương, những gì lội khắp nẻo đường biển khơi. - Ðáp.

  

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7, 1-13

"Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy". Và Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)", và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mark 7, 1-13


Suy niệm


  

    Thành phần biệt phái và luật sĩ thuộc loại chính hiệu "made in Jerusalem"


Hôm nay, Thứ Ba Tuần V Thường Niên, Bài Phúc Âm vẫn tiếp tục chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kéo dài tới Thứ Tư Lễ Tro mở đầu Mùa Chay hằng năm.

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm qua, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" tỏ mình ra, đúng hơn, thông mình ra, hay thông ban ân sủng của mình ra qua việc chữa lành bệnh nạn tật nguyền, thậm chí bằng cả gấu áo của Người cho những ai tin tưởng chạm đến gấu áo ấy, thì trong Bài Phúc Âm hôm nay, Người tỏ mình ra "là chân lý" (Gioan 14:6), Người thông ban chân lý của Người và từ Người ra cho những ai mù quáng, hay nói cách khác, Người mang chân lý đến cho những ai về tâm linh cần chữa lành cái vô thức hay mù quáng của họ, như những người bị bệnh nạn tật nguyền về phần xác cần được Người chữa lành về thể lý vậy.

Thật thế, thành phần mù quáng về tâm linh cần được "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" chữa lành cho đó là "những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem", tức là thành phần giữ luật, thông luật và dạy luật thuộc loại thế giá, thế lực, thuộc loại chính qui, chính gốc, bởi họ có dính dáng tới giáo đô "Giêrusalem", như thể các vị giáo sĩ ở các nước Công giáo trên khắp thế giới ngoài Âu Châu và Tây phương, như ở Á Châu hay Phi Châu hoặc Mỹ Châu Latinh có bằng cấp ở Giáo đô Roma vậy. 

Thành phần biệt phái và luật sĩ thuộc loại chính hiệu "made in Jerusalem" này đã bị khuyết tật hay bị mắc tật nguyền bẩm sinh di truyền mù quáng này ở chỗ nào, nếu không phải ở chỗ đúng như lời Chúa Giêsu nhận định và khiển trách họ trong bài Phúc Âm hôm nay: 

"Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". 

Phải, cái tật nguyền mù quáng của họ là ở chỗ "giả hình", bôi bác ngoài "môi miệng" chứ không thật "lòng", sống một cuộc đời "giả dối", ở chỗ "dạy những giáo lý và những luật lệ loài người", như những gì được Thánh ký Marco liệt kê trong Bài Phúc Âm hôm nay: "không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng". 

Đáng lẽ, nếu thực sự xứng danh là thành phần thông luật thì họ phải nắm bắt được tất cả sự thật của luật và về luật, liên quan đến mục đích của luật và tinh thần của luật, từ đó họ mới có thể dạy luật cho dân chúng hiểu mà theo, để cả họ lẫn dân đều giữ luật đúng với những gì Thiên Chúa là Đấng ban luật qua Moisen mong muốn. 

Đằng này, chính vì  họ coi trọng loài người hơn Thiên Chúa, hay nói ngược lại, coi Thiên Chúa không bằng loài người, coi giá trị nhân bản cao hơn giá trị thần linh, như chính Chúa Giêsu nhận định "các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy", mà họ đã giảng dạy một cách sai lầm, điển hình là họ đã dạy sai lạc điều răn thảo kính cha mẹ trong 10 Điều Răn Chúa dạy, như Chúa Giêsu đã vạch ra cho họ thấy trong Bài Phúc Âm hôm nay:

"Thật vậy, Môsê đã nói: 'Hãy thảo kính cha mẹ', và 'ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử'. Còn các ngươi thì lại bảo: 'Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)', và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi hủy bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".

Sở dĩ thành phần chính hiệu Giêrusalem biệt phái và luật sĩ thông luật trong bài Phúc Âm hôm nay bị Chúa Giêsu vạch trần bộ mặt giả hình và lối sống giả dối của họ ra như vậy là vì họ đã dẫn giải sai ý nghĩa của lề luật liên quan đến ý của Đấng ban lề luật cho con người, và những dẫn giải của họ hoàn toàn theo khuynh hướng tự nhiên muốn sống hưởng thụ và dễ chịu hơn là hy sinh và chịu khó, kể cả đối với những bậc sinh thành dưỡng dục họ. 

Hiện tượng và tình trạng thiên lệch đầy chủ quan và vị kỷ này của "những người biệt phái và luật sĩ từ Giêrusalem" này cũng không có gì là khó hiểu, bởi vì một khi họ coi nhẹ Thiên Chúa, coi luật của Ngài không bằng tục lệ loài người, thì cha mẹ loài người của họ cũng đâu có giá trị gì đối với họ mấy nữa. 

Và như thế, ở một nghĩa nào đó, họ đã lấy họ làm cùng đích, khi họ coi luật lệ của Thiên Chúa chỉ là phương tiện để họ hưởng thụ, ở chỗ, một đàng bề ngoài họ có vẻ tuân thủ kỹ lưỡng lề luật đấy, nhưng về tinh thần họ lại tuân thủ lề luật một cách chủ quan, nghĩa là, việc họ giữ luật là đường lối tinh ranh để họ có thể nhờ đó thỏa mãn ý riêng của họ một cách chính đáng, và như thế cùng nhờ thế họ mới có thể làm chủ lề luật, thay thế vị trí của chính Đấng lập luật và ban luật cho họ.

