SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 


Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XII Thường Niên A

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Chúa Nhật

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Gr 20, 10-13

"Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Ta đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: "Người này gieo khủng bố khắp nơi: Hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó". Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: "Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó". Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức: Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù nó cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa. Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 68, 8-10. 14 và 17. 33-35

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi (c. 14c).

Xướng: 1) Sở dĩ vì Chúa mà con chịu nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt con. Con bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến con mòn mỏi, điều tủi nhục người ta nhục mạ Chúa đổ trên mình con. - Ðáp.

2) Nhưng, lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa, ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời con vì lòng khoan nhân trắc ẩn, theo lượng cả đức từ bi xin nhìn đến tấm thân con. - Ðáp.

3) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân Người bị bắt cầm tù. Hãy ngợi khen Chúa, hỡi trời và đất, biển khơi và muôn vật sống động bên trong. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 5, 12-15

"Không phải như tội phạm thế nào, thì ơn ban cũng thế ấy đâu".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội. Trước khi có lề luật, đã có tội trên thế gian; nhưng tội không bị bắt lỗi, khi không có lề luật. Nhưng từ Ađam cho đến Môsê, sự chết ngự trị cả trên những kẻ không phạm tội giống như sự lỗi phạm của Ađam, hình ảnh của người đến sau.

Nhưng không phải như tội phạm thế nào, thì ơn ban cũng thế ấy đâu, vì nếu do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Ðức Giêsu Kitô, làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 17, 17b và a

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 26-33

"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.

"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.

"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

"Ánh sáng chiếu trong tăm tối, 

một thứ tăm tối không thể át được ánh sáng"

 

 

 

Tinh thần của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, bao gồm cả Bài Đọc 1, Đáp Ca, Bài Đọc 2 và Phúc Âm, đó là "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tăm tối không thể át được ánh sáng" (Gioan 1:5), trái lại, tối tăm lại còn bị ánh sáng xua tan.

 

 

Thật vậy, chiều hướng Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XII Thường Niên Năm A "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tăm tối không thể át được ánh sáng" này đã được tỏ hiện ngay trong Bài Đọc 1 được trích từ Sách của Tiên Tri Giêrêmia, đoạn nói về vai trò ngôn sứ và sứ vụ chứng nhân được Chúa ủy thác cho vị tiên tri này, nhưng chính bản thân của vị tiên tri lại trở nên cớ vấp phạm cho thành phần vị này được sai đến: "Người này gieo khủng bố khắp nơi: Hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó", thế mà họ có dữ tợn đến đâu vẫn không làm gì được người của Chúa, trái lại còn bị triệt hạ nữa:

 

 

"Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: 'Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó'. Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức: Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù nó cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa. Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ".

 

 

"Chúa trả thù nó cho con" ở chỗ nào, hay bóng tối bị ánh sáng xua tan ra sao, đã được Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong Thư gửi Giáo đoàn Rôma ở Bài Đọc 2 cho biết rất tuyệt vời, vượt ngoài tất cả mọi dự tưởng và suy nghĩ của trần gian, của khuynh hướng đòi công bằng của con người, như thế này: "Nhưng không phải như tội phạm thế nào, thì ơn ban cũng thế ấy đâu, vì nếu do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Ðức Giêsu Kitô, làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần".

 

 

Có nghĩa là, theo đường lối thần linh thật trọn lành của Thiên Chúa, "trả thù" không phải là ở chỗ "mắt đền mắt, răng đền răng", mà trái lại, lấy lành thắng dữ, lấy tình thương bù đắp hận thù, lấy thứ tha bù đắp tội lỗi, nhờ đó mới có thể biến dữ thành lành, biến tội lỗi thành ân sủng, biến sự chết thành sự sống, như trong mầu nhiệm và biến cố Vượt Qua của Chúa Kitô.

 

 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, bài Phúc Âm tiếp bài Phúc Âm Chúa Nhật XI vừa rồi, về Huấn Từ Truyền Giáo của Chúa Kitô, nhưng không liên tục. Ở câu cuối cùng (câu 8 đoạn 10) của Phúc Âm Thánh Mathêu tuần trước, Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ phải đi đến đâu và phải rao giảng những gì: "Các con đừng đi về phía dân ngoại, và đừng vào thành các người Samaritanô. Nhưng tốt hơn, các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: "Nước Trời đã đến gần". Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không".

 

 

Ở câu đầu tiên trong Bài Phúc Âm hôm nay, (câu 26 cùng đoạn 10), Chúa Giêsu liền dặn các tông đồ thừa sai của Người rằng: "Các con đừng sợ những người đó". "Những người đó" đây là ai, Chúa Giêsu muốn ám chỉ ai vậy? Chắc chắn không phải "dân ngoại", không phải "các người Samaritanô", thành phần các tông đồ chưa được Chúa Kitô sai đến, mà là chính đám "chiên lạc của nhà Israel", một đám "chiên lạc" ám chỉ chung dân Do Thái và riêng thành phần lãnh đạo Do Thái giáo đã từng ra tay bách hại và âm mưu sát hại các vị tiên tri nói chung (xem Mathêu 23:29-32) và tiên tri Giêrêmia (trong Bài Đọc 1 hôm nay) nói riêng.

 

 

Có một điều lạ ở chỗ lý do được Chúa Giêsu sử dụng để trấn an các tông đồ "đừng sợ những người đó", lý do dường như chẳng ăn khớp gì với lời khuyên đừng sợ của Người, "đừng sợ những người đó" là "vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết", như thế có nghĩa là gì? Có nghĩa là "không có gì che giấu mà không bị thố lộ" ở nơi "những người đó", "và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết" ở nơi "những người đó". Tức là khi "những người đó" bách hại hay giết hại các tông đồ hay các vị tiên tri trong Cựu Ước, cả hai đều là thành phần được sai đến với họ, thì họ đều chủ trương cho rằng những vị thừa sai ấy đều là thành phần "gieo khủng bố khắp nơi", như Bài Đọc 1 hôm nay tiết lộ, nên họ chống lại và sát hại các vị.

 

 

Tuy nhiên, tâm tưởng của "những người đó" không phải chỉ ám chỉ về thành phần chống đối, mà nhất là thành phần thiện tâm, lầm lạc, cho đến khi nhận ra sự thật thì tỏ lòng ăn năn thống hối, đúng như những gì xẩy ra trên Đồi Canve sau khi Chúa Kitô tử giá (xem Luca 23:47-48), ứng nghiệm lời tiên tri của vị tư tế lão thành Simêon khi ẵm hài nhi Giêsu trên tay và nói cùng Mẹ Maria rằng: "Phần cô sẽ có một lưỡi gươm đâm thấu tâm can, nhờ đó tâm tưởng nơi nhiều người sẽ được bộc lộ" (Luca 2:35).

 

 

Thế nhưng, tự bản chất con người vốn yếu hèn với đầy những khuynh hướng sợ sệt, nên muốn can trường, họ không thể nào không tin tưởng vào Đấng đã sai mình, vào Đấng quan phòng thần linh, vào Đấng luôn ở với mình, vào Đấng duy nhất có thể cứu mình khỏi bất cứ một quyền lực chết chóc nào, Đấng có thể biến họ thành một dấu chỉ thần linh. Phải chăng đó là lý do Chúa Kitô đã trấn an các tông đồ bằng những lý lẽ siêu nhiên thật là bất diệt vô cùng thấm thía như trong Bài Phúc Âm hôm nay:

 

 

"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần".

 

 

Thật sự tự mình "bóng tối không át được ánh sáng" - "vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết", nên Chúa Kitô đã chẳng những trấn an các tông đồ thừa sai của Người mà còn phấn khích cùng thúc giục các vị hãy hiên ngang bất khuất thực hiện vai trò chứng nhân tiên khởi của các vị nữa, ở chỗ: "Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà".

 

 

"Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối" đây là gì, và "điều các con nghe rỉ tai" đây là chi, những gì được Chúa Kitô bảo các tông đồ thừa sai của Người cần phải "nói ra nơi ánh sáng" và phải "rao giảng trên mái nhà", nếu không phải là những mạc khải thần linh ("Ðiều Thầy nói") mà bản thân của từng vị trong các ngài cảm nghiệm được ("nghe rỉ tai") bằng chính đức tin ("trong bóng tối") hơn là chỉ bằng cảm giác sôi nổi hay lý trí nông cạn trước một Vị "Thiên Chúa là thần linh, mà kẻ tôn thờ Ngài phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24). 

 

 

Đúng thế, chỉ bao giờ con người thừa sai sống một đời sống nội tâm, "nghe rỉ tai" "trong bóng tối", họ mới không cảm thấy sợ hãi trước bất cứ một quyền lực đối kháng nào, trái lại, họ còn có sức chịu đựng cho đến cùng vì họ biết tuyệt đối tin tưởng vào Đấng ở với họ và sai họ đi, như nội dung, chiều hướng và cảm nhận thần linh của Bài Đáp Ca hôm nay:

 

 

1) Sở dĩ vì Chúa mà con chịu nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt con. Con bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến con mòn mỏi, điều tủi nhục người ta nhục mạ Chúa đổ trên mình con.

