Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XVII
Thường Niên A - Lẻ
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 1 V
3, 5. 7-12
"Xin ban cho tôi tớ Chúa tâm
hồn khôn ngoan".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, tại Gabaon,
ban đêm, Chúa hiện ra cùng Salomon trong giấc mộng và phán rằng: "Ngươi
muốn gì thì hãy xin, Ta sẽ ban cho ngươi". Salomon thưa: "Lạy Chúa là
Thiên Chúa, Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Ðavít thân phụ con.
Nhưng con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa
đang sống giữa dân Chúa chọn, một dân đông đảo không thể đếm và ước
lượng được. Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán
xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân
của Chúa đông đảo thế này?"
Ðiều Salomon kêu xin như trên đã
đẹp lòng Chúa, nên Chúa phán cùng Salomon rằng: "Vì ngươi đã xin điều
đó, mà không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù,
lại xin cho được khôn ngoan để biết xét đoán, thì đây Ta ban cho ngươi
điều ngươi xin, và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi
trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không có ai bằng
ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118,
57 và 72. 76-77. 127-128. 129-130
Ðáp: Lạy Chúa,
con yêu chuộng luật pháp của Chúa biết bao! (c. 97a)
Xướng: 1) Lạy Chúa, con xưng thực
kỷ phần của con là tuân giữ những lời ban dạy của Ngài. Ðối với con,
luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. -
Ðáp.
2) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu uỷ
lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. Nguyện Chúa xót thương
cho con được sống, vì luật pháp Ngài là sự sung sướng của con. - Ðáp.
3) Bởi thế nên con yêu quý chỉ thị
Ngài hơn vàng, và hơn cả vàng ròng tinh khiết. Bởi thế nên con tự chọn
tất cả huấn lệnh của Ngài; hết thảy đường lối gian tà con đều ghét bỏ. -
Ðáp.
4) Kỳ diệu thay những lời Ngài
nghiêm huấn, bởi thế linh hồn con vẫn tuân theo. Sự mạc khải lời Ngài
soi sáng và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm
8, 28-30
"Người đã tiền định cho chúng
ta trở nên giống hình ảnh Con Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, chúng ta biết
rằng những kẻ yêu mến Thiên Chúa thì Người giúp họ được sự lành, họ là
những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh. Vì chưng,
những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên giống
hình ảnh Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc.
Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã
kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm
cho nên công chính?, thì Người cũng cho họ được vinh quang.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: 1 Pr
1, 25
Alleluia, alleluia! - Lời Chúa tồn
tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13,
44-46 {hoặc 44-52}
"Anh bán tất cả những gì anh có
mà mua thửa ruộng đó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân
chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người
kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì
anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi
tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua
viên ngọc ấy.
{"Nước
trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy,
người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ,
còn cá xấu thì ném ra ngoài. Trong ngày tận thế cũng vậy: các thiên thần
sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò
lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều
đó không?" Họ thưa rằng: "Có".
Người liền bảo họ: "Bởi thế, những
thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay
lợi dụng những cái mới, cũ trong kho mình".}
Ðó là lời Chúa.
Suy
nghiệm
Lời Chúa
Kho tàng khôn ngoan nơi những kẻ yêu mến Thiên Chúa
Tiếp theo hai Chúa Nhật trước về dụ ngôn Nước Trời, Chúa Nhật XVII
Năm A tuần này Giáo Hội chọn đọc dụ ngôn khác về Nước Trời. Nếu hai
dụ ngôn chính về Nước Trời của hai Chúa Nhật trước liên quan đến "người
gieo giống ra đi gieo giống" (Chúa Nhật XV) và "người kia
gieo giống tốt trong ruộng của mình" (Chúa Nhật XVI), thì dụ
ngôn về Nước Trời của Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm A tuần này, bao
gồm 2 dụ ngôn liền, (còn dụ ngôn sau đó về
"lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ
cá" không buộc đọc),
và hai dụ ngôn ngắn gọn về Nước Trời của Chúa Nhật tuần này bất khả
phân ly: dụ
ngôn đầu
liên quan đến một
"kho
tàng chôn giấu trong ruộng" và dụ ngôn sau liên quan đến một
"người
buôn nọ đi tìm ngọc quý".
Hai dụ ngôn về Nước Trời này thật sự có
một liên hệ mật thiết bất khả phân ly với nhau như nội tâm với hoạt
động vậy. Dụ ngôn
"kho tàng chôn giấu trong ruộng" có tính cách nội tâm và dụ
ngôn "người buôn nọ đi tìm ngọc quý" có chiều kích hoạt
động. Nội tâm bao giờ cũng phải có trước, như nguồn mạch cho mọi
hoạt động bề ngoài của con người Kitô hữu, và hoạt động phải theo
nội tâm, phản ảnh nội tâm của họ. Thế nhưng, thực ra "kho tàng
chôn giấu trong ruộng" đây là gì và "người buôn nọ đi tìm
ngọc quí" đây là ai? Chúa Giêsu không hề giải thích hai dụ ngôn
này như Người đã giải thích về hai dụ ngôn "người gieo giống" trước
đó. Tuy nhiên, căn cứ vào chung Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta
có thể thấy được ngay ý nghĩa của chúng.
Trước hết, "kho tàng chôn giấu trong ruộng" đây, theo Sách
Các Vua Quyển Thứ 1 ở Bài Đọc 1 hôm nay, đó là một "tâm hồn khôn
ngoan" mà Vua Salomon xin cùng Chúa: "Lạy Chúa là Thiên
Chúa, Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Ðavít thân phụ con. Nhưng
con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa
đang sống giữa dân Chúa chọn, một dân đông đảo không thể đếm và ước
lượng được. Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để
đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân
này, một dân của Chúa đông đảo thế này?"
Thật vậy, nếu "kho tàng chôn giấu trong ruộng" là
"tâm hồn khôn ngoan" mà Vua Salomon là "người kia
tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì
anh có mà mua thửa ruộng ấy" là "dân Chúa chọn, một dân
đông đảo không thể đếm và ước lượng được", ở chỗ, vua đã
"không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù",
nhờ đó vua đã chiếm được thửa ruộng ấy: "Đây Ta ban cho
ngươi điều ngươi xin, và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn,
đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không có
ai bằng ngươi".
Sau nữa, "người buôn nọ đi tìm ngọc quý" đây, theo Thư
Thánh Phaolô gửi Giáo đoàn Rôma ở Bài Đọc 2 hôm nay, đó là
"những kẻ yêu mến Thiên Chúa", và "viên ngọc quí" đây
là gì nếu không phải, cũng căn cứ vào lời Thánh Phaolô trong Bài Đọc
2 hôm nay, đó là "hình ảnh Con Người", một
"viên ngọc quí" trên hết mọi sự, đến độ họ phải đánh đổi tất cả
những gì họ có, như lời Chúa Giêsu trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm cho
biết, "anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy".
