SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Chúa Nhật 30
Quanh Năm Năm A
`
Bài Ðọc I: Xh 22,
21-27
"Nếu các ngươi hà hiếp các cô nhi quả phụ,
Ta sẽ nổi giận các ngươi".
Trích sách Xuất Hành.
Ðây Chúa phán: "Ngươi chớ làm phiền lòng và ức
hiếp khách ngoại kiều: vì các ngươi cũng là khách ngoại kiều ngụ trong đất
Ai-cập. Các ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ. Nếu các ngươi hà hiếp những
kẻ ấy, họ sẽ kêu thấu đến Ta, và chính Ta đã nghe tiếng họ kêu van. Ta sẽ
nổi cơn thịnh nộ, sẽ dùng gươm giết các ngươi, vợ các ngươi sẽ phải goá bụa,
và con cái các ngươi sẽ phải mồ côi.
"Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân
cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn
lãi quen làm, và chớ bắt nó chịu lãi nặng. Nếu ngươi nhận áo sống của người
láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn: vì nó
chỉ có một áo ấy che thân, và không còn chiếc nào khác mặc để ngủ; nếu kẻ ấy
kêu van đến Ta, Ta sẽ nhậm lời nó, vì Ta là Ðấng thương xót".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 47 và 51ab
Ðáp: Lạy
Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa (c. 2).
Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến
Chúa, lạy Chúa là Ðá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh. - Ðáp.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con
nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng
ca ngợi khen cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. -
Ðáp.
3) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của con,
tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại
thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Tx 1, 5c-10
"Anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa
để phụng sự Người và để trông đợi Con của Người".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, khi chúng tôi còn ở giữa anh
em, anh em biết chúng tôi sống thế nào vì anh em. Và anh em đã noi gương
chúng tôi và noi gương Chúa, đã nhận lấy lời rao giảng giữa bao gian truân,
với lòng hân hoan trong Thánh Thần, đến nỗi anh em đã nên mẫu mực cho mọi kẻ
tin đạo trong xứ Macêđônia và Akaia.
Vì từ nơi anh em, lời Chúa vang dội không những
trong xứ Macêđônia và Akaia, mà còn trong mọi nơi; lòng tin của anh em vào
Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa.
Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào, và anh em đã
bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống
và chân thật, để trông đợi Con của Người từ trời mà đến, "Ðấng mà Người đã
làm cho từ cõi chết sống lại", là Ðức Giêsu, Ðấng đã giải thoát chúng ta
khỏi cơn thịnh nộ sắp đến.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì
sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở
trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 22, 34-40
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi,
và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa
Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn một
người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề
luật, giới răn nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy
yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn
ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng
giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.
Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa:
"Allah Vĩ Đại" chống khủng bố
Theo chiều hướng
sống đạo của thành phần “những người biệt phái” đặt vấn đề với Chúa Giêsu
trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Nhật XXX Thường Niên A, thì họ coi trọng
Thiên Chúa hơn con người, nên họ giữ luật Ngài ban một cách kỹ lưỡng và cẩn
thận, trong khi đó, họ lại khinh khi người khác, những con người bình dân
không biết lề luật Chúa như họ, nhất là thành phần thu thuế và gái điếm sống
phản lại với lề luật của Chúa.
Phải chăng đó là lý do, sau khi “nghe tiếng
Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn
một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: ‘Thưa Thầy, trong lề
luật, giới răn nào trọng nhất?’" Dĩ nhiên câu họ mong đợi Chúa Giêsu trả lời
cho họ sẽ theo đúng như ý nghĩ của họ, đúng như chủ trương sống đạo của họ,
đó là Thiên Chúa trên hết, kiểu “Allah vĩ đại” của tín đồ Hồi giáo nói
chung, nhất là của một số thành phần cuồng tín quá khích nói riêng, đến độ
dám nhân danh Thiên Chúa để khủng bố, để sát nhân, và trước khi ra tay thì
hô vang “Allah vĩ đại”.
Nhưng họ có ngờ đâu, Chúa Giêsu cũng làm cho cả
họ nữa tịt ngòi không nói năng gì được nữa, chẳng khác gì “những người Sadốc
câm miệng” trước họ, qua những gì Người trả lời cho thành phần không tin
chuyện phục sinh về vấn đề người chết sống lại ở đoạn Phúc Âm trước đó mà
Giáo Hội không chọn đọc tiếp ngay sau Bài Phúc Âm tuần XXIX Thường Niên Năm
A vừa rồi.
Câu trả lời của Chúa Giêsu mà họ không ngờ và
cũng để nhắc nhở thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật như họ trong
dân chúng bao gồm cả mến Chúa lẫn yêu người, chứ không phải chỉ mến Chúa mà
không yêu người, hay trong khi mến Chúa mà lại tỏ ra khinh người, bằng
không, mến Chúa một cách bôi bác, què quặt, không thể nào có chuyện mến Chúa
như thế, hay có chuyện mến Chúa chân thật ở đây.
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng
nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương
kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm
lại trong hai giới răn đó".
Thật vậy, nếu họ tự cho mình là thành
phần thông luật và dạy luật trong dân thì họ phải biết những gì Thiên Chúa
đã qui định và nhắc nhủ cha ông họ cũng như cho chính họ trong lề luật của
Ngài chứ, điển hình như những gì Ngài phán qua Moisen là vị trung gian của
Ngài sai đến cứu dân tộc của họ khỏi thân phận làm tôi bên Ai Cập ở trong
Bài Đọc 1 hôm nay:
"Ngươi chớ làm phiền lòng và ức hiếp khách
ngoại kiều: vì các ngươi cũng là khách ngoại kiều ngụ trong đất Ai-cập. Các
ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ. Nếu các ngươi hà hiếp những kẻ ấy, họ sẽ
kêu thấu đến Ta, và chính Ta đã nghe tiếng họ kêu van. Ta sẽ nổi cơn thịnh
nộ, sẽ dùng gươm giết các ngươi, vợ các ngươi sẽ phải goá bụa, và con cái
các ngươi sẽ phải mồ côi”.
Ai cho mình là tin Thiên Chúa và “yêu mến Chúa là Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” của mình, nhưng lại không “yêu thương kẻ khác như chính mình” thì kẻ ấy vẫn còn đang lầm lạc, đang vô tình tôn thờ ngẫu tượng mà không biết, chưa thực sự nhận biết Thiên Chúa là ai và như thế nào, tưởng Ngài là một vị Thiên Chúa vô cùng công minh chính trực, chỉ biết giáng phạt, chẳng khác nào như một ác thần hay hung thần, hơn là một vị Thiên Chúa như chính Ngài đã tự nhận trong Bài Đọc 1 hôm nay: “Ta là Đấng Thương Xót”.
Nếu Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân Do Thái trong going lịch sử
cứu độ của họ là một ác thần hay hung thần thì chính dân Do Thái đã bị Ngài
tiêu diệt từ lâu rồi, ngay khi họ quay lưng phản bội Ngài bằng việc tôn thờ
con bò vàng của họ khi Moisen lên núi lãnh nhận hai bia đá lề luật của Thiên
Chúa. Một hung thần hay ác thần lúc nào cũng có thể nổi cơn thịnh nộ trước
con người vô cùng hèn yếu, xấu xa tội lỗi và thẳng tay trừng phạt họ thì
chẳng bao giờ truyền dạy con người những lời lẽ ở trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân
cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn
lãi quen làm, và chớ bắt nó chịu lãi nặng. Nếu ngươi nhận áo sống của người
láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn: vì nó
chỉ có một áo ấy che thân, và không còn chiếc nào khác mặc để ngủ; nếu kẻ ấy
kêu van đến Ta, Ta sẽ nhậm lời nó, vì Ta là Ðấng thương xót".
Đó là lý do, Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, ở
trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã nhắc nhở Kitô hữu dân ngoại thành Thessalonica
qua Thư Thứ Nhất ngài gửi cho họ về đời sống đạo chân chính của họ
như sau: “Anh em
đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng
sống và chân thật, để trông đợi Con của Người từ trời mà đến, ‘Đấng mà Người
đã làm cho từ cõi chết sống lại’, là Ðức Giêsu, Ðấng đã giải thoát chúng ta
khỏi cơn thịnh nộ sắp đến”.
Sở dĩ
thành phần dân ngoại ở Thessalonica trở thành Kitô hữu sống đạo một cách
chân chính như thể là vì họ đã
“noi gương chúng tôi và noi gương Chúa”, một gương
mẫu mến Chúa yêu người:
“Anh em biết chúng tôi
sống thế nào vì anh em” (chỗ
in nghiêng do người viết tự ý nhấn mạnh và chứng thực những gì đang được
diễn giải), hay đúng hơn một tấm gương
vì Chúa mà thương người, nhờ đó, tấm gương này đã
trở nên như hiện thân của Lòng
Thương Xót Chúa, và nhờ đó người khác nhận biết Chúa mà trở về với Ngài, như
chính vị tông đồ dân ngoại Phaolô, vị đã từng là một biệt phái mến
Chúa nhưng không yêu người, ở chỗ, vì chỉ
nhiệt thành hay quá nhiệt
thành với Chúa nên đã đi bách hại Kitô hữu, nay chàng Saolê hung hăng mù
quáng ấy lại trở thành nhân chứng trung thực và sống động hơn ai hết của
Lòng Thương Xót Chúa giữa muôn dân.
Tuy nhiên, để được như vậy, để có thể “bỏ
tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và
chân thật”, không phải là chuyện dễ, con người tự mình mù quáng không thể
làm được, nếu không có ơn Chúa, nếu không được Thiên Chúa ra tay cứu độ,
điển hình nhất là trường hợp của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô. Bởi thế, Thánh
Vịnh 17 ở Bài Đáp Ca hôm nay đã chất chứa những cảm thức đầy xác tín và chí
lý sau đây:
1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa,
lạy Chúa là Ðá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con
nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng
ca ngợi khen cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù.
3) Chúa hằng
sống, chúc tụng Ðá Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con.
Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức
dầu của Ngài.
Thứ Hai
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 12-17
"Anh em đã nhận lãnh tinh thần nghĩa tử, trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: Abba, lạy Cha".