2) Nhưng, lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa, ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời con vì lòng khoan nhân trắc ẩn, theo lượng cả đức từ bi xin nhìn đến tấm thân con.

3) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân Người bị bắt cầm tù. Hãy ngợi khen Chúa, hỡi trời và đất, biển khơi và muôn vật sống động bên trong.

 

 

 


 

Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 12, 1-9

"Abram ra đi như Chúa đã truyền dạy".

Trích sách Sáng Thế.

Khi ấy, Chúa phán cùng Abram rằng: "Ngươi hãy từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa cha ngươi mà đi đến xứ Ta chỉ cho. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn; Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho ngươi, và sẽ chúc dữ cho ai chúc dữ cho ngươi. Nơi ngươi mọi dân nước sẽ được chúc phúc".

Abram ra đi như Chúa đã truyền dạy, và có ông Lót đi theo. Khi bỏ đất Haran, Abram được bảy mươi lăm tuổi. Ông đem Sarai, vợ ông, và Lót là cháu, cùng với tất cả tài sản và gia nhân mà họ có ở Haran. Họ ra đi đến đất Canaan. Khi họ tới nơi, Abram rảo qua các xứ cho đến Sikem, thung lũng thời danh. Bấy giờ người Canaan đang ở xứ này.

Chúa đã hiện ra với Abram và phán rằng: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi". Ông đã dựng ở đó một bàn thờ kính Thiên Chúa, Ðấng đã hiện ra với ông. Rồi từ nơi ấy, ông đi đến núi ở phía đông Bêthel mà cắm trại: phía tây của trại là Bêthel và phía đông là Hai. Ông cũng dựng ở đó một bàn thờ kính Chúa, và khấn cầu danh Chúa. Abram cứ tiến dần mãi về (Nageb ở) phía nam.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 12-13. 18-19. 20 và 22

Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).

Xướng: 1) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta. - Ðáp.

2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.

3) Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Ðấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài. - Ðáp.

 

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 7, 1-5

"Hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy. Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: "Ðể tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh", và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Ðồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

 

Cái nạn mù quáng tâm linh như một thứ hiệp sĩ mù là ở chỗ tỏ ra biết người hơn biết mình


 

Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh vẫn tiếp tục sang Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, như trong phần phụng vụ Lời Chúa cho ngày Thứ Hai Tuần XII Thường Niên hôm nay cho thấy.


"Sự sống" đây là sự sống công chính, như giáo huấn Chúa Kitô dạy cho các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay (Mathêu 7:1-5), một bài phúc âm tiếp tục về Bài Giảng Trên Núi của Người cho các môn đệ của Người liên quan đến các Phúc Đức Trọn Lành mà các vị cần phải cảm nghiệm và theo đuổi mới xứng đáng làm môn đệ của Người và nhờ đó mới có thể làm chứng nhân cho Người. 

 

 

Căn cứ vào sự sắp xếp khéo léo của Giáo Hội cho các bài Phúc Âm trong tuần thì từ tuần X, XI và XII thường niên, Giáo Hội muốn sử dụng Bài Giảng Trên Núi (Phúc Âm Thánh mathêu đoạn 5, 6 và 7) của Chúa Giêsu về Các Phúc Đức Trọn Lành của Kitô hữu để nhắc nhở con cái mình: ở tuần X và XI hãy sống đức ái trọn hảo như Cha trên trời (Phúc Âm Thánh Mathêu nguyên đoạn 5); ở hai ngày cuối của Tuần XI (Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 6) về đời sống nội tâm (hoàn toàn chỉ vì Chúa và chỉ có tâm tư thần hiệp với Ngài như Kinh Lạy Cha) mà Kitô hữu cần phải có thì họ mới có thể sống đức ái trọn hảo như Cha; ở cả tuần XII, về tác hành của Kitô hữu phản ảnh đời sống nội tâm của họ, chẳng hạn biết mình trước nhan Chúa và đối với tha nhân, như giáo huấn của Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay.


Vấn đề được đặt ra ở đây là, với cương vị lãnh đạo sau này của mình trong Giáo Hội, các vị không thể nào không đoán xét để bảo vệ Giáo Hội cũng như để phân xử công minh, thế mà ở đây, Chúa Giêsu lại dạy các vị rằng: "Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét". 


Tuy nhiên, lời khuyên của Chúa Giêsu ở đây không áp dụng vào việc quản trị Giáo Hội của các vị mà chỉ nhắm đến đời sống đức ái trọn hảo của bản thân các vị thôi. Đó là lý do Chúa Giêsu đã đề cập đến luật nhân quả, gieo gió gặt bão: "Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy". 


Trên thế gian này đã xẩy ra đầy giẫy những chứng cớ về định luật "ác giả ác báo" này. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng ở đây là phạm nhân có nhận ra lỗi lầm cũ của mình để mà ăn năn thống hối và cải thiện đời sống hay chăng mới là những gì đáng quan tâm. Trong đường tu đức cũng thế, Thiên Chúa hay để cho những tâm hồn sốt sắng đạo đức mà lại hay khinh thường những người khô khan hơn mình, xa tránh những người tội lỗi xấu xa ở chung quanh mình, bị sa ngã phạm tội, cho dù cố gắng, nhờ đó họ biết cảm thương những người họ vốn khinh bỉ và xa tránh.


Một khi chúng ta xét đoán xấu cho người khác, chấp nhất người khác và chê trách người khác về những gì tiêu cực của họ, hay những gì vô tội nơi họ (tính tình hay tâm tưởng hoặc lối sống v.v.) nhưng chướng tai gai mắt chúng ta, chúng ta như thể ở trong trạng thái mù lòa không biết mình, đúng như lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người, khi Người đi từ chất vấn đến trách móc thành phần này trong bài Phúc Âm hôm nay:

 

 

"Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: 'Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh', và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Đồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi".


Tóm lại, lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay dạy Kitô hữu chúng ta 2 điều then chốt:

 

 

1- Đừng biết người hơn là biết mình, bằng không, không biết mình thì chẳng khác gì như kẻ mù lòa không thể nào biết người khác để giúp họ, trái lại, con người không biết mình sẽ có những tâm tưởng, ngôn từ, tác hành và phản ứng sai lầm về người khác, thậm chí chụp mũ và lên án người khác một cách vô cùng trắng trợn và oan ức, trong khi chính họ không muốn bị như họ đối xứ với nạn nhân của họ;

 

 

2- Kitô hữu chúng ta là môn đệ của Chúa Kitô và là con cái của Cha Trên Trời không có quyền phán xét ai, lên án ai và ném đá ai, quyền nay hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, trái lại, chúng ta chỉ có bổn phận thông cảm, tha thứ và yêu thương anh chị em của mình, nhất là những người anh chị em đối phương với mình và thù địch của mình, tác hại mình, thậm chí coi là đại ân nhân đã giúp mình nên thánh hơn, là huấn luyện viên giúp mình sống Lòng Thương Xót Chúa trọn hảo hơn.

 

 

Thật vậy, đối với tha nhân, con người không được mù quáng đoán xét nhau, vì họ chẳng những không biết được thâm tâm của nhau, mà nhất là không có quyền đoán xét nhau nữa. Thế nhưng, đối với Thiên Chúa, Đấng vô cùng khôn ngoan và nhân hậu, con người cần phải tỏ ra mù quáng hơn ai hết và hơn bao giờ hết, ở chỗ hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Ngài ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự. 


Nhờ đó, Thiên Chúa có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi họ và qua họ cho tha nhân, như trường hợp của tổ phụ Abram, trong bài đọc 1 hôm nay (Khởi Nguyên 12:1-9), đã đáp ứng lời Chúa kêu gọi mà đi đến một nơi xa lạ, không biết mình đi đâu và đến đâu, cho đến nơi Ngài ấn định: 


"Ngươi hãy từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa cha ngươi mà đi đến xứ Ta chỉ cho. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn; Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho ngươi, và sẽ chúc dữ cho ai chúc dữ cho ngươi. Nơi ngươi mọi dân nước sẽ được chúc phúc. Abram ra đi như Chúa đã truyền dạy". 


Và nơi được ấn định cho tổ phụ Abram cũng như cho giòng dõi của ông sau này đó là xứ Canaan, nhưng lại là một nơi đã có một dân tộc khác cư ngụ và sinh sống, hoàn toàn không thuộc chủ quyền của ông, nhưng Chúa lại lấy ban cho ông và giòng dõi của ông


"Họ ra đi đến đất Canaan. Khi họ tới nơi, Abram rảo qua các xứ cho đến Sikem, thung lũng thời danh. Bấy giờ người Canaan đang ở xứ này. Chúa đã hiện ra với Abram và phán rằng: 'Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi'". 


Hành động tin tưởng một cách mù quáng của tổ phụ Abram đã thật sự đẹp lòng Chúa, Đấng đã tuyển chọn ông để ông làm cha của một dân tộc sẽ trở thành gia nghiệp của Chúa và là mầm mống cho một dân tộc duy nhất dưới quyền lãnh đạo tối cao của Con Ngài là Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai.