Đúng thế, để "nên giống hình ảnh Con Người", nghĩa là
để "mặc lấy con người mới" (Epheso 4:24) cũng chính là "mặc
lấy Chúa Giêsu Kitô" (Roma 13:14), Kitô hữu nói chung
và thành phần được Thánh Phaolô đề cập đến trong Bài Đọc 2 là
"những kẻ Chúa đã biết trước", cần phải "cởi bỏ con người
cũ" (Epheso 4:22) thật bất xứng và đầy tương phản
của mình, hay nói đúng hơn, là để cho
"con người mới" là "Chúa Giêsu Kitô" sống trong họ,
làm chủ họ, "để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc",
theo đúng ý định tối hậu của Thiên Chúa, Đấng mà, như Thánh Phaolô
xác tín và tuyên xưng trong Bài Đọc 2 hôm nay: "Những ai Người
đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì
Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên
công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang".
Áp dụng hai dụ ngôn này vào cơ cấu siêu nhiên và tu đức Kitô
giáo thì "kho tàng chôn giấu trong ruộng" đây còn được hiểu
là Thánh Sủng, là "quyền được làm con Thiên Chúa" (Gioan
1:12), một Thánh Sủng hay quyền làm con Thiên Chúa được chôn giấu
trong thửa ruộng Giáo Hội là những gì cần phải phải được trao đổi
bằng niềm tin tưởng (vượt trên mọi khuynh hướng và đòi hỏi của bản
tính tự nhiên) chấp nhận vào Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai. "Viên
ngọc quí" đây là đức ái trọn hảo đối với tha nhân, một đức ái
trọn hảo chỉ có thể trở thành hiện thực bằng đời sống hy sinh bỏ
mình và chịu đựng cùng tha thứ cho tha nhân.
Trong cả hai dụ ngôn đều qui tụ lại một chỗ là việc trao đổi hay
đánh đổi, chứ không phải tự nhiên mà có được, bởi vì đó là kho tàng
và ngọc quí chứ không phải thứ đồ bỏ, đồ bị sa thải, đồ bị hư hại
cần mang for sale rẻ tiền. Chính vì thế kinh nghiệm sống đạo mới cho thấy việc "cởi bỏ con
người cũ" để "mặc lấy con người mới" là "Chúa
Giêsu Kitô" là một tiến trình khó khăn chứ không dễ
dàng. Khó khăn ở chỗ làm sao tự mình có thể biến đổi những gì là tầm
thường hèn yếu thành cao quí thu hút, những gì là nhạt nhẽo như nước
lã trở thành say đắm như rượu ngon (xem Gioan 2:7-10)?
Nếu thành
phần phục vụ tiệc cưới ở Cana là yếu tố then chốt trong sự lạ nước
lã hóa thành rượu ngon ở chỗ họ ngoan ngoãn và mau mắn đáp ứng "những
gì Người bảo" (Gioan 2:5,7) thế nào, thì những ai muốn được
biến đổi cũng cần phải có một "tâm hồn khôn ngoan" như vậy,
ở chỗ hoàn toàn tin tưởng phó thác vào tác động thần linh vô cùng
mãnh lực và hiệu nghiệm của duy một mình Thiên Chúa, qua việc tuân
thủ tất cả "những gì Người bảo" theo tinh thần của Thánh
Vịnh 18 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Lạy Chúa, con xưng thực kỷ phần của con là tuân giữ những lời
ban dạy của Ngài. Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng
hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn.
2) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu uỷ lạo con, theo như lời đã hứa
cùng tôi tớ Chúa. Nguyện Chúa xót thương cho con được sống, vì luật
pháp Ngài là sự sung sướng của con.
3) Bởi thế nên con yêu quý chỉ thị Ngài hơn vàng, và hơn cả vàng
ròng tinh khiết. Bởi thế nên con tự chọn tất cả huấn lệnh của Ngài;
hết thảy đường lối gian tà con đều ghét bỏ.
4) Kỳ diệu thay những lời Ngài nghiêm huấn, bởi thế linh hồn con
vẫn tuân theo. Sự mạc khải lời Ngài soi sáng và dạy bảo những người
chưa kinh nghiệm.
Vâng: "Alleluia, alleluia! - Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó
là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. - Alleluia".
Ngày 30: Thánh Phêrô Chrysôlôgô, Giám Mục
Tiến Sĩ Hội Thánh
Thứ Hai
sự sống nhỏ mọn nhưng mãnh liệt
Bài Đọc I: (Năm I) Xh 32, 15-24. 30-34
Đáp Ca: Tv 105, 19-20. 21-22. 23
Phúc Âm: Mt 13, 31-35
Bài Phúc Âm của
Thánh ký Mathêu hôm nay, Thứ Hai Tuần XVII Thường Niên tiếp tục loạt bài
Phúc Âm về các dụ ngôn Nước Trời của Chúa Giêsu ở đoạn 13.
Dụ ngôn đầu tiên
(trong
bài
Phúc Âm Thứ
Tư tuần trước) trong loạt dụ ngôn này là dụ ngôn người gieo giống ra đi
gieo giống liên quan đến 4 loại môi trướng tiếp nhận hạt giống, và dụ
ngôn thứ hai (trong
bài
Phúc Âm Thứ
Bảy tuần trước) cũng về người gieo giống nhưng là giống tốt trong ruộng
của mình liên quan đến cỏ lùng. Dụ ngôn hôm nay, dụ ngôn thứ ba cũng
liên quan đến hạt giống, nhưng là loại hạt cải, được Chúa Giêsu sử
dụng để ám chỉ về Nước Trời như
sau:
"Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt ấy
bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau
cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".
Ngoài
ra, song song với dụ ngôn này, như là một cặp dụ ngôn bất
khả phân ly về
Nước Trời, một dụ ngôn được Chúa Giêsu đề cập đến ngay sau đó, đó là dụ
ngôn: "Nước
trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến
khi bột dậy men".
Cặp dụ
ngôn hôm nay đây và
cặp
dụ ngôn vào Thứ Tư tuần này về Nước Trời không được Chúa Giêsu giải
thích ý nghĩa ám chỉ của những gì trong dụ ngôn, như Người đã dẫn giải dụ
ngôn thứ 1 (trong bài
Phúc Âm Thứ
Sáu tuần trước) và như
Người đã dẫn giải dụ
ngôn thứ 2 (trong bài
Phúc Âm ngày
mai).
Thế
nhưng, không phải vì thế mà 2 cặp dụ ngôn này tự chúng là những gì dễ
hiểu, trái lại, như các dụ ngôn được Người dẫn giải, chúng vẫn là
những điều bí ẩn, sâu nhiệm, như
câu kết của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy về chung các dụ ngôn:
"Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người
không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên
tri đã chép rằng: 'Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những
điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian'".
Dầu
sao tính tò mò của con người vẫn muốn biết được ý nghĩa ám chỉ của các
cặp dụ ngôn về Nước Trời không được Chúa Giêsu giải thích ấy, không phải
chỉ thỏa tính tò mò mà nhất là để nắm bắt được thực tại của Nước Trời
hầu có thể hưởng ứng
và đáp ứng
một
cách xứng đáng.