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được các hành động thân xác, thì anh em sẽ được sống.
Những ai sống theo Thánh Thần Thiên Chúa, thì là con cái Thiên Chúa. Vì không phải anh em đã nhận tinh thần nô lệ trong sợ hãi nữa, nhưng đã nhận tinh thần nghĩa tử; trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: "Abba, lạy Cha". Vì chính Thánh Thần đã làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy nếu là con cái, thì cũng là những người thừa tự: nghĩa là thừa tự của Thiên Chúa, và đồng thừa tự với Ðức Kitô, vì chúng ta đồng chịu đau khổ với Người, để rồi chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 67, 2 và 4. 6-7ab. 20-21
Ðáp: Thiên Chúa chúng tôi là Thiên Chúa cứu độ (c. 21a).
Xướng: 1) Thiên Chúa đứng lên, quân thù của Người tan rã, và những kẻ ghét Người chạy trốn khỏi long nhan. Nhưng người hiền đức mừng rỡ hỉ hoan, trước nhan Thiên Chúa, họ mừng vui sung sướng. - Ðáp.
2) Là Cha kẻ mồ côi, là Ðấng bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người tù tội ra nơi thịnh đạt. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa ngày nọ qua ngày kia! Thiên Chúa là Ðấng cứu độ, Người vác đỡ gánh nặng chúng tôi. Thiên Chúa chúng tôi là Thiên Chúa cứu độ, Chúa là Thiên Chúa ban ơn giải thoát khỏi tay tử thần. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 13, 10-17
"Chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc người con gái của Abraham này trong ngày Sabbat sao?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được. Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: "Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà". Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa.
Nhưng viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat, nên ông cất tiếng bảo dân chúng rằng: "Có sáu ngày người ta phải làm việc: vậy thì các người hãy đến xin chữa bệnh trong ngày đó, chớ đừng đến trong ngày Sabbat".
Chúa trả lời và bảo ông ta rằng: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabbat, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?"
Khi Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người đều hổ thẹn, và toàn dân vui mừng vì những việc lạ lùng Người đã thực hiện.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa:
Chữa lành hơn là trừ quỉ
Hôm nay, Thứ Hai Tuần XXX Thường Niên, bài Phúc Âm thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho người đàn bà khòm lưng 18 năm trường ở trong hội đường vào một ngày hưu lễ.
"Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội
đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã
mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được.
Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: 'Hỡi
bà kia, bà được khỏi tật của bà'. Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức
thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa".
Sở dĩ người đàn bà này bị khòm lưng 18 năm như vậy không phải là vì bà bị dị tật bẩm sinh ngay từ khi mới sinh, hay vì một chứng bệnh quái lạ nào khác, hoặc vì bị tai nạn vào một lúc nào đó trong đời của bà, mà là vì "bà bị quỷ ám". Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định hiện tượng này trong câu Người cảnh giác "viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat" và "tất cả những kẻ chống đối Người": "Người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?".
Trong biến cố chữa lành này, Chúa Giêsu đã tự động ra tay chứ không cần phải chờ cho tới khi nữ nạn nhân khòm lưng 18 năm đáng thương này kêu xin Người, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: 'Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà'. Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa".
Chắc đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu gặp nữ nạn nhân đáng thương này và bà cũng bắt gặp Người lần đầu tiên, trong một hội đường, nơi có thể bà hằng tuần đến nghe lời Chúa, và cũng là nơi có thể Chúa Giêsu mới tới lần đầu. Không biết bà đã nghe ai nói về Người hay chưa, về các phép lạ Người làm, mà bà khi nghe thấy Chúa Giêsu giảng dạy khôn ngoan hơn các luật sĩ và biệt phái như thế mà cũng vô cảm, như không biết Người là ai, trong khi đó người mù ngồi ăn xin ở vệ đường ở thành Giêricô, như trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B cho thấy, đã nhào đến van xin Người chữa lành đôi mắt của anh ta cho bằng được.
Có thể bà cần phải nhìn thấy dung nhan vô cùng hiền hậu và ánh mắt chinh phục của Người nữa bà mới có thể nhận biết Người là ai và như thế nào, trong khi đó, như Phúc Âm thuật lại, "bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được". Ở đây, chúng ta thấy hai hình ảnh rất sâu xa:
Trước hết, vì con người "không thể trông lên được", không biết Chúa là ai, mà Thiên Chúa cần phải đến với con người trước, cần phải đoái trông đến con người, để chính Ngài làm cho họ có thể như nữ nạn nhân khòm lưng "đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa", nghĩa là có thể ngước trông lên Ngài, có thể nhận biết Ngài, có thể theo Ngài, có thể làm cho Ngài được nhận biết và yêu mến.
Sau nữa, hình ảnh người đàn bà "khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được đây", gây ra bởi bị quỉ ám, là hình ảnh con người nói chung đã vướng mắc nguyên tội, do ma quỉ là "tên sát nhân ngay từ ban đầu" (Gioan 8:44), cho dù họ có được thánh tẩy bởi Phép Rửa, cũng vẫn đầy những mầm mống tội lỗi và đam mê nết xấu, liên lỉ xu hướng về tội lỗi ("khòm lưng" luôn chúi đầu và chúi mặt xuống đất), có thể vấp ngã bất cứ lúc nào (người khòm lưng, chứ không phải gù lưng, rất dễ ngã xuống đất, nếu nhỡ có một ai đó đụng vào sau lưng, như thể bị ma quỉ cám dỗ xúi bậy).
Tại sao trong trường hợp này Chúa Giêsu không trừ quỉ cho người đàn bà khòm lưng 18 năm này, mà lại chữa lành cho bà thôi, không như trường hợp Người đã trừ quỉ cho một người bị câm do quỉ ám (xem Mathêu 9:32-33)? Thật ra, chữa lành cho nữ nạn nhân cho khỏi bị khòm lưng này cũng là cách gián tiếp trừ quỉ, là cách "tháo xiềng xích" mà satan đã "cột trói" bà, bởi vì nếu quỉ không bị Người khu trừ khỏi bà thì bà vẫn còn bị khòm lưng như thường.
Trường hợp không trừ quỉ mà chỉ chữa lành này cũng tương tự như trường hợp Người đã chữa lành cho một người bất toại là để chứng tỏ Người có quyền tha tội của Người, một quyền hành Người thực sự có mà nếu Người quả thực không tha được tội cho người bất toại là nguyên nhân gây ra hậu quả tật nguyện của người này, thì Người cũng không chữa lành cho nạn nhân bất toại ấy được (xem Mathêu 9:1-8).
Hình ảnh người đàn bà "khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được đây", gây ra bởi bị quỉ ám, như trên đã cảm nhận, là hình ảnh con người nói chung đã vướng mắc nguyên tội, nên luôn sống theo xác thịt, luôn hướng hạ ("khòm lưng" - một tật nguyền khiến con người không bao giờ thấy trời, ám chỉ họ không thể nào hướng thượng, mà chỉ thấy đất, chỉ luôn hướng hạ, hướng về trần tục tầm thường, chiều theo xác thịt hèn hạ, có thể sa ngã bất cứ lúc nào). Bởi thế, trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, Thánh Phaolô Tông Đồ đã khuyên nhủ Kitô hữu Rôma đừng sống theo xác thịt chết chóc mà hãy sống theo thần trí sự sống như sau:
"Anh em thân mến, chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được các hành động thân xác, thì anh em sẽ được sống. Những ai sống theo Thánh Thần Thiên Chúa, thì là con cái Thiên Chúa. Vì không phải anh em đã nhận tinh thần nô lệ trong sợ hãi nữa, nhưng đã nhận tinh thần nghĩa tử; trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: "Abba, lạy Cha". Vì chính Thánh Thần đã làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy nếu là con cái, thì cũng là những người thừa tự: nghĩa là thừa tự của Thiên Chúa, và đồng thừa tự với Ðức Kitô, vì chúng ta đồng chịu đau khổ với Người, để rồi chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người".
Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy một vị Thiên Chúa cứu độ, một khi Ngài "đứng lên", như hành động tự ý chữ lành của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, thì không một quyền lực nào có thể chống lại được Ngài, trái lại, còn làm cho "quân thù của Ngài tan rã" nữa, như tên quỉ ám ác độc trong bài Phúc Âm hôm nay, vì Ngài "là Cha kẻ mồ côi", không thể nào không "bênh vực người quả phụ", như trường hợp của người đàn bà khòm lưng 18 năm trong bài Phúc Âm hôm nay.
1) Thiên Chúa
đứng lên, quân thù của Người tan rã, và những kẻ ghét Người chạy
trốn khỏi long nhan. Nhưng người hiền đức mừng rỡ hỉ hoan, trước
nhan Thiên Chúa, họ mừng vui sung sướng.
2) Là Cha kẻ mồ côi, là Ðấng bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người tù tội ra nơi thịnh đạt.
3) Chúc tụng Chúa ngày nọ qua ngày kia! Thiên Chúa là Ðấng cứu độ, Người vác đỡ gánh nặng chúng tôi. Thiên Chúa chúng tôi là Thiên Chúa cứu độ, Chúa là Thiên Chúa ban ơn giải thoát khỏi tay tử thần.
Thứ Ba
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 18-25
"Các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa".
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi nghĩ rằng những đau khổ ở đời này không thể sánh với vinh quang sắp tới sẽ được mạc khải cho chúng ta. Vì chưng các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa. Các tạo vật đã phải tùng phục cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn như vậy, nhưng vì Ðấng đã bắt chúng phải tùng phục, với hy vọng là các tạo vật sẽ được giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa.
Vì chúng ta biết rằng cho đến bây giờ, mọi tạo vật đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà cả chúng ta nữa, là những kẻ đã được hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử của Thiên Chúa và ơn cứu độ thân xác chúng ta.
Vì chưng nhờ niềm cậy trông mà chúng ta được cứu độ. Nhưng hễ nhìn thấy điều mình hy vọng thì không phải là hy vọng nữa. Vì ai đã thấy điều gì rồi, đâu còn hy vọng nó nữa? Nhưng nếu chúng ta hy vọng điều chúng ta không trông thấy, chúng ta sẽ kiên tâm trông đợi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi (c. 3a).