Cho dù con người có vô tình hay cố ý phủ nhận quyền hành của Thiên Chúa về phương diện lề luật luân lý và đạo lý, nhưng họ vẫn phải tuân theo định luật thiên nhiên tuần hành chi phối đời sống của họ, nhất là chi phối đến chính sự sống của họ. Ở chỗ, chính họ không biết được giờ họ qua đời, cũng như chính họ cũng chẳng được quyền chọn sinh ra làm người hay chăng, chọn phái tính, chọn tương lại, chọn cách chết... là tất cả những gì thuộc quyền hành của Đấng quan phòng mọi sự theo dự án thần linh vô cùng khôn ngoan của Người trong việc tiếp tục công cuộc tạo dựng của Ngài, một công cuộc tạo dựng được ghi dấu bằng các định luật bất di bất dịch nơi thiên nhiên tạo vật liên quan đến nguồn gốc của chúng cũng như vị trí của chúng trong vũ trụ bao la hầu như bất tận này. Chẳng hạn những định luật sau đây:

1- Nước là nguồn sống của các sinh vật: "Nước hãy sản xuất những sinh vật bò sát và loài chim bay trên mặt đất, dưới vòm trời. Vậy Thiên Chúa tạo thành những cá lớn, mọi sinh vật sống động mà nước sản xuất theo loại chúng, và mọi chim bay tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp";

2- Mỗi loài tự chúng có khả năng bảo tồn và phát triển theo giống loại của mình: "Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: 'Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, đầy nước biển; loài chim hãy sinh cho nhiều trên mặt đất'";

3- Đất là chất liệu làm nên các loài thú vật: "'Ðất hãy sản xuất các sinh vật tuỳ theo giống: gia súc, loài bò sát và dã thú dưới đất tuỳ theo loại'... Thiên Chúa đã dựng nên dã thú dưới đất tuỳ theo loại, gia súc và mọi loài bò sát dưới đất tuỳ theo giống".

4- Con người được tạo dựng nên theo hình ảnh thần linh có nam có nữ: "Thiên Chúa phán: 'Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất, và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất'. Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa; Chúa tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ".

5- Con người được Thiên Chúa ban quyền thay Ngài làm chủ và phát triển trái đất: "Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: 'Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều đầy mặt đất, và thống trị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất'. Thiên Chúa phán: 'Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất'".

 

Thứ


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 2, 4b-9. 15-17

"Thiên Chúa đặt con người vào vườn địa đàng".

Bài trích sách Sáng Thế.

Trong ngày Thiên Chúa tạo dựng trời đất, thì chưa có bụi cây nào mọc ngoài đồng, không có một cây rau cỏ nào nẩy mầm ngoài đồng ruộng, vì Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa rơi xuống đất, và chưa có người để trồng trọt, nhưng lúc đó mạch nước từ đất vọt lên, tưới khắp mặt đất.

Vậy Thiên Chúa lấy bùn đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống.

Thiên Chúa lập một vườn tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên.

Thiên Chúa cho từ đất mọc lên mọi thứ cây trông đẹp, ăn ngon, với cây sự sống ở giữa vườn, và cây biết lành dữ.

Vậy Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để họ trồng tỉa và coi sóc vườn.

Và Thiên Chúa truyền lệnh cho con người như sau: "Ngươi được ăn mọi thứ trái cây trong vườn, nhưng chớ ăn trái cây biết lành dữ, vì ngày nào ngươi ăn nó, ngươi sẽ phải chết".

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 103, 1-2a 27-28, 29bc-30

Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa (1a).

Xướng 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi, Ngài rất ư vĩ đại! Ngài mặc lấy oai nghiêm huy hoàng, ánh sáng choàng thân như mang áo khoác. - Ðáp.

2) Hết thảy mọi vật đều mong chờ ở Chúa, để Ngài ban lương thực cho chúng đúng thời giờ. Khi Ngài ban cho thì chúng lãnh, Ngài mở tay ra thì chúng no đầy thiện hảo. - Ðáp.

3) Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gởi hơi thở tới, chúng được tạo thành, và Ngài canh tân bộ mặt trái đất. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga. 15, 15b

Alleluia, alleluia - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.- Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7,14-23

"Những gì từ con ngùi ta xuất ra, đó là cái làm cho người ta ra ô uế"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu lại gọi dân chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".

Lúc Người lìa dân chúng mà về nhà, các môn đệ hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn ấy.

Người liền bảo các ông: "Các con cũng mê muội như thế ư? Các con không hiểu rằng tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra".

Như vậy Người tuyên bố mọi của ăn đều sạch.

Người lại phán: "Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng.

Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế".

Ðó là Lời Chúa.

 

Image result for Mark 7,14-23

 

 

Suy niệm

 

 

Ổ Chuột Lòng Người

 

 

Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho ngày Thứ Tư tuần V thường niên hôm nay liên quan đến yếu tố chính yếu làm cho con người ta ra dơ bẩn: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế".