Trước
hết, "Nước
trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình" - Phải
chăng "hạt cải" ở đây Chúa Giêsu ám chỉ đến mầu nhiệm nhập
thể của Người: "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta"
(Gioan 1:14)? "Hạt
ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống" - Phải
chăng, Chúa
Giêsu muốn ám chỉ đến mầu nhiệm khổ giá, ở chỗ Người chẳng những đã
"tự hạ ra như không" (Philiphê 2:6) mà còn "vâng lời
cho đến chết và chết trên thập giá" (xem Philiphê 2:8)? "Nhưng
khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim
trời đến nương náu nơi ngành nó"
- Phải
chăng Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến mầu nhiệm phục sinh và thăng
thiên của Người, ở chỗ "Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho
Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..."(Philiphê 2:9).
Sau nữa, "Nước
trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột,
cho đến khi bột dậy men". Phải
chăng "nắm
men" Chúa
Giêsu muốn ám
chỉ đến sự sống thần linh nói chung và mầu nhiệm Thánh Thể cùng
với các bí tích chất chứa sự sống nói riêng? Phải chăng "người đàn
bà" trong dụ ngôn Người
muốn ám
chỉ đến
Giáo Hội đóng vai trò làm mẹ có nhiệm vụ ban phát sự sống thần linh
này bằng việc ban các bí tích nhất là việc cử hành Thánh Thể? Phải
chăng "ba đấu bột" cần phải "dậy men" ở đây, tức cần
phải "được sống và sống dồi dào hơn" (Gioan 10:10), Chúa
Giêsu muốn ám chỉ đến đấu
bột thứ nhất là từng
Kitô
hữu,
chi thể
của Chúa Kitô, đấu
bột thứ
hai là chung Giáo
Hội, Nhiệm
Thể Chúa Kitô, và đấu
bột thứ
ba là toàn thể xã
hội loài người?
Nếu
Moisen là nhận vật được Thiên Chúa tuyển chọn để giải phóng dân của
Ngài khỏi làm nô lệ ở Ai Cập, nhờ đó Moisen là hình bóng báo trước
một Đấng Thiên Sai sẽ đến để giải phóng nhân loại nói chung,
trong đó có cả dân Do Thái, khỏi tội lỗi và sự chết, thì trong
Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay cho thấy Moisen
có
thể được coi là một "hạt cảI" trong thửa ruộng
cộng đồng dân Do Thái, một con người chẳng là gì trước nhan Thiên
Chúa, nhưng lại vươn lên thành cây vĩ đại cho chim trời làm tổ, ở
chỗ đã trở
thành một con người có thế lực trước Thiên Chúa, với vai trò đại
diện cho dân tộc của mình mà chuyển
cầu để họ khỏi
bị Ngài tiêu diệt bởi tội thờ bỏ vàng của họ:
"Hôm sau Moisen nói
với dân: 'Các ngươi đã phạm một tội rất lớn, nhưng bây giờ ta sắp
lên với Giavê: có lẽ ta sẽ xin được Người xá tội cho các ngươi!' Moisen trở
lại với Giavê và nói: 'Phải! dân này đã phạm một tội rất lớn, chúng
đã làm cho mình những thần bằng vàng! Nhưng bây giờ, ước gì Người
miễn chấp tội chúng. Bằng không, xin Người hãy xoá con đi khỏi sách
Người đã viết'. Giavê
phán với Moisen:
'Ai phạm tội chống lại Ta, Ta sẽ xoá nó khỏi sách của Ta! Còn bây
giờ, ngươi hãy đi, hãy dẫn dân đến nơi Ta đã phán với ngươi! Này
thần sứ của Ta sẽ đi trước ngươi, và đến ngày truy phạt của Ta, Ta
sẽ trừng phạt chúng vì tội của chúng'".
Bài Đáp
Ca hôm nay tóm tắt ý nghĩa của Bài Đọc 1 về tinh thần bất trung và
thái độ thiên về ngẫu tượng tà thần của họ cho dù họ đã được liên
tục chứng
kiến thấy các điềm
thiêng dấu lạ Ngài tỏ ra cho họ, nhưng nhờ có Moisen mà họ đã được
Ngài thương tha:
1) Dân chúng đúc hình bò con tại Horéb, và lễ bái thần tượng đã đúc
bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò
ăn cỏ.
2) Họ đã quên Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình, Đấng đã làm những điều
trọng đại bên Ai-cập, Đấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ
họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Đỏ.
3) Chúa đã nghĩ tới tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là người
Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận và
đừng tiêu diệt họ.
Thứ Ba
Cánh chung: Từ thời điểm viên trọn tới thời điểm chung cuộc
Bài Đọc I: (Năm I) Xh 33, 7-11; 34, 5b-9. 28
Đáp Ca: Tv 102, 6-7. 8-9. 10-11. 12-13
Phúc Âm: Mt 13, 36-43
Bài
Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XVII Thường Niên hôm nay chất
chứa những lời Chúa Giêsu dẫn giải về dụ ngôn người gieo giống tốt trong
thửa ruộng của mình trong
bài Phúc Âm hôm Thứ Bảy tuần trước, để đáp
lại lời yêu cầu của các môn đệ: "Khi
ấy, sau khi giải tán dân chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn đệ đến
gặp Người và thưa rằng: 'Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng
cho chúng con nghe'".
Theo thứ
tự các hình ảnh trong dụ ngôn, Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của từng
hình ảnh hay sự việc được Người ám chỉ trong dụ ngôn này như sau:
"Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt
là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là
ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như
người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận
thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất
cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả
chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ
sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình".
Ở đây chúng ta thấy
những điều cần chú ý sau đây:
1- Nếu "Kẻ
gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con
cái Nước Trời" thì
có nghĩa là Chúa Kitô Thiên Sai đã cứu độ thế gian hay cứu độ loài
người khỏi tội lỗi và sự chết bằng cuộc Vượt Qua của Người, nhờ đó
Người đã ban cho họ sự sống thần linh, như
thể Người đã gieo giống tốt trong thửa ruộng thế gian của Người, nơi
Người đã hóa thân làm người để nhờ Người mà thế gian được cứu độ (xem
Gioan 3:16-17).
2- Nếu "Cỏ
lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ" thì
có nghĩa là Satan và bọn ngụy thần của hắn nhất định tàn phá công
nghiệp của Chúa Kitô nơi các tâm hồn nói riêng và Giáo Hội nói chung.
Bởi thế, chúng ta không lạ gì Giáo Hội của Chúa Kitô liên lỉ trở thành
mục tiêu tấn công của thần dữ suốt giòng lịch sử của Giáo Hội, và thành
phần Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội luôn bị bách hại và sát hại, càng
ngày càng dữ dội hơn.
3- Nếu "Mùa
gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần" thì
có nghĩa là tất cả sẽ có cùng, và mọi sự sẽ được giải quyết công
minh đúng như dự án thần linh của Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng Thần
Linh làm chủ lịch sử loài người, cho dù trong thời gian hiện tại thành
phần kẻ lành lúa
tốt chỉ
là một thiểu số và bao giờ cũng chịu
thua thiệt tất cả mọi sự trước áp lực hung hăng tàn bạo của thành phần
kẻ dữ lùng vực hầu
như bất khả khống chế.