Xướng: 1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của tôi, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. - Ðáp.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 13, 18-21
"Hạt cải mọc lên và trở thành một cây to".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Người lại phán rằng: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa:
Nước Thiên Chúa là một sự sống phát triển
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Ba Tuần XXX Thường Niên, thuật lại 2 dụ ngôn được Chúa Giêsu sử dụng để sánh ví về "Nước Thiên Chúa" như sau:
Dụ ngôn thứ nhất: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Dụ ngôn thứ hai: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".
Trong cả hai dụ ngôn này đều cho thấy sự sống của "Nước Thiên Chúa", được tỏ hiện qua sự phát triển của sự sống siêu nhiên và thiêng liêng này, một sự sống thần linh, trước hết, bắt nguồn chỉ là một cái mầm, nhỏ như là một "hạt cải", nhưng sau đó đã "mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Phải chăng "hạt cải" đây ám chỉ đức tin, "người kia" đây ám chỉ Chúa Kitô, "gieo" đây ám chỉ việc Chúa Kitô tỏ mình ra, nhất là qua cuộc Vượt Qua của Người, "trong ruộng mình" đây ám chỉ trên thế gian này? Nếu những diễn giải theo suy đoán này không sai thì ý nghĩa của dụ ngôn này có thể hiểu là Nước Trời giống như đức tin cứu độ được Chúa Kitô gieo vãi trên thế gian này vậy.
Chính đức tin cứu độ này, một khi "mọc lên", hình ảnh ám chỉ một Chúa Kitô Phục Sinh, thì sẽ "trở thành một cây to" ám chỉ Giáo Hội Chúa Kitô, một cộng đồng đức tin, đồng thời cũng là một bí tích cứu độ trần gian của Người và với người, một phương tiện cứu độ các linh hồn như "chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Sự phát triển tiêu biểu cho sự sống thần linh này còn được ví như "tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".
Phải chăng "tấm men" đây ám chỉ lời Chúa hay Phúc Âm và bí tích thánh (Phụng Vụ Thánh Thể); "người đàn bà kia" ám chỉ Giáo Hội; "bỏ vào" ám chỉ áp dụng, cử hành, ban phát; "ba đấu bột" ám chỉ 3 thành phần làm nên cộng đồng dân Chúa, cộng đồng đức tin, đó là giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ (tất nhiên giáo sĩ bao gồm cả hàng giáo phẩm); "đều dậy men" ám chỉ các phần tử của Giáo Hội được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô để sinh muôn vàn hoa trái thiêng liêng?
Đến đây, nếu các dẫn giải vừa được suy diễn không sai, thì chúng ta thấy 2 dụ ngôn về "Nước Thiên Chúa" này, một liên quan đến "hạt cải" và một liên quan đến "tấm men" liên hệ với nhau. Ở chỗ, một dụ ngôn liên quan đến sứ vụ của Chúa Kitô ("người kia", rõ hơn là "người đàn ông kia - a man") trong công cuộc gieo vãi đức tin cứu độ ("hạt cải") trên thế gian, và một dụ ngôn liên quan đến vai trò của Giáo Hội ("người đàn bà kia") trong việc làm cho 3 thành phần chính yếu của Giáo Hội được thấm nhuần tinh thần và sự sống của Chúa Kitô.
Đức tin cứu độ và Giáo Hội Chúa Kitô dường như được Chúa Kitô ám chỉ trong 2 dụ ngôn về "Nước Thiên Chúa" trong bài Phúc Âm hôm nay chính là những yếu tố chính yếu bất khả thiếu cho tình trạng phục hồi của tất cả thiên nhiên tạo vật đã được Thiên Chúa dựng nên cho con người nhưng vì tội lỗi của con người mà "rên siết và đau đớn" nên vẫn hằng "ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa", như Thánh Tông Đồ Phaolô cảm nhận, xác tín và khẳng định trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay:
"Các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa. Các tạo vật đã phải tùng phục cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn như vậy, nhưng vì Ðấng đã bắt chúng phải tùng phục, với hy vọng là các tạo vật sẽ được giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa. Vì chúng ta biết rằng cho đến bây giờ, mọi tạo vật đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà cả chúng ta nữa, là những kẻ đã được hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử của Thiên Chúa và ơn cứu độ thân xác chúng ta".
Bài Đáp Ca hôm nay, cũng y hệt bài Đáp Ca Chúa Nhật XXX Thường Niên đầu tuần, nhưng hôm nay phản ảnh tình trạng của "Các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa" trong Bài Đọc 2 cho năm lẻ hôm nay:
1) Khi Chúa đem những
người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng
chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của tôi, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.
Thứ Tư
Lễ Trọng Buộc Các
Thánh Nam Nữ
"Các thánh chúng ta tưởng nhớ hôm nay chính là những ai sống trong ân sủng
của Bí Tích Rửa Tội các vị lãnh nhận, các vị giữ nguyên tuyền 'ấn tín' ấy,
tác hành như là thành phần con cái của Thiên Chúa, tìm cách noi gương bắt
chước Chúa Giêsu, và giờ đây các vị đã đạt tới đích điểm của các vị ở chỗ
cuối cùng các vị 'thấy Thiên Chúa như Ngài là'".
Xin chào Anh Chị Em thân mến và chúc mừng ngày quan thày!
Trong việc cử hành hôm
nay, Lễ Các Thánh, chúng ta cảm thấy thực tại Các Thánh Thông Công đặc biệt
trở nên sống động, tức là đại gia đình của chúng ta, được làm nên bởi tất cả
mọi phần tử của Giáo Hội, có thành phần chúng ta còn đang hành
trình trên trần gian, có những người - đông đảo hơn - đã ra khỏi trần gian
và đã về Trời. Tất cả chúng ta đều được hiệp nhất, được gọi là "Các Thánh
Thông Công", tức là cộng đồng của tất cả những ai đã lãnh nhận
Phép Rửa.
Trong phụng vụ, Sách
Khải Huyền nhắc nhở chúng ta một đặc tính thiết yếu của các thánh như thế
này: các vị là những con người hoàn
toàn thuộc về Thiên Chúa. Cuốn Sách này cho thấy các vị là một đám đông
"được tuyển chọn", mặc áo trắng và có in "ấn tín của Thiên Chúa"
(7:2-4,9-14). Qua cái cá biệt cuối cùng này, được nhấn mạnh bằng thứ ngôn từ
bóng bẩy, cho thấy các
thánh thuộc về Thiên Chúa một cách trọn vẹn và chuyên biệt; các
vị là tài sản của Ngài.
Mang ấn tín của Thiên Chúa trong đời sống của mình và nơi con người của mình
nghĩa là gì? Tông Đồ Gioan
cũng cho biết rằng nó có nghĩa là trong
Chúa Giêsu Kitô, chúng ta đã thực sự trở nên con cái của Thiên Chúa (xem
1Gioan 3:1-3).
Chúng ta có nhận thức
được đại tặng ân này hay chăng? Chúng ta có nhớ rằng nơi Phép Rửa chúng ta
đã được Cha Trên Trời "niêm ấn" và đã trở nên con cái của Ngài hay chăng?
Nói đơn giản là chúng
ta mang tên họ của Thiên Chúa, tên họ của chúng ta là Thiên Chúa, vì chúng
ta là con cái của Thiên Chúa. Đây là gốc gác của ơn gọi nên thánh! Các
thánh chúng ta tưởng nhớ hôm nay chính là những ai sống trong ân sủng của Bí
Tích Rửa Tội các vị lãnh nhận, các vị giữ nguyên tuyền "ấn tín" ấy, tác hành
như là thành phần con cái của Thiên Chúa, tìm cách noi gương bắt chước Chúa
Giêsu, và giờ đây các vị đã đạt tới đích điểm của các vị ở chỗ cuối cùng các
vị "thấy Thiên Chúa như Ngài là".
Đặc tính thứ hai thích
đáng với các thánh đó là các
vị trở nên những tấm gương để bắt chước.
Chúng ta hãy lưu ý nhé: chẳng
những các vị Thánh được tôn phong mà có thể nói cả những vị Thánh "ở bên
cạnh" chúng ta, những vị nhờ ơn Chúa đã nỗ lực thực hành Phúc Âm nơi những
cái thường tình trong đời sống của họ.
Chúng ta cũng đã gặp những vị Thánh này: có lẽ chúng ta đã có một ai đó
trong gia đình của chúng ta, hay trong số bạn bè quen biết của chúng ta.
Chúng ta cần phải biết ơn họ và nhất là cần phải tạ ơn Chúa là Đấng đã ban
họ cho chúng ta, Đấng đặt họ gần chúng ta, như là những tấm gương sống động
và lây lan về cách sống chết trung thành với Chúa Giêsu cũng như với Phúc Âm
của Người. Biết bao người tốt lành chúng ta đã biết đến và đang biết đến và
chúng ta nói rằng: "Người này là một vị Thánh!", chúng ta nói như thế một
cách bộc phát. Đó là những vị Thánh kề bên chúng ta, những vị chưa được tôn
phong nhưng đang sống với chúng ta.
Để bắt chước các hành vi
cử chỉ yêu thương và nhân hậu của họ là một cái gì đó như thể kéo dài sự
hiện diện của họ trên thế gian này. Thật vậy, những
hành vi cử chỉ phúc âm ấy là những hành vi cử chỉ duy nhất chống lại cái hủy
hoại của sự chết: một hành động êm ái dịu dàng, một hành động quảng đại giúp
đáp, giành thời gian lắng nghe, một cuộc viếng thăm, một lời nói tử tế, một
nụ cười tươi... Những
hành vi cử chỉ này có vẻ tầm thường chẳng là gì trước con mắt của chúng ta,
thế nhưng trước con mắt của Thiên Chúa chúng lại là những gì thường hằng, vì
tình yêu và lòng thương cảm mạnh hơn cả sự chết.