 

Sở dĩ Chúa Giêsu cần phải nhắc đến và khẳng định như thế là vì, ở mấy câu ngay trước bài Phúc Âm hôm nay, đã xẩy ra chuyện lệch lạc là "những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu" (Marco 7:1) để hạch hỏi Người rằng: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" (Marco 7:5), một thứ lệch lạc được Chúa Giêsu lợi dụng ngay vấn đề của họ để vạch ra cho họ thấy khuynh hướng sai lầm của họ như sau: 


"Người đáp: 'Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: 'Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người'. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người'" (Marco 7:6-7)


Ở đây, qua câu Chúa Giêsu công khai khiển trách này, Người không hề có ý chê trách "tập tục của tiền nhân" là những gì hay và có lợi, ít là liên quan đến sức khỏe về thể lý và lịch sự tối thiểu, nên giữ và cần giữ (xem Mathêu 23:23). Và thành phần thày dạy trong dân là luật sĩ và biệt phái này cũng phân biệt kỹ lưỡng đâu là luật Chúa và những điều nào thuộc về luật Chúa, nên trong câu hạch hỏi của mình họ đã sử dụng chính xác cụm từ "tập tục của tiền nhân" chứ không phải luật Chúa hay luật Moisen v.v.


Tuy nhiên, vấn đề thành phần thày dạy trong dân Do Thái này có khuynh hướng và tỏ ra coi thường những cái trọng và coi trọng những cái thường bị Chúa Giêsu là vị Đại Tôn Sư khiển trách đó là, họ chỉ chú ý tới những cái phụ thuộc mà bỏ qua những cái chính yếu. Đó là lý do trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã thẳng thắn cho họ biết rằng: "các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người'".

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay hoàn toàn không nhắc gì tới thành phần giả hình đã bắt bẻ các môn đệ của Người về việc các vị không rửa tay trước khi ăn uống, mà nhấn mạnh riêng đến các môn đệ của Người, như thể Người sợ các vị bị ảnh hưởng "men" giả hình (xem Luca 12:1) của thành phần đạo hạnh trí thức giữ luật và dạy luật ấy.

 

 

Bởi thế, ngay sau khi Người đính chính công khai với dân chúng về "những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế", Người mới lợi dụng cơ hội chính các tông đồ tí nữa đã bị tác dụng của men giả hình, ở chỗ các vị đã không thật sự nắm bắt được tất cả ý nghĩa sâu xa của những gì Thày của các vị vừa khẳng định với chung dân chúng. Điều này chứng tỏ thành phần môn đệ tông đồ của Chúa Giêsu thật sự là kém trí thức và đơn sơ thật thà đến dễ bị lôi kéo theo tự nhiên, theo gương mù gương xấu mà không biết. Đó là lý do Chúa Giêsu đã giải thích thêm cho các vị về cả về tiêu cực lẫn tích cực như sau:

 

 

"Các con không hiểu rằng tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra. Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế".


Nghĩa là: 1- Cái xấu từ trong mà ra chứ không phải từ ngoài mà vào; 2- Cái xấu là những gì liên quan đến nội tâm của con người, đến luân lý, đến tội lỗi của con người chứ không phải đến chính sự vật hay sự việc khách quan bên ngoài, cho dù chúng có là gương mù gương xấu là những gì không thể nào không xẩy ra trên thế gian này (xem Mathêu 18:7); 3- Cái xấu là do con người tạo nên chứ không phải từ Thiên Chúa, là do ý con người muốn những gì không đúng ý Chúa, không hợp ý Chúa, phạm đến luật Chúa, trái với lương tâm, hại tới công lý, và chính vì thế mà đó là lý do Chúa Kitô đã bảo móc mắt và chặt tay nếu chúng nên dịp tội cho mình (xem Mathêu 5:29-30).


Nguyên tắc cái xấu là những gì liên quan đến nội tâm của con người và do nội tâm của con người gây ra hoàn toàn trái với ý muốn vô cùng khôn ngoan và hoàn thiện của Thiên Chúa như thế là những gì đã có ngay từ đầu ở trong Vườn Địa Đường, lúc mà Thiên Chúa mới dựng nên loài người, khi Người, trong Bài Đọc 1 hôm nay, phán cùng nguyên tổ của chúng ta như đặt giới hạn giữa Ngài là Đấng vô hạn và con người là tạo vật hữu hạn của Ngài rằng: "Ngươi được ăn mọi thứ trái cây trong vườn, nhưng chớ ăn trái cây biết lành dữ, vì ngày nào ngươi ăn nó, ngươi sẽ phải chết".


"Cây biết lành biết dữ"
đây là gì nếu không phải là một hình ảnh tượng trưng cho lương tâm của con người, một lương tâm được Thiên Chúa đặt vào (build-in) trong con người là loài linh ư vạn vật để làm địa bàn hướng dẫn họ trong việc làm lành lánh dữ theo đúng như ý muốn thần linh của Ngài. Con người không được đụng đến lương tâm, bằng không, họ sẽ phải chết khi phạm đến lương tâm, nghĩa là làm mất lòng Chúa, mất ơn nghĩa với Ngài, khi họ gạt bỏ tiếng lương tâm mà theo ý riêng của mình, để thỏa mãn những gì mình thích và mình muốn, cho dù là tốt mấy chăng nữa, lợi mấy chăng nữa theo ý nghĩ chủ quan của họ, nhưng trái với ý muốn của Thiên Chúa. 

Ngày 08: 1. Thánh Hieronimô Êmilianô, lập dòng

                2. Thánh Joséphine Bakhita



Thứ Năm


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) St 2, 18-25

"Người dẫn bà đến trước Ađam. Và cả hai nên một thân thể".

Bài trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa phán: "Ðàn ông ở một mình không tốt, Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó".