Bài Thánh Vịnh 32 (12-13,18-19,20 và 22) được Giáo Hội chọn đọc ở Bài Đáp Ca hôm nay đã cảm nhận được cái phúc của dân tộc cho mọi dân tộc ấy nói chung và của những ai biết kính sợ vào Ngài nói riêng, thành phần chỉ biết cậy trông vào một mình Ngài mà thôi.  


1) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (tức dân tộc Do Thái - người viết biệt chú riêng). Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta (ám chỉ các dân tộc khác trên thế giới - biệt chú riêng của người viết)


2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. 


3) Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Đấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.  

 

 

 

 

Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 13, 2. 5-18

"Bác không muốn có sự bất bình giữa bác và cháu: vì chúng ta là anh em với nhau".

Trích sách Sáng Thế.

Bấy giờ Abram rất giàu, có nhiều vàng bạc. Ông Lót, người đi với Abram, cũng có nhiều đàn chiên, bò và lều trại. Miền đó không đủ chỗ cho cả hai cùng ở, vì họ có nhiều tài sản, nên không thể ở chung với nhau. Bởi thế các người chăn chiên của Abram và của Lót hay xảy ra cãi lẫy nhau. Khi ấy dân Canaan và dân Phêrêzê ở miền này.

Vậy Abram nói cùng Lót rằng: "Bác không muốn có sự bất bình giữa bác và cháu, giữa các người chăn chiên của chúng ta, vì chúng ta là anh em với nhau. Trước mặt cháu có cả một miền rộng rãi, xin cháu hãy lìa khỏi bác: nếu cháu đi bên tả, thì bác sẽ đi bên hữu; nếu cháu chọn phía tay phải, thì bác sẽ đi về phía tay trái". Vậy Lót ngước mắt lên trông thấy cả miền đồng bằng sông Giođan, có nước dồi dào. (Trước khi Chúa huỷ diệt thành Sôđôma và Gômôra, cả miền ấy và phía Segor như vườn địa đàng của Chúa và như đất Ai-cập). Lót chọn miền đồng bằng sông Giođan và đi về phía đông. Thế là hai bác cháu lìa xa nhau. Abram ở lại đất Canaan, còn Lót ở các đô thị gần sông Giođan, và cư ngụ tại Sôđôma. Dân thành Sôđôma rất xấu xa, vì quá tội lỗi trước mặt Chúa.

Sau khi Lót đi rồi, Chúa phán cùng Abram rằng: "Hãy ngước mặt lên và từ nơi ngươi đang ở, hãy nhìn tứ phía: đông tây nam bắc. Tất cả đất mà ngươi trông thấy, Ta sẽ ban vĩnh viễn cho ngươi và dòng dõi ngươi. Ta sẽ làm cho con cháu ngươi đông như bụi đất. Nếu ai có thể đếm được bụi đất thì mới có thể đếm được con cháu ngươi. Hãy chỗi dậy và đi khắp miền này, vì chưng Ta sẽ ban miền này cho ngươi". Bởi vậy Abram di chuyển lều trại đến ở thung lũng Mambrê, thuộc miền Hebron, và dựng bàn thờ kính Chúa ở đó.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 14, 2-3ab. 3cd-4ab. 5

Ðáp: Lạy Chúa, ai sẽ được ở trong đền tạm Chúa? (c. 1a)

Xướng: 1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống. - Ðáp.

2) Người không làm ác hại đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. - Ðáp.

3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 7, 6. 12-14

"Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ðừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con.

"Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Ðấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy.

"Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

 

3 nguyên tắc sống khôn ngoan 


 

Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XII Thường Niên hôm nay vẫn tiếp tục Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu được Thánh ký Mathêu (7:6,12-14) ghi lại 3 nguyên tắc sống khôn ngoan sau đây:

 

Nguyên tắc thứ nhất: "Đừng lấy của thánh mà đem cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt loài heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con". 


Tại sao vậy? Tại vì chó hay heo là loài thú vật chẳng biết giá trị của những gì loài người vốn trân quí. Bởi thế, "lấy của thánh mà đem cho chó, và vất ngọc trai trước mặt loài heo" là một hành động hoàn toàn ngu xuẩn, phí của và vô ích, thậm chí còn nguy hiểm đến bản thân nữa là đàng khác, ở chỗ chúng cứ tưởng là chúng bị tấn công bằng các viên ngọc trai chẳng khác gì những cục đá vậy, nên chúng có thể "quay lại cắn xé các con".


Ở đây, nếu chú ý chúng ta thấy được hai con thú tiêu biểu được Chúa Giêsu sử dụng trong bài Phúc Âm, đó là con chó và con heo: "chó" có vẻ tinh khôn hơn nên liên quan đến "của thánh" linh thiêng và đến động từ "cho" có vẻ trân trọng chứ không phải là động từ "quẳng" có vẻ khinh bỉ; còn "heo" có vẻ xác thịt hơn nên liên quan đến "ngọc trai" là những gì thuần vật chất và đến động từ "quẳng"


Nhưng dù tinh khôn như "chó" cũng chẳng biết "của thánh" là gì, cũng chẳng nhờ đó mà được linh thiêng hơn, và cho dù xác thịt như "heo" cũng chẳng cần trang điểm bằng "ngọc trai" cho đẹp hơn và hãnh diện hơn. Phải chăng ở đây Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng giáo huấn của Người là những gì "thánh hảo" vô giá và quí báu hơn cả vàng bạc và "ngọc trai", được ban cho các vị để các vị mặc lấy và trang sức cho xứng với vai trò là môn đệ của Người?


Nguyên tắc thứ hai: "Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Đấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy". 


Nguyên tắc thứ hai này là nguyên tắc "tri kỷ tri bỉ - biết mình biết người", có vẻ tích cực hơn nguyên tắc của Khổng giáo: "đừng làm cho người khác những gì mình không muốn họ làm cho mình". 


Nguyên tắc thứ hai này thường được gọi là luật vàng - golden rule, vì nó chất chứa trong tất cả "lề luật và các tiên tri dạy", vì nó phản ảnh giới luật bác ái "yêu người như thể thương thân - ái nhân như kỷ": yêu nhau như bản thân mình. 


Nguyên tắc này thật sự là "của thánh", là viên "ngọc trai" quí báu đối với những ai kính sợ Chúa, nhưng lại là những gì quái gở đối với những kẻ gian ác bất chấp thủ đoạn trong mưu đồ thỏa mãn ý riêng và đam mê nhục dục của họ, dù giá phải trả cho những gì họ muốn chiếm đoạt chính là tha nhân.


Tổ phụ Abram trong bài đọc 1 hôm nay (Khởi Nguyên 13:2,5-18) đã áp dụng nguyên tắc "ái nhân như kỷ" này khi để cho Lot cháu của ông chọn trước phần đất nó thích, hơn là chính ông chọn trước để cho cháu phần ông không thích: 


"Bác không muốn có sự bất bình giữa bác và cháu, giữa các người chăn chiên của chúng ta, vì chúng ta là anh em với nhau. Trước mặt cháu có cả một miền rộng rãi, xin cháu hãy lìa khỏi bác: nếu cháu đi bên tả, thì bác sẽ đi bên hữu; nếu cháu chọn phía tay phải, thì bác sẽ đi về phía tay trái".


Nguyên tắc thứ ba: "Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".


Đúng thế, muốn sống nguyên tắc thứ hai là yêu nhau như chính bản thân mình, con người cần phải bỏ mình đi, thậm chí cần phải coi người khác hơn mình. Như vậy thì chẳng khác nào con người cần phải "vào qua cửa hẹp", hoàn toàn đi ngược chiều với đa số phàm nhân luôn coi mình hơn tha nhân, không bao giờ chịu thua thiệt, nếu bị thua thiệt thì tìm cách triệt hạ đối phương hay lấy lại. 

 

 

Có thể nói, giáo huấn Phúc Đức Trọn Lành trong Bài Giảng Trên Núi của Chúa Kitô trong Phúc Âm Thánh ký Mathêu, nhất là ở đoạn 5, liên quan đến Đức Ái Trọn Hảo, là "cửa và đường đưa tới sự sống", nhưng "chật hẹp" , phải có ơn Chúa mới có thể theo đuổi, phải sống đức tin mới có thể đi trọn, phải sống nội tâm mới có thể làm chủ bản thân mình và theo đúng đường lối của Thiên Chúa, bằng không, Kitô hữu cũng thuộc về đám đông, thành phần sống theo tự nhiên, chỉ tìm cầu những gì là dễ chịu nhất và thoải mái mất, nhưng lại là những gì dễ trở thành dịp tội khiến con người hư đi: "cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy".

 

 

Bởi thế nên Kitô hữu môn đệ đích thật của Chúa Kitô phải là những con người "hãy qua cửa hẹp mà vào", phải thuộc về thành phần thiểu số, "ít người đi" - "ít kẻ tìm thấy", thành phần dám sống dị chúng nhân, không theo đám đông, thậm chí bất chấp đám đông, bất chấp ý thức hệ hay áp lực của đám đông, bất chấp chống đối và chống phá của họ, xuất phát từ thành kiến và ác cảm của họ trước những tâm tưởng, ngôn từ, tác hành và phản ứng phúc đức trọn lành phản thế gian và vượt trên thế gian để soi chiếu thế gian của mình.