Có một chi tiết hơi kỳ lạ trong dụ ngôn được Chúa Kitô đề cập tới, đó là
chi tiết: "Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và
mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa".
Chi tiết kỳ lạ này là "tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác
khỏi nước Chúa", nghĩa là trong "nước Chúa" đã có hay đã bao
gồm "tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác" rồi phải không
nên sau cùng mới bị loại ra. Như thế nghĩa là gì? "Nước Chúa",
nếu hiểu là thiên đàng, là mối hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, cũng
có cái xấu và sự dữ hay sao?
Ở đây, theo kẻ chia sẻ suy niệm lời Chúa hiểu, thì "Nước Chúa" trên thế
gian này có thể hiểu là chính mạc khải thần linh của Thiên Chúa, một mạc
khải được tỏ ra cho tất cả mọi người, như hạt giống được gieo cả vào vệ
đường, sỏi đá và bụi gai nữa, chứ không phải chỉ vào đất tốt, và vì thế
ai không chấp nhận mạc khải thần linh của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, là ơn
cứu độ của Người, là Lòng Thương Xót Chúa, thì kể như họ không chấp nhận
Lòng Thương Xót Chúa, không chấp nhận ơn cứu độ của Ngài, do đó tự họ
loại mình ra khỏi "Nước Chúa".
Như
thế, dụ ngôn người gieo giống tốt trong thửa ruộng của mình đây bao gồm
từ "thời điểm viên trọn"(Galata 4:4) của Chúa Kitô Thiên Sai, qua
suốt giòng lịch sử của Giáo Hội Chúa Kitô, cho đến tận thế là thời điểm
chung cuộc. Dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng này là một dụ ngôn Chúa dẫn giải
chẳng những để giúp
cho chúng ta hiểu
biết về thực tại Nước Trời mà còn khuyến dụ chúng ta hãy sống
thực
tại Nước Trời này nữa, ở chỗ hãy nhẫn
nhục chịu đựng gian nan khốn khó trong cuộc hành trình đức tin của mình
và luôn chờ đợi
bằng lòng tin
tưởng vào Đấng "sẽ
xuất hiện lần thứ hai để mang ơn cứu độ cho những ai thiết tha mong đợi
Người"
(Do Thái 9:28).
Dụ ngôn này đồng thời cũng
cho chúng ta thấy một Vị Thiên Chúa nhẫn nại cho tới cùng, đối với cả kẻ
dữ, và làm tất cả mọi sự cho lợi ích của kẻ lành là lúa tốt, thậm chí
bằng chính kẻ dữ là cỏ lùng. Chính tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài
cuối cùng sẽ thắng vượt tất
cả trong Chúa Kitô
Thiên Sai, Đấng đã
vượt qua từ khổ giá đến phục sinh, và nếu kẻ dữ bị trừng phạt xứng với
tội ác của họ thì không phải là Ngài ra tay, cho bằng chính
họ
bị day dứt quằn quại trước tình
yêu vô cùng nhân hậu của Ngài.
Trong Bài Đọc
1 cho năm lẻ hôm nay cho thấy một Moisen, hình bóng của một Đức Kitô
Thiên sai giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết mà đem vào đất
hứa sự sống viên mãn, đang đóng vai trò là người gieo
lúa tốt trong thửa ruộng dân Chúa của mình, đồng
thời qua Moisen cũng cho thấy một vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu xót
thương, ở
chỗ:
1- Di chuyển nhà xếp
giao ước cho lợi ích của dân:
"Trong những ngày ấy, Moisen hạ
nhà xếp, đem dựng ra một khoảng ở ngoài trại, và đặt tên là 'nhà xếp
giao ước'. Ai trong dân có điều gì muốn hỏi, thì đến nhà xếp ở ngoài
trại".
2- Có
một hầu cận là mầm mống thừa kế của mình: "Chúa
đàm đạo cùng Moisen diện đối diện, như người ta quen đàm đạo với bạn hữu
mình. Khi ông trở về trại, thì người hầu cận ông là Gioduệ,
con ông Nun, còn trẻ tuổi, không rời khỏi nhà xếp".
3- Cầu
khẩn cùng Chúa cho dân: "Chúa!
Chúa! Đấng cai trị mọi sự, là Đấng từ bi, nhân hậu, nhẫn nại, đầy lân
tuất và chân chính. Chúa xót thương đến ngàn đời, tha thứ gian ác, độc
dữ và tội lỗi; trước mặt Chúa không ai coi mình là vô tội. Sự gian ác tổ
tiên đã phạm, Chúa phạt con cháu đến ba bốn đời".
4- Nhận
lãnh bia đá thập giới (lần hai) từ Thiên Chúa để trao lại cho dân: "Vậy
ông Môsê ở đó với Chúa bốn mươi đêm ngày, không ăn bánh và không uống
nước; Chúa ghi mười lời giao ước vào bia đá".
Bài Đáp
Ca hôm nay chất chứa một cảm nghiệm thần linh về một vị Thiên Chúa chẳng
những tỏ mình ra bề ngoài có vẻ uy nghi lừng lẫy mà còn có một tấm
lòng vô cùng nhân hậu xót thương đúng như những gì Moisen đã cảm nhận
trong Bài Đọc 1: "Chúa!
Chúa! Đấng cai trị mọi sự, là Đấng từ bi, nhân hậu, nhẫn nại, đầy lân
tuất và chân chính. Chúa xót thương đến ngàn đời, tha thứ gian ác, độc
dữ và tội lỗi":
1)
Chúa thi hành những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những
người bị ức. Người tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ công cuộc Người
cho con cái Israel.
2) Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan
nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm
hờn.
3) Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa
theo điều oan trái chúng tôi. Nhưng cũng như trời xanh vượt cao trên mặt
đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người.
4) Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi
chúng tôi. Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những
ai kính sợ Người.
Thứ Tư
Kho tàng ơn gọi và viên ngọc đẫm máu
Bài Đọc 1 (Năm Lẻ): Xh.
34,29-35
Đáp Ca: Tv. 99:5,6,7,9
Phúc Âm: Mt.
13,44-46
Hôm
nay, Thứ Tư Tuần XVIIThường
Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu tiếp tục ghi lại một cặp dụ ngôn
nữa về Nước Trời được Chúa Kitô diễn tả để mạc khải cho dân Do Thái nói
chung và cho các môn đệ của Người nói riêng biết.
"Nước
Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp
được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có
mà mua thửa ruộng ấy".
"Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp.
Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà
mua viên ngọc ấy".
Hai dụ ngôn về Nước Trời này có liên hệ hết sức mật thiết với nhau bất
khả phân ly, có
tính cách tu đức hơn là thần học. Ở
chỗ, một đàng thì "kho
báu trong ruộng" được
tìm thấy,
một đàng thì đi tìm
được: "viên ngọc quí". Một đàng
thụ động: "kho
báu trong ruộng" và một đàng chủ động: "đi
tìm ngọc đẹp".