Sau khi lấy bùn đất dựng nên mọi thú vật dưới đất và toàn thể chim trời, Thiên Chúa dẫn đến trước mặt Ađam để coi ông gọi chúng thế nào, và sinh vật nào Ađam gọi, thì chính đó là tên nó.

Ađam liền đặt tên cho mọi súc vật, chim trời và muông thú.

Nhưng Ađam không gặp một người nội trợ giống như mình.

Vậy Thiên Chúa khiến cho Ađam ngủ say, và khi ông đang ngủ, Người lấy một xương sườn của ông, và đắp thịt lại.

Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ Ađam trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến Ađam.

Ađam liền nói: "Bây giờ đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra".

Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể.

Lúc ấy cả hai người, tức Ađam và vợ ông, đều khỏa thân mà không hề xấu hổ.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 127, 1, 2-3, 4-5

Ðáp: Phúc cho ai biết kính sợ Chúa. (1)

Xướng 1) Phúc cho ai biết kính sợ Chúa, và bước đi trong đường lối Người. Ngươi sẽ hưởng công khó của tay ngươi, ngươi có phúc và sẽ được may mắn. - Ðáp.

2) Vợ ngươi như cây nho sai trái, trong nội cung gia thất nhà ngươi. Con cái ngươi như chồi non cây dầu ở chung quanh bàn ăn của ngươi. - Ðáp.

3) Ðó là ơn phúc lành, cho người kính sợ Chúa. Từ Sion xin Chúa chúc lành cho ngươi. Chúc ngươi thấy Giêrusalem thịnh đạt suốt mọi ngày trong đời sống của ngươi. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sam 3,9

Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7, 24-30

"Những con chó ở dưới gầm bàn cũng ăn những mụn bánh rơi của con cái"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được. Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người.

Bà đó là người dân ngoại, dòng giống Syrôphênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà.

Người nói: "Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó".

Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái".

Người liền nói với bà: "Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi".

Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.

Ðó là Lời Chúa.

 

Image result for Mark 7, 24-30

 

Suy niệm

 

 

Con người chỉ bằng con chó

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần V thường niên theo Thánh ký Marco cũng giống bài Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu cho Thứ Tư trong Tuần XVIII Thường Niên, về việc Chúa Giêsu chữa cho con gái của người đàn bà xứ Canaan được khỏi bị quỉ ám, một người đàn bà dân ngoại nhưng có một đức tin đầy ma lực đến độ "muốn gì đưc nấy" (Phúc Âm Thánh Mathêu). 


Thế nhưng, để có một đức tin "muốn gì được nấy" này, người đàn bà ngoại bang Cannan "có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người"  này đã phải trải qua một một cơn thử thách phải nói là khủng khiếp, một trận đấu sinh tử, trận đấu thập tử nhất sinh, liên quan đến sắc tộc của bà cũng như đến chính phẩm giá của bà.


Cuộc thử thách đức tin liên quan đến sắc tộc của người đàn bà Canaan, như Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại: "Các môn đệ đến gần Người mà rằng: 'Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi'. Người trả lời: 'Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel'". Qua câu trả lời cho các môn đệ này, Chúa Giêsu như muốn nói rằng chỉ có dân Do Thái của Người là nhất, còn các dân ngoại chỉ là đồ thứ yếu, không đáng chú trọng cho bằng dân Do Thái. 


Cuộc thử thách đức tin liên quan đến phẩm giá làm người của người đàn bà "là người dân ngoại, dòng giống Syrôphênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà". Theo Thánh ký Mathêu thì sau khi bà ta "đến lạy Người mà nói: 'Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi'", một câu không có trong Phúc Âm Thánh ký Marco, nhưng cả hai Thánh ký đều thuật lại cùng một câu trả lời giống nhau của Chúa Giêsu cho người đàn bà phục lạy van xin khốn khổ này: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó'". Tuy nhiên Thánh ký Marco còn thêm câu trước đó là: "Hãy để con cái ăn no trước đã".

 

 

Đến đây, bị chạm tự ái như thế, bị coi như loài chó như vậy, không biết có ai còn nhẫn nại để tiếp tục với con người khinh bỉ mình và chửi mình như thế nữa hay chăng, hay là, gặp phải con người thời đại tột đỉnh văn minh và văn hóa ngày nay trọng quyền làm người hơn tình làm người, chắc chắn họ sẽ điên tiết quại lại bằng một câu hùng hổ nào đó như: "Này, ông đừng có tưởng rằng ông ngon lắm nghe, không đáp ứng những gì tôi xin thì thôi, chứ đừng có mà khinh bỉ tôi quá như vậy nhé. Tôi cóc cần ông nữa".  


Thế nhưng, cho dù người đàn bà Canaan bị một độc chưởng vô cùng lợi hại chỉ từ chết tới bị thương như vậy mà bà chẳng những vẫn không hề hấn gì, trái lại, bà còn tung lại một tuyệt chiêu vô cùng ngoạn mục: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái"một tuyệt chiêu đã làm cho đối thủ vô địch của bà đành chào thua bà lập tức"Người liền nói với bà: 'Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi'". Qua câu nói này Chúa Giêsu dường như muốn nói với bà rằng: "Chính đức tin của bà đã trừ quỉ cho con bà rồi đó".


