SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
(ĐTC Gioan Phaolô II: B
1- Trong
Tuần Bát Nhật Phục Sinh này, một tuần được coi như là một ngày trọng đại duy
nhất, phụng vụ không ngừng lập đi lập lại sứ điệp Phục Sinh: “Chúa Giêsu
thực sự đã sống lại rồi!”. Lời
loan báo này mở ra cho toàn thể nhân loại một chân trời mới. Tất
cả những gì được ám chỉ một cách mầu nhiệm nơi Cuộc Biến Hình trên Núi Tabo
đều trở thành hiện thực nơi Cuộc Phục Sinh. Lúc biến
hình, Chúa Giêsu tỏ cho các vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy phép lạ
hiển vinh cùng với ánh sáng được niêm ấn bằng tiếng của Chúa Cha: “Đây là
Người Con yêu dấu của Ta” (Mk 9:7).
Vào ngày lễ Phục
Sinh, những lời này hiện lên cho chúng ta thấy trọn vẹn thực tại của chúng. Người
Con yêu dấu của Chúa Cha, tức Đức Kitô bị đóng đanh và tử nạn, đã sống lại
vì chúng ta. Trong sự tỏ rạng của Người, tín hữu chúng
ta thấy được ánh sáng, và, như phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương xướng lên,
“được Thần Linh phục sinh, chúng ta muôn đời chúc tụng Ba Ngôi Thiên Chúa
đồng bản thể” (Kinh Tối Trọng Thể Lễ Chúa Kitô Biến Hình). Với một
tấm lòng tràn đầy niềm vui Phục Sinh, hôm nay tinh thần chúng ta hãy leo lên
ngọn núi thánh nổi bật trên đồng bằng Galilêa để chiêm ngưỡng ở chóp đỉnh
của nó một biến cố xẩy ra hướng vọng tới biến cố Phục Sinh.
2- Chúa
Kitô là tâm điểm của Cuộc Biến Hình. Hai
chứng nhân của Cựu Ước hiện ra với Người là Moisen, vị trung gian của lề
luật, và Elia, vị tiên tri của Thiên Chúa hằng sống. Thần
tính của Chúa Kitô, được tiếng của Chúa Cha công bố, cũng tỏ hiện bởi những
biểu hiệu bằng hình ảnh theo kiểu
diễn tả của thánh ký Marcô. Thật vậy, có ánh sáng và mầu trắng tiêu biểu cho
vĩnh cửu và siêu việt tính: “Y phục của Người trở nên sáng láng, trắng tinh
đến nỗi không một thợ giặt tẩy nào trên trần gian này có thể làm nổi” (Mk
9:3). Thế rồi có cả mây trời, dấu hiệu Thiên Chúa hiện diện trong cuộc Xuất
Ai Cập của dân Yến Duyên cũng là dấu hiệu Ngài hiện diện nơi lều Giao Ước (x
Ex 13:21-22, 14:19, 24, 40: 34, 38).
Vào Buổi Sáng ngày
lễ Biến Hình, phụng vụ Đông Phương cũng xướng lên rằng: “Ôi Lời Thiên Chúa,
sự rạng ngời tinh nguyên của ánh sáng Chúa Cha, trong ánh sáng tỏa chiếu của
Chúa trên Núi Tabo, hôm nay chúng con đã được thấy ánh sáng là Chúa Cha và
ánh sáng là Thần Linh, một ánh sáng soi chiếu tất cả mọi tạo vật”.
3- Bản
văn phụng vụ này đề cao chiều kích Ba Ngôi nơi Cuộc Biến Hình trên núi của
Chúa Kitô. Thật vậy, Chúa Cha hiện diện rõ ràng nơi tiếng nói phát ra.
Truyền thống Kitô Giáo có một thoáng nhìn ngấm ngầm về việc Thánh Linh hiện
diện nơi biến cố biến hình song song với biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa ở
sông Dược Đăng, lúc mà Thần Linh lấy hình bồ câu đậu xuống trên Người (Mk
1:10). Thật vậy, mệnh lệnh “Hãy lắng nghe Người” (Mk 9:7) của Chúa Cha cho
thấy Chúa Giêsu đầy Thánh Linh để các lời của Người đều là “thần trí và là
sự sống” (Jn 6:63, x. 3:34-35).
Bởi vậy, chúng ta
có thể leo lên ngọn núi
này để trầm tư, chiêm ngưỡng và dìm mình vào mầu nhiệm ánh sáng của Thiên
Chúa. Tabo tiêu biểu cho tất cả mọi ngọn
núi dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, như các nhà thần bí vẫn thích dùng hình
ảnh so sánh này. Một bản văn khác của Giáo Hội Đông
Phương kêu gọi chúng ta thực hiện cuộc tiến lên tới chóp đỉnh và tới ánh
sáng như sau: “Hỡi các dân, hãy đến mà theo tôi!
Chúng ta hãy leo lên ngọn núi thánh thiên đình; tâm linh của chúng ta hãy
dừng lại ở thành đô Thiên Chúa hằng sống và lấy tinh thần mà chiêm ngưỡng
thần tính của Chúa Cha và Thánh Thần được rạng ngời nơi Người Con Duy Nhất”
(troparion at the conclusion of the Canon of St John
Damascene).