Chớ gì Trinh Nữ Maria,
Nữ Vương Các Thánh, giúp chúng ta tin tưởng hơn nữa vào ân sủng của Thiên
Chúa, tiến bước nhanh chóng trên đường
thánh thiện. Chúng ta hãy ký thác cho Người Mẹ của chúng ta nỗ lực hằng ngày
của chúng ta, và chúng ta cũng nguyện cầu cùng Mẹ cho kẻ chết của chúng ta
với niềm hy vọng sâu xa rằng chúng ta sẽ được gặp lại họ một ngày kia tất cả
cùng nhau ở trong mối hiệp thông vinh hiển trên Thiên Đàng.
http://www.zenit.org/en/articles/full-text-pope-s-angelus-address--3
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch (kèm theo nhan đề và những chỗ nhấn mạnh tự ý)
ĐTC PHANXICÔ: HUẤN TỪ TRUYỀN TIN LỄ CÁC THÁNH THỨ TƯ NGÀY 1-11-2017
"Các Thánh không phải là những mẫu gương mô phạm hoàn hảo,
mà là những con người được Thiên Chúa đụng chạm"
Xin chào và mừng lễ Anh Chị Em thân mến!
Lễ Trọng Các Thánh là lễ của "chúng ta", không phải vì chúng ta tốt lành mà vì sự thánh thiện của Thiên Chúa đã đụng chạm tới chúng ta. Các Thánh không phải là những mẫu gương mô phạm hoàn hảo, mà là những con người được Thiên Chúa đụng chạm. Chúng ta có thể so sánh các vị với những cửa sổ ở các nhà thờ, nơi ánh sáng lọt qua bằng các bóng mầu khác nhau. Các Thánh là những người anh chị em của chúng ta, thành phần đã lãnh nhận ánh sáng của Thiên Chúa nơi tâm hồn của mình và truyền đạt ánh sáng này cho thế giới, mỗi vị theo cái bóng của mình. Tuy nhiên, tất cả các vị đều trong sáng; các vị đã chiến đấu để loài bỏ đi các dấu vết và bóng tối của tội lỗi, để cho ánh sáng tốt lành của Thiên Chúa chiếu qua. Đó là mục đích của đời sống: để cho ánh sáng của Thiên Chúa chiếu qua nhờ đó đời sống của chúng ta cũng mới có mục đích.
Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu hướng về thành phần của Người, về tất cả chúng ta, mà nói với chúng ta rằng "Phúc thay - Blessed" (Mathêu 5:3). Người đã mở đầu việc giảng dạy của Người bằng lời ấy, có nghĩa là "Phúc Âm - Gospel", là Tin Mừng - Good News, vì đó là lối sống hạnh phúc. Ai ở với Chúa Giêsu thì có phúc - blessed, thì hạnh phúc - happy. Hạnh phúc không phải là ở chỗ có một cái gì đó hay trở nên một ai đó, không phải thế. Hạnh phúc thật là ở với Chúa và sống cho tình yêu. Anh chị em có tin như thế chăng? Hạnh phúc không phải là ở chỗ có một cái gì đó hay trở nên một ai đó, không phải thế. Hạnh phúc thật là ở với Chúa và sống cho tình yêu. Anh chị em có tin như thế chăng? Chúng ta cần phải tiến tới chỗ tin như thế. Bấy giờ các thứ yếu tố làm thành một đời sống hạnh phúc mới được gọi là các mối Phúc Đức - Beatitudes: phúc cho ai đơn sơ, cho ai khiêm hạ biết giành chỗ cho Thiên Chúa, những người có thể khóc thương kẻ khác và khóc vì lầm lỗi của mình, những người hiền lành, chiến đấu cho công lý, biết thương xót tất cả mọi người, biết canh giữ tính chất tinh tuyền của tâm can, luôn hoạt động cho hòa bình và sống hân hoan; họ không biết thù ghét, thậm chí ngay cả khi chịu khổ đau, họ đáp lại sự dữ bằng sự lành.
Đó là những mối Phúc Đức. Chúng không đòi hỏi những cử chỉ hào nhoáng; chúng không giành cho thánh phần siêu việt - supermen, mà là cho những ai sống các thứ thách đố và khốn khó hằng ngày, mà là cho chúng ta. Các Thánh là như thế đó: như tất cả chúng ta, các vị hít thở bầu khí phóng uế của sự dữ xầy ra trên thế giới này; tuy nhiên, trong cuộc hành trình các vị vẫn không bao giờ lạc mất dấu vết của Chúa Giêsu - Jesus' trace, được nói đến trong các mối Phúc Đức, như tấm bản đồ của đời sống Kitô hữu. Hôm nay là lễ của những ai đã đạt tới đích điểm được phác họa nơi tấm bản đồ ấy: không những của các Thánh nhân theo niên lịch, mà còn cả của rất nhiều anh chị em "cận kề" chúng ta nữa, những con người có lẽ chúng ta đã gặp gỡ và biết đến. Đó là một lễ của gia đình - a family feast, của nhiều con người đơn sơ và kín đáo thực sự giúp Thiên Chúa trong việc đẩy mạnh thế giới này. Có rất nhiều người hôm nay đây! Rất nhiều. Xin cám ơn những người anh chị em ẩn danh đang giúp Thiên Chúa đẩy mạnh thế giới này, những con người sống giữa chúng ta. Chúng ta chào họ bằng một tràng pháo tay nhiệt liệt!
Trước hết - hãy nói đến mối Phúc Đức thứ nhất - họ là những người "có tinh thần nghèo khó" (Mathêu 5:3). Nghĩa là gì? Nghĩa là họ không sống vì thành đạt, quyền năng và tiền của; họ biết rằng ai tích lũy giầu sang phú quí cho bản thân mình thì không làm giầu trước nhan Thiên Chúa (xem Luca 12:21). Trái lại, họ tin rằng Chúa mới là kho tàng của đời sống, tình yêu thương tha nhân là nguồn lợi tức duy nhất thực sự. Đôi khi chúng ta không cảm thấy hạnh phúc về một cái gì đó chúng ta đang thiếu hay quan tâm, một khi chúng ta không được cứu xét đến như chúng ta mong muốn; chúng ta hãy nhớ rằng mối Phúc Đức của chúng ta không ở trên đời này, mà là ở trong Chúa và nơi tình yêu thương: con người thực sự có phúc chỉ khi nào ở với Người, chỉ ở chỗ yêu thương mà thôi.
Sau hết, tôi muốn nói đến một mối Phúc Đức khác, mối phúc đức không có trong Phúc Âm mà là ở cuối cuốn Thánh Kinh, mối phúc đức về việc kết thúc đời sống: "Phúc cho thành phần chết trong Chúa" (Khải Huyền 14:13). Ngày mai chúng ta sẽ được kêu gọi hỗ trợ người chết của chúng ta bằng việc cầu nguyện, nhờ đó họ được hoan hỉ muôn đời trong Chúa. Chúng ta hãy tưởng nhớ đến những người thân yêu của chúng ta bằng tấm lòng tri ân và chúng ta hãy nguyện cầu cho họ.
Xin Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Các Thánh và là Cửa Thiên Đàng, chuyển cầu cho cuộc hành trình nên thánh của chúng ta và cho những người thân yêu của chúng ta đã ra đi trước chúng ta và giờ đây đang ở quê hương thiên đình.
https://zenit.org/articles/angelus-address-solemnity-of-all-saints/
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu
Xin xem thêm ở CN XXXI Năm B
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 26-30
"Những kẻ yêu mến Thiên Chúa, thì Người giúp họ được sự lành".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu nguyện như thế nào cho xứng hợp. Nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả. Mà Ðấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa.
Nhưng chúng ta biết rằng những kẻ yêu mến Thiên Chúa, thì Người giúp họ được sự lành, họ là những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh. Vì chưng, những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên hình ảnh giống Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 12, 4-5. 6
Ðáp: Lạy Chúa, con đã tin cậy vào đức từ bi của Chúa (c. 6a).
Xướng: 1) Xin đoái xem, nhậm lời con, lạy Chúa, lạy Thiên Chúa. Xin soi sáng mắt con, kẻo con thiếp ngủ trong tay tử thần, đừng để tên thù con nói được: "Ta đã thắng nó". Xin chớ để kẻ thù con hân hoan vì con quỵ ngã. - Ðáp.
2) Bởi con đã tin cậy vào đức từ bi của Chúa. Xin cho lòng con hân hoan vì ơn Ngài cứu độ, con sẽ hát mừng Chúa, vì Ngài ban ân huệ cho con. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 135
Alleluia, alleluia! - Xin tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 13, 22-30
"Người ta sẽ từ đông sang tây đến dự tiệc trong nước Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được. Khi chủ nhà đã vào đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu tới". Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: "Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi". Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta".
Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết, và những người trước hết sẽ nên sau hết".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa:
Cứu độ:
ân sủng không phải công lênh
Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXX Thường Niên, trong bài Phúc Âm, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta về vấn nạn số người được cứu độ, một vấn nạn bất chợt được đặt ra cho Chúa Giêsu khi Người đang "rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem", đích điểm mà Người phải đến để hoàn tất ơn cứu độ - Vậy Người đã trả lời ra sao?
Để hiểu được câu trả lời của Chúa Giêsu, cần phải biết nguyên văn câu hỏi từ một người nào đó trong đám đông đi theo Người bấy giờ: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Đây là một câu vừa nghi vấn "phải chăng", vừa khẳng định "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ", một câu hỏi chỉ muốn người trả lời xác nhận theo đúng ý của người hỏi, chẳng hạn: "Đúng thế, chỉ có một số ít sẽ được cứu độ mà thôi!"
Sở dĩ người đặt ra câu hỏi này chủ trương "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" là vì người này cho rằng chỉ có dân Do Thái là dân của Chúa mới là dân thánh, mới được cứu độ, ngoài ra, tất cả dân ngoại đều tội lỗi, xấu xa, đáng ghê tởm, không bao giờ được cứu độ. Chưa hết, ngay cả trong chính dân Do Thái của họ, thì thành phần thu thuế và đĩ điếm được liệt vào hạng tội nhân, cũng chẳng được cứu độ. Thế nên, "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" là vậy.
Nếu thế thì vấn nạn nhân trong bài Phúc Âm hôm nay, tiêu biểu cho chung dân Do Thái và cho riêng thành phần biệt phái cùng luật sĩ này cho rằng việc cứu độ chỉ giành cho những ai tuân giữ luật Chúa, và cứu độ không phải là một "ơn", được gọi là "ơn cứu độ", mà là việc cứu độ liên quan đến việc tuân giữ luật của họ. Ngoài ra, chủ trương việc cứu độ hơn là "ơn cứu độ" này còn ngầm cho rằng không có vấn đề thống hối ăn năn, một khi con người đã sa ngã phạm tội thì kể không được cứu độ nữa.