Điều duy nhất người đàn bà ngoại bang Canaan này muốn đó là làm sao để người con gái của bà khỏi "bị quỷ ám khốn cực lắm" (Thánh ký Mathêu), đến độ, bà cảm thấy cái khổ của chính con bà như là của bà, nên bà đã xin Chúa Giêsu thương chính bản thân bà chứ không phải là đứa con gái của bà: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi" (Thánh ký Mathêu). Để rồi, nhờ đức tin "muốn gì được nấy" của bà mà thành quả gặt hái được đó là, theo Thánh ký Mathêu: "ngay lúc đó, con gái bà đã được lành", hay theo Thánh ký Marco: "Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi".

 

 

Nếu so sánh với đức tin của các tông đồ trong biến cố bị bão tố trên biển hồ và tông đồ Phêrô đi trên nước đến cùng Thày, thì quả thật nhân vật ma nữ cao thủ đức tin này đã hoàn toàn trổi vượt, ở chỗ, cho dù Chúa có tiếp tục chơi trò ma quái với cả bà là một kẻ thuộc dân ngoại chăng nữa, bà chẳng những đã không cảm thấy bị Người nát đến hoảng sợ thế nào, trái lại, còn nhìn thẳng vào Người, nên đã không bị chìm xuống như tông đồ Phêrô - Như thế phải chăng ma nữ cao thủ đức tin này chẳng những đi trên mặt nước mà còn bay trên mặt nước, bất chấp bão tố còn dữ dội kinh hoàng về tinh thần hơn là thứ phong ba bão tố về thể lý thử thách các tông đồ!?!

 

Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại sự kiện Adong nhận biết người nữ xuất thân từ chính bản thân mình và vì thế đã đi đến chỗ gắn bó nên một với nàng: "'Bây giờ đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra'. Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể".

 

Nếu phụng vụ lời Chúa phải liên hệ với nhau, ít là  giữa hai bài đọc chính là Bài Đọc 1 và Bài Phúc Âm của từng ngày thì sự kiện trên đây của Bài Đọc 1 về sự kiện Adong nhận ra người nữ xuất thân từ mình, có tất cả những gì là của mình và đã gắn bó với nàng có liên hệ gì tới sự kiện người đàn bà ngoại giáo xin Chúa Giêsu trừ thần ô uế cho đứa con gái bị ám của bà ấy hay chăng? Nếu có thì ở chỗ nào?? Phải chăng ở chỗ Chúa Giêsu nhận thấy tất cả những gì nơi người phụ nữ ngoại lai này mà Người mong muốn là đức tin mãnh liệt của bà nơi Người nên Người đã đáp ứng làm theo ý nguyện của bà!

 



Thứ Sáu


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) St 2, 18-25

"Các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh".

Bài trích sách Sáng Thế.

Con rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi dã thú mà Thiên Chúa tạo thành.

Nó nói với người nữ rằng: "Có phải Thiên Chúa đã bảo: "Các ngươi không được ăn mọi thứ cây trong vườn?"

Người nữ trả lời con rắn: "Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn, thì Thiên Chúa bảo: "Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không, sẽ phải chết".

Rắn bảo người nữ: "Không, các ngươi không chết đâu. Nhưng Thiên Chúa biết rằng ngày nào các ngươi ăn trái ấy, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh".

Người nữ thấy cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh.

Bà hái trái cây ăn, rồi lại đưa cho chồng, người chồng cũng ăn. Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết mình trần truồng, nên kết lá vả che thân.

Bấy giờ hai người nghe tiếng Thiên Chúa đi trong vườn địa đàng lúc chiều mát.

Ađam và vợ ông liền núp trong lùm cây trong vườn địa đàng cho khuất mặt Thiên Chúa.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 31, 1-2, 5, 6, 7

Ðáp: Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm. (1a)

Xướng 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian! - Ðáp.

2) Tôi xưng ra cùng Chúa, tội tôi đã phạm, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: "Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi. - Ðáp.

3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cùng Chúa, trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nỗi những người nầy. - Ðáp.

4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin dạy bảo tôi về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn tôi trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7, 31-37

"Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh.

Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy.

Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh.

Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng.

Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả.

Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn.

Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".

Ðó là Lời Chúa.


 

 

Suy niệm

 

 

Lưỡi Điếc

 

Hôm nay, Thứ Sáu Tuần V Thường Niên, Thánh ký Marco thuật lại cho chúng ta biết sự kiện "Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh", nơi "người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy" "Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng". Sau khi chữa lành cho nạn nhân bị điếc, "Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: 'Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được'".

 

Ở đây, căn cứ vào những gì được Thánh ký Marco thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể suy ra mấy điều chính yếu sau đây:

 

1- Nạn nhân bị điếc chắc từ thuở mới sinh, hay từ khi còn rất nhỏ. Bởi thế, nạn nhân chẳng những bị điếc mà còn bị câm nữa. Bởi, theo tự nhiên, người câm không thể nói được thường là vì bị điếc, không nghe thấy gì nên chẳng biết nói. Câm điếc đi với nhau là như thế. Tại sao chúng ta dám khẳng định nạn nhân bị điếc trong bài Phúc Âm đồng thời cũng bị câm?

 

2- Xin thưa, có hai lý do, một liên quan đến cử chỉ chữa lành của Chúa Giêsu và một liên quan đến nhận định của dân chúng. Trước hết, Chúa Giêsu khi chữa lành cho nạn nhân, Người chẳng những "đặt ngón tay vào tai anh" mà còn "bôi nước miếng vào lưỡi anh"; sau nữa, trong lời dân chúng thán phục Người có bao gồm cả nghe và nói: "Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".