Cặp dụ ngôn thứ
hai về Nước Trời này, như cặp dụ ngôn thứ nhất trong bài Phúc Âm Thứ Hai
tuần này, không được Chúa Giêsu giải thích cho biết. Tuy nhiên, căn cứ
vào đường lối suy diễn như ở cặp dụ ngôn thứ nhất, nhờ căn cứ vào Chúa
Kitô như là chính Nước Trời thì cặp dụ ngôn thứ
hai về Nước Trời hay về Chúa Kitô có thể suy diễn như
sau.
Dầu sao cũng cần
phải nhớ rằng cặp dụ ngôn thứ hai này Chúa Giêsu nói riêng với các
tông đồ chứ không phải chung cho dân chúng như cặp dụ ngôn thứ nhất. Vì
Người nói ngày sau khi dẫn giải dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng lúa tốt cho
các môn đệ là thành phần xin Người giải thích "sau khi giải
tán dân chúng, Người đã về nhà...".
Trước hết, "Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn
giấu trong ruộng" - Phải chăng Chúa Giêsu có ý nói rằng Người chính
là kho báu được chôn giấu trong ruộng, mà "ruộng là thế gian" (theo
chính lời Chúa Giêsu giải thích trong bài Phúc Âm hôm qua), nên Chúa
Giêsu vẫn là những gì quí báu nhất trên trần gian này mà ít người biết
tới như thể kho tàng quí báu ấy
bị chôn giấu đi vậy?
"Có
người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả
những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy"
- Nghĩa là cho dù kho tàng ấy ít ai biết đến như
bị che giấu đi như thế, ai mà gặp
được, chẳng hạn thành phần bé mọn được Cha tỏ ra
cho (xem Mathêu 11:25), thì họ chẳng còn tiếc gì nữa, sẵn
sàng từ bỏ mọi sự mà mua thửa ruộng có kho tàng
này, chứ không phải mua chính kho
tàng, vì mua cả thửa ruộng thì tất nhiên có được
kho báu trong đó nữa.
Đúng thế, nếu Chúa Kitô đã cứu chuộc thế gian thì ai tìm
gặp Người cũng quí chuộng ơn cứu chuộc của Người và tìm hết cách để cứu
lấy thế gian, và khi họ đã dám hy sinh tất cả mọi
sự của họ cho phần rỗi của tha
nhân trên thế gian này là
họ có được tất cả Chúa Kitô là kho tàng chôn trong
thửa ruộng được họ tậu lấy vậy. Theo ý nghĩa ấy thì quả thực dụ ngôn kho
tàng trong ruộng này liên quan đến ơn gọi theo Chúa của các tông đồ,
thành phần môn đệ chứng nhân tiên khởi của
Người.
"Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc
đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì
mình có mà mua viên ngọc ấy". Phải chăng "một thương gia đi
tìm ngọc đẹp" đây chính là Chúa Kitô, Đấng đã "đến để tìm
kiếm và cứu với những gì hư hoại" (Luca 19:10), nhưng đối với
Người "những gì hư hoại" ấy, như con chiên lạc thứ 100 hay
đồng tiền thất lạc (xem Luca 15:4,8) lại rất quí báu, đến độ
Người đã phải từ trời xuống thế để tìm kiếm.
Như thế có nghĩa là con người ta là "một viên ngọc quí" đã
được Thiên Chúa tìm thấy và đã thực sự "mua viên ngọc ấy" bằng
chính máu thánh vô giá của Người, bằng chính sự sống hy hiến của
Người (xem Gioan 17:19; Mathêu 20:28)? Dụ ngôn này cũng liên
quan đến vai trò của các tông đồ chẳng những trong sứ vụ thừa sai
nhân chứng mà còn trong cả thừa tác vụ ban phát ân sủng và sự sống
thần linh cho các linh hồn nữa.
Cặp dụ ngôn về "kho tàng chôn giấu trong ruộng" và "viên
ngọc quí" được thương gia tìm thấy đây như thế có thể hiểu "kho
tàng" là chính Ơn Cứu Độ vô cùng quí giá của Chúa Kitô, và "viên
ngọc quí" chính là phần rỗi vô cùng quan trọng của các linh
hồn. Cả "kho tàng" Ơn Cứu Độ và "viên ngọc" Phần
Rỗi này đều phải được đánh đổi bằng tất cả những gì có được của
những ai được kêu gọi làm chứng nhân tông đồ của Chúa Kitô như Kitô
hữu chúng ta.
Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay cho thấy "rằng
da mặt Moisen sáng
chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa... Con
cái Israel nhìn mặt ông Moisen thấy
da mặt ông sáng chói; ông Moisen lại lấy khăn che mặt, cho đến khi
vào đàm đạo với Thiên Chúa".
Nội
dung của Bài Đọc 1 này có liên hệ gì với cặp dụ ngôn trong bài
Phúc Âm hôm nay hay chăng? Xin thưa, tất nhiên là có. Ở chỗ nào? Ở
chỗ khi được gần gũi với "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gioan
1:5), con người cần phải trở thành phản ánh của Ngài, như Chúa Kitô
"là phản ánh vinh hiển của Cha" (Do Thái 1:3).
Như thế, một khi kho
tàng thần linh trong thửa ruộng thế gian là Chúa Kitô thuộc về ai,
có nghĩa là họ được hiệp nhất nên một với Người, thì
tất cả đời sống và con người của họ trở thành phản ảnh Người, (như
mặt Moisen phản ảnh vinh quang Thiên Chúa nhờ gặp gỡ Thiên Chúa),
bởi họ đã
dám hy
sinh tất cả để mua lấy tất cả thuở ruộng thế gian đã được Người
cứu
chuộc, đến độ Chúa Kitô sống trong họ để tiếp tục công cuộc cứu
chuộc của Người cho đến tận thế, cho đến khi Người lại đến trong
vinh quang.
Nhờ đó,
họ phản ảnh một Chúa
Kitô nhân
hậu đi tìm kiếm viên
ngọc quí là
phần rỗi của các linh hồn, qua sứ vụ chứng
nhân và
tinh thần tông đồ truyền giáo của họ như
Chúa Kitô.
Bài Đáp
Ca hôm nay bao gồm nhận thức thần linh về Vị Thiên Chúa Thánh
Hảo, Đấng tỏ mình ra cho những ai cầu khẩn Danh Ngài và tuân hành
các thánh chỉ của Ngài, vì Ngài là Đấng Thánh:
1- Hãy suy tôn Chúa là Thiên Chúa chúng ta, phủ phục trước bệ rồng, bởi
Người là Đấng Thánh.
2- Moisen cùng Aaron trong hàng tư tế Chúa, cũng như Samuel trong số
người cầu khẩn Thánh Danh! Các ngài cầu khẩn Chúa, Chúa thương đáp lại.
3- Từ cột mây, Chúa phán dạy các ngài, các ngài đã tuân hành thánh ý, và
chiếu chỉ Người ban.
4- Hãy suy tôn Chúa là Thiên Chúa chúng ta, hướng về núi thánh mà phủ
phục, vì Chúa, Thiên Chúa ta thờ, quả thật là Đấng Thánh.