Đó là lý do khi được Chúa Giêsu nhắc nhở "ai trong các người không có tội thì cứ ném đá chị ta đi (người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình)" (Gioan 8:7), họ mới chẳng những chợt hổ thẹn bỏ đi từ người lớn tuổi hơn (xem Gioan 8:8), mà còn được nhắc nhở rằng ai cũng có tội, cần phải ăn năn thống hối, chứ đừng lên án và sát phạt người khác làm như thể mình chẳng có tội và chẳng đáng bị ném đá.
Phần Chúa Giêsu, Người đã không trả lời dứt khoát với vấn nạn nhân này rằng "sẽ có một số ít sẽ được cứu độ" như họ mong đợi, hay là "sẽ có nhiều người được cứu độ". Người chỉ nói đến điều kiện để được cứu độ mà thôi: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp". Đồng thời Người cũng thòng thêm một câu ngay sau đó, một câu như thể Người tỏ ra đồng ý và chấp nhận chiều hướng "sẽ có một số ít sẽ được cứu độ" của người đặt vấn đề với Người, và câu được Người bồi thêm là: "Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được".
Như thế, nếu muốn được cứu độ, tức muốn được lên trời, con người cần phải "vào qua cửa hẹp", trong khi đó, thực tế cho thấy "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được" thì đúng là phải kết luận rằng: "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ" mà thôi.
Tại sao thế? Tại sao lại xẩy ra chuyện kỳ quặc như thế: "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được"? Chẳng lẽ người ta muốn được cứu rỗi mà cũng không được hay sao, mà cũng không đúng như ý Chúa muốn cứu độ họ hay sao? Trái lại, cuối cùng còn bị Ngài phủ nhận và chối bỏ một cách phũ phàng cùng nghiêm thẳng xua đuổi nữa: "Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta". Cho dù họ có tự biện minh và bào chữa hợp tình hợp lý rằng: "Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi".
Chính những lời họ tự bào chữa và biện minh này đã thực sự chứng tỏ họ là một trong "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được", cho dù họ "đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi", tương tự như tín hữu Công giáo sau này ra trước tòa phán xét có chuyện gì không may thì viện lẽ mình đã tham dự Thánh Lễ, một cử hành phụng vụ bao gồm phần phụng vụ lời Chúa ("Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi") và phần phụng vụ Thánh Thể ("ăn uống trước mặt Ngài"), nhưng vẫn bị hư đi!
Những lời họ tự bào chữa và biện minh này còn cho thấy họ quả thực đã chủ trương do các việc họ làm mà họ được cứu độ, hơn là "ơn" cứu độ Chúa ban. Và vì thế, họ ở vào số "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được". Trong khi đó, thành phần dân ngoại mà họ cho là chắc chắn hư đi, không được rỗi như họ, thì lại được "ơn" cứu độ Chúa ban, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, khi Người tiên báo cho họ biết rằng: "Người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa". Và Người kết luận: "Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết (như thành phần dân ngoại), và những người trước hết sẽ nên sau hết (như thành phần dân Do Thái)".
Trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, Thánh Phaolô Tông Đồ đã cho chúng ta thấy con người được "ơn" cứu độ hơn là do việc làm của họ. Trước hết, ở chỗ con người yếu đuối cần đến Thánh Thần của Thiên Chúa là Đấng giúp con người sống đúng ý muốn của Thiên Chúa để được cứu độ:
"Anh em thân mến, có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu nguyện như thế nào cho xứng hợp. Nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả. Mà Ðấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa".
Sau nữa, ở chỗ chính Thiên Chúa chủ động, chứ không phải con người, trong việc cứu độ con người, từ đầu cho đến cuối: "Những kẻ Thiên Chúa đã biết trước, thì Ngài đã tiền định cho họ nên hình ảnh giống Con Người, để Người trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Những ai Ngài đã tiền định, thì Ngài cũng kêu gọi; những ai Ngài đã kêu gọi, thì Ngài cũng làm cho nên công chính; mà những ai Ngài đã làm cho nên công chính, thì Ngài cũng cho họ được vinh quang".
Bài Đáp Ca hôm nay cũng bày tỏ cảm nhận về "ơn Ngài cứu độ", theo chiều hướng của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm và Thánh Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay, chứ hoàn toàn không phải về việc con người làm là những gì sẽ giúp họ được cứu độ, như chủ trương của vấn nạn nhân trong Bài Phúc Âm hôm nay:
1) Xin đoái xem, nhậm lời con, lạy Chúa, lạy Thiên Chúa. Xin soi sáng
mắt con, kẻo con thiếp ngủ trong tay tử thần, đừng để tên thù con nói
được: "Ta đã thắng nó". Xin chớ để kẻ thù con hân hoan vì con quỵ ngã.
2) Bởi con đã tin cậy vào đức từ bi của Chúa. Xin cho lòng con hân hoan vì ơn Ngài cứu độ, con sẽ hát mừng Chúa, vì Ngài ban ân huệ cho con.
Thứ Năm
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 31b-39
"Không một tạo vật nào có thể tách biệt chúng ta khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Ðức Kitô, Chúa chúng ta".
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta? Người không dung tha chính Con Mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao? Ai sẽ tố cáo những kẻ Chúa chọn? (Chẳng lẽ là) chính Chúa, Ðấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án? (Chẳng lẽ là) Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa cũng đang biện hộ cho chúng ta?
Ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Ðức Kitô được? Hay là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao? (Như có lời chép rằng: "Vì Chúa mà thâu ngày chúng tôi bị tử hình. Chúng tôi bị coi như con chiên đem đi giết"). Nhưng chúng ta vượt thắng được trong tất cả những sự ấy vì Ðấng đã yêu thương chúng ta. Tôi chắc chắn rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay các bậc quyền quý, tài sức, dù những sự hiện tại hay tương lai, hoặc sức mạnh, dù cao hay sâu, dù tạo vật nào khác, cũng không có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 108, 21-22. 26-27. 30-31
Ðáp: Lạy Chúa, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa (c. 26b).
Xướng: 1) Nhưng phần Ngài, lạy Chúa, xin cùng con hành động vì danh Ngài, xin cứu sống con, bởi lòng Ngài từ bi nhân hậu! Bởi vì tấm thân con đau khổ và cơ hàn, và trong người con tâm can quằn quại! - Ðáp.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin giúp đỡ con, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa! để thiên hạ biết rằng đó là bàn tay của Chúa, và lạy Chúa, họ biết rằng Chúa đã làm những chuyện này. - Ðáp.
3) Con sẽ hết lời ca tụng Chúa, và con sẽ ngợi khen Ngài ở giữa chúng nhân. Vì Ngài đứng bên hữu kẻ cơ hàn, để cứu sống họ khỏi bọn người lên án. - Ðáp.
Alleluia: x. Ep 1, 17-18
Alleluia, alleluia! - Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã soi lòng trí để chúng ta biết thế nào là sự cậy trông Chúa kêu gọi chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 13, 31-35
"Không lẽ một tiên tri phải giết chết ngoài thành Giêrusalem?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong ngày ấy, có mấy người biệt phái đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: "Xin Thầy lên đường và đi khỏi đây, vì Hêrôđê toan giết Thầy". Người trả lời: "Các ông hãy đi nói với con cáo đó rằng: "Ðây Ta trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai, rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời. Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường, vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem".
"Ôi Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết hại các tiên tri và ném đá những người đã được sai đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi, như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh, thế mà ngươi đã không muốn. Thì đây, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang vu. Nhưng Ta bảo cho các ngươi hay: Các ngươi sẽ không còn xem thấy Ta, cho đến khi các ngươi sẽ nói rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến!"
Ðó là lời Chúa.
Suy
Nghiệm Lời Chúa:
Bất chấp con cáo Hêrôđê
Hôm nay, Thứ Năm Tuần XXX Thường Niên, Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại lời Chúa Giêsu, Đấng đang tiến về giáo đô Giêrusalem, đích điểm của cuộc hành trình cứu độ của Người với tư cách là một Đấng Thiên Sai Cứu Thế, tiên báo cho những người biệt phái biết, (chứ không phải là các môn đệ của Người biết), lần đầu tiên về cuộc tử nạn của Người ở Giêrusalem.
"Trong ngày ấy, có
mấy người biệt phái đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: 'Xin Thầy lên đường và đi
khỏi đây, vì Hêrôđê toan giết Thầy'. Người trả lời: 'Các ông hãy đi nói với
con cáo đó rằng: Ðây Ta trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai,
rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời. Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm
sau nữa, Ta còn phải đi đường, vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài
thành Giêrusalem'".
Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên Chúa Giêsu ngấm ngầm báo trước về cuộc tử nạn của Người với những người ngoài thành phần môn đệ của Người. Nhưng quả thật là lần đầu tiên với nhóm biệt phái. Ngoài ra, theo Phúc Âm Thánh ký Gioan, ngay từ đầu, Người cũng đã báo trước với chung dân Do Thái nữa ở ngay tại Đền Thờ Giêrusalem, khi Người thách họ "hãy cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Tôi sẽ dựng lại nó" (Gioan 2:19).
Chưa hết, theo Phúc Âm Thánh ký Mathêu, gần đến giờ của mình, tức là sau khi Người đã vinh quang vào Thánh Giêrusalem và đã thanh tẩy Đền Thờ, Người còn nói với thành phần lãnh đạo dân Do Thái nữa, qua dụ ngôn người con duy nhất của chủ vườn nho là chính bản thân Người bị bọn tá điền sát hại để chiếm gia nghiệp của người con này nữa (xem Mathêu 21:23,37-38).
Ở đây, trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, không biết những người biệt phái báo tin cho Người về âm mưu của quận vương Hêrôđê có hiểu được những gì Người nói liên quan đến cuộc tử nạn của Người sẽ xẩy ra ở giáo đô Giêrusalem hay chăng, tuy nhiên, thành phần biệt phái vẫn âm mưu hại Người nay có một số trong họ lại muốn cứu Người thì phải kể là sự lạ.