Thật vậy, về phương diện siêu nhiên, chính vì "cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp" như thế mà những ai hiên ngang tiến bước mới gặp "sự sống", mới trở nên dồi dào, như trường hợp tổ phụ Abram nhờ nhường cho cháu mà được Chúa chúc phúc: 


"Sau khi Lót đi rồi, Chúa phán cùng Abram rằng: 'Hãy ngước mặt lên và từ nơi ngươi đang ở, hãy nhìn tứ phía: đông tây nam bắc. Tất cả đất mà ngươi trông thấy, Ta sẽ ban vĩnh viễn cho ngươi và dòng dõi ngươi. Ta sẽ làm cho con cháu ngươi đông như bụi đất. Nếu ai có thể đếm được bụi đất thì mới có thể đếm được con cháu ngươi. Hãy chỗi dậy và đi khắp miền này, vì chưng Ta sẽ ban miền này cho ngươi'".  


Thánh Vịnh 14 (2-3ab,3cd-4ab,5) ở Bài Đáp Ca hôm nay đã diễn tả về con người sống luật vàng như tổ phụ Abram này như sau: 


1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống.  


2) Người không làm ác hại đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. 


3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. 

 

 

 

 

 

Thứ Tư

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 15, 1-12. 17-18

"Abram tin vào Thiên Chúa và vì đó, ông được công chính".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, có lời Chúa phán cùng Abram trong thị kiến rằng: "Hỡi Abram, ngươi chớ sợ, Ta là Ðấng phù trợ và là phần thưởng rất bội hậu cho ngươi". Abram thưa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, Ngài sẽ ban cho con điều gì? Con sẽ qua đi mà không có con; chỉ có Eliêzer này, người Ðamas, con của người giúp việc gia đình con". Abram nói tiếp rằng: "Chúa không cho con sinh con; đây con của người giúp việc sẽ là kẻ nối nghiệp con". Tức thì có lời Chúa phán cùng ông rằng: "Chẳng phải người này sẽ là kẻ nối nghiệp ngươi, nhưng là chính người con ngươi sinh ra, sẽ là kẻ nối nghiệp ngươi". Thiên Chúa dẫn Abram ra ngoài và nói với ông: "Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao". Rồi Chúa nói tiếp: "Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế". Abram tin vào Thiên Chúa và vì đó, ông được công chính.

Và Chúa lại nói: "Ta là Chúa, Ðấng dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của dân Calđê, để ban cho ngươi xứ này làm gia nghiệp". Abram thưa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, làm sao con có thể biết con sẽ được xứ đó làm gia nghiệp?" Chúa đáp: "Ngươi hãy bắt một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một con chim gáy mái và một con bồ câu non". Abram bắt tất cả những con vật ấy, chặt ra làm đôi, đặt phân nửa này đối diện với phân nửa kia: nhưng ông không chặt đôi các con chim. Các mãnh cầm lao xuống trên những con vật vừa bị giết, song ông Abram đuổi chúng đi.

Lúc mặt trời lặn, Abram ngủ mê; một cơn sợ hãi khủng khiếp và u tối bao trùm lấy ông. Khi mặt trời đã lặn rồi, bóng tối mù mịt phủ xuống, có một chiếc lò bốc khói và một khối lửa băng qua giữa những phần con vật chia đôi. Trong ngày đó, Chúa đã thiết lập giao ước với Abram mà nói rằng: "Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ sông Ai-cập cho đến sông Euphrát".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 1-2. 3-4. 6-7. 8-9

Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Ngài, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.

2) Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. - Ðáp.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

4) Tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Người đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Người đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Người đã thề với Isaac. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 7, 15-20

"Hãy xem quả thì các con sẽ biết chúng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé. Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Chân dung của những "con sói... cắn xé"

Suy Niệm

 

 

Chủ đề "sự sống" từ Mùa Phục Sinh vẫn được tiếp tục ở bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XII Thường Niên, ở chỗ hoa trái của sự sống này, một thứ hoa trái cho biết là sự sống đó thật hay giả, siêu nhiên hay tự nhiên, dồi dào hay cằn cỗi. Chúa Giêsu đã sử dụng ngay định luật tự nhiên về sự sống để áp dụng vào sự sống siêu nhiên, ở chỗ căn cứ vào hoa trái của nó, như Người phán dạy như sau:

"Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé. Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng".

 

Căn cứ vào lời Chúa khẳng định trên đây thì thành phần "tiên tri giả", được Người nhắc đến ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay, cho dù "mặc lốt chiên", "nhưng bên trong là sói dữ" nên không thể sinh hoa trái tốt lành:
"cây xấu không thể sinh trái tốt", trái lại, "cây xấu thì sinh trái xấu" là thứ hoa trái "cắn xé", sát hại, chia rẽ, phá hoại, tiêu diệt, hung tàn, bạo loạn v.v. những thứ hoa trái hiểm độc không thể nào tồn tại như hoa trái của sự sống, những thứ hoa trái cuối cùng "sẽ bị chặt đi và ném vào lửa" xứng với số phận bóng tối không thể nào át được ánh sáng, mà còn bị ánh sáng xua tan nữa.


Thành phần "tiên tri giả" được Chúa Giêsu đề cập đến ở đây, ở vào phần cuối của Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi mà Người trực tiếp ngỏ cùng các tông đồ và gián tiếp cho dân chúng, chắc Người không ám chỉ thành phần biệt phái và luật sĩ sau này bị Người công khai và thậm tệ quở trách là "đồ giả hình" ở đoạn 23 của cùng Phúc Âm Thánh Mathêu, mà là chính các tông đồ hằng được nghe Người giảng dạy và thấy gương sống của Người mà vẫn sống ngược lại với Người.


Một trường hợp điển hình cho thấy có thể Người ám chỉ thành phần "tiên tri giả" là các tông độ hay môn đệ của Người, bề ngoài có vẻ hiền lành dễ thương như "chiên" nhưng bề trong vốn còn tính chất "sói dữ... cắn xé", đó là trường hợp của chính tông đồ Gioan, vị tông đồ đã có lần ngăn cản người khác không được lấy danh Thày mà trừ quỉ bởi không thuộc về nhóm của ngài (xem Luca 9:49), và ngay sau đó ngài còn cùng tông đồ Giacôbê anh mình đã ngỏ ý xin Thày sai lửa trời xuống thiêu rụi một thành Samaritano vì họ không tiếp rước Người (xem Luca 9:54).


Sở dĩ có bài Phúc Âm hôm nay ở phần cuối của Bài Giảng Trên Núi, là Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến việc thực hành giáo huấn phúc đức trọn lành của Người vừa giảng dạy cách riêng cho các tông đồ. Những ai thực hành lời của Người thì sẽ sinh hoa trái tốt đẹp nhờ lời của Người, bằng không sẽ chẳng sinh hoa trái gì, thậm chí còn sinh hoa trái xấu theo bản tính và xu hướng tự nhiên hướng hạ của mình.


Cảm Nghiệm


Như thế, bất kỳ ai, không phải chỉ ở nơi dân ngoại không biết Chúa hay chưa biết Chúa, hoặc ở nơi những kẻ được coi là tội lỗi gian ác, mà là chính thành phần mang danh môn đệ của Chúa Kitô, Đấng "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), cũng có thể là thành phần "tiên tri giả", ở vào một lúc nào đó hay ở một nơi nào đó, nếu họ không sống trọn lành theo giáo huấn của Bài Giảng Trên Núi được Chúa Giêsu truyền dạy suốt trong gần 3 tuần vừa qua ở Tuần X, XI và XII Mùa Thường Niên này.


Thực tế quả thực cho thấy đúng như vậy. Như lịch sử Giáo Hội và đời thường cho thấy, thành phần Kitô hữu nói chung và Công giáo nói riêng đã có những thái độ "sói ... cắn xé" còn gian dối hơn cả lương dân, còn dữ dằn độc ác hơn cả dân ngoại, thậm chí lấy chính chân lý hay nhân danh chân lý để sát hại nhau chứ không phải để giải thoát nhau, để cứu giúp nhau như chính bản chất của chân lý là soi sáng và giải phóng (xem Gioan 8:32), còn chia rẻ nhau trong nội bộ Kitô giáo của mình, gây gương mù và tai hại trầm trọng cho công cuộc truyền giáo là bản tính của Giáo Hội Chứng Nhân của Chúa Kitô và cho Chúa Kitô.


