SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Dcr 9, 9-10
"Này vua ngươi khiêm tốn đến với ngươi".
Trích sách Tiên tri Dacaria.
Ðây Chúa phán: "Hỡi thiếu nữ Sion, hãy nhảy mừng; hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy reo mừng! Này vua ngươi đến với ngươi. Người là Ðấng công chính và là Ðấng cứu độ; Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ. Người đã loại bỏ các chiến xa khỏi Ephraim, và ngựa khỏi Giêrusalem. Cung tên chiến trận sẽ được phá huỷ. Người sẽ công bố hoà bình cho các dân tộc. Quyền bính của Người sẽ bành trướng từ biển này đến biển nọ, từ sông cái đến tận cùng trái đất".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 1-2. 8-9. 10-11. 13cd-14
Ðáp: Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời (c. 1).
Xướng: 1) Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ ca khen Chúa, và con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.
4) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 8, 9. 11-13
"Nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được hành động của xác thịt, thì anh em sẽ được sống".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Ðức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người. Và nếu Thánh Thần của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Ðấng đã làm cho Ðức Kitô từ cõi chết sống lại, cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em.
Anh em thân mến, chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động (xấu xa của) thân xác, thì anh em sẽ được sống.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 17
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 11, 25-30
"Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. - Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.
"Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm
"Những
điều ấy" là
những điều nào?
Có thể đặt nhan đề chung cho Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm A tuần này bằng ba chữ: "Những điều ấy", ba chữ được lấy từ câu đầu tiên của Bài Phúc Âm hôm nay.
Thật vậy, nếu 3 tuần vừa rồi, Chúa Nhật XI, Chúa Nhật XII và Chúa Nhật XIII, Giáo Hội đã chọn đọc đoạn 10 (không trọn cả đoạn) của Phúc Âm Thánh ký Mathêu cho chu kỳ phụng niên Năm A liên quan đến ơn gọi kèm theo sứ vụ rao giảng của các môn đệ tông đồ (Chúa Nhật Tuần XI), tinh thần và nội dung rao giảng của các vị (Chúa Nhật Tuần XII), và thái độ "đón tiếp" cần có ở nơi thành phần được nghe các môn đệ thừa sai rao giảng (Chúa Nhật Tuần XIV), thì Chúa Nhật Tuần XIV này bao gồm chính chủ thể được các môn đệ thừa sai rao giảng "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16).
Đúng thế, "những điều ấy" đây, những điều mà "Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết... mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn" được Chúa Giêsu muốn nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay đó chính "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", Đấng đã khẳng định ngay trong Bài Phúc Âm hôm nay rằng: "không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho".
Chúa Kitô tự mình quả thực là một mầu nhiệm, loài người thiển cận và hạn hữu không thể nào tự mình có thể nhận biết được nếu không được "Cha Thày trên trời đã mạc khải cho biết" (Mathêu 16:17), và cho dù đã được mạc khải cho biết nhưng nếu con người được mạc khải ấy không lấy đức tin mà chấp nhận thì vẫn bị nhầm lạc như thường, như chính bản thân của vị tông đồ Phêrô tuyên xưng chính xác mạc khải thần linh ấy (xem Mathêu 16:23). Bởi thế Chúa Kitô mới nói đến thành phần "những kẻ bé mọn". Tại sao? Nếu không phải tại vì chính đối tượng đức tin, đến cốt lõi của mạc khải thần linh "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Có thể nói "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" là cốt lõi của mạc khải thần linh, bao gồm cả mạc khải Cựu Ước (hướng về và trông đợi "Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" là tột đỉnh của Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái) lẫn Tân Ước, cả sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội cho đến tận thế. Chính Chúa Kitô, "vào thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) của mình, cũng đã tự chứng nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là bản thân Người chính là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", bằng chính Cuộc Vượt Qua của Người, từ tử nạn như một "Đức Kitô" Thiên Sai và sống lại như "Con Thiên Chúa hằng sống".
Thế nhưng, kinh nghiệm phũ phàng cho thấy, thành phần "những người hiền triết và khôn ngoan", như phái Pharisiêu và luật sĩ thông luật, giữ luật và dạy luật chẳng những không chấp nhận nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" mà còn âm mưu sát hại Người cho bằng được: "Quí vị tìm Tôi (tức họ rất muốn biết Người là ai và từ đâu đến - xem Gioan 10:24) nhưng quí vị sẽ chết trong tội lỗi của quí vị (bằng cách lên án tử cho Người ngay sau khi Người tự xưng căn tính đích thực của Người để đáp ứng lệnh truyền của vị thượng tế nhân danh Thiên Chúa hỏi Người)" (Gioan 8:21; Mathêu 26:63-64).
Sở dĩ thành phần "những người hiền triết và khôn ngoan" thế gian không thể nhận biết nhân vật lịch sử Giêsu Nazzarét "là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" là vì Người chẳng có tướng Thiên Sai tí nào trước con mắt trần tục và niềm mong đợi giải phóng đầy quyền lực của họ, trái lại, họ lại thấy "Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ", như Bài Đọc 1 hôm nay báo trước và Người quả thực là như thế trước mắt họ khi Người vinh quang tiến vào thành Giêrusalem là giáo đô của dân Do Thái (xem Mathêu 21:1-9).
Hiện tượng phủ nhận nhân vật Giêsu Nazarét "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" nơi thành phần "những người hiền triết và khôn ngoan" cũng dễ hiểu thôi, bởi họ sống theo xác thịt và không sống bởi Thánh Thần, đúng như những gì Thánh Phaolô đã đề cập đến trong Thư gửi Giáo đoàn Rôma ở Bài Đọc 1 hôm nay, những lời ngài đã vừa nhắc nhủ và vừa cảnh giác tín hữu giáo đoàn này: "Anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Ðức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người"; "nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động (xấu xa của) thân xác, thì anh em sẽ được sống".
Như thế, thành phần "những kẻ bé mọn" chẳng những được Cha Trên Trời mạc khải cho biết Con của Ngài mà còn có thể chấp nhận mạc khải thần linh của Cha là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" là vì họ không sống theo xác thịt và nhờ Thánh Thần tác động trong họ. Theo bản chất tự nhiên, họ cũng cảm thấy "khó nhọc và gánh nặng" của cuộc đời trần gian đầy gian nan thử thách, trước sức hấp dẫn của thế gian bên ngoài và khuynh hướng chỉ muốn buông thả bên trong khó lòng mà chống lại được với đủ mọi mưu chước cám dỗ quỉ quyệt của satan và thần dữ.
Thế nhưng, chính vì là thành phần "những kẻ bé mọn" mà họ không bao giờ cậy mình, trái lại, họ chỉ tin tưởng vào một mình Thiên Chúa là Đấng, như Bài Đáp Ca hôm nay xác tín và tuyên xưng: "nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa", "nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa".
Nhờ đó, nhờ lòng tin tưởng cậy trông vào một mình Thiên Chúa như thế, mà họ, "những kẻ bé mọn", đã được "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" "nâng đỡ bổ sức cho", đến độ khiến họ có thể dễ dàng "mang lấy ách" của Người là tất cả lề luật cùng giáo huấn trọn lành của Người, bằng tất cả tâm hồn "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" như Người, Đấng "đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập tự giá" (Philiphê 2:6), một tâm hồn "được bình an" bởi họ thực sự cảm nghiệm thấy "ách của (Người) thì êm ái và gánh của (Người) thì nhẹ nhàng" hợp với tầm vóc nhỏ bé nhưng nội công thâm hậu của họ nhờ quyền lực Thánh Thần ở trong họ. Họ quả đúng như lời Chúa phán trong câu Alleluia hôm nay: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.