Hơn thế nữa, có người trong họ cũng đã mời Người đến nhà dùng bữa, như nhân vật tên Simon (xem Luca 7:36,40) hay nhân vật thủ lãnh nhóm này ở bài Phúc Âm ngày mai (xem Luca 14:1). Thậm chí có nhân vật biệt phái trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái là Nicôđêmô đã lén lút đến gặp Người ban đêm nữa (xem Gioan 3:1). Chính Chúa Giêsu đã chọn một pharisiêu để làm tông đồ cho dân ngoại là chàng Saulê (xem Tông Vụ 23:6). Như thế đủ cho thấy chúng ta đừng bao giờ "vơ đũa cả nắm" theo thành kiến về cá nhân nào hay về một nhóm nào có "con sâu làm rầu nồi canh".
Về phần Chúa Giêsu, khi nghe tin báo nguy hiểm cho bản thân mình như thế từ những người biệt phái, Người vẫn không hề tỏ ra lo âu sợ hãi và vội vàng tìm cách trốn tránh, trái lại, Người còn bảo những người báo tin ấy hãy đi nói lại với vị quận vương tinh quái như "con cáo" ấy về những gì Người vẫn tiếp tục cần làm và phải làm: "trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai", cho tới khi hoàn tất sứ vụ của Người: "rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời".
Thậm chí Người cũng chẳng ngần ngại công khai cho biết Người trong thời gian ấy đang ở đâu nữa, cứ việc tìm đến với Người nếu muốn, không hề sợ bị bại lộ tông tích: "Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường" để tiến về Giêrusalem và chỗ đó mới là nơi định mệnh của Người: "vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem hay sao".
Nếu Đền Thờ Giêrusalem biểu hiệu cho sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa thì Thành Giêrusalem biểu hiệu cho dân Chúa, nơi Thiên Chúa muốn ở giữa họ (xem Khải Huyền 21:1-3) như là một Emmanuel - Thiên Chúa ở giữa chúng ta (xem Mathêu 1:23 và Gioan 1:14).
Thế nhưng, cho dù Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ luôn ở với họ vẫn liên lỉ ngoại tình bằng việc hiến mình tôn thờ các ngẫu tượng của họ và các thần ngoại bang, bất chấp thành phần được Thiên Chúa sai đến nhắc nhở họ, bao gồm cả chính Con của Ngài, và vì thế họ sẽ phải hứng chịu hậu quả tương xứng cho tới khi họ nhận biết Người là Đấng Thiên Sai của họ, như Chúa Giêsu đã báo trước ở cuối bài Phúc Âm hôm nay:
"Ôi Giêrusalem,
Giêrusalem! Ngươi giết hại các tiên tri và ném đá những người đã được sai
đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi, như gà mẹ ấp ủ gà
con dưới cánh, thế mà ngươi đã không muốn. Thì đây, nhà các ngươi sẽ bị bỏ
hoang vu. Nhưng Ta bảo cho các ngươi hay: Các ngươi sẽ không còn xem thấy
Ta, cho đến khi các ngươi sẽ nói rằng: 'Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến!'"
Sự kiện Chúa Giêsu Kitô thực sự đã chịu khổ nạn và tử giá ở Giêrusalem, nghĩa là ở giữa dân Do Thái, do dân Do Thái và cho dân Do Thái, không phải là vì quyền lực sự dữ thắng thế trên Người, hay là vì Người không thể xuống khỏi thập giá như dân này thách thức Người, cho bằng vì Người đã tự hiến (xem Gioan 10:17-18,17:19) theo đúng ý Cha của Người là Đấng đã sai Người, đến độ Ngài đã, như Thánh Phaolô Tông Đồ khẳng định trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay: "không dung tha chính Con Mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta". Bởi Chúa Giêsu Kitô không phải chỉ là Đấng Thiên sai của dân Do Thái mà còn là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại "chúng ta" nữa.
Chính vì thế, chính vì Thiên Chúa đã "không dung tha chính Con Mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta", mà Con của Ngài là những gì quí nhất của Ngài, là chính bản thân Ngài (xem Do Thái 1:3), mà Thánh Phaolô đã trấn an và phấn khích chúng ta, trước hết, hãy tin tưởng cậy trông tất cả mọi sự nơi Thiên Chúa là Đấng: "lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao?", sau nữa, hãy yêu mến trung kiên với Thiên Chúa cho đến cùng:
"Ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Ðức Kitô được? Hay là
gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo
sao?... Tôi chắc chắn rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay các bậc
quyền quý, tài sức, dù những sự hiện tại hay tương lai, hoặc sức mạnh, dù
cao hay sâu, dù tạo vật nào khác, cũng không có thể tách biệt chúng ta ra
khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
Bài Đáp Ca hôm nay chẳng những phản ảnh tâm tình của một Chúa Kitô khổ nạn và tử giá trong Bài Phúc Âm hôm nay mà còn của thành phần Kitô hữu tin tưởng trung kiên với tình yêu của Thiên Chúa bất chấp mọi gian nan thử thách cho đến cùng trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay:
1) Nhưng phần Ngài,
lạy Chúa, xin cùng con hành động vì danh Ngài, xin cứu sống con, bởi lòng
Ngài từ bi nhân hậu! Bởi vì tấm thân con đau khổ và cơ hàn, và trong người
con tâm can quằn quại!
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin giúp đỡ con, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa! để thiên hạ biết rằng đó là bàn tay của Chúa, và lạy Chúa, họ biết rằng Chúa đã làm những chuyện này.
3) Con sẽ hết lời ca tụng Chúa, và con sẽ ngợi khen Ngài ở giữa chúng nhân. Vì Ngài đứng bên hữu kẻ cơ hàn, để cứu sống họ khỏi bọn người lên án.
Lễ Các Đẳng 2/11 - Lễ Nhớ, không buộc cử hành, nhưng thường vẫn được cử hành theo nhu cầu mục vụ
Nếu chúng ta quả thực tin có đời sau thì chúng ta đang tìm kiếm những gì ở đời này?
Hôm nay, 2/11, Giáo Hội tưởng nhớ đến Các Linh Hồn trong Luyện Ngục, chúng ta hãy cùng nhau lợi dụng dịp lễ này để suy niệm nhé: Nếu chúng ta quả thực tin có đời sau thì chúng ta đang tìm kiếm những gì ở đời này?
Trên thực tế, chúng ta có tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài trườc hết mọi sự hay chăng? (Mt 6:33). Không phải chỉ ở chỗ tham dự Thánh Lễ, trong đó chúng ta nghe lời Chúa và hiệp lễ hằng ngày mà đủ, vì Chúa vẫn có thể phủ nhận chúng ta rằng "Ta không hề biết các ngươi" dù chúng ta có biện minh rằng chúng ta đã từng nghe Người giảng dạy (có thể hiểu là nghe lời Chúa trong lễ) và ăn uống với Người (có thể hiểu là hiệp lễ) - (xem Lk 13:25-27).
Hơn thế nữa, chúng ta còn cần phải: 1- cương quyết chống lại các chước cám dỗ, 2- phải chọn những gì trọn lành hơn là những gì dễ chịu thoải mái, và 3- phải chịu đựng mọi trái ý xẩy đến cho mình nữa v.v., mới chứng tỏ chúng ta quả thực tin có đời sau và tìm kiếm những gì chân thật và hoàn hảo bất diệt, và chúng ta quả thực tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài trước hết và trên hết mọi sự.
Giả sử Chúa cho các linh hồn dưới hỏa ngục được trở về trần gian nhưng phải chịu khổ gấp trăm ngàn lần hơn ở dưới hỏa ngục và liên lỉ suốt cả nghìn năm như thế thì họ có sẵn sàng trở lại trần gian hay chăng? Theo tôi, chắc chắn họ sẽ vui mừng hết sức vì biết rằng cho dù có khổ đến mấy đi nữa nhưng họ vẫn còn hy vọng được cứu rỗi và nắm chắc được phần rỗi của mình.
Và giả sử Chúa cho cả các thánh trên trời trở lại trần gian, một chuyện không bao giờ xẩy ra, như trường hợp các linh hồn đã muôn đời hư đi trong hỏa ngục, nhưng nếu được phép, theo tôi, các thánh cũng chấp nhận liền, không phải vì thiên đàng không đủ cho các ngài, mà là vì các ngài tự mình vẫn cảm thấy mình kính mến Chúa chưa đủ Đấng vô cùng toàn thiện chí ái, nên được dịp là các ngài lợi dụng để yêu Chúa hơn bao nhiêu có thể, nhất là bằng những hy sinh đau khổ chỉ ở trên thế gian này mới có.
Thế thì:
1- Về thời gian: Tại sao chúng ta lại phung phí thời gian từng giây từng phút qua đi không bao giờ trở lại ở trên trần gian này với những thứ phù du chứ! Thời gian sống trên trần gian này quá ư là ngắn ngủi (hầu như là hư không) so với cõi đời đời, nhưng phải nói là nó quí "vô cùng", vì chỉ một tíc tắc cuối đời thôi của cuộc sống trần gian, chúng ta một là được Chúa hai là mất Chúa đời đời kiếp kiếp?
Nếu chúng ta biết lợi dụng thời gian mau qua ngắn ngủi trên đời này thì chúng ta chẳng những có thể biến mỗi ngày từ 24 tiếng thành 36 tiếng hay 48 tiếng, mà còn biến thời gian thành vĩnh cửu nữa, nhờ tinh thần sống siêu nhiên của chúng ta. Thật vậy, với sức tự nhiên mỗi ngày chúng ta chỉ làm được một số việc giới hạn nào đó, nhưng với lòng yêu mến Chúa, chúng ta có thể làm gấp đôi như vậy, thì không phải một ngày đã trở thành 2 ngày rồi hay sao, chỉ nhờ lòng yêu mến Chúa của chúng ta. Chưa hết, nếu chúng ta chỉ tìm ý Chúa và làm trọn ý Chúa trong mọi sự, thì chúng ta quả thực đã sống đời đời ngay trong thời gian và ngay trên trần gian này rồi vậy. Bởi vì: "Thế gian cùng với những quyến rũ của nó đang qua đi, nhưng ai làm theo ý muốn của Thiên Chúa sẽ tồn tại muôn đời" (1Jn 2:17).