Những trường hợp điển hình cho thấy thành phần "tiên tri giả" là thành phần, như Chúa Kitô diễn tả, có 3 đặc tính: "mặc lốt chiên", nhưng bên trong lại là "sói dữ" nên đời sống của họ mang lại những hậu "cắn xé" tai hại. Chẳng hạn các vị linh mục lạm dụng tình dục trẻ em, "mặc lốt chiên" là cha cụ, nhưng lại thèm muốn hèn hạ đến độ như "sói dữ" dám lén lút ăn thịt con chiên của mình, và vì thế các vị quả thực đã "cắn xé" chẳng những biết bao nhiêu là giới trẻ đã bỏ đạo bởi gương mù của các vị bị phanh phui mà còn "cắn xé" cả tài sản của giáo hội địa phương là nơi các vị thuộc về liên quan đến việc bồi thường cái hậu quả "cắn xé" như một con "sói dữ".


Hay trường hợp cha mẹ Kitô hữu đạo đức tốt lành, đọc kinh "xem" lễ và rước lễ hằng ngày, nhưng con cái vẫn cứ hư đi, vẫn bỏ đạo, bởi vì bên trong cái vỏ đạo đức như "mặc lốt chiên" ấy, họ vẫn chất chứa tâm tưởng của loài "sói dữ" đầy những thành kiến xấu, những ác cảm, những hận thù ghen ghét, những chấp nhất lặt vặt, những nghĩ bậy cho nhau, được bộc lộ qua những lời nói hành nói xấu, phê bình chỉ trích chủ quan, chửi rủa nguyền rủa nhau v.v., khiến con cái bị "cắn xé" bởi gương mù gương xấu của họ, đến nỗi có những đứa bỏ đạo, không đi thờ đi lễ như cha mẹ mong muốn và thúc giục nữa, bởi theo chúng, việc đi thờ đi lễ của cha mẹ và như cha mẹ chúng là không gì không mang lại lợi ích, trái lại, còn gây hại nữa... thì theo gương các vị mà làm gì, chẳng có lợi thì chớ mà lại còn mất giờ và bị mang tiếng là giả hình nữa.



Tuy nhiên, cho dù trong lòng Giáo Hội tự bản chất "thánh thiện" hằng liên lỉ có những đứa con "sói dữ... cắn xé", dù vô tình hay chủ ý, bằng cách này hay cách khác, ở thời này hay thời kia, Giáo Hội của Chúa vẫn không thể bị hủy hoại, bởi Giáo Hội chính là công việc của Chúa, chứ không phải là việc làm của con người thuần túy. Chúa sẽ ở với Giáo Hội và qua những gian nan khốn khó thử thách cả trong lẫn ngoài như thể bị nội công ngoại kích ấy, Giáo Hội lại càng trở thành dấu chứng cho thấy Giáo Hội là Nhiệm Thể của Chúa Kitô có Chúa Kitô là Đầu và càng hiệp nhật nên một với Người ở chỗ giống Người trong việc bách hại và sát hại.


Đúng thế, không ai có thể phá hủy được Giáo Hội, cho dù là quyền lực kinh khủng của hỏa ngục đi nữa, vì Chúa ở cùng Giáo Hội như Thiên Chúa ở cùng dân Do Thái xưa, ngay từ ban đầu, qua tổ phụ Abram của họ, như Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy, một vị tổ phụ đã già mà vẫn còn son sẻ: "Con sẽ qua đi mà không có con; chỉ có Eliêzer này, người Ðamas, con của người giúp việc gia đình con", thế nhưng, theo sự quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa thì: "chính người con ngươi sinh ra sẽ là kẻ nối nghiệp ngươi", một sự nghiệp ngoài đất hứa mà chính yếu bao gồm muôn vàn con cháu: "Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao... Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế".


Chính vì tin tưởng mọi sự vào Thiên Chúa, vào ý định vô cùng huyền diệu của Ngài, một ý định được Ngài tỏ hiện và bày tỏ qua giao ước Ngài đã tự động lập ra và ký kết với dân của Ngài qua các vị tổ phụ của họ, Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất bất biến dù con người có qua đi hay bất trung với Ngài: "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp" (Xuất Hành 3:15) - "Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước", mà Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay dường như đã âm vang tâm tình ngợi khen chúc tụng của tổ phụ Abram, Vị được Bài Đọc 1 hôm nay khẳng định: "Abram tin vào Thiên Chúa và vì đó, ông được công chính".

1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Ngài, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa.

2) Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu.

4) Tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Người đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Người đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Người đã thề với Isaac.  

 

 

Thứ Năm 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 16, 1-12. 15-16

"Agar đã sinh cho Abraham một con trai và ông gọi nó là Ismael".

Trích sách Sáng Thế.

Bà Sarai vợ ông Abram không sinh con, nhưng bà có một nữ tỳ người Ai-cập, tên là Agar, bà đã nói cùng ông rằng: "Này, Chúa không cho tôi sinh con, ông hãy ăn ở với nữ tỳ của tôi, may ra nhờ nó, tôi có con cháu". Và Abram nghe theo lời bà Sarai. Ðã mười năm trời, từ ngày ông bà đến ở đất Canaan, bà Sarai chọn Agar, người Ai-cập làm nữ tỳ, rồi trao cho chồng làm nàng hầu: ông đã ăn ở với nàng. Nhưng khi nàng thấy mình thụ thai thì khinh dể bà chủ. Sarai nói cùng Abram rằng: "Ông đối xử bất công với tôi. Tôi đã trao đứa nữ tỳ tôi vào tay ông, từ khi nó thấy mình thụ thai, liền khinh dể tôi. Xin Chúa xét xử giữa tôi và ông". Abram trả lời rằng: "Này, nữ tỳ của bà vẫn ở dưới quyền bà, bà muốn xử với nó thế nào mặc ý". Sarai hành hạ Agar cho đến nỗi nàng trốn đi.

Thiên thần Chúa gặp nàng trong rừng vắng gần suối nước, dọc đường đi về đất Sur trong hoang địa. Thiên thần hỏi nàng rằng: "Agar, nữ tỳ của Sarai, ngươi từ đâu đến và toan đi đâu?" Nàng đáp: "Tôi trốn Sarai, bà chủ tôi". Thiên thần Chúa bảo nàng rằng: "Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục bà". Thiên thần Chúa nói tiếp: "Ta sẽ tăng số con cháu ngươi nhiều không thể đếm được". Và nói thêm rằng: "Này ngươi đã thụ thai và sẽ sinh một con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Ismael, vì Chúa đã nghe biết sự khốn khó của ngươi. Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". Agar đã sinh con trai, Abram đặt tên nó là Ismael. Abram được tám mươi sáu tuổi khi Agar sinh Ismael.

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc bài vắn này: St 16, 6-12. 15-16

Abram trả lời Sarai rằng: "Này, nữ tỳ của bà vẫn ở dưới quyền bà, bà muốn xử với nó thế nào mặc ý". Sarai hành hạ Agar cho đến nỗi nàng trốn đi. Thiên thần Chúa gặp nàng trong rừng vắng gần suối nước, dọc đường đi về đất Sur trong hoang địa. Thiên thần hỏi nàng rằng: "Agar, nữ tỳ của Sarai, ngươi từ đâu đến và toan đi đâu?" Nàng đáp: "Tôi trốn Sarai, bà chủ tôi". Thiên thần Chúa bảo nàng rằng: "Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục bà". Thiên thần Chúa nói tiếp: "Ta sẽ tăng số con cháu ngươi nhiều không thể đếm được". Và nói thêm rằng: "Này ngươi đã thụ thai và sẽ sinh một con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Ismael, vì Chúa đã nghe biết sự khốn khó của ngươi. Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". Agar đã sinh con trai, Abram đặt tên nó là Ismael. Abram được tám mươi sáu tuổi khi Agar sinh Ismael.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 1-2. 3-4a. 4b-5

Ðáp: Hãy ca tụng Chúa, vì Người nhân hậu (c. 1a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người? - Ðáp.

2) Phúc cho những ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. - Ðáp.

3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài. - Ðáp.

 

 

Alleluia: Ga 1, 14 và 12b

Alleluia, alleluia! - Ngôi lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 7, 21-29

"Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy Chúa", là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: "Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta".

"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".

Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Ðấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ.

Ðó là lời Chúa. 

 

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm 

 

 

Nữ tỳ Agar... cuộc đời cát đá


Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XII Thường Niên hôm nay là bài phúc âm (Mathêi 7:21-29) kết thúc Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu. Qua bài phúc âm kết thúc Bài Giảng Trên Núi này, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ của Người rằng: 


1- Chỉ có ý Chúa được thể hiện qua việc con người tin tưởng chấp nhận, đáp ứng và tuân hành mới mang lại ơn cứu độ cho họ: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa', là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời" 


2- Chứ không phải là những việc làm gì khác, cho dù là việc thu hút thế gian nhất, như nói tiên tri có vẻ thông biết mọi sự, hay trừ quỉ hoặc làm phép lạ với đầy quyền năng: "Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?' Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: 'Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta'"..  


3Đời sống thiêng liêng cũng chỉ vững chắc khi được căn cứ vào lời của Người, vào giáo huấn vô cùng chân thật và trọn hảo của Người, vào tất cả những gì Người đã truyền dạy mà thôi: "Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".  