Ngày 3 tháng 7
THÁNH TÔ-MA, TÔNG ĐỒ
lễ kính
Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !
Trích bài giảng của thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng, về các sách Tin Mừng.
Một người trong nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Chỉ có người môn đệ này vắng mặt. Khi trở về, ông nghe thuật lại sự việc đã xảy ra nhưng không chịu tin những điều đã nghe. Chúa đến lần nữa và đưa cạnh sườn cho người môn đệ không tin chạm tay vào. Người đưa tay ra và, khi cho ông thấy các thương tích của Người, Người chữa lành vết thương cứng tin của ông. Anh em thân mến, trong chuyện này, anh em chú ý đến điều gì ? Lúc đầu, người môn đệ được chọn này vắng mặt, sau đó ông về và nghe kể lại, nghe rồi nghi ngờ, nghi ngờ rồi đưa tay chạm, chạm rồi tin, chẳng lẽ anh em cho tất cả chuyện này là tình cờ hay sao ?
Không, không phải tình cờ đâu, nhưng Thiên Chúa an bài cho xảy ra như thế. Thật vậy, Đấng từ bi cao cả đã hành động cách lạ lùng là cho người môn đệ hoài nghi đó chữa lành vết thương cứng tin nơi chúng ta khi ông chạm tay vào thương tích trên thân thể của Thầy mình. Đàng khác, đối với đức tin của chúng ta, sự cứng tin của ông Tô-ma còn hữu ích hơn đức tin của những môn đệ khác là những người đã tin. Vì ông đã chạm tay vào Chúa và đã tin, nên tâm trí chúng ta không còn hoài nghi nữa và được một đức tin vững mạnh. Thật vậy, người môn đệ nghi ngờ và được chạm tay vào Chúa đã trở thành người làm chứng Chúa đã sống lại thật.
Ông đã được chạm tay vào Chúa và đã kêu lên : Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con. Đức Giê-su bảo : Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Thánh tông đồ Phao-lô lại nói : Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Vì thế, chắc chắn đức tin là bằng chứng của những điều không thể thấy đó. Thật vậy, những gì đã thấy thì không cần phải tin, nhưng phải nhìn nhận. Thế tại sao khi ông Tô-ma thấy và được chạm tay vào Chúa, Chúa lại bảo ông rằng : Vì đã thấy Thầy, nên anh tin ? Nhưng điều ông thấy là một chuyện, điều ông tin lại là chuyện khác. Người phàm phải chết không thể nhìn thấy Thiên Chúa được. Thế mà ông thấy một con người và ông tuyên xưng Thiên Chúa : Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con ! Nhờ đã thấy nên ông đã tin : khi nhìn xem một con người thật, ông đã gọi người ấy là Thiên Chúa, Đấng ông không thể thấy được.
Lời tiếp theo còn làm cho chúng ta vui hơn : Phúc thay những người không thấy mà tin. Chắc chắn lời này đặc biệt nhắm đến chúng ta, vì chúng ta không thấy Chúa bằng giác quan nhưng lại gắn bó với Người bằng tâm trí. Câu ấy nhắm đến chúng ta, nhưng với điều kiện là chúng ta phải thể hiện đức tin bằng hành động. Vì chưng ai thực hành điều mình tin mới là người tin thật sự. Còn những ai chỉ tin ngoài môi ngoài miệng, thì thánh Phao-lô nói về họ rằng : Họ tuyên bố là biết Thiên Chúa, nhưng trong hành động họ lại chối Người. Thánh Gia-cô-bê cũng nói : Đức tin không có hành động là đức tin chết.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, hôm nay chúng con hoan hỷ mừng lễ thánh Tô-ma tông đồ. Xin nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài Ðọc I: Ep 2, 19-22
"Anh em được xây dựng trên nền tảng các tông đồ".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em không còn là khách trọ và khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với các Thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ và các Tiên tri, có chính Ðức Giêsu Kitô làm Ðá góc tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa, trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2
Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
Xướng: 1) Hỡi muôn dân, hãy ngợi khen Chúa! Hỡi ngàn dân, hãy ca tụng Người. - Ðáp.
2) Vì lòng từ bi Người vững bền trên chúng ta, và lòng trung kiên Người tồn tại đến muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! - Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 24-29
"Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Bấy giờ trong Mười Hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđy-mô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin". Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Ðó là lời Chúa.
|
Ngài đã đến Mailapur, một khu vực thuộc thánh phố Madras của Ấn-độ
ngày nay, và đã chết tại đó vào năm 72 sau Chúa Ki-tô với tư cách là
một vị Tử Đạo. Ngài là một trong nhóm 12 Tông Đồ, tức những môn đệ
thân tín nhất của Chúa Giê-su, đã đồng hành với Chúa Giê-su suốt ba
năm trường với tư cách là những người bạn và những môn sinh (xc. Ga
15,15). Tên của Ngài được đặt theo tiếng Aram: ta'am (Thomas), có
nghĩa là „một cặp“ hay „người được sinh đôi“. Vì thế, trong Kinh
Thánh, Thomas cũng được gọi là Didymos, vì từ Thomas được dịch sang
tiếng Hy-lạp là δίδυμος (didymos). Theo truyền thống Syria, Thánh
Nhân cũng còn được gọi là Judas Thomas, vì tại đó, Thomas được hiểu
là tên đệm, hay tục danh.
Trong các Giáo hội Công giáo, Chính thống giáo và Anh giáo, Thánh
Thomas được tôn kính với tư cách là vị Thánh Tông Đồ Tử Đạo. Trong
các Giáo hội Tin Lành cũng có ngày tưởng nhớ tới Ngài.
1.Hình ảnh của Thánh Thomas trong Kinh Thánh:
Thánh Thomas được cả bốn Tin Mừng nhắc tới trong bảng danh sách các
Tông Đồ. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, tức ba cuốn Tin Mừng đầu tiên,
Ngài đứng bên cạnh Thánh Mát-thêu - viên quan ngành thuế (Mt 10,3;
Mc 3,18; Lc 6,15). Trong sách Công Vụ Tông Đồ, người ta thấy Ngài
đứng bên cạnh Tông Đồ Philiphê (Cv 1,13). Tin Mừng theo Thánh Gio-an
đã cung cấp một số chi tiết đặc biệt về Thánh Nhân, mà những chi
tiết đó đã mô tả một cách rõ nét về những tính cách nơi con người
Ngài.
a.Thomas là người đa nghi:
Trước tiên, con đường dẫn tới việc tuyên xưng Đức Tin vào Con Thiên
Chúa được trình bày nơi Thánh Thomas, dựa trên nền tảng căn bản phát
xuất từ mối tương quan cá nhân của Ngài với Chúa Giê-su. Tin Mừng
theo Thánh Gio-an (xc. Ga 20,19-29) đã cung cấp cho chúng ta một cái
nhìn như thế:
“Vào
chiều ngày ấy, tức ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các
cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng
giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " Nói xong, Người cho các
ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai
Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các
ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai,
thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
„Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô,
không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Các môn đệ khác nói với ông:
"Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy
dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không
đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." Tám ngày sau,
các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với
các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và
nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay
vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn
Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy
Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! " Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy
Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"
Sở dĩ Thánh Thomas bị gọi là người „đa nghi“ là vì, như được trình
bày trong đoạn văn Kinh Thánh nêu trên, trước khi tuyên xưng niềm
tin của mình vào Chúa Giê-su Phục Sinh thì Ngài đã nghi ngờ về sự
phục sinh của Chúa, cho tới khi chính Ngài tận mắt thấy được những
vết đanh trên người của Đấng Phục Sinh.
b.„Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống“:
Một chi tiết tiếp theo về Thánh Thomas được ghi lại trong trình
thuật về Bữa Tiệc Ly (xc. Ga 14,4). Trong Bữa Tiệc này, sau khi loan
báo về cái chết đang đến gần của Ngài, Chúa Giê-su đã nói rằng, Ngài
sẽ đi để dọn chỗ cho các Môn Đệ, để Ngài ở đâu thì các ông cũng sẽ
được ở đó với Ngài; và Ngài đã giải thích cho các ông rằng: „Thầy
đi đâu thì anh em cũng đã biết đường đến đó rồi“ (Ga 14,4).