2- Về đau khổ: Tại sao chúng ta lại không chấp nhận tất cả những đau khổ, so với vinh quang bất diệt đời sau hay với hình phạt muôn đời trong hỏa ngục, thì chẳng là gì trên trần gian mau qua tạm gửi này, những đau khổ chẳng là gì đó lại có thể chẳng những đền bù tội lỗi của chúng ta, mà còn được thông hiệp với cuộc khổ nạn và tử giá vô cùng quí báu của Chúa Kitô cho phần rỗi "những linh hồn cần đến Lòng Thương Xót Chúa hơn", nhất là được dịp chịu đựng để tỏ lòng kính mến hơn nữa Đấng toàn ái chí tôn đã vô cùng yêu thương từng con người được Ngài dựng nên theo hình ảnh thần linh và tương tự như Ngài, đến độ đã trở thành đáng thương hơn cả đối tượng đáng thương của Ngài?
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Xin xem thêm ở CN XXXI Năm B
Thứ Sáu
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 9, 1-5
"Tôi đã ước ao được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của tôi".
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi xin nói thật trong Ðức Kitô, tôi không nói dối: lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Thánh Thần, là tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn luôn. Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của tôi, là những thân nhân của tôi về phần xác. Họ đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề luầt, việc phượng tự và lời hứa; các tổ phụ cũng là của họ, và bởi các đấng ấy mà Ðức Kitô sinh ra phần xác, Người là Thiên Chúa trên hết mọi sự, đáng chúc tụng muôn đời. Amen.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20
Ðáp: Hỡi Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa! (c. 12a).
Xướng: 1) Hỡi Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa! Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các then cửa ngươi; Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. - Ðáp.
2) Người giữ cho mọi bờ cõi ngươi được bình an, Người dưỡng nuôi ngươi bằng tinh hoa của lúa mì. Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. - Ðáp.
3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 36a và 29b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 14, 1-6
"Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không kéo nó lên sao?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào dùng bữa trong nhà một thủ lãnh biệt phái, thì những người hiện diện ở đó dòm xét Người. Bấy giờ có một người mắc bệnh thuỷ thũng ở trước mặt Người. Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: "Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?" Các ông ấy làm thinh. Bấy giờ Người kéo kẻ ấy lại, và chữa lành, rồi cho về. Ðoạn Người bảo các ông rằng: "Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?" Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa:
Bất chấp cả Ngày Hưu Lễ
Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXX Thường Niên, trình thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành ở ngay trong nhà của một vị thủ lãnh nhóm biệt phái vào ngày hưu lễ, nguyên văn như sau:
"Khi ấy, vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào dùng bữa trong nhà một thủ
lãnh biệt phái, thì những người hiện diện ở đó dòm xét Người. Bấy giờ có một
người mắc bệnh thuỷ thũng ở trước mặt Người. Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các
Luật sĩ và biệt phái rằng: 'Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh
không?' Các ông ấy làm thinh. Bấy giờ Người kéo kẻ ấy lại, và chữa lành, rồi
cho về. Ðoạn Người bảo các ông rằng: 'Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có
con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?' Nhưng
các ông không thể trả lời câu hỏi ấy".
Bài Phúc Âm này cho thấy Chúa Giêsu tấn công địch ngay trong lòng địch, đó là ở ngay trong nhà của một thủ lĩnh biệt phái Người đã chữa lành vào ngay ngày hưu lễ, thành phần biệt phái vẫn hay theo dõi Người để bắt bẻ Người và mưu đồ hại Người, một cuộc tấn công Người cố ý làm, cho dù có đụng đến chủ trương duy luật của thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật trong dân chúng ấy.
Thế nhưng, họ thông luật ở chỗ thuộc nhiều luật lệ hơn dân chúng, bao gồm cả việc giữ luật hơn dân chúng, thế nhưng họ lại dẫn giải luật một cách thiển cận và theo thiên kiến vị kỷ, bởi thế, họ không thấy được đâu là tinh thần thực sự của luật và mục đích chính yếu của những gì được gọi là luật, của những gì tự bản chất chỉ là phương tiện giúp con người đạt được cứu cánh của họ hơn là cùng đích của họ.
Chính vì thế, Chúa Giêsu muốn lợi dụng việc chữa lành cho "một người mắc bệnh thủy thũng" vào ngày hưu lễ ở trong chính nhà của một người lãnh đạo biệt phái để nhờ đó có thể soi sáng cho họ biết những gì họ chủ trương là lệch lạc, là sai lầm, cần phải chỉnh đốn lại:
"Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: 'Trong ngày Sabbat,
có được phép chữa bệnh không?' Các ông ấy làm thinh... Ðoạn Người bảo các
ông rằng: 'Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi
xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?' Nhưng các ông không thể trả
lời câu hỏi ấy".
Sở dĩ thành phần biệt phái thông luật này tỏ thái độ "làm thinh" trước hai câu hỏi tối căn bản được Chúa Giêsu đặt ra gợi ý cho họ suy nghĩ và tự vấn không phải là vì họ chịu thua, hay đang cần giờ để tìm thêm được lý mạnh hầu phản công lại Người, hoặc vì nể mặt Người, mà chính là vì họ "không thể trả lời câu hỏi ấy".
Nếu "im lặng là đồng lõa" thì phải chăng những người biệt phái chứng kiến thấy việc Chúa Giêsu ngang nhiên chữa lành trong ngày hưu lễ ở ngay nhà của họ, nhất là "không thể trả lời câu hỏi" được Người đặt ra cho họ, đã hoàn toàn chấp nhận những gì Chúa Giêsu nói là chí lý, là chính xác, là chân thực, cần phải áp dụng thi hành?
Cũng có thể, nếu họ có thiện chí và tinh thần cởi mở. Bằng không, trái lại, với tinh thần cực đoan và bảo thủ, kèm theo tự ái về thế giá thông luật của mình, họ sẽ vẫn tiếp tục đường lối sai lầm của họ, với những biện minh và dẫn giải chủ quan phi chân lý. Nếu xẩy ra trường hợp đáng tiếc này thì cũng dễ hiểu. Vì bình thường con người ta vẫn hay cố chấp cho dù thực sự biết mình sai, để bảo vệ tiếng tăm mặt mũi của mình. Do đó, họ vẫn tiếp tục ngoan cố làm sai, bất chấp hậu quả gây ra cho bản thân họ cũng như cho những ai được họ dẫn dắt!
Thế nhưng, dầu sao, đối với Chúa Giêsu Kitô "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29) những con người đáng thương ấy vẫn "nhầm không biết việc mình làm" (Luca 23:34), vẫn đáng tha thứ. Chính vì cảm nghiệm được tình yêu vô cùng nhân hậu này của Thiên Chúa qua Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, mà nhân vật biệt phái chính qui Saulê đã hết lòng thông cảm với dân của mình, đến độ, trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, ngài đã dám liều mất phần rỗi của mình cho phần rỗi của họ:
"Anh em thân mến, tôi xin nói thật trong Ðức Kitô, tôi không nói dối:
lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Thánh Thần, là tôi buồn phiền quá đỗi,
lòng tôi hằng đau đớn luôn. Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Ðức Kitô vì
phần ích anh em của tôi, là những thân nhân của tôi về phần xác".
Tuy nhiên, theo vị Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô này, thì dân của ngài ấy chắc chắn không bị Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất lãng quên và loại bỏ, cho dù họ có ngoan cố đến đâu chăng nữa, bởi vì chính Thiên Chúa đã tự chọn dân tộc bẩm sinh ngoan cố này cho Ngài, để tỏ ra quyền năng đầy khôn ngoan và nhân hậu của Ngài trong việc thực hiện dự án cứu độ của Ngài cho chung nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, Đấng đã xuất phát từ giòng dõi dân Do Thái. Đó là lỳ do vị tông đồ này đã viết:
"Họ đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang,
giao ước, lề luầt, việc phượng tự và lời hứa; các tổ phụ cũng là của họ, và
bởi các đấng ấy mà Ðức Kitô sinh ra phần xác, Người là Thiên Chúa trên hết
mọi sự, đáng chúc tụng muôn đời. Amen".
Nếu cảm nhận được đặc ân tuyển chọn của mình trong dự án cứu độ của Thiên Chúa như thế, dân Do Thái không thể nào không vang lên những cảm nhận và tâm tình của mình như trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Hỡi Giêrusalem,
hãy ngợi khen Chúa! Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người
giữ chặt các then cửa ngươi; Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành
nội.
2) Người giữ cho mọi bờ cõi ngươi được bình an, Người dưỡng nuôi ngươi bằng tinh hoa của lúa mì. Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo.
3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người.
Thứ Bảy
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 11, 1-2a. 11-12. 25-29
"Nếu sự bỏ rơi người Do-thái là sự giao hoà của thế giới, thì đâu là cái lợi, nếu không phải là sự sống lại từ cõi chết?"
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, chớ thì Thiên Chúa đã bỏ rơi dân Người rồi sao? Hẳn là không. Vì chính tôi cũng là người Israel, miêu duệ của Abraham, thuộc chi họ Bengiamin. Thiên Chúa không từ bỏ dân Người mà Người đã chiếu cố trước.
Vậy tôi xin hỏi: Chớ thì họ đã vấp chân đến nỗi ngã xuống rồi sao? Hẳn là không. Nhưng vì lỗi lầm của họ mà Dân ngoại được ơn cứu độ, để họ ganh đua với những kẻ ấy. Nếu lỗi lầm của họ làm cho thế giới nên giàu có, và sự thiếu thốn của họ làm cho Dân ngoại được phú túc, thì sự dư đầy của họ còn lợi nhiều hơn biết bao.
Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết mầu nhiệm này (để anh em không tự cho mình là những kẻ khôn ngoan): là một phần dân Israel cứng lòng mãi cho đến khi toàn thể Dân ngoại nhập giáo, và bấy giờ toàn thể Israel cũng sẽ được cứu độ, như có lời chép rằng: "Từ Sion có Ðấng Cứu độ sẽ đến mà cất sự vô đạo khỏi Giacóp. Và đó là giao ước Ta ký kết với họ, khi Ta xoá bỏ tội lỗi của họ".