Ở đầu Bài Giảng Trên Núi, Thánh ký Mathêu cho biết là "thấy đoàn lũ dân chúng thì Chúa Giêsu lên núi; khi Người ngồi xuống thì các môn đệ đến cùng Người". Có nghĩa là giáo huấn về phúc đức trọn lành của Người trực tiếp ngỏ cùng thành phần được Người kêu gọi theo Người, nhờ đó họ có thể trở thành "muối đất", thành "ánh sáng thế gian". 


Thế nhưng, kết thúc Bài Giảng Trên Núi này, Thánh ký Mathêu lại cho thấy là chính dân chúng cũng được nghe "ké" giáo huấn phúc đức trọn lành này của Chúa Giêsu nữa, hay cũng có thể tiếng của Người nói với các môn đệ càng lúc càng vang to hơn khi Người thấy dân chúng tiếp tục kéo đến gần ngay chỗ qui tụ của Người và các môn đệ bấy giờ: "Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ". 


Qua lời diễn tả ngay sau Bài Giảng Trên Núi này của Thánh ký Mathêu, chúng ta thấy 2 điều: 1- về phía dân chúng, cho dù ở tầm mức bình dân, không thông thái như thành phần luật sĩ và biệt phái, cũng có thể cảm nhận được giáo huấn cao siêu của Chúa Giêsu; 2- về phía Chúa Giêsu, giáo huấn phúc đức trọn lành của Người tuy cao siêu "chật hẹp" nhưng hoàn toàn hợp với lòng người, hợp với nhân bản, và nếu được mang ra áp dụng thực hành con người sẽ được biến đổi và thăng hóa theo đúng ơn gọi cùng thân phận làm người của h.


Trong bài đọc 1 hôm nay, được Giáo Hội trích từ Sách Khởi Nguyên (16:1-12,15-16 hay 16:6-12,15-16), cho thấy nữ tỳ Agar của tổ phụ Abram tỏ ra lên mặt "khinh dể bà chủ" Sarai của mình, sau khi được bà chủ hiến nàng cho chồng để chồng có con với nàng thay cho bà là vợ nhưng lại bị son sẻ, nên nàng đã bị bà chủ ra tay "hành hạ... đến nỗi nàng phải trốn đi", nhưng nàng được "Thiên thần Chúa bảo nàng rằng: 'Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục bà'". 


Hành động khinh bỉ bà chủ của nữ tỳ Agar là hành động tự nhiên theo thế gian xác thịt, như xây nhà trên cát, sẽ bị sụp đổ khi bão tố nổi lên, đến độ nàng không chịu được tình trạng bị bà chủ hành hạ đến phải bỏ đi. Hành động trở về tùng phục bà chủ theo như lời thiên thần dạy là hành động xây nhà trên đá của người tỳ nữ này, nên đứa con do nàng sinh ra cho tổ phụ Abram không mồ côi cha (nếu nàng bỏ đi không trở về) và nó được thân phụ của nó đặt tên cho là Ismael khi ông vừa đúng 80 tuổi. 


Tuy nhiên, tự bản chất là đứa con sinh ra bởi một người tỳ nữ, chứ không bởi người vợ chính thức, nhất là không bởi lời hứa như Isaac sau này, mà Ismael tiêu biểu cho những gì là xác thịt đầy ngỗ nghịch phản chống, như thể thừa hưởng giòng máu và khuynh hướng xác thịt của người mẹ nữ tỳ của nó, đúng như lời thiên thần đã tiên báo: "Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". 


Phải chăng li tiên báo cách đây cả 4 ngàn 1 trăm năm này đang được hiện thực hơn bao giờ hết nơi hiện tượng Ả Rập Hồi giáo quá khích, khủng bố và tàn sát, như nhóm Al Queda mới đây và ISIS hiện nay? 


Thế nhưng, tất cả mọi sự xẩy ra đều ở trong sự quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa là chủ tể lịch sử loài người, Đấng làm gì cũng chỉ nhắm đến lợi ích thiêng liêng bất diệt cho chung loài người cũng như cho từng người, cho dù trong ruộng của Ngài đầy những cỏ lùng (xem Mathêu 13:24-30). 


Biết đâu hiện tượng Nhà Nước Hồi Giáo ISIS (Islamic State of Iraq and Syria) lại là phương tiện cần phải có Thiên Chúa muốn sử dụng để thanh tẩy Tây phương càng văn minh vật chất càng phá sản đức tin Kitô giáo, nhờ đó chẳng những làm cho Kitô giáo hiệp nhất với nhau mà chiến thắng ISIS (có thể vào một lúc nào đó ISIS đã chiếm được Âu Châu), còn làm cho Do Thái giáo (theo tây phương cũng bị ISIS cai trị) nhận biết Chúa Kitô giáo tổ Kitô giáo chính là Đấng Thiên Sai của họ nữa, khi nhờ Kitô giáo hiệp nhất thắng được ISIS mà họ được giải phóng thì sao!


Bởi thế, Thánh Vịnh 105 (1-2,3-4a,4b-5) ở Bài Đáp Ca hôm nay đã cảm nhận được tình yêu nhân hậu của Ngài đối với chung nhân loại (câu 1) cũng như đối với thành phần tuân giữ huấn lệnh của Ngài (câu 2) và với dân của Ngài (câu 3):


1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người? 

 

2) Phúc cho những ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. 


3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài.  

 

 

 

 

Thứ Sáu

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Gen 17,1.9-10.15-22

"Mọi đứa con sẽ chịu cắt bì để làm dấu giao ước. Sara sẽ sinh cho ngươi đứa con trai".

Bài trích sách Sáng Thế.

Khi Abram vừa được chín mươi chín tuổi, Chúa hiện ra với ông và phán bảo ông rằng: "Ta là Chúa toàn năng, hãy đi trước mặt Ta và hãy nên trọn lành".

Chúa lại phán bảo Abram rằng: "Vậy ngươivà dòng dõi ngươi qua muôn thế hệ, hãy giữ giao ước của Ta. Ðây là giao ước phải giữ giữa Ta với ngươi, nghĩa là dòng dõi ngươi sau này: Tất cả con trai của các ngươi sẽ chịu cắt bì".

Chúa lại bảo Abraham rằng: "Ngươi sẽ không còn gọi Sarai vợ ngươi là Sarai nữa, nhưng gọi là Sara. Ta sẽ chúc phúc cho Sara; và Sara sẽ sinh một con trai; Ta sẽ chúc phúc đứa con đó, nó sẽ làm đầu nhiều dân, và do nó sẽ sinh ra nhiều vua nhiều nước".

Abraham cúi mặt cười, nghĩ trong lòng rằng: "Già đã trăm tuổi mà còn có con được sao? Sara đã chín mươi tuổi sẽ sinh con ư?"

Rồi ông thưa cùng Chúa: "Xin Chúa cho Ismael được sống trước mặt Chúa!"

Chúa phán bảo Abraham rằng: "Sara vợ ngươi sẽ sinh cho ngươi một con trai, ngươi đặt tên nó là Asaac. Ta sẽ lập giao ước muôn đời với nó, và dòng dõi nó. Ta cũng nghe lời ngươi cầu cho Ismael: này Ta sẽ chúc phúc cho nó sinh sản nhiều. Nó sẽ sinh ra mười hai tướng quân, và Ta sẽ làm cho nó nên một dân tộc lớn. Còn lời giao ước của Ta chỉ ký kết với Isaac, do Sara sẽ sinh ra cho ngươi mùa này sang năm".

Sau khi nói hết lời cùng Abraham, Thiên Chúa biến đi.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: 127,1-2,3,4-5

Ðáp: Ðó là ơn phúc dành cho người kính sợ Chúa. (4)

Xướng 1) Phúc cho ai biết kính sợ Chúa, và bước đi trong đường lối Người. Ngươi sẽ hưởng công khó của tay ngươi, ngươi có phúc và sẽ được may mắn. - Ðáp.

2) Vợ ngươi như cây nho sai trái, trong nội cung gia thất nhà ngươi. Con cái ngươi như chồi non cây dầu ở chung quanh bàn ăn của ngươi. - Ðáp.

3) Ðó là ơn phúc dành cho người kính sợ Chúa. Từ Sion xin Chúa chúc lành cho ngươi. Chúc ngươi thấy Giêrusalem thịnh đạt suốt mọi ngày trong đời sống của ngươi. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8, 1-4

"Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người. Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch". Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: "Ta muốn. Anh hãy lành bệnh". Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi. Chúa Giêsu phán bảo anh ta: "Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết".

Ðó là lời Chúa. 

 

 

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm


Hình ảnh Thiên Chúa... bị phong cùi

 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XII Thường Niên, Thánh ký Mathêu (8:1-4) đã cho biết ở ngay câu đầu của đoạn 8 là: "Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người". Tức là, sau Bài Giảng Trên Núi của Người, một bài giảng đã gây một tác dụng mãnh liệt nơi dân chúng như câu kết của đoạn 7 sau bài Giảng Trên Núi ở bài Phúc Âm hôm qua cho thấy: "Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ".