Nhưng Thánh Thomas đã xen vào và nói: „Thưa
Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được
đường?“ (Ga 14,5). Câu hỏi của Thánh Nhân đã tạo điệu kiện cho
Chúa Giê-su tuyên bố một lời rất nổi tiếng: „Thầy
chính là đường, là sự thật và là sự sống“ (Ga 14,6).
c.“Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!“:
Thánh Thomas lại xuất hiện một lần nữa trong Tin Mừng trước khi Chúa
Giê-su làm cho La-gia-rô phục sinh. Trong một khoảnh khắc đầy nguy
ngập đối với cuộc sống của Ngài, Chúa Giê-su đã quyết định đi tới
Bê-ta-ni-a để làm cho La-gia-rô được sống lại, và như thế, Ngài đã
lên đường trong sự nguy hiểm, vì Bê-ta-ni-a nằm rất gần
Giê-ru-sa-lem, nơi các thủ lãnh của dân đã quyết định làm mọi cách
để khử trừ Chúa Giê-su (xc. Ga 10,22-39), do đó, chỉ cần nói tới đi
đến Giê-ru-sa-lem thôi thì tất cả các môn đệ của Chúa Giê-su lẫn
những người đi theo Ngài đều cảm thấy kinh hoàng và sợ hãi (xc. Mc
10,32). Trước sự quyết tâm của Chúa Giê-su và trước nỗi do dự của
các Tông Đồ khác, Thánh Thomas đã nói với họ: „Cả
chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!“
2.Thánh Thomas đã nghi ngờ về cuộc Thăng Thiên của Đức Maria:
Theo tương truyền, Thánh Thomas cũng là một Tông Đồ duy nhất đã
không có mặt trong cuộc Thăng Thiên của Đức Maria. Khi được các Tông
Đồ khác thuật lại cho biết sự kiện vừa nêu, Ngài cũng đã tỏ ra nghi
ngờ giống như Ngài đã từng nghi ngờ về cuộc Phục Sinh của Chúa
Giê-su. Vì thế Đức Mẹ đã hiện ra với kẻ đa nghi này và trao cho Ngài
dây thắt lưng của Mẹ như là bằng chứng về việc cả hồn lẫn xác của Mẹ
đều đã được nghinh đón trên Thiên Đàng. Do đó, trong nền kiến trúc
Barock, hình ảnh Đức Maria cầm dây thắt lưng chính là một Mô-típ rất
được yêu chuộng và phổ biến trong nghệ thuật Ki-tô giáo.
3.Những tương truyền về hoạt động tông đồ của Thánh Thomas:
Cuốn Didache, tức cuốn Giáo Lý của các Thánh Tông Đồ - một trong
những tác phẩm Ki-tô giáo cố nhất ngoài 27 cuốn sách của Tân Ước –
xuất hiện vào khoảng năm 100 sau Chúa Ki-tô, chứa đựng những bằng
chứng cổ nhất bằng văn bản về hoạt động truyền giáo của Thánh Thomas
tại Ấn-độ. Theo cuốn sách này, Ngài đã thành lập Giáo hội tại Ấn-độ
và tại những khu vực lân cận.
Khoảng một trăm năm sau, những tài liệu được gọi là những văn kiện
về Thánh Thomas mới xuất hiện. Những tác phẩm này đã tường thuật lại
một cách khá giống nhau về những công việc của Thánh Thomas, nhưng
được thêu dệt thêm bởi rất nhiều những tình tiết giầu tính tưởng
tượng, và có vẻ như bị ảnh hưởng nhiều bởi ngộ đạo thuyết.
Giáo phụ Ô-ri-gen cho biết rằng, trước tiên Thánh Thomas đã đến loan
báo Tin Mừng tại Irak và Iran. Sau đó Ngài mới đến miền Nam Ấn-độ để
hoạt động Tông Đồ, và vì những hoạt động truyền giáo của mình, nên
Ngài đã bị giết tại Mailapur – một khu vực thuộc miền Nam Ấn-độ -
vào năm 70 của thế kỷ thứ nhất. Người ta vẫn còn giữ được nhiều văn
bản nói về những hoạt động của Thánh Thomas tại Ấn-độ, nhưng những
văn bản đó xuất hiện sau thời Ô-ri-gen. Trong đó có những bản văn
của Thánh Hieronymô (347-420), và của những người sống cùng thời với
Ngài là Thánh Gaudentiô thành Brescia và Thánh Paulinô thành Nola
(354-431).
Thánh Grêgôriô thành Tours (538-594) đã không chỉ cho chúng ta biết
rằng, Thánh Thomas Tông Đồ đã hoạt động và chết tại Ấn-độ, nhưng còn
cho biết thêm là, Ngài đã được mai táng tại đó trong một thời gian
dài, và sau đó, các Thánh Tích của Ngài đã được chuyển tới Edessa,
nhưng nơi có ngôi mộ nguyên thủy của Ngài vẫn còn được tiếp tục tôn
kính tại Ấn-độ. Thánh Isidor thành Sevilla (560-636) cũng nói tương
tự như thế về Thánh Thomas, và cũng nói về cách thức lãnh nhận ơn Tử
Đạo của Ngài tại Ấn-độ.
Một truyền thống khác phát sinh tại Nam Ấn-độ, và có nguồn gốc từ
thời các Thánh Tông Đồ, và luôn tồn tại từ đó tới nay, đã cho biết
về những hoạt động truyền giáo của Thánh Thomas tại đó, và cho biết
rằng, Ngài đã thành lập 7 giáo đoàn đầu tiên tại vùng duyên hải
Malabar, cũng như cho biết về cuộc Tử Đạo của Ngài tại Mailapur nằm
đối diện với vùng duyên hải Coromandel. Ngay cả truyền thống có tính
địa phương của Ấn-độ về Thánh Thomas cũng xác nhận về việc các Thánh
Tích của Ngài đã được chuyển một phần lớn về Edessa, mà tại đây,
trong các cuộc khai quật sau sau này, người ta đã phát hiện ra một
ít Thánh Tích vẫn còn sót lại của Ngài.