 

3- Về cách chữa lành cho nạn nhân bị câm điếc trong Bài Phúc Âm hôm nay cũng rất ư lạ lùng. Thật ra Chúa Giêsu chỉ cần phán một lời là xong. Trong trường hợp trừ thần ô uế cho đứa con gái của bà mẹ ngoại giáo ở Bài Phúc Âm hôm qua cho thấy Người chẳng cần đến gặp em mà em cũng thoát bị quỉ ám. Hay Người chỉ cần làm cử chỉ như dân chúng mang nạn nhân bị điếc đến cho Người là "xin Người đặt tay trên kẻ ấy". Vậy thì những cử chỉ Chúa Giêsu tỏ ra có vẻ phức tạp trong bài Phúc Âm hôm nay chắc hẳn phải có một ý nghĩa sâu xa nào đó?

 

4- "Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là 'hãy mở ra'". Cử chỉ của Chúa Giêsu trong việc chữa lành cho nạn nhân bị câm điếc này bao gồm 3 tác động rõ ràng: 1- "Người đem anh ta ra khỏi đám đông"; 2- "đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh"; 3- ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là 'hãy mở ra'".

 

5- Ba tác động chữa lành này của Chúa Giêsu có liên hệ chặt chẽ với nhau ở trường hợp Người chữa lành cho nạn nhân bị câm điếc trong Bài Phúc Âm hôm nay: Trước hết, Người đem nạn nhân bị điếc ra khỏi đám đông, một tác động tỏ ra Người trân trọng từng con người một, nhất là con người bất hạnh xấu số hơn "đám đông", để Người có thể đáp ứng khát vọng và nhu cầu của từng con người cần Người cứu giúp tùy từng trường hợp.

 

6- Đối với trường hợp của nạn nhân bị điếc và vì thế cũng bị câm, Chúa Giêsu đã thực hiện tác động trực tiếp đến tật nguyền của nạn nhân, đó là "đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh". "Ngón tay" của Người đây ám chỉ Thần Linh (xem Mathêu 12:28 và Luca 11:20), tức "Thần Chân Lý" là Đấng làm cho con người nhận biết chân lý qua việc nghe biết (xem Gioan 16:13), bởi thế Người mới đặt "ngón tay vào tai anh" chứ không vào bất cứ chỗ nào khác, như vào đầu anh ta hay vào trán anh ta. Còn "lưỡi anh" thì được Người "bôi nước miếng" của Người, những gì xuất phát ra từ miệng của Người, như ám chỉ lời của Người, một lời quyền năng có thể đâm thủng hồn thiêng và xương tủy của con người ta (xem Do Thái 4:12). Chính vì thế mà ngay sau đó Chúa Giêsu đã sử dụng đến lời của Người để hoàn tất việc chữa lành: "hãy mở ra".

 

7- Việc chữa lành của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay có tính cách bí tích. Bởi các Bí Tích Thánh do chính Người thiết lập bao giờ cũng có 2 yếu tố chính yếu bất khả thiếu và bất khả phân ly, đó là chất thể (matter) và mô thể (form). Chẳng hạn như Bí Tích Thánh Tẩy phải hội đủ chất thể là nước và mô thể là câu "tôi rửa anh/chị/em nhân danh Cha và Con và Thánh Thần", hay như Bí Tích Thánh Thể phải hội đủ chất thể là bánh không men và rượu nho cùng mô thể là lời Truyền Phép trên Bánh và Rượu. Trong phép lạ chữa lành nạn nhân bị điếc ở Bài Phúc Âm hôm nay cũng thế: chất thể là "nước miếng" của Người được bôi lên lưỡi của nạn nhân bị điếc, và mô thể là lời "Ephrata - hãy mở ra".

 

8- Việc chữa lành cho nạn nhân bị điếc trong Bài Phúc Âm hôm nay chẳng những có tính cách bí tích mà còn có tính cách thiêng liêng nữa. Ở chỗ, "ngón tay" của Người ám chỉ Thần Chân Lý, và "nước miếng" của Người ám chỉ Lời của Người. Bởi thế, việc Người chữa lành cho nạn nhân bị điếc ở Bài Phúc Âm hôm nay không phải chỉ để cho anh ta có thể nghe thấy những tiếng nói của đám đông, và vì thế anh ta có thể bị ảnh hưởng và bị lôi cuốn bởi đám đông vốn chiều theo thế gian và những gì bất chính, mà là để cho anh ta nghe thấy Lời Chúa, nghe tiếng lương tâm chân chính mà sống đúng với ý muốn của Thiên Chúa nhờ đó mà được cứu độ. Bằng không, một khi tai đã nghe thấy có thể trở thành dịp tội cho chính nạn nhân, như trường hợp của hai nguyên tổ trong Bài Đọc 1 hôm nay.

 

Thật vậy, hai nguyên tổ loài người, ngay từ khi mới được tạo dựng nên, ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, cả hồn lẫn xác đều tuyệt vời tốt đẹp, chứ không bị điếc như nạn nhân trong Bài Phúc Âm hôm nay. Ấy thế mà, cho dù có tai lành mạnh đã nghe rõ ràng lệnh Thiên Chúa cấm "Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không, sẽ phải chết", đúng như nữ nguyên tổ đã nhắc cho rắn quỉ cám dỗ Satan biết, thế mà vẫn bị sa ngã, bao gồm cả chồng bà là Adong, người có tai lành mạnh hơn bà đấy nhưng cũng mù quáng đã nghe theo lời vợ cám dỗ: "Bà hái trái cây ăn, rồi lại đưa cho chồng, người chồng cũng ăn".