Thứ Năm
thế gian biển cả - thừa
sai mạng lưới
Bài Đọc I: (Năm
I) Xh 40, 14-19. 32-36
Đáp Ca: Tv 83,
3. 4. 5-6a và 8a. 11
Phúc Âm: Mt 13, 47-53
Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XVII Thường
Niên hôm nay ghi lại dụ ngôn cuối cùng của Chúa Giêsu về Nước Trời trong
Phúc Âm Thánh Ký Mathêu ở đoạn 13.
"Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá.
Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ
vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Đến ngày tận thế cũng như vậy: các
thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những
kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Cũng như cặp dụ ngôn thứ hai trong bài
Phúc Âm hôm qua, dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời này cũng không được Chúa
Giêsu giải thích gì hết về những hình ảnh Người sử dụng. Lý do Người
không giải thích gì hết là vì các môn đệ của Người không yêu cầu Người
giải thích như ở dụ ngôn người gieo giống ra đi gieo giống và người gieo
giống tốt trong ruộng của mình.
Thậm chí khi được Người hỏi: "'Các
con có hiểu những điều đó không?' Họ thưa: 'Có'".
Sở
dĩ các môn đệ nói "có" hiểu dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời này có
thể là vì nội dung của dụ ngôn này cũng giống như dụ ngôn cỏ lùng trong
ruộng. Đúng thế, dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời này
cũng
liên quan đến hai loại tốt và xấu. Nếu dụ ngôn người gieo giống tốt
trong ruộng của mình bao gồm lúa tốt và cỏ xấu, thì dụ ngôn cuối cùng
này liên
quan đến cá tốt và cá xấu.
Tuy nhiên, không biết các môn đệ của Chúa
Giêsu bấy giờ đã hiểu dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời này như thế nào,
chẳng hạn "lưới thả dưới biển" ám chỉ những gì, và ý nghĩa chính
yếu của dụ ngôn này là chi, phần chúng ta, vẫn cần tìm hiểu xem những gì
còn mập mờ trong dụ ngôn này. Vậy, dựa
theo đường hướng Nước Trời ám chỉ Chúa Kitô, và dụ ngôn cuối
cùng trong loạt dụ ngôn được Thánh ký Mathêu ghi lại ở Đoạn 13 này
là dụ ngôn Chúa Giêsu nói riêng với các môn đệ thì chúng ta có thể suy
diễn như sau:
"Nước
trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá".
Nếu đây là dụ ngôn cuối
cùng trong loạt dụ ngôn về Nước Trời được Thánh ký Mathêu thuật
lại ở đoạn 13, và cũng là dụ ngôn được Chúa Giêsu nói riêng với các
tông đồ, thì dụ ngôn này gợi lại hình ảnh 7 tông đồ đi đánh cá ở Biển Hồ
Tibêria sau 2 lần Chúa Kitô Phục Sinh đã hiện ra với các vị (xem Gioan
21:1-14).
Nếu "ruộng" là nơi
có cả "lúa tốt" lẫn "cỏ lùng" trong
dụ ngôn "người gieo giống tốt trong ruộng của mình" là "thế
gian" thì "biển" trong dụ ngôn này cũng có thể ám chỉ "thế
gian", nơi có cả "cá tốt" là
"người lành" lẫn
"cá xấu" là
"kẻ dữ".
Vậy
"lưới thả dưới biển" đây phải chăng chính là thành phần thừa
sai được Chúa
Kitô Phục
Sinh truyền lệnh: "Thày được toàn quyền trên trời dưới đất. Bởi vậy
các con hãy đi tuyển mộ môn đồ thuộc tất cả mọi dân nước. Hãy rửa tội
cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh thần. Hãy dạy cho họ thi hành tất
cả những gì Thày đã truyền cho các con" (Mathêu 28:19)?
"Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì
bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài".
Nếu "lưới thả dưới
biển" đây ám chỉ thành phần thừa sai truyền giáo của Giáo Hội
Chúa Kitô, tức là liên quan đặc biệt đến dân ngoại, thành phần chính
yếu làm nên Giáo Hội Chúa Kitô, không phải dân Do Thái, thì "lưới đầy" ở đây
phải chăng có nghĩa là "đủ số dân ngoại" (Roma 11:25), và chỉ
khi nào "đủ số dân ngoại" bấy giờ mới có chuyện "người
ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn
cá xấu thì ném ra ngoài", đúng
như ấn định
cứu độ của Chúa Kitô: "Các
con hãy đi khắp thế gian mà loan báo tin mừng cho tất cả mọi tạo
vật. Ai chấp nhận tin
mừng và chịu phép rửa thì được cứu độ; người nào không chấp
nhận tin mừng thì sẽ bị luận phạt" (Marco 16:15-16).
"Đến ngày tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ
dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc
lóc nghiến răng".
Như thế thì vấn đề "đủ
số dân ngoại" là dấu hiệu ngày cùng tháng tận, là dấu hiệu "đến
ngày tận thế", thời điểm
chung thẩm cho số phận đời đời giữa chiên và dê (xem Mathêu 25:31-46),
thời điểm "các
thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những
kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng", cũng
như các vị ở trong dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng đã làm vậy: "Thợ
gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt
trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ
sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác
khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc
nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của
Cha mình".
Đúng thế, việc thanh lọc cuối cùng chính yếu là để "tách
biệt kẻ dữ ra khỏi người lành", nhờ đó,
thành phần đã từng là nạn nhân của kẻ dữ, đã trải qua gian nan khốn khó
trên đời "bấy
giờ sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình", thành
phần ngay trong cuộc hành trình đức tin của họ đã phản ảnh được
Vị Thiên Chúa là Đấng luôn ở cùng họ, và họ đã trở thành nơi tỏ hiện
vinh quang của Thiên Chúa, như nhà xếp trong Bài Đọc 1.
Phải, Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay liên quan đến việc
thiết dựng nhà xếp, nơi Moisen "đặt
bia chứng từ vào hòm, xỏ đòn khiêng vào hai bên, và để toà phán dạy trên
hòm", và
cũng là nơi tỏ hiện vinh quang của một Vị Thiên
Chúa ẩn ngự: "Khi
đã rước hòm bia vào nhà xếp,
ông treo màn trước hòm để hoàn tất lời Chúa đã truyền dạy. Sau khi mọi
việc đã hoàn tất, thì có một đám mây bao phủ nhà xếp chứng từ, và vinh
quang của Chúa tràn ngập nhà xếp".
Cảm nghiệm thần linh của
kẻ
lành lúc nào cũng cảm thấy khao khát thần linh và mong được ở với Đấng
duy nhất có thể thỏa đáng lòng của họ, được diễn tả qua Bài Đáp Ca hôm
nay:
1)
Linh hồn con khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Chúa. Tâm thần
và thể xác con hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh.
2) Đến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để
làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên
binh, ôi Đại vương là Thiên Chúa của con.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa
tới muôn đời. Phúc thay người Chúa con nâng đỡ, họ tiến lên ngày càng
thêm hăng hái.
4) Thực một ngày sống trong hành lang nhà Chúa, đáng quý hơn ngàn
ngày ở nơi đâu khác. Con ưa đứng nơi ngưỡng cửa nhà Chúa, hơn là cư ngụ
trong lều bọn ác nhân.