Ibas Edessa đã cho xây dựng một ngôi Thánh Đường tại quê hương của
ông để tôn kính các Thánh Tích của Thánh Thomas. Còn hộp sọ được cho
là của Thánh Thomas thì hiện tại đang được bảo quản trong Nhà Thờ
Chính Tòa Sioni tại Tiflis, Giorgia, và được tôn kính tại đó bởi
Giáo hội Tông Truyền Chính thống Giorgia như là Thánh Tích. Trong
cuộc Thập Tự Chinh vào năm 1258, phần lớn Thánh Tích của Thánh
Thomas đều được chuyển từ Edessa về Ortona, Ý, và những Thánh Tích
đó vẫn đang được bảo quản tại đó cho tới tận ngày nay, trong một hòm
đựng Thánh Tích đặt trong Nhà Nguyện nằm bên dưới Vương Cung Thánh
Đường Ortona. Ngôi mộ nguyên thủy của Thánh Thoams tại Ấn-độ hiện
đang là một điểm hành hương có sức lôi cuốn rất mạnh. Ngoài Vương
Cung Thánh Đường kính Thánh Thomas được xây dựng ngay trên ngôi mộ
trước đây của Ngài tại Mylapore, thuộc thành phố Chennai, thì tại
khu vực phía Nam Ấn-độ cũng còn vô số những điểm hành hương khác, mà
những điểm hành hương này đều có liên quan đến Thánh Thomas cũng như
liên quan tới những hoạt động truyền giáo của Ngài tại đó. Sau đây
là một số địa điểm nổi tiếng nhất:
1.Thánh Đường kính Thánh Thomas trên núi Chennai: đây là nơi
mà theo tương truyền, Ngài đã Tử Đạo tại đó;
2.Thánh Đường kính Thánh Thomas nằm trên một ngọn núi nhỏ khác tại
Chennai: đây là nơi mà theo tương truyền, Thánh Thomas đã
đến ẩn náu tại đó trước khi chịu Tử Đạo;
3.Núi và Thánh Đường Malayattoor tại Kerala: đây là nơi được
cho là Thánh Thomas đã đến sống ẩn dật tại đó trong một thời gian
dài để cầu nguyện và suy niệm;
4.Thánh Đường Codungallur: theo tương truyền, nơi đây đã
từng là một thành phố cảng nổi tiếng, và vào năm 52, Thánh Thomas đã
cập bến tại đây, và là một trong bảy cộng đoàn nguyên thủy do Thánh
Thomas thành lập. Một cánh tay của Thánh Nhân đang được tôn kính tại
đây. Cánh tay này đã được chuyển đến từ Ortona, nước Ý, như là một
món quà của Đức Pi-ô XII nhân dịp mừng kỷ niệm 1900 năm Ngày thánh
Thomas đặt chân tới Ấn-độ.
5.Thánh Đường Palayur: đây là một trong bảy cộng đoàn nguyên
thủy tại vùng duyên hải Malabar, và nguyên là một đền thờ của người
Ấn giáo. Sau khi hầu hết các Giáo sĩ Bà-la-môn gia nhập Giáo hội
Công giáo, Thánh Thomas đã biến ngôi đền này thành một ngôi Thánh
Đường.
Theo một số truyền thống khác, mà những truyền thống này có lẽ có
nguồn gốc từ ngộ đạo thuyết và từ phái Manichê, Thánh Thomas được
coi là người anh em song sinh của Chúa Giê-su.
Thánh Thomas còn bị gán là tác giả của một cuốn Tin Mừng và của
nhiều tác phẩm khác. Nhưng tất cả các tác phẩm này đều bị liệt vào
số các sách Ngụy Thư.
4.Việc tôn kính Thánh Thomas:
Tại Châu Âu, ngoài việc được tôn kính với tư cách là Thánh Tông Đồ
Tử Đạo, Thánh Thomas còn được tôn kính với tư cách là vị Bổn Mạng
của những người làm nghề thợ nề và thợ mộc. Bên cạnh đó, Ngài còn
được tôn kính là Bổn Mạng của các Thần Học Gia.
Trước đây Giáo hội mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12,
nhưng từ năm 1969, với cuộc cải tổ Phụng Vụ, Giáo hội đã mừng kính
Ngài vào ngày mồng 03 tháng 07 với bậc Lễ Kính, tức Lễ Bậc II. Ngày
mồng 03 tháng 07 được coi là ngày di chuyển các Thánh Tích của Thánh
nhân từ nơi Ngài được phúc Tử Đạo, tức từ Kalamina về Edessa hồi thế
kỷ thứ III.
Giáo hội Chính Thống giáo mừng kính Thánh Thomas vào ngày mồng 06
tháng 10.
Còn các Giáo hội Tin Lành thì vẫn tiếp tục mừng kính Thánh Thomas
vào ngày 21 tháng 12.
Và Giáo hội Anh giáo cũng mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng
12.
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist
Thứ Tư 27/9/2006 - Bài 19: Tông Đồ Tôma (ĐTC Biển Đức XVI)
Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 2, 14. 15-16. 19-20
"Ta sẽ đính hôn với ngươi đến muôn đời".
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Ðây Chúa phán: "Này đây Ta sẽ dụ dỗ nó, đem nó vào sa mạc, và kề lòng, Ta nói khó với nó. Ở đó nó sẽ vọng lại như ngày còn thơ, và như ngày nó lên từ đất Ai-cập. Sẽ xảy ra là trong ngày ấy, sấm của Giavê, nó sẽ gọi Ta: 'Chồng tôi', chứ nó sẽ không gọi Ta là 'Ông chủ tôi' nữa".
"Ta sẽ đính hôn với ngươi đến muôn đời. Ta sẽ đính hôn với ngươi trong công bình và chính trực, trong tình yêu và thương xót. Ta sẽ đính hôn với ngươi trong sự trung tín và ngươi sẽ biết Ta là Chúa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Chúa nhân ái và từ bi (c. 8a).
Xướng: 1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được. - Ðáp.
2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.
3) Người ta nói tới quyền năng trong những việc đáng sợ, và kể ra sự vĩ đại của Ngài. Người ta lớn tiếng khen ngợi lòng nhân hậu bao la, và hân hoan vì đức công minh của Chúa. - Ðáp.
4) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Tv 144, 14cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9, 18-26
"Con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến, nó sẽ sống lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đang nói, thì có một vị kỳ mục kia đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên nó, thì nó sẽ sống lại". Chúa Giêsu chỗi dậy, và cùng với các môn đệ, đi theo ông ấy. Và này có người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm, tiến lại đàng sau Người và chạm đến gấu áo Người. Vì bà nghĩ thầm rằng: Nếu tôi được chạm đến áo Người thôi, thì tôi sẽ được khỏi. Chúa Giêsu ngoảnh lại, trông thấy bà ta, liền phán rằng: "Này con, hãy vững lòng. Ðức tin của con đã cứu thoát con". Và người đàn bà được khỏi bệnh.
Khi Chúa Giêsu đến nhà vị kỳ mục, và thấy những người thổi kèn và đám đông đang xôn xao, thì bảo rằng: "Các ngươi hãy lui ra, con bé không có chết đâu, nó ngủ đó thôi". Họ liền nhạo cười Người. Và khi đã xua đám đông ra ngoài, Người vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy. Tin này đồn đi khắp cả miền ấy.
Ðó là lời Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Mathêu thuật lại một sự kiện giống như Thánh ký Marcô đã thuật lại trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XIII Thường Niên Năm B tuần trước. Tuy nhiên, Thánh ký Mathêu thuật lại có vẻ ngắn gọn hơn, ít chi tiết hơn Thánh ký Marco, bao gồm một số chi tiết khác hẳn nhau:
Hai chi tiết hoàn toàn khác nhau, thậm chí nghịch nhau như sau: Chi tiết thứ nhất đó là người đến xin Chúa cứu đứa con gái của mình là "một vị kỳ mục" chứ không phải là một "trưởng hội đường" như Thánh Marco cho biết, và chi tiết thứ hai đó là "con gái tôi vừa mới chết" chứ không phải "đang hấp hối" như trong Phúc Âm Thánh ký Marco.