Nhưng có một cái lạ là hình như trong đám đông dân chúng ấy có một người cùi, không biết nặng hay nhẹ, chắc là nhẹ thôi nên không ai chú ý lắm, bằng không anh ta đâu có thể lẻn vào đám đông như vậy được mà đến xin Chúa Giêsu chữa lành cho một cách dễ dàng như thế: "Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: 'Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch'". 


Còn một cái lạ hơn nữa, đó là, sau khi chữa cho người cùi được lành rồi, Chúa Giêsu chẳng những bảo anh ta đi trình diện các vị tư tế theo đúng luật định mà trước hết căn dặn anh ta phải giữ kín chuyện được chữa lành nữa: "Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: 'Ta muốn. Anh hãy lành bệnh'. Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi. Chúa Giêsu phán bảo anh ta: 'Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết'".


Nếu Chúa Giêsu đã chữa cho người cùi này lành mạnh ngay giữa đám đông dân chúng theo Người bấy giờ thì Người còn căn dặn "'Hãy ý tứ, đừng nói với ai" đây nghĩa là gì, trong khi đó bao nhiêu người bấy giờ đã biết chuyện anh ta được chữa lành và sẽ đồn ra khắp nơi, cho dù anh ta không nói. Hay là Chúa Giêsu đã gặp riêng người cùi này khi dân chúng đã tự động giải tán vào một lúc nào đó, vì Người cùng với các môn đệ đi vào một nơi hoang vắng nào đó, nơi ẩn náu của thành phần bị cùi hủi sống xa tránh dân chúng?


Thật ra, ngay trước Bài Giảng Trên Núi, theo Thánh ký Mathêu (4:23-25), Chúa Giêsu đã nổi tiếng tới tận Syria về các phép lạ Người chữa lành cho các thứ bệnh nạn tật nguyền rồi. Nhưng ngay sau Bài Giảng Trên Núi thì người cùi này là trường hợp cá nhân đầu tiên được kể đến bởi quyền năng chữa lành của Người.


Thái độ khiêm cung ("đến lạy Người") và hoàn toàn tin tưởng phó thác tùy ý Chúa muốn ("Lạy Ngài nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch") của nạn nhân phong cùi đã được Chúa Giêsu đáp ứng, bằng cách Người "giơ tay chạm đến anh ta và phán: 'Ta muốn. Anh hãy lành bệnh'".


Bệnh phong cùi là chứng bệnh làm hư hoại hình dạng của con người, một chứng bệnh tiêu biểu cho tác dụng của nguyên tội đã làm cho con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27) không còn nguyên vẹn hình hài tốt lành như thuở ban đầu nữa. 


Thế nhưng, Thiên Chúa đã hứa cứu độ con người ngay sau khi nguyên tổ của họ sa ngã (xem Khởi Nguyên 3:15), để họ có thể lấy lại dung nhan hình hài thần linh của mình, bằng cách được trở nên giống Chúa Giêsu Kitô Con của Ngài "là hình ảnh Thiên Chúa vô hình" (Colose 3:15). 


Để thực hiện dự án cứu độ thần linh này, Ngài đã tuyển chọn một dân tộc và lập giao ước với họ qua tổ phụ Abram của họ, một giao ước liên quan đến sự trọn lành của họ, như Chúa phán trong bài đọc 1 (Khởi Nguyên 17:1,9-10,15-22) hôm nay: "Ta là Chúa toàn năng, hãy đi trước mặt Ta và hãy nên trọn lành". 


Sự trọn lành về phía con người này, một sự trọn lành tương ứng với giao ước của Thiên Chúa Cứu Độ, là ở chỗ, như Ngài đã phán với vị tổ phụ này trong cùng bài đọc 1 hôm nay rằng: "Vậy ngươi và dòng dõi ngươi qua muôn thế hệ, hãy giữ giao ước của Ta. Đây là giao ước phải giữ giữa Ta với ngươi, nghĩa là dòng dõi ngươi sau này: Tất cả con trai của các ngươi sẽ chịu cắt bì".


Giao ước liên quan đến sự trọn lành của dân được Thiên Chúa tuyển chọn bởi thế không xuất phát từ xác thịt, được tiêu biểu nơi Ismael, đứa con sinh ra bởi người tỳ nữ Ai Cập Agar, mà phát xuất từ thần linh, được tiêu biểu nơi Isaac, đứa con của Lời Hứa: 


"Ngươi sẽ không còn gọi Sarai vợ ngươi là Sarai nữa, nhưng gọi là Sara. Ta sẽ chúc phúc cho Sara; và Sara sẽ sinh một con trai; Ta sẽ chúc phúc đứa con đó, nó sẽ làm đầu nhiều dân, và do nó sẽ sinh ra nhiều vua nhiều nước... Sara vợ ngươi sẽ sinh cho ngươi một con trai, ngươi đặt tên nó là Asaac. Ta sẽ lập giao ước muôn đời với nó, và dòng dõi nó".


Tuy Ismael là đứa con sinh bởi xác thịt chứ không phải do Lời Hứa nhưng vẫn không bị Thiên Chúa bỏ rơi, trái lại, còn được Thiên Chúa ban cho khả năng phát triển theo bản chất bẩm sinh thiên về xác thịt của nó: "Ta cũng nghe lời ngươi cầu cho Ismael: này Ta sẽ chúc phúc cho nó sinh sản nhiều. Nó sẽ sinh ra mười hai tướng quân, và Ta sẽ làm cho nó nên một dân tộc lớn". 


Bài Đáp Ca hôm nay, được Giáo Hội trích từ Thánh Vịnh 127 (1-2,3,4-5), chất chứa ý nghĩa liên quan đến vị tổ phụ công chính Abram, một vị tổ phụ đã được Chúa chúc phúc cho làm cha của dân Do Thái nói riêng và các dân tộc trên thế giới nói chung, qua người con được vợ ông sinh ra theo Lời Hứa:  

 

1) Phúc cho ai biết kính sợ Chúa, và bước đi trong đường lối Người. Ngươi sẽ hưởng công khó của tay ngươi, ngươi có phúc và sẽ được may mắn. 

 

2) Vợ ngươi như cây nho sai trái, trong nội cung gia thất nhà ngươi. Con cái ngươi như chồi non cây dầu ở chung quanh bàn ăn của ngươi. 


3) Đó là ơn phúc dành cho người kính sợ Chúa. Từ Sion xin Chúa chúc lành cho ngươi. Chúc ngươi thấy Giêrusalem thịnh đạt suốt mọi ngày trong đời sống của ngươi.  


Thứ Bảy

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 18, 1-15

"Ðối với Thiên Chúa có gì khó đâu. Ta trở lại thăm ông và Sara được một đứa con trai".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Chúa hiện ra cùng Abraham dưới chòm cây ở Mambrê, đang lúc ông ngồi ở cửa lều giữa trưa nóng bức. Ông ngước mặt lên thấy ba người nam xuất hiện, đứng gần ông. Vừa trông thấy, từ cửa lều, ông chạy ra đón các vị ấy, rồi sấp mình lạy và thưa rằng: "Lạy Chúa, nếu con được đẹp lòng Chúa, xin đừng bỏ đi qua. Con xin lấy ít nước để các Ðấng rửa chân, và nghỉ mát. Con xin đem ít bánh mời các Ðấng dùng để lấy sức lại rồi sẽ đi: chính vì thế mà các Ðấng đã ghé vào nhà con". Các Ðấng ấy nói: "Như ông đã ngỏ, xin cứ làm".

Abraham liền vào lều và bảo Sara rằng: "Hãy mau mau trộn ba đấu bột làm bánh nướng". Còn ông, ông chạy đến đàn bò bắt một con bê non hảo hạng, trao cho đầy tớ đem đi nấu. Ông lấy bơ sữa và thịt bê đã chín, dọn ra trước mặt các Ðấng. Chính ông đứng hầu các Ðấng dưới bóng cây.

Ăn xong, các Ðấng hỏi Abraham rằng: "Sara bạn ông đâu?" Ông trả lời: "Kìa, bạn con ở trong lều". Một Ðấng nói tiếp: "Ðộ này sang năm, khi Ta trở lại thăm ông, thì cả hai vẫn còn mạnh khoẻ, và Sara bạn ông sẽ được một con trai". Sara đứng sau cửa lều nghe vậy thì bật cười, vì cả hai đã già nua tuổi tác: Sara đã qua thời kỳ sinh nở. Bà cười thầm rằng: "Tôi đã già, ông nhà tôi đã lão, nào tôi còn tìm lạc thú nữa sao!" Chúa phán cùng Abraham rằng: "Sao Sara lại cười mà rằng: "Nào tôi đã già mà còn sinh nở được sao?" Ðối với Chúa, có gì khó đâu? Theo đúng kỳ hẹn, độ này sang năm, Ta sẽ trở lại thăm ông, cả hai vẫn còn khoẻ mạnh, và Sara sẽ được một con trai". Sara chối mà rằng: "Con không có cười", bởi vì bà khiếp sợ. Nhưng Chúa đáp lại: "Không đúng, bà có cười".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Lc 1, 46-47. 48-49. 50 và 53. 54-55

Ðáp: Chúa đã nhớ lại lòng từ bi của Chúa (c. 54b).