Thứ Sáu
Loại đồng hương hạt giống bụi gai
Bài Đọc I: (Năm
I) Lv 23, 1. 4-11. 15-16. 27. 34b-37
Đáp Ca: Tv 80,
3-4. 5-6ab. 10-11ab
Phúc Âm: Mt 13, 54-58
Bài
Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XVII Thường Niên, được
Thánh ký Mathêu thuật lại về sự kiện: "Chúa
Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường,
khiến người ta ngạc nhiên".
Thế
nhưng, cái ngạc nhiên của họ mang tích cách tiêu cực (ngờ vực) hơn
là tính
cách tích
cực (nhận
biết), bởi thế, họ đã tỏ ra hết sức thắc mắc với đầy những nghi vấn như
sau:
"'Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy?
Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà
Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và
chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu
ông được những sự ấy?' Và họ vấp phạm đến Người".
Thái độ
tiêu cực gần
như tẩy chay Chúa Giêsu của
dân làng Người cũng là chuyện dễ hiểu theo tâm lý tự nhiên, vì họ đã
từng biết Người từ hồi còn nhỏ, một con người ra sao trong làng, có cha
mẹ và thân thuộc như thế nào. Bởi thế, "Chúa
Giêsu phán cùng họ rằng: 'Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ
nơi quê quán và nhà mình'".
Nếu
căn cứ vào 1 trong 4 loại môi trường ở dụ ngôn "người gieo giống
ra đi gieo giống" nơi Bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước (xem Mathêu
13:18-23), thì dân làng của Người không thuộc
loại "hạt rơi trên
vệ đường", vì họ cũng hào hứng nghe Người chứ không đến nỗi hững hờ
chẳng để ý hay thiết tha gì; họ cũng không phải là "hạt rơi trên đá
sỏi" vì
họ đâu có
chấp nhận Người
nên không đâm rễ tí nào hết, mà là "hạt rơi vào bụi gai" đã bị
chết nghẹt gây ra bởi các lo âu ngờ vực của họ. Do đó bài Phúc Âm mới
kết luận: "Người
không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin".
Thật
ra, theo chiều hướng của Phúc Âm Thánh Gioan thì "là ánh sáng thế
gian" (8:12) mà đã là ánh sáng thì không thể không soi chiếu mà còn
là ánh sáng, Chúa
Kitô cần
phải tự động tỏ
mình ra để
nhờ đó người ta mới có thể nhận biết người và tin
tưởng Người,
hơn là cứ phải có đức tin mới làm phép lạ, mới tỏ mình ra sau.
Tuy nhiên, trong trường hợp
dân làng của Người trong bài Phúc Âm hôm nay đã được Người tỏ mình ra
cho họ rồi, đến nỗi đã khiến họ phải bàng hoàng ngỡ ngàng: "Bởi
đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy?", thế
mà họ vẫn không tin. Chính thành kiến tự nhiên về Người đã
là một trở ngại khổng lồ chắn lối đức tin của
dân làng Người.
Bài Đọc
1 cho năm
lẻ hôm
nay được trích từ Sách Lêvi, bởi vì nội dung của bài đọc liên quan đến
các ngày lễ trong năm được coi là ngày thánh mà
Dân Do Thái cần phải cẩn
thận cử
hành theo qui định
của Thiên Chúa, đặc biệt và chính yếu nhất là Lễ Vượt Qua, "ngày
mười bốn tháng Giêng", sau đó,
theo thời gian trong năm, đến Ngày Lễ Ngũ Tuần:
"từ
hôm sau ngày sabbat,... các ngươi tính đủ bảy tuần, cho đến ngày hôm sau
cuối tuần thứ bảy, tức là năm mươi ngày", tới
Lễ Đền Tội "ngày
mùng mười tháng Bảy", và
sau cùng là Lễ Lều Tạm (Nhà Xếp) "ngày
mười lăm tháng Bảy": "Đó là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi
phải kể là những ngày rất trọng thể và rất thánh, trong những ngày ấy,
các ngươi phải dâng lên Chúa lễ vật, của lễ toàn thiêu và lễ quán theo
nghi lễ của mỗi ngày".
Bài Đọc
1 về các ngày lễ của dân Do Thái và
Bài Phúc Âm về
sự kiện dân làng của Chúa Kitô không tin tưởng vào Người có liên hệ gì
tới nhau hay chăng? Nếu không - tại sao? Nếu có - ở chỗ nào?
Nếu tất cả mọi ngày lễ của
Dân Do Thái là để họ tưởng nhớ đến Thiên Chúa, Đấng đã tuyển chọn họ và
hằng tỏ mình ra cho họ vào những thời điểm đặc biệt trong giòng lịch sử
cứu độ của họ, cho tới "thời điểm viên trọn, Thiên Chúa sai Con Ngài
sinh hạ bởi một người nữ, sinh ra theo lề luật"
(Galata 4:4), nghĩa
là tất cả lịch sử cứu độ đều
hướng về Chúa Kitô và về
"thời điểm
viên
trọn" của
Người, thì
dân của Ngài cần phải tin vào Con Ngài mới được cứu độ, thế nhưng họ đã
không tin, hay đúng hơn chưa tin Người được, chỉ vì Con của Ngài, của
một Vị Thiên Chúa vô cùng cao cả và toàn hảo, lại được "sinh hạ bởi
một
người nữ" ngay trong làng của họ.
Tuy nhiên, không phải bị
dân làng tẩy chay bất chấp mà Chúa Kitô không phải là Con Thiên Chúa
nữa, không còn là Đấng Thiên Sai nữa, Đấng duy nhất có thể cứu họ cùng
toàn thể nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết, Đấng một khi được nhận biết
thì Người chính là một tin mừng cần phải được đón nhận, và là một đại lễ
cần phải hân hoan long trọng cử hành của mình thì dân Do Thái sẽ
không thể nào không cảm
thấy hớn hở như trong Bài Đáp
Ca hôm nay:
1) Hãy
hoà nhạc và đánh trống râm ran; dạo đàn cầm êm ái cùng với thất huyền.
Hãy rúc tù và lên mừng ngày trăng mới, trong buổi trăng rằm, ngày đại lễ
của chúng ta.
2) Vì đó là điều đã thiết lập cho Israel; đó là huấn lệnh của Thiên Chúa
nhà Giacóp. Người đã đặt ra luật này cho nhà Giuse, khi họ cất gót lên
đường lìa xa Ai-cập.
3) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác; ngươi cũng đừng thờ tự
một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa
ngươi ra ngoài Ai-cập.
Thứ Bảy
Hêrôđê - Một con cáo già, vừa đáng trống
vừa ăn cướp
Bài đọc 1: Lv 25:1,8-17
Đáp Ca: Tv 67:2-3,5,7-8
Phúc Âm: Mt. 14,1-12
Hôm nay, Thứ Bảy Tuần XVII Thường Niên,
Thánh Ký Mathêu ghi lại một sự kiện đó là "Thời
ấy, tiểu vương Hêrôđê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ
hầu cận rằng: 'Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi
dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ".