Ngoài ra, còn hai chi tiết khác cả hai bài Phúc Âm đều giống nhau, đó là chi tiết về người đàn bà loạn huyết 12 năm được Chúa Giêsu chữa lành nhờ bà có lòng tin: "Này con, hãy vững lòng. Đức tin của con đã cứu thoát con", và chi tiết về người con gái vừa qua đời được Người đến cải tử hoàn sinh cho: "'Các ngươi hãy lui ra, con bé không có chết đâu, nó ngủ đó thôi'. Họ liền nhạo cười Người. Và khi đã xua đám đông ra ngoài, Người vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy".
Về hai chi tiết hoàn toàn khác nhau, thậm chí nghịch nhau giữa bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay và bài Phúc Âm của Thánh ký Marco hôm Chúa Nhật XIII Thường Niên Năm B tuần trước, chúng ta có thể đặt vấn đề tại sao, nhưng cả hai chỉ là những chi tiết phụ thuộc không đáng lưu ý bằng những gì chính yếu hơn, đó là việc Chúa Giêsu tỏ mình ra qua cái chết của người con gái này nơi cả 2 bài Phúc Âm (cho dù là hấp hối hay vừa chết), chẳng những cho cha mẹ của em (cho dù người bố của em là trưởng hội đường hay kỳ mục) mà còn cho cả dân chúng bấy giờ nữa.
Cả việc chữa lành cho người đàn bà loạn huyết 12 năm lẫn việc cải tử hoàn sinh cho người con gái của gia chủ thân phụ xin Chúa Giêsu cứu giúp, đều được Chúa Giêsu thực hiện bằng những thứ tiếp xúc khác nhau với thân xác của Người: Trước hết, người đàn bà loạn huyết 12 năm được chữa lành nhờ "chạm đến gấu áo Người. Vì bà nghĩ thầm rằng: Nếu tôi được chạm đến áo Người thôi, thì tôi sẽ được khỏi", còn người con gái được cải tử hoàn sinh nhờ "Người vào cầm tay đứa bé".
Có nghĩa là quyền năng chữa lành bệnh nạn tật nguyền và cải từ hoàn sinh của Chúa Giêsu là những gì xuất phát từ thân xác của Người, thậm chí từ cả "gấu áo" Người mặc, hay nói cách khác, thân xác của Người và những gì liên hệ tới Người đều có thể trở thành phương tiện cứu độ con người. Sự kiện đụng chạm giữa con người với Chúa Giêsu, như trường hợp người đàn bà loạn huyết còn sống, hay sự kiện Chúa Giêsu chạm đến con người, như trường hợp bé gái đã chết, đều cho thấy một mối liên hệ thân tình giữa Vị Thiên Chúa vô cùng cao cả với con người trần gian, nơi Con của Ngài là Lời đã hóa thành nhục thể để có thể chẳng những ở với con người mà còn nên một với con người, thanh một lứa đôi như thể bất khả phân ly với con người. Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Hosêa, Thiên Chúa đã cho thấy Ngài một vị Thiên Chúa gắn bó với con người trần gian biết là chừng này:
"Này đây Ta sẽ dụ dỗ nó, đem nó vào sa mạc, và kề lòng, Ta nói khó với nó. Ở đó nó sẽ vọng lại như ngày còn thơ, và như ngày nó lên từ đất Ai-cập. Sẽ xảy ra là trong ngày ấy, sấm của Giavê, nó sẽ gọi Ta: 'Chồng tôi', chứ nó sẽ không gọi Ta là 'Ông chủ tôi' nữa. Ta sẽ đính hôn với ngươi đến muôn đời. Ta sẽ đính hôn với ngươi trong công bình và chính trực, trong tình yêu và thương xót. Ta sẽ đính hôn với ngươi trong sự trung tín và ngươi sẽ biết Ta là Chúa".
Đó là lý do, Bài Đáp Ca hôm nay mới vang lên những tâm tình ngợi khen chúc tụng lòng thương xót Chúa đối với thân phận vô cùng thấp hèn của loài tạo vật của Ngài
1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được.
2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa.
3) Người ta nói tới quyền năng trong những việc đáng sợ, và kể ra sự vĩ đại của Ngài. Người ta lớn tiếng khen ngợi lòng nhân hậu bao la, và hân hoan vì đức công minh của Chúa.
4) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.
Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 8, 4-7. 11-13
"Chúng gieo gió thì sẽ gặt bão".
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Ðây Chúa phán: "Chúng cai trị chớ không phải Ta. Chúng đã làm thủ lãnh, và Ta không nhận biết. Chúng đã lấy vàng bạc mà đúc tượng thần, để Ta tàn phá đi.
"Hỡi Samaria, hãy ném con bê của ngươi đi. Ta đã nổi giận chúng. Chúng không thể thanh tẩy mình đến bao giờ? Con bê này bởi Israel mà ra, người thợ đúc đã làm ra nó, nó đâu phải là thần. Con bê của Samaria sẽ giống như con nhện. Chúng gieo gió thì sẽ gặt bão: lúa mì của chúng chẳng đâm bông, mà nếu có bông cũng chẳng có hạt, và nếu có được hạt, thì người ngoại bang cũng sẽ nuốt hết.
"Ephraim làm thêm bàn thờ để phạm tội, những bàn thờ này đã nên dịp tội cho nó. Vì Ta viết cho nó muôn ngàn lề luật, và nó coi như không can gì đến nó. Chúng sẽ dâng của lễ, sẽ hiến tế thịt thà, chúng cứ việc ăn, Chúa không chấp nhận đâu. Chúa sẽ nhớ lại sự gian ác của chúng và sẽ phạt tội chúng: chúng sẽ hướng về Ai-cập".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 113B, 3-4. 5-6. 7-8. 9-10
Ðáp: Nhà Israel! cậy tin vào Chúa (c. 9a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Thiên Chúa chúng ta ngự trên trời, phàm điều chi Người ưng ý, Người đã thực thi. Thần tượng của họ bằng bạc với vàng, đó là sự vật do tay người tác tạo. - Ðáp.
2) Chúng có miệng mà không nói năng; chúng có mắt mà không nhìn thấy; chúng có tai mà chẳng khá nghe; chúng có mũi mà không biết ngửi. - Ðáp.
3) Chúng có tay mà không sờ mó; chúng có chân mà chẳng bước đi. Sẽ nên giống y như chúng, bao nhiêu kẻ làm ra và cậy tin vào chúng. - Ðáp.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9, 32-38
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, người ta đem đến Chúa Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám đông dân chúng kinh ngạc và nói rằng: "Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy trong dân Israel". Nhưng các người biệt phái nói rằng: "Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ".
Và Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn. Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
Ðó là lời Chúa.
sự sống thương tật
Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Thứ Ba Tuần XIV Thường Niên hôm nay bao gồm 2 sự kiện khác nhau: trước hết về việc Chúa Giêsu trừ quỉ, và sau đó về tình trạng chiên cần chủ chiên.
Về việc Chúa Giêsu trừ quỉ, Thánh ký Mathêu thuật lại ở phần trên của bài Phúc Âm hôm nay thế này: "Khi ấy, người ta đem đến Chúa Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám đông dân chúng kinh ngạc và nói rằng: 'Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy trong dân Israel'. Nhưng các người biệt phái nói rằng: 'Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ'". Ở đây hiện tượng bị câm về thể lý cho thấy cũng có thể do ma quỉ gây ra, nhất là bị câm về tinh thần, không dám nói lên sự thật và làm chứng cho chân lý, càng do ma quỉ đầy quyền lực tối tăm chết chóc là thành phần thù ghét chân lý và muốn tiêu diệt chân lý.