Xét theo Tin Mừng thì họ thật là kẻ thù nghịch vì anh em, nhưng xét theo kén chọn, thì họ là những người rất được yêu thương vì các tổ phụ. Bởi vì Thiên Chúa ban ân huệ và kêu gọi ai, Người không hề hối tiếc.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 93, 12-13a. 14-15. 17-18
Ðáp: Chúa sẽ không loại trừ dân tộc của Chúa (c. 14a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo, và giáo hoá theo luật pháp của Ngài, hầu cho họ được thảnh thơi trong những ngày gian khổ. - Ðáp.
2) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Ngài. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo. - Ðáp.
3) Nếu như Chúa chẳng phù trợ con, trong giây phút hồn con sẽ ở nơi yên lặng. Ðang lúc con nghĩ rằng "Chân con xiêu té", thì, lạy Chúa, ân sủng Ngài nâng đỡ thân con. - Ðáp.
Alleluia: Tv 147, 12a và 15a
Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 14, 1. 7-11
"Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:
"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: "Xin ông nhường chỗ cho người này", bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: "Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên", bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc.
"Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Ðó là lời Chúa.
Suy
Nghiệm Lời Chúa:
Biết thân biết phận thì chỉ đáp ứng hơn
là chọn lựa
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy
Tuần XXX Thường Niên, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Đúng hơn, cả hai
bài Phúc Âm hôm qua và hôm nay là một, vì khung cảnh diễn ra đều ở trong
cùng một địa điểm là "nhà
một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa", nhưng
về nội dung thì được
Giáo Hội cắt ra làm hai, vì ở
nơi đây Chúa đã dạy hai bài học cho thành phần biệt phái đang ăn uống với
Người bấy giờ.
Bài học thứ nhất đã được Chúa Giêsu huấn dụ trong bài Phúc Âm hôm qua về tinh thần và mục đích của lề luật liên quan đến sự kiện Người chữa lành cho người bị bệnh thủy thủng vào ngày hưu lễ. Bài học thứ hai được Người huấn dụ họ sau khi "Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:
"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này', bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên', bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Bài học thứ hai này trong Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu dạy đó là "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết", một thái độ khôn ngoan nhất, một chọn lựa tốt lành nhất. Không phải để, về phần tiêu cực, tránh được bẽ mặt khi "ngồi vào chỗ nhất", chỗ mà có thể "có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này', bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết". Cũng không phải để, về phần tích cực, được vẻ vang hơn khi "Người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên', bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc".
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong các cuộc hội họp, hay ngay cả trong nhà thờ, giáo dân Việt Nam nói riêng thường thích ngồi ở dưới hơn là ngồi ở trên. Cho dù có mời lên chỗ trống còn nhiều ở trên cũng không chịu. Có thể là vì họ sợ ngủ gật. Có thể là vì họ muốn ngồi đấy để chuồn ra ngoài cho dễ, hay biến cho nhanh dù chưa xong lễ. Có thể là vì bạn bè cùng tham dự không chịu thay đổi chỗ ngồi nên ngồi với nhau cho vui. Có thể là vì họ không muốn bị ai dòm ngó đằng sau. Có thể là vì họ có con nhỏ quấy phá muốn tránh chia trí cho mọi người. Có thể là vì họ cảm thấy mình hèn hạ tội lỗi bất xứng chỉ đáng ngồi cuối cùng v.v.
Ai cũng có lý do chính đáng để cứ ngồi ở chỗ cuối. Thế nhưng, chúng ta hãy suy nghĩ thật kỹ câu "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết" Chúa Giêsu huấn dụ những người biệt phái trong bài Phúc Âm hôm nay, cũng để huấn dụ cả chúng ta nữa, chúng ta mới thấy đó là một nguyên tắc sống đức tin và đồng thời cũng là một linh đạo rất thiết thực, cần thiết, hữu dụng và không thể không áp dụng để có thể sống bình an và nên trọn lành.
Thật vậy, vấn đề then chốt ở câu "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết" này đó là thái độ đáp ứng tuân theo hơn là chủ động chọn lựa. Bởi thế, Chúa Giêsu không bảo rằng "hãy chọn chỗ cuối cùng mà ngồi", mà là "hãy đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng". Tại sao thế? Tại vì nếu chúng ta mà "chọn" tức là chúng ta có quyền, chúng ta làm chủ, chúng ta làm theo ý muốn của chúng ta, làm theo ý nghĩ, ý thích, ý riêng của chúng ta, và sẽ chẳng bao giờ vừa với lòng tham vô đáy của chúng ta, không bao giờ hợp với tính hay thay đổi theo cảm giác cảm tình của chúng ta v.v.
Trong đời sống tu đức cũng thế. Bao lâu chúng ta còn làm chủ, còn tự tin, còn cậy mình v.v. thì bấy lâu chúng ta còn xa Chúa, chưa trọn lành, cho đến khi, qua những đau thương thử thách Chúa gửi đến cho chúng ta để thanh tẩy chúng ta, để kéo chúng ta ra khỏi thế gian, chúng ta bấy giờ mới chỉ còn biết bám lấy Chúa, chỉ còn biết tin tưởng vào Ngài và phó thác cho Ngài, nghĩa là bấy giờ nhờ được Chúa hoàn toàn chiếm đoạt và ngự trị, chúng ta mới có thể "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), mới có thể "thương xót như Cha là Đấng thương xót" (Luca 6:36), mới có thể "yêu nhau như Thày đã yêu thương các con" (Gioan 13:34,15:12).
Đó là lý do chúng ta thấy trong Biến Cố Truyền Tin, Mẹ Maria đầy ân phúc đã không "chọn" chỗ cuối cùng, mà là chấp nhận, là "đi ngồi vào chỗ cuối cùng" của Mẹ đó là thân phận của một nữ tỳ xin vâng (xem Luca 1:38), là chỗ Chúa chọn cho Mẹ - Phải chăng vì thế mà Mẹ đã không hề lên tiếng chối từ cho dù được chọn làm Mẹ Thiên Chúa!?!
Đó là lý do chúng ta còn thấy chỉ khi nào Tông Đồ Phêrô không còn tự mình đi đây đi đó nữa, mà trái lại, ngài còn bị dẫn đi đến nơi ngài không muốn, hoàn toàn trái ý của ngài, ở trong thế bị động hơn là chủ động như trước, ngài mới có thể thực sự "theo Thày", tức mới thực sự nên giống Đấng chịu đóng đinh là Thày của ngài (xem Gioan 21:18-19).
Đó cũng là lý do tại sao kẻ lớn nhất trên Nước Trời là kẻ "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), như tâm hồn của người nam cao trọng nhất được người nữ sinh ra (xem Mathêu 11:11), đến chỉ để tỏ cho dân chúng biết Đấng đến sau mình (xem Gioan 1:31,27): "Người cần được gia tăng, còn tôi cần bị giảm xuống" (Gioan 3:30).
Trường hợp của dân Do Thái thì sao - họ có "đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng" hay chăng, hay là, đúng như Chúa Giêsu nhận thấy họ trong bài Phúc Âm hôm nay rõ ràng là "những kẻ được mời chọn chỗ nhất"?
Quả thực đúng như thế. Ở chỗ, Thiên Chúa đã kén chọn dân Do Thái giữa các dân tộc trên thế giới này, nhưng thực tế cho thấy, qua giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, họ đã không sống đúng với ơn gọi chuyên biệt này của họ, không "đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng" được Thiên Chúa chọn cho ấy, trái lại, họ đã tự "chọn chỗ cuối cùng mà ngồi" cho họ, đó là một "chỗ" vời vợi xa cách Thiên Chúa của họ hơn bao giờ hết và hơn ai hết, "chỗ" ngoại tình với tà thần và sấp mình tôn thờ ngẫu tượng, trắng trợn loại bỏ Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ.
Thế nhưng, "chỗ cuối cùng" mà Thiên Chúa đã chọn cho dân Do Thái vẫn còn đấy, vì như Thánh Phaolô Tông Đồ trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay khẳng định: "Thiên Chúa không từ bỏ dân Người mà Người đã chiếu cố trước....Thiên Chúa ban ân huệ và kêu gọi ai, Người không hề hối tiếc".
Hơn thế nữa, chính nhờ họ tạm thời bỏ trống "chỗ cuối cùng" tuyệt vời của họ mà dân ngoại mới được ngồi ké nữa, như vị tông đồ dân ngoại này nhận định trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay: "vì lỗi lầm của họ mà Dân ngoại được ơn cứu độ... Nếu lỗi lầm của họ làm cho thế giới nên giàu có, và sự thiếu thốn của họ làm cho Dân ngoại được phú túc, thì sự dư đầy của họ còn lợi nhiều hơn biết bao".
Đó là một "mầu nhiệm", mầu nhiệm cứu độ theo dự án vô cùng khôn ngoan huyền diệu của Thiên Chúa mà Thánh Phaolô muốn cho dân ngoại biết, qua Kitô hữu giáo đoàn Rôma, trong Bài Đọc 1 hôm nay, để thành phần dân ngoại này không bị ảo tưởng và vênh vang tự phụ:
"Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết mầu nhiệm này (để anh em không tự cho mình là những kẻ khôn ngoan): là một phần dân Israel cứng lòng mãi cho đến khi toàn thể Dân ngoại nhập giáo, và bấy giờ toàn thể Israel cũng sẽ được cứu độ".
Trong giòng Lịch Sử Cứu Độ của mình, chính Dân Do Thái cũng đã cảm nghiệm được Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ không bao giờ bỏ họ, cho dù họ có thế nào chăng nữa, đến độ, có những lúc họ cảm thấy không thể nào thiếu Ngài, như những tâm thức của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo, và giáo hóa theo luật pháp của Ngài, hầu cho họ được thảnh thơi trong những ngày gian khổ.
2) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Ngài. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo.
3) Nếu như Chúa chẳng phù trợ con, trong giây phút hồn con sẽ ở nơi yên lặng. Ðang lúc con nghĩ rằng "Chân con xiêu té", thì, lạy Chúa, ân sủng Ngài nâng đỡ thân con.