Sau đó
vị thánh ký đã thuật lại lý do tại sao đã thúc đẩy vị
tiểu vương này đã ra tay sát hại nhân vật mà ông cho là đã sống lại từ
cõi chết và đang sống động nơi
Chúa Giêsu Kitô:
"Số là vua Hêrôđê đã bắt trói ông Gioan và tống ngục vì bà
Hêrôđia, vợ ông Philípphê, anh của nhà vua. Ông Gioan có nói với vua: 'Ngài
không được phép lấy bà ấy'. Vua muốn giết ông Gioan, nhưng lại sợ dân chúng,
vì họ coi ông là ngôn sứ. Vậy, nhân ngày sinh nhật của vua Hêrôđê, con gái
bà Hêrôđia đã biểu diễn một điệu vũ trước mặt quan khách, làm cho nhà vua
vui thích. Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì, vua cũng ban cho. Nghe lời mẹ
xui bảo, cô thưa rằng: 'Xin ngài ban cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông
Gioan Tẩy Giả đặt trên mâm'. Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót thề, lại
thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. Vua sai người vào ngục
chặt đầu ông Gioan. Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho cô, và
cô ta đem đến cho mẹ. Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem đi mai táng, rồi đi
báo cho Đức Giêsu".
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao vị quận vương này cho
rằng nhân vật Gioan Tẩy Giả có
thể tự mình sống lại cho dù bị ông ta sát hại, và tại sao ông ta lại
ghép việc sống lại của vì Tẩy Giả này vào trường hợp của Chúa Giêsu, bởi
nghe thấy Người "có
quyền năng làm phép lạ"? Ông
ta có ý nghĩ Gioan Tẩy Giả có thể sống lại trước khi ông ta ra lệnh
lấu đầu của ngài,
hay sau khi nghe thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ mới có ý nghĩ Gioan sống
lại như vậy?
Phải
chăng vị quận vương này có ý muốn nói rằng chính nhờ ông ta hành quyết
Gioan Tẩy Giả mà Chúa Giêsu mới có quyền năng làm phép lạ như thế, bằng
không Người không thể nào có thể làm phép lạ như vậy? Qua câu nói này
của ông ta, cũng có thể là ông ta đã bị ám ảnh về cái chết của nhân vật
Gioan Tẩy Giả là nhân vật ông rất kính nể nhưng đã ra lệnh hành quyết
bởi lỡ miệng hứa với đứa con gái của người vợ bất chính và muốn giữ thể
diện của mình trước mặt bá quan văn võ trong triều đình
của ông
bấy giờ?
Có nghĩa là ông ta đang
tìm cách vừa đánh trống vừa ăn cướp, ở chỗ muốn
xoa dịu lương tâm bị áy náy của
mình là người đã lỡ sát hại một kẻ công chính, bằng
cách
gán ghép quyền năng làm phép lạ của
Chúa Giêsu cho nạn nhân của
mình là kẻ đã bị mình hành quyết, nhờ đó mình chẳng những vô tội mà còn
nổi tiếng nữa qua các phép lạ Chúa Giêsu làm. Nếu vậy thì vị quận vương
này đúng là một thứ cáo già, gian manh không thể nào tượng tưởng nổi!
Không biết có phải vì thế
mà ít lâu sau, khi gặp lại ông ta trong thân phận của một
tử tội được Tổng Trấn Philatô chuyển đến cho thẩm
quyền của ông ta,
Chúa Giêsu đã không hề lên tiếng nói gì với ông ta (xem Luca 23:9). Chắc
chắn thái độ im lặng của Chúa Giêsu không phải là thái độ coi thường
thẩm quyền của ông ta hay khinh bỉ con người tồi bại của ông ta, cho
bằng Người muốn tỏ ra thái độ nhẫn nhục nhân ái với con người đầy gian ác
hết
sức đáng
thương ấy,
một con người chỉ biết có quyền lực, và chỉ mong gặp Chúa Giêsu để xem
Người làm phép
lạ (xem Luca 23:8) mà không được toại nguyện, vì Chúa Giêsu đến thế gian
này không phải như một cứu tinh xuất chúng về quyền lực nhưng là để giải
thoát con người, điển hình là vị quận vương Hêrôđê này, khỏi
tội lỗi và sự chết.
Bài Đọc
1 cho năm lẻ hôm nay liên quan đến năm toàn xá là thời điểm 50 năm một
lần trong dân Do Thái, một "năm thánh", bao gồm, trước hết là việc
nghỉ ngơi cho chính con người cũng như cho thiên nhiên vạn vật:
"Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo
trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với (các) ngươi,
đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở
hữu của mình, mỗi người sẽ trở về dòng họ của mình. Đối với các
ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được
gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho
không cắt tỉa. Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với các
ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng".
Sau nữa, "năm
thánh" không phải chỉ liên
quan đến việc nghỉ ngơi của con người và thiên nhiên tạo vật, mà còn
liên quan nhất là với tha nhân nữa, qua các việc bác ái yêu thương
không gây thiệt hại cho người khác, như sau:
"Năm toàn xá đó, mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của
mình. Nếu các ngươi bán cái gì cho người đồng bào hoặc mua cái gì từ
tay người đồng bào, thì đừng ai làm thiệt hại người anh em
mình. Ngươi sẽ mua của người đồng bào theo số năm sau năm toàn xá,
và nó sẽ bán cho ngươi theo số năm thu hoạch. Còn nhiều năm thì
ngươi mua giá cao, còn ít năm thì ngươi mua giá thấp, vì nó bán cho
ngươi một số năm thu hoạch. Không ai trong các ngươi được làm thiệt
hại người đồng bào, nhưng (các) ngươi phải kính sợ Thiên Chúa của
(các) ngươi, vì Ta là Chúa,
Thiên Chúa của (các) ngươi. Thiên Chúa bảo đảm về năm sabát".
Mối
liên
hệ giữa Bài Phúc Âm về ý nghĩ của quận vương Hêrôđê về quyền năng
của Chúa Giêsu và Bài Đọc 1 hôm nay về năm thánh 50 năm một lần của
dân Do Thái liên
quan đến bác ái yêu thương, là ở chỗ
Chúa
Giêsu là hiện thân sống động của Lòng Thương Xót Chúa, và vì thế sứ
vụ của Người đó là công bố Năm Thánh cũng là năm hồng ân của Thiên
Chúa (xem Isaia 61:2; Luca 4:19) cho cả nhân loại, không trừ một ai,
"nhất là những linh hồn cần đến LTXC hơn" như quận vương
Hêrôđê, cùng tất cả mọi tạo
vật (xem Marco 16:15; Roma 8:21).
Bởi
thế, trước tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng chẳng những dựng nên
tất cả mọi sự, mà còn quan phòng chăm sóc cho những gì Ngài dựng
nên, để làm cho chúng được nên thánh hảo theo ý muốn của Ngài, mà
con người cần phải có tâm tình như các câu Đáp ca hôm nay:
1- Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin
toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết
đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài.
2- Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo
lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh
đạo muôn dân trên mặt đất này.
3- Đất đã sinh ra mùa màng hoa trái: Chúa Trời, Chúa chúng ta, đã
ban phúc lộc. Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi
đất kính sợ Người!
Ngày 05: Cung hiến đền thờ Ðức Bà cả