Về tình trạng chiên cần chủ chiên, Thánh ký Mathêu thuật lại ở phần dưới của bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn. Người liền bảo môn đệ rằng: 'Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa'". Chúa Giêsu đến để cứu nhân loại cả về phần hồn (bằng giáo huấn của Người) lẫn phần xác (bằng việc chữa lành của Người).
Ý tưởng chính yếu của bài Phúc Âm hôm nay đó là câu Thánh ký Mathêu ghi nhận về Chúa Giêsu rằng: "Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn".
Đúng thế, tất cả những gì Thiên Chúa làm cho con người đều do bởi tình thương của Ngài trước thân phận tháp hèn và khốn khổ của con người, thành phần không thể tự cứu được mình mà chỉ hoàn toàn trông chờ vào Ngài, Đấng quả thực đã sai Con của Ngài đến với loài người, cũng chỉ vì thương con người, và Con của Ngài trở thành hiện thân sống động của tình thương Ngài đối với chung nhân loại và riêng thành phần nạn nhân của "mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền" hay bị quỉ ám về thể lý, như "người câm bị quỷ ám" trong bài Phúc Âm hôm nay, nhất là thành phần đáng thương tiêu biểu của nhân loại ngay trước mắt Người bấy giờ không được ai giúp đỡ và phục vụ.
Bởi thế, trong dự án thần linh của mình, Người cần tuyển mộ thêm một số cộng sự viên đắc lực với Người trong sứ vụ cứu độ bất khả thiếu của Người. Đó là lý do Người "liền bảo với các môn đệ" là thành phần được Người gọi theo Người, chứ không bảo chung dân chúng, rằng: '"Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
"Lúa chín đầy đồng" đây nghĩa là gì, nếu không phải là thành phần dân chúng đáng thương cần được cứu vớt, họ là thành phần bình dân chất phác thường cởi mở và dễ tin tưởng vào Chúa cùng chấp nhận Lời Chúa hơn thành phần luật sĩ và biệt phái vốn hay tự phụ kiêu căng nên khó tin, khó chấp nhận những gì không hợp với họ hay họ có thành kiến, ngay cả khi họ thấy Người trừ quỉ câm trong bài Phúc Âm hôm nay mà họ vẫn cho rằng "Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ'".
Và cũng vì thế mới xẩy ra tình trạng "thợ gặt thì ít", nghĩa là những người lãnh đạo tinh thần cho dân chúng thì nhiều đấy nhưng về phẩm thì vẫn quá ít ỏi và hiếm hoi, hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả (xem Gioan 10:8 - "tất cả những kẻ đến trước Tôi đều là trộm cướp)" vừa bất xứng về tinh thần và uy tín vừa bất khả về cung cách và hiệu quả, đến không phải là để phục vụ như Người mà chỉ lo hưởng thụ ở chỗ tìm cầu những gì là danh dự và uy quyền mà thôi (xem Mathêu 20:28 và đoạn 23).
Do đó, cần phải "xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa", chứ không phải đi gieo lúa, nghĩa là sai những con người sống tinh thần của Chúa Kitô và như Chúa Kitô đến mới có thể đáp ứng nhu cầu cùng lòng mong đợi của dân chúng, nhờ đó hoàn thành dự án cứu độ thần linh vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa.
"Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn" là những gì chứng tỏ cho thấy dù con người hèn yếu nhưng vẫn thắng được cõi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, đến độ đã khiến cho Thiên Chúa phải cúi mình xuống phục vụ họ. "Đoàn lũ dân chúng... tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có ngưòi chăn" trước mắt Chúa Giêsu là Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người để tự mình chăn dắt họ, cũng như tiếp tục chăn dắt họ qua thành phần được Người tuyển chọn lãnh đạo Giáo Hội của Người.
Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Hôsêa, Thiên Chúa đã cho biết tình trạng đàn chiên dân Chúa bơ vơ như không có chủ chiên nên đã luôn xu hướng vào việc tôn thờ đủ mọi thứ ngẫu tượng do chính họ nghĩ ra hay bị ảnh hưởng của ngoại bang: "Chúng cai trị chớ không phải Ta. Chúng đã làm thủ lãnh, và Ta không nhận biết. Chúng đã lấy vàng bạc mà đúc tượng thần, để Ta tàn phá đi... Ta viết cho nó muôn ngàn lề luật, và nó coi như không can gì đến nó. Chúng sẽ dâng của lễ, sẽ hiến tế thịt thà, chúng cứ việc ăn, Chúa không chấp nhận đâu. Chúa sẽ nhớ lại sự gian ác của chúng và sẽ phạt tội chúng".
Đúng thế, Thiên Chúa đã thực sự "tàn phá đi" các thứ ngẫu tượng của dân Ngài, chẳng những bằng cách "phạt tội chúng", nhờ đó chúng biết mình mà trở về cùng Ngài là Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, mà còn bằng cách tỏ hết mình ra nơi Lời Nhập Thể là Đức Giêsu Kitô Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng họ. Và Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất này của họ đã được Thánh Vịnh gia chân nhận là sống động và toàn năng, chứ Ngài không phải là hay giống như các thứ thần tượng được dân tạo nên bằng chính những gì quí báu nhất của họ (vàng bạc ám chỉ lòng đạo đức ảo tưởng), thứ ngẫu tượng được Bài Đáp Ca diễn tả như sau:
1) Thiên Chúa chúng ta ngự trên trời, phàm điều chi Người ưng ý, Người đã thực thi. Thần tượng của họ bằng bạc với vàng, đó là sự vật do tay người tác tạo.
2) Chúng có miệng mà không nói năng; chúng có mắt mà không nhìn thấy; chúng có tai mà chẳng khá nghe; chúng có mũi mà không biết ngửi.
3) Chúng có tay mà không sờ mó; chúng có chân mà chẳng bước đi. Sẽ nên giống y như chúng, bao nhiêu kẻ làm ra và cậy tin vào chúng.
Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 10, 1-3. 7-8. 12
"Ðây là lúc phải tìm kiếm Chúa".
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Israel là cây nho xanh tốt, hoa trái xứng hợp với nó. Ðất càng màu mỡ, thì càng thêm các tượng thần. Lòng dạ chúng phân đôi, giờ đây chúng sẽ đền tội. Chúa sẽ đánh vỡ các tượng thần và phá tan các bàn thờ của chúng. Bấy giờ chúng sẽ nói: "Chúng ta không có vua, vì chúng ta không kính sợ Chúa: và nhà vua sẽ làm gì cho chúng ta?"
Samaria đã làm cho vua mình qua đi như bọt nước. Những nơi cao dựng tượng thần sẽ bị phá huỷ: Ðó là tội lỗi của Israel! Cây ké và gai góc sẽ mọc trên bàn thờ chúng. Chúng sẽ nói với núi non rằng: Hãy che lấp chúng ta đi. Chúng sẽ nói với đồi rằng: Hãy đổ xuống trên chúng ta cho rồi! Các ngươi hãy gieo rắc sự công chính và sẽ gặt mùa nhân từ. Các ngươi hãy khai khẩn những khu đất mới: Ðây là lúc phải tìm kiếm Chúa, khi Người đến, Người sẽ dạy dỗ sự công chính cho các ngươi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 104, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn (c. 4b).
Xướng: 1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người; tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa; hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ, và những điều miệng Ngài phán quyết.- Ðáp.
3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người; hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 1-7
"Các con hãy đến cùng chiên lạc nhà Israel".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền.
Ðây là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, Philipphê và Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, Simon nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.
Chúa Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: "Các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. Tốt hơn, các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Các con hãy đi rao giảng rằng: 'Nước Trời đã gần đến'".