 

Như thế, hai nguyên tổ đã bị khuyết tật về tai ngay trước nguyên tội, ở chỗ không nghe tiếng Thiên Chúa mà chỉ nghe lời rắn quỉ. Tuy nhiên, không phải vì thế mà các vị hoàn toàn bị điếc, các vị cùng lắm chỉ bị hễnh hãng thôi. Nói đúng hơn cái tai của các vị bị dị ứng với Lời Chúa và thích thú nghe tiếng quỉ vì những lời của nó hợp với con người hơn là Lời Chúa đầy khó khăn cấm đoán hạn chế. Thế nhưng, trường hợp của các vị vẫn còn có thể cứu được. Ở chỗ, các vị vẫn còn "nghe tiếng Thiên Chúa đi trong vườn địa đàng lúc chiều mát", chứ chưa hoàn toàn bị điếc, bởi vẫn còn tỏ ra sợ hãi Đấng đã dựng nên mình sau khi phạm tội mất lòng Ngài: "Ađam và vợ ông liền núp trong lùm cây trong vườn địa đàng cho khuất mặt Thiên Chúa".

 

Ngày 10: Thánh Scolastica, đồng trinh

 

 

 

 

Thứ Bảy


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 3,9-21

"Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng, để cày ruộng đất".

Bài trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa đã gọi Ađam và phán bảo ông rằng: "Ngươi ở đâu?"

Ông đã thưa: "Tôi đã nghe tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng tôi sợ hãi, vì tôi trần truồng và đang ẩn núp".

Chúa phán bảo ông rằng: "Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi không được ăn ư?"

Ađam thưa lại: "Người phụ nữ Chúa đã cho làm bạn với tôi, chính nàng đã cho tôi trái cây và tôi đã ăn".

Và Thiên Chúa phán bảo người phụ nữ rằng: "Tại sao ngươi đã làm điều đó?"

Người phụ nữ thưa: "Con rắn đã lừa dối tôi và tôi đã ăn".

Thiên Chúa phán bảo con rắn rằng: "Bởi vì mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu, mi sẽ bò đi bằng bụng và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân người".

Chúa phán bảo cùng người phụ nữ rằng: "Ta sẽ làm cho ngươi gặp nhiều khổ cực khi thai nghén và đau đớn khi sinh con; ngươi sẽ ở dưới quyền người chồng, và chồng sẽ trị ngươi".

Người lại phán bảo Ađam rằng: "Vì ngươi đã nghe lời vợ mà ăn trái Ta cấm, nên đất bị nguyền rủa vì tội của ngươi. Trọn đời, ngươi phải làm lụng vất vả mới có mà ăn. Ðất sẽ mọc cho ngươi đủ thứ gai góc, và ngươi sẽ ăn rau cỏ ngoài đồng. Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi ngươi trở về đất, vì ngươi từ đó mà ra. Ngươi là bụi đất, nên ngươi sẽ trở về bụi đất".

Và Ađam đã gọi tên vợ mình là Evà: vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh.

Thiên Chúa cũng làm cho Ađam và vợ ông những chiếc áo da và mặc cho họ.

Và Người phán: "Nầy, Ađam đã trở thành như một trong chúng ta, biết thiện ác. Vậy bây giờ, đừng để hắn giơ tay hái trái cây trường sinh mà ăn và được sống đời đời".

Và Thiên Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng, để cày ruộng đất, là nơi ông phát xuất ra.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 89, 2, 3-4, 5-6, 12-13

Ðáp: Thân lạy Chúa, Chúa là chỗ chúng tôi dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia. (1)

Xướng 1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài. - Ðáp.

2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm cạnh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Người phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.

3) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi; Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Ðáp.

4) Xin dạy chúng tôi biết đếm ngày giờ, để chúng tôi luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ, xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv. 94, 8ab

Alleluia, alleluia - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 8,1-10

"Họ ăn no nê".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: "Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến".

Các môn đệ thưa: "Giữa nơi hoang địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no".

Và người hỏi các ông: "Các con có bao nhiêu bánh?"

Các ông thưa: "Có bảy chiếc".

Người truyền dân chúng ngồi xuống đất, rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát.

Các ông chia cho dân chúng.

Các môn đệ còn có mấy con cá nhỏ.

Người cũng đọc lời chúc tụng và truyền cho các ông phân phát.

Dân chúng ăn no nê và người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng.

Số người ăn độ chừng bốn ngàn.

Rồi Người giải tán họ, kế đó Người cùng các môn đệ xuống thuyền đến miền Ðammanutha.

Ðó là Lời Chúa.

 

Image result for Mark 8,1-10


Suy niệm


    

Sự sống dư thừa ... "giữa nơi hoang địa"

 

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho Thứ Bảy Tuần V Thường Niên hôm nay về sự kiện Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ hai, một sự kiện chứng tỏ Chúa Giêsu rất quan tâm đến dân chúng, bao gồm cả nhu cầu về vật chất của họ: "Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: 'Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến'".

 

Trong trường hợp được Phúc Âm Thánh Marcô thuật lại hôm nay, trước hết phải công nhận rằng Chúa Giêsu có một hấp lực thu hút mãnh liệt tới độ đám đông dân chúng theo Người "đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn". Lời của Người ở trong trường hợp này phải nói là chính lương thực thiêng liêng cho tâm hồn của họ, đến độ họ cảm thấy bụng của họ không đói và có thể nhịn ăn về thể xác trong 3 ngày trời: "Người ta sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mathêu 4:4).