Xướng: 1) Ðức Maria đã nói: Linh hồn tôi ca ngợi Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi. - Ðáp.

2) Bởi Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ; thực từ đây, thiên hạ muôn đời sẽ khen rằng tôi phước đức, vì Ðấng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Người quyền năng và danh Người là Thánh. - Ðáp.

3) Ðức từ bi Người từ đời nọ tới đời kia dành cho những ai kính sợ Người. Kẻ đói khát, Người cho đầy thiện hảo; bọn giàu sang, Người đuổi về tay không. - Ðáp.

4) Chúa đã nhận săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng từ bi của Người. Như Người đã hứa cùng tổ phụ chúng tôi, dành cho Abraham và miêu duệ ông tới muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8, 5-17

"Những người từ phương đông và phương tây sẽ đến trong nước trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó". Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!" Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". Ðoạn Chúa nói với viên sĩ quan rằng: "Ông cứ về, ông được như ông đã tin". Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh.

Khi Chúa Giêsu vào nhà ông Phêrô, thấy bà mẹ vợ ông đang sốt rét liệt giường. Chúa chạm đến tay bà và cơn sốt biến đi. Bà chỗi dậy tiếp đãi các ngài.

Ðến chiều, họ đưa đến cho Chúa nhiều người bị quỷ ám: Chúa dùng lời đuổi quỷ, và chữa lành tất cả các bệnh nhân, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói rằng: "Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm


Từ phương đông và phương tây  


Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu (8:5-17) cho Thứ Bảy Tuần XII Thường Niên hôm nay tiếp tục bài phúc âm hôm qua, cả hai bài đều được vị thánh ký này ghi lại về 2 trường hợp chữa lành khác nhau, nhưng bài phúc âm hôm qua việc chữa lành của Người liên quan đến một người Do Thái, còn bài phúc âm hôm nay việc chữa lành của Người liên quan đến một người dân ngoại, đó là "một đại đội trưởng".


Thế nhưng, phải công nhận là viên đại đội trưởng Roma này có lòng bác ái yêu thương nên vừa nghe ông yêu cầu: "Lạy Thầy, thằng nhỏ giúp việc cho nhà tôi - my serving boy - đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" nên đã được Chúa Giêsu đáp ứng liền: "Tôi sẽ đến chữa nó". 


Đúng thế, viên đại đội trưởng Roma này đã tỏ ra chăm sóc cho cả thằng nhỏ đầy tớ giúp việc nhà cho ông, chứ không phải là con của ông. Nếu có máu đế quốc thì ông chẳng để ý đến nó làm gì, có thể đã bảo nó về nhà của nó để nghỉ ngơi cho đến khi nào khỏi bệnh thì trở lại. 


Ngoài ra, có thể ông cũng biết nói cả tiếng Do Thái để sống với họ là thành phần sống dưới quyền đô hộ của đế quốc Rôma. Do đó, không thấy Thánh ký Mathêu nói có người thông dịch hay ông bảo ai nói thay ông. Thánh ký Luca, trong cùng câu chuyện, lại thuật rằng ông "sai một số vị trưởng lão Do Thái đến với Người" (7:3), chứ ông không đích thân đến như trong bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay. 


Ở Phúc Âm Thánh ký Luca, chúng ta còn thấy 1 chi tiết nữa cho thấy viên đại đội trưởng này sống bác ái yêu thương dân chúng bị đô hộ của mình nên được họ thương mến, đó là chi tiết được chính các vị trưởng lão do ông sai đến với Chúa Giêsu bày tỏ cho Người biết rằng: "Ông ta yêu thương dân chúng tôi, thậm chí xây dựng hội đường cho chúng tôi nữa" (Luca 3:5).


Tuy nhiên, không thể bác ái yêu thương nếu không có lòng khiêm nhượng. Viên đại đội trưởng này quả thực có cả một tấm lòng khiêm nhượng trong vai trò làm đại đội trưởng khá nhiều quyền lực trong vùng trách nhiệm của ông. Trước hết, theo Thánh ký Mathêu, chính ông có thể đã biết tiếng Do Thái (nhờ học hỏi giao tiếp) để sống hòa đồng với thành phần dân bị đế quốc ông đo hộ, chứ không cần nhờ người phụng dịch cho ông. Sau nữa, chính ông đích thân đến xin Chúa Giêsu chữa lành cho thằng nhỏ đầy tớ Do Thái của ông, chứ không sai bảo ai dưới quyền ông. Sau hết, chính ông đích thân bày tỏ cái cảm giác bất xứng trong việc được diễm phúc đón rước vào nhà của ông một vị ông rất coi trọng, ngưỡng phục và đầy lòng tin tưởng là Chúa Giêsu


"Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ đầy tớ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!"


Đó là lý do, không lạ gì, sau khi đối diện với viên đại đội trưởng này, nhất là sau khi nghe ông bày tỏ cả lòng bác ái lẫn khiên nhượng như vậy, Chúa Giêsu đã không ngớt lời khen tặng ông, như Thánh ký Mathêu đã ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay:


"Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: 'Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". 


Lòng bác ái yêu thương và khiêm nhượng của viên đại đội trương dân ngoại Rôma này phát xuất từ một đức tin hữu thần, dù sống trong một thế giới vô thần, một đức tin còn mãnh liệt hơn cả dân Do Thái của Người, một đức tin được bày tỏ với chính vị Thiên Chúa Làm Người, Đấng đã "nói với viên sĩ quan rằng: 'Ông cứ về, ông được như ông đã tin'. Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh".


Việc Chúa Giêsu chữa lành cho thằng nhỏ đầy tớ của viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma cho thấy rằng Người đến không phải chỉ cứu dân Do Thái mà là để cứu chuộc cả loài người nói chung và những ai tin vào Người nói riêng. Bởi vì, Người tuy mang giòng máu Do Thái nhưng lại mặc lấy bản tính chung của loài người, một bản tính đã bị hư hoại bởi nguyên tội, và vì thế, đúng như câu cuối của bài Phúc Âm hôm nay trích lại lời tiên tri Isaia: "Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta".


"Chúng ta" đây nơi lời Tiên Tri Isaia trước hết ám chỉ riêng dân Do Thái, một dân tộc dầu sao cũng đã được Thiên Chúa tuyển chọn để chẳng những tỏ mình ra cho họ và qua họ cho cả dân ngoại nữa. Bởi thế, ngay trong giao ước với tổ phụ Abraham về đất hứa và về một dân tộc đông như sao trời như cát biển đã bao gồm cả dân ngoại rồi (xem Khởi Nguyên 22:17), một dân tộc xuất phát từ một người con sinh ra bởi lời hứa là Isaac chứ không phải theo xác thịt như Ismael từ người tỳ nữ Ai Cập Agar. 


Bài đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên (18:1-15), đã cho thấy người con giao ước được hứa ban cho vị tổ phụ này trong lúc người vợ của ông là Sara đã hết thời sinh nở, như chính bà nghiệm thực như vậy, khi nghe 3 vị thiên sứ nói về việc bà thụ thai và sinh con: 


"Sara đứng sau cửa lều nghe vậy thì bật cười, vì cả hai đã già nua tuổi tác: Sara đã qua thời kỳ sinh nở. Bà cười thầm rằng: 'Tôi đã già, ông nhà tôi đã lão, nào tôi còn tìm lạc thú nữa sao!'" 


Thế nhưng, những gì con người không làm được thì không thành vấn đề với Thiên Chúa, và chính vì thế mới là việc của Ngài, và người con sinh ra ngoài khả năng tự nhiên của con người mới quả thực là người con thực sự của giao ước để thực hiện những gì Ngài hứa phải thành hiện thực:


"Chúa phán cùng Abraham rằng: 'Sao Sara lại cười mà rằng: Nào tôi đã già mà còn sinh nở được sao?' Đối với Chúa, có gì khó đâu? Theo đúng kỳ hẹn, độ này sang năm, Ta sẽ trở lại thăm ông, cả hai vẫn còn khoẻ mạnh, và Sara sẽ được một con trai". 


Bài Đáp Ca hôm nay, được Giáo Hội lấy từ một số câu tiêu biểu trong Ca Vịnh Ngợi Khen của Mẹ Maria (Luca 1: 46-47,48-49,50 và 53,54-55), chẳng những liên quan đến vợ tổ phụ Abraham là bà Sara mà còn đến cả viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma nữa:  

 

1) Đức Maria đã nói: Linh hồn tôi ca ngợi Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi.  


2) Bởi Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ; thực từ đây, thiên hạ muôn đời sẽ khen rằng tôi phước đức, vì Đấng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Người quyền năng và danh Người là Thánh.


3) Đức từ bi Người từ đời nọ tới đời kia dành cho những ai kính sợ Người. Kẻ đói khát, Người cho đầy thiện hảo; bọn giàu sang, Người đuổi về tay không.


4) Chúa đã nhận săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng từ bi của Người. Như Người đã hứa cùng tổ phụ chúng tôi, dành cho Abraham và miêu duệ ông tới muôn đời.