Ðó là lời Chúa.
sự sống lạc loài
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XIV Thường Niên, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, ở chỗ, trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu thấy dân chúng bơ vơ như chiên không chủ chăn, và ngỏ ý muốn có thêm cộng sự viên trong công cuộc cứu độ với Người kêu gọi, bằng cách kêu gọi các môn đệ hãy xin thêm thợ gặt đến làm mùa, thì trong bài Phúc Âm hôm nay "Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền".
Thành phần được Chúa Giêsu ưu tuyển này là những ai, được Thánh ký Mathêu cho biết như sau: "Đây là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, Philipphê và Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, Simon nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người".
Và sứ vụ của 12 môn đệ được gọi là tông đồ này như thế nào, cũng được Thánh ký Mathêu cho biết như thế này: "Chúa Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: 'Các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. Tốt hơn, các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Các con hãy đi rao giảng rằng: 'Nước Trời đã gần đến'".
Ở đây có 2 vấn đề được đặt ra: thứ nhất là danh xưng môn đệ và tông đồ có khác nhau không, nếu có thì như thế nào? Và thứ hai là địa bàn hoạt động của các tông đồ tại sao chỉ giới hạn vào "các chiên lạc nhà Israel" mà thôi?
Trước hết về danh xưng "môn đệ" (disciple) và "tông đồ" (apostle), căn cứ vào Phúc Âm, chúng ta nên hiểu như thế này:
1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người; tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui.
2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa; hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ, và những điều miệng Ngài phán quyết.
3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người; hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu.
Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 11, 1b, 3-4, 8c-9
"Quả tim Ta thổn thức trong Ta và ruột gan Ta bồi hồi".
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Ðây Thiên Chúa phán: "Lúc Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương nó, và Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.
"Ta đã dưỡng nuôi Ephraim, Ta đã bồng chúng trên cánh tay Ta mà chúng không biết Ta chăm sóc chúng. Ta đã dùng dây êm ái và mối yêu thương mà tập (cho) chúng đi; Ta đối xử với chúng như người dưỡng nuôi trẻ thơ, Ta đã ấp yêu chúng vào má. Ta nghiêng mình trên chúng và đút cho chúng ăn.
Quả tim Ta thổn thức trong Ta và ruột gan Ta bồi hồi. Ta sẽ không buông thả theo cơn giận của Ta. Ta sẽ không huỷ diệt Ephraim, vì Ta là Thiên Chúa chứ không phải người phàm; Ta là Ðấng Thánh ở giữa ngươi, Ta không thích tiêu diệt".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 79, 2ac và 3b. 15-16
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống (c. 4b).
Xướng: 1) Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các vệ binh thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin tỉnh thức quyền năng của Chúa. - Ðáp.
2) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại; tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy; bảo vệ ngành nho mà tay Ngài đã củng cố cho mình. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 7-15
"Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy đi rao giảng rằng "Nước Trời đã gần đến". Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Các con chớ mang vàng bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc, vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
"Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: "Bình an cho nhà này". Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy. Nhưng nếu ai không tiếp rước các con và không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi nhà hay thành ấy và giũ bụi chân các con lại. Thật, Thầy bảo các con: Trong ngày phán xét, đất Sôđôma và Gômôra sẽ được xét xử khoan dung hơn thành ấy".
Ðó là lời Chúa.
"Lúc Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương nó, và Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập. Ta đã dưỡng nuôi Ephraim, Ta đã bồng chúng trên cánh tay Ta mà chúng không biết Ta chăm sóc chúng. Ta đã dùng dây êm ái và mối yêu thương mà tập (cho) chúng đi; Ta đối xử với chúng như người dưỡng nuôi trẻ thơ, Ta đã ấp yêu chúng vào má. Ta nghiêng mình trên chúng và đút cho chúng ăn. Quả tim Ta thổn thức trong Ta và ruột gan Ta bồi hồi. Ta sẽ không buông thả theo cơn giận của Ta. Ta sẽ không huỷ diệt Ephraim, vì Ta là Thiên Chúa chứ không phải người phàm; Ta là Ðấng Thánh ở giữa ngươi, Ta không thích tiêu diệt".
Chính vị cảm nhận được tình yêu tuyệt vời của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình mà Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay đã cảm nhận nguyện xin, chẳng những ở câu họa: "Lạy Chúa, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống", mà còn ở cả 2 câu xướng nữa:
1) Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các vệ binh thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin tỉnh thức quyền năng của Chúa.
2) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại; tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy; bảo vệ ngành nho mà tay Ngài đã củng cố cho mình.
Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 14, 2-10
"Chúng tôi sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra".
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Ðây Chúa phán: "Hỡi Israel, hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa ngươi, vì ngươi đã gục ngã trong đường tội ác. Các ngươi hãy mang lời Chúa và trở về với Chúa; các ngươi hãy thưa rằng: 'Xin hãy xoá bỏ mọi tội ác, và nhận điều lành. Chúng tôi dâng lên Chúa của lễ ca tụng. Assurô sẽ không giải thoát chúng tôi; chúng tôi sẽ không cỡi ngựa và sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra, vì nơi Chúa, kẻ mồ côi tìm được sự thương xót'.
"Ta sẽ chữa sự bất trung của họ và hết lòng yêu thương họ, vì Ta đã nguôi giận họ. Ta sẽ như sương sa, Israel sẽ mọc lên như bông huệ, và đâm rễ như chân núi Liban. Các nhánh của nó sẽ sum sê, vẻ xinh tươi của nó như cây ôliu và hương thơm của nó như hương thơm núi Liban. Thiên hạ sẽ đến ngồi núp dưới bóng mát của nó, họ sống bằng lúa mì và lớn lên như cây nho. Nó sẽ được lừng danh như rượu Liban.
"Hỡi Ephraim, tượng thần giúp ích gì cho ngươi không? Chính Ta sẽ nhậm lời và săn sóc ngươi, cho ngươi mọc lên như cây hương nam xinh tươi. Nhờ Ta, ngươi sẽ sinh hoa kết quả. Ai là người khôn ngoan hiểu được các việc này, ai là người sáng suốt biết được các việc đó? Vì chưng đường lối của Chúa là đường ngay thẳng và những người công chính sẽ đi trên đó, còn các người gian ác sẽ gục ngã trên đó".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 8-9. 12-13. 14 và 17
Ðáp: Miệng con sẽ loan truyền lời ca khen Chúa (c. 17b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi; xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.
2) Nhưng Chúa ưa sự thật trong tâm khảm, và trong đáy lòng, Chúa dạy con điều khôn. Xin dùng cành hương thảo rảy con thanh khiết; xin tẩy rửa cho con được hơn tuyết trắng tinh. - Ðáp.
3) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.
4) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. - Ðáp.
Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy vào Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 16-23
"Không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.
"Anh sẽ đem nộp giết em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại với cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến".
Ðó là lời Chúa.
sự sống trốn chạy
Tiếp tục bài huấn dụ sai đi của mình với các tông đồ, nếu trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu nói đến mặt phải của sứ vụ thừa sai tông đồ, thì trong bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XIV Thường Niên tuần này, Chúa Giêsu nói đến mặt trái của sứ vụ ấy, liên quan đến số phận gian nan khốn khổ bất khả phân ly với sứ vụ chứng nhân của các vị.
"Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết".