 

Tuy nhiên, sau khi nghe giảng xong, bấy giờ thân xác của dân chúng mới cảm thấy mệt mỏi và đói quặn lên, nhất là đối với "nhiều người từ xa mà đến", khó có gì để ăn ngay cho đỡ đói và nhờ đó mới đủ sức trở về đến nhà. Chính trong câu trả lời của các tông đồ đã cho thấy cái khó khăn tìm kiếm của ăn sau khi dân chúng giải tán: "Giữa nơi hoang địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no".

 

Chính trong hoàn cảnh khó khăn như thế Chúa Giêsu đã lợi dụng để tỏ mình ra cho dân chúng, để họ thấy Người chẳng những khôn ngoan giảng dạy mà còn yêu thương chăm sóc cho họ nữa, vì họ tin theo Người, Đấng không thể bất trung với họ và phản bội lòng cảm phục tin tưởng của họ, nên Người đã ra tay cứu vớt, khi hỏi các tông đồ: "Các con có bao nhiêu bánh?" một thứ món ăn quen thuộc nhất của dân chúng và là món ăn tiêu biểu cho chính Lời Chúa nữa.

 

Ngoài bánh ra, còn một món ăn nữa cũng hoàn toàn phổ thông với đại đa số quần chúng thuộc giới bình dân đó là cá, một món ăn cũng được chính Chúa Giêsu sử dụng để nuôi ăn 7 tông đồ trên bờ hồ Tibêria sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết (xem Gioan 21:9). Nếu bánh biểu hiệu cho lời Chúa, cho sự sống thần linh xuất phát từ hay được cung cấp từ lời Chúa, thì cá khô hay cá nướng biểu hiệu cho phần rỗi của các linh hồn, bởi các tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn và sai đi để "chài lưới người" (Luca 5:10), nghĩa là để làm cho con người nhận biết chân lý, nhận biết Lời Chúa, nhận biết Chúa Kitô (là Lời Chúa, là Bánh Sự Sống) mà được cứu độ.

 

Việc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng theo đuổi Người để lắng nghe "những lời ban sự sống đời đời" (Gioan 6:68) của Người, ở một nghĩa nào đó như báo trước việc Người thiết lập Bí Tích Thánh Thể, việc Người trở thành tấm bánh bẻ ra nuôi dưỡng thành phần dân tân Ước của Người, thành phần tin tưởng Người và đã chấp nhận Phép Rửa để trở thành môn đệ của Người, trở thành chi thể thuộc Nhiệm Thể của Người, thành cành nho dính liên với Người là thân nho. Và việc hiệp lễ trong phụng vụ Thánh Lễ bao giờ cũng xẩy ra sau phần phụng vụ Lời Chúa, như trong Bài Phúc Âm hôm nay dân chúng sau khi nghe lời Chúa thì được ăn bánh của Chúa, "ăn no nê", đến độ "còn thừa lại được bảy thúng". Vì Chúa Kitô chính là "sự sống" (Gioan 11:25; 14:6), một sự sống thần linh vô cùng bất tận, và "đến cho họ được sống và sống một cách viên mãn" (Gioan 10:10) bằng chính bản thân Người nơi mầu nhiệm Vượt Qua.

 

Nếu trong Bài Phúc Âm dân chúng theo Chúa Kitô được ăn no nê sự sống, cả về phần hồn lẫn phần xác, thì ở trong Bài Đọc 1 hôm nay hai nguyên tổ của loài người chúng ta lại ăn cái chết: "Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi không được ăn ư?" - chết cả về phần xác: "Ngươi là bụi đất, nên ngươi sẽ trở về bụi đất", lẫn phần hồn: "Thiên Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng".

 

Tuy nhiên, bản tính của con người dù mắc nguyên tội trở thành hư hại nhưng không hoàn toàn băng hoại đến độ không thể cứu chữa được nữa. Bởi thế, ngay trong bản án nguyên tội, Vị Thiên Chúa là Tình yêu vô cùng nhân hậu vẫn chừa cho con người con đường sống, đó là chịu khổ để đền tội. Đó là lý do "Thiên Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng" - "để cày ruộng đất, là nơi ông phát xuất ra". Nhưng con người ra khỏi vườn địa đường là để được sống và sống viên mãn hơn qua lời hứa cứu chuộc của Ngài nơi "miêu duệ người nữ", bởi thế mà trước khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đường con người đã được Thiên Chúa thương xót và quan tâm chở che bao bọc, ở chỗ: "Thiên Chúa cũng làm cho Ađam và vợ ông những chiếc áo da và mặc cho họ".

 

Đó là tất cả ý nghĩa vô cùng thấm thía về cả thân phận khốn nạn đáng thương của con người trước Lòng Thương Xót Chúa vô cùng bất tận trong Bài Đáp Ca hôm nay: "Thân lạy Chúa, Chúa là chỗ chúng tôi dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia".

 

1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài.

2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm cạnh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Người phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người".

3) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi; Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô.

4) Xin dạy chúng tôi biết đếm ngày giờ, để chúng tôi luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ, xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.

 

Ngày 11: Ðức Mẹ hiện ra ở Lộ Ðức