Nếu "rắn" tiêu biểu cho ma quỉ tinh quái cám dỗ, như trong vườn địa đường, và nếu "bồ câu" tiêu biểu cho Thánh Linh, như trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa ở Sông Dược Đăng, thì "khôn như rắn" đây có nghĩa là hãy tỉnh thức đề phòng các mưu chước quỉ quyệt của ma quỉ, và "chân thật như bồ câu" đây nghĩa là hãy đơn sơ dễ dậy với Thánh Linh, vì không theo tác động của Thánh Linh, con người không thể nào chiến thắng ma quỉ tinh khôn hơn con người rất nhiều.
Nguyên tắc "khôn như rắn, chân thật như bồ câu" này có thể được áp dụng ngay trong Bài Phúc Âm hôm nay, ở 2 điều: 1- "khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì"; 2- "Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác".
Thế nhưng, Chúa Giêsu đồng thời cũng trấn an các vị với 3 điều để các vị có thể tin tưởng chống đỡ, khôn ngoan tồn tại cho đến khi hoàn thành sứ vụ của các vị như sau:
"Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.... Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến".
Điều thứ nhất trong 3 điều này đó là tin tưởng chống đỡ: "khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con". Đúng thế, vì là việc của Thiên Chúa, Ngài sẽ lo việc của Ngài và bảo vệ thành phần thừa sai của Ngài, nhất là trong những lúc chúng từ của họ lên đến mức tột đỉnh và hùng hồn nhất.
Ở đây Chúa Kitô khuyên các tông đồ hãy lợi dụng chính lúc gian nan khốn khó nhất của mình để làm chứng về Người, để cho thấy rằng "bóng tối không thể át được ánh sáng" (Gioan 1:5), vì quyền lực trần gian chính là đối tượng, như một Philatô, cần phải được sự thật giải phóng trước hết và trên hết (xem Gioan 8:32). Và số phận chứng nhân tông đồ của các ngài không thể tách lìa với bách hại vì danh Người, như chính Người cũng đã bị như thế, và càng như thế lại càng nên giống Người, và càng cho thấy họ là chứng nhân đích thực của người.
Điều thứ hai trong ba điều đó là khôn ngoan tồn tại: "Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác". Ở đây Chúa Giêsu cho phép các tông đồ được trốn tránh những bách hại xẩy ra, không phải vì sợ chết cho bằng vì lợi ích cho chung đoàn chiên, không phải vì liều lĩnh cho bằng quí trọng mạng sống. Chính Chúa Giêsu mấy lần cũng tự thoát khỏi tay những kẻ tìm bắt Người khi chưa tới giờ của Người (xem Luca 4:30; Gioan 8:59).
Điều thứ ba trong ba điều đó là hoàn thành sứ vụ: "Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến". Câu này có thể Chúa Giêsu ám chỉ đến Cuộc Vượt Qua của Người hơn là đến việc Người tái giáng lần thứ hai. Nghĩa là các tông đồ chưa rao giảng xong cho thành phần "chiên lạc của Nhà Israel" thì đã đến thời điểm các vị cần phải theo Người lên Giêrusalem, nơi Người 3 lần đã tiên báo cho các vị về số phận kết thúc của Người ở đó. Câu này cũng có thể ám chỉ cho dù Chúa Kitô đã hoàn tất vai trò Thiên Sai Cứu Thế của mình để cứu cả nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết mà riêng dân Do Thái của Người vẫn chưa tin vào Người... "cho tới khi đủ số dân ngoại" (Roma 11:25-26).
Đúng thế, việc các vị môn đệ thừa sai tông đồ được Chúa Kitô sai đi rao giảng cho "chiên lạc nhà Israel" chỉ là việc dọn đường cho Người mà thôi, chứ không phải là chính việc cứu độ con người. Bởi thế, cho dù các vị có hoàn thành sứ vụ của mình trên khắp đất nước Do Thái chăng nữa, thì vẫn phải tiến đến tột đỉnh của mạc khải thần linh là cuộc Vượt Qua cứu độ của Chúa Kitô, một cuộc Vượt Qua cứu độ chẳng những cho riêng dân Do Thái là thành phần "chiên lạc Nhà Israel" mà còn chung cho cả nhân loại (bao gồm tất cả dân ngoại không phải dân Do Thái nữa), nhưng qua môi giới dân Do Thái, một sự thật đã được chính Thiên Chúa tiên báo trong lời hứa với tổ phụ Abraham (xem Khởi Nguyên 22:18), cũng như qua miệng Tiên Tri Hôsêa trong Bài Đọc I hôm nay:
"Ta sẽ chữa sự bất trung của họ và hết lòng yêu thương họ, vì Ta đã nguôi giận họ. Ta sẽ như sương sa, Israel sẽ mọc lên như bông huệ, và đâm rễ như chân núi Liban. Các nhánh của nó sẽ sum sê, vẻ xinh tươi của nó như cây ôliu và hương thơm của nó như hương thơm núi Liban. Thiên hạ sẽ đến ngồi núp dưới bóng mát của nó, họ sống bằng lúa mì và lớn lên như cây nho. Nó sẽ được lừng danh như rượu Liban".
Chính dân Do Thái của Thiên Chúa, dù được đặc tuyển duy nhất giữa muôn dân, mà nhất là dù được trở thành môi giới hay môi trường cho ơn cứu độ của Thiên Chúa thông ban cho chung loài người, chính họ cũng cần phải nhận biết Thiên Chúa mới được rỗi, chứ không phải đã là người Do Thái, người thuộc về thành phần dân được đặc tuyển của Thiên Chúa là tự nhiên được cứu độ, nếu không tỏ ra xứng đáng với lòng thương xót vô cùng bất tận của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất hằng tỏ mình ra trong giòng lịch sử cứu độ của họ, thành phần cũng liên lỉ bất trung với Ngài, nhưng cũng biết ăn năn sám hối về lỗi lầm của mình và van xin cùng Ngài, như tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi; xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.
2) Nhưng Chúa ưa sự thật trong tâm khảm, và trong đáy lòng, Chúa dạy con điều khôn. Xin dùng cành hương thảo rảy con thanh khiết; xin tẩy rửa cho con được hơn tuyết trắng tinh.
3) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
4) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen.
Bài Ðọc I: (Năm II) Is 6, 1-8
"Lưỡi tôi nhơ bẩn, mắt tôi trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Năm vua Ozias băng hà, tôi nhìn thấy Thiên Chúa ngự trên ngai cao, và đuôi áo của Người phủ đền thờ. Các Thần Sốt Mến đứng trước mặt Người, mỗi vị có sáu cánh: hai cánh che mặt, hai cánh phủ chân và hai cánh để bay. Các vị đó luân phiên tung hô rằng: "Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy vinh quang Chúa!" Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và Ðền thờ đầy khói.
Tôi nói rằng: "Vô phúc cho tôi, tôi chết mất! Vì lưỡi tôi nhơ bẩn, mắt tôi trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh". Nhưng lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến bay đến tôi, tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp gắp từ trên bàn thờ. Ngài đặt than lửa vào miệng tôi và nói: "Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi ngươi được xoá bỏ, tội của ngươi được tha thứ". Và tôi nghe tiếng Chúa phán bảo: "Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho Chúng Ta?" Tôi liền thưa: "Này con đây, xin hãy sai con".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 92, 1ab. 1c-2. 5
Ðáp: Chúa làm Vua, Ngài đã mặc thiên oai (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa làm Vua, Ngài đã mặc thiên oai, Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. - Ðáp.
2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở; tự đời đời vẫn có Chúa. - Ðáp.
3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin; lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn đời. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 24-33
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
"Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời".
Ðó là lời Chúa.
1) Chúa làm Vua, Ngài đã mặc thiên oai, Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai.
2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở; tự đời đời vẫn có Chúa.
3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin; lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn đời.