4- Nơi
Cuộc Biến Hình, chúng ta chẳng những chiêm ngưỡng mầu nhiệm Thiên Chúa, đi
từ ánh sáng tới ánh sáng (x Ps 36:10), chúng ta còn được mời gọi để lắng
nghe lời thần linh nói với chúng ta nữa. Vượt trên ngôn từ của Lề Luật hiện
thân nơi Moisen cũng như ngôn từ của tiên tri hiện thân nơi Êlia, tiếng nói
của Chúa Cha có thể nghe thấy có liên quan đến tiếng nói của Chúa Con, như
Tôi vừa đề cập tới (x Mk 9:7). Khi dẫn giải
về cảnh Biến Hình, Bức Thư Thứ Hai của Thánh Phêrô nhấn mạnh đến tiếng nói
thần linh. Chúa Giêsu Kitô “đã nhận được vinh dự cùng
vinh quang từ Thiên Chúa Cha và có một tiếng nói đã phát ra với Người từ
vinh quang uy nghi cao cả: ‘Đây là Người Con yêu dấu của Ta, Người mà Ta hài
lòng’; chúng tôi đã nghe thấy tiếng nói ấy phát ra từ trời, vì chúng tôi đã
ở với Người trên núi thánh. Do đó chúng tôi càng vững vàng hơn nữa về lời
ngôn sứ. Anh em tỏ ra vững chắc khi chú ý tới lời như là ngọn đèn sáng soi
trong nơi tăm tối cho đến ngày rạng đông và sao mai mọc lên trong tâm trí
anh em” (2Pt
Chúng ta hãy chúc
tụng Chúa Cha, Ngôi Lời và Thánh Linh.
5- Bởi
vậy, nhìn và nghe, chiêm ngưỡng và tuân phục là những đường lối dẫn chúng ta
lên núi thánh, nơi Ba Ngôi tỏ mình ra trong vinh quang của Chúa Con. “Cuộc
Biến Hình làm cho chúng ta nếm trước việc Chúa Kitô đến trong vinh quang,
khi Người ‘biến đổi thân xác thấp hèn của chúng ta nên giống như thân xác
vinh hiển của Người’ (Phil 3:21). Thế nhưng, Cuộc Biến Hình đồng thời cũng
nhắc nhớ là ‘chính nhờ trải qua nhiều cuộc bách hại chúng ta mới được vào
vương quốc của Thiên Chúa’ (Acts
Như linh đạo của
Giáo Hội Đông Phương nêu lên, phụng vụ về Cuộc Biến Hình cho thấy một “bộ
ba” nhân loại nơi ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, những vị chiêm
ngưỡng Ba Ngôi thần linh. Như ba người trẻ trong lò lửa của Sách Tiên Tri
Đaniên (3:51-90), phụng vụ “chúc tụng Thiên Chúa là Cha và là Đấng Hóa Công,
ngợi khen Ngôi Lời là Đấng đã xuống giúp họ và biến lửa thành sương sa, cùng
tôn vinh Thánh Linh là Đấng ban sự sống cho tất cả mọi người đến muôn đời”
(Kinh Ban Mai Lễ Biến Hình).
Giớ đây chúng ta
hãy cầu nguyện cùng Chúa Kitô biến hình bằng những lời của Kinh
Nguyện Thánh Gioan Đamascênô: “Ôi Chúa Kitô, Chúa đã thu hút con bằng
lòng khao khát Chúa, và đã biến đổi con bằng tình yêu thần linh. Xin Chúa
hãy thiêu đốt tội lỗi của con bằng lửa thiêng của Chúa và xin hãy đoái
thương làm cho con tràn đầy nỗi dịu ngọt của Chúa, để vui mừng hớn hở, con
sẽ chúc tụng tất cả mọi biểu hiện của Chúa”.
(Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osseervatore Romano, ấn bản Anh
ngữ,
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XVIII
thường niên nếu không trùng với Lễ Chúa Giêsu Biến Hình
Bài Ðọc I: Is 55, 1-3
"Hãy đến mua lúa mà ăn".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa phán: "Hỡi tất cả những ai khát nước, hãy đến uống nước; hỡi kẻ không tiền bạc, hãy đến mua lúa mà ăn; hãy đến mà mua rượu và sữa, không cần trả tiền, không cần đổi chác gì. Tại sao các ngươi không dùng tiền mà mua bánh, sao không dùng tiền lương mà mua đồ nuôi thân? Vậy hãy lắng tai nghe, hãy đến ăn đồ bổ, và các ngươi sẽ được thưởng thức món ăn mỹ vị. Hãy lắng tai và đến cùng Ta, hãy nghe, thì các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, đó là những hồng ân đã hứa cho Ðavít".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 8-9. 15-16. 17-18
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho chúng con được no nê (x. c. 16).
Xướng: 1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.
2) Muôn loài để mắt cậy trông vào Chúa, và Ngài ban lương thực cho chúng đúng theo giờ. Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho mọi sinh vật được no nê. - Ðáp.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 8, 35. 37-39
"Không một tạo vật nào có thể tách biệt chúng ta khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Ðức Kitô, Chúa chúng ta".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Ðức Kitô được? Hay là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao?
Nhưng chúng ta vượt thắng được trong tất cả những sự ấy, vì Ðấng đã yêu thương chúng ta. Tôi chắc chắn rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay các bậc quyền quý, tài sức, dù những sự hiện tại hay tương lai, hoặc sức mạnh, dù cao hay sâu, dù tạo vật nào khác, cũng không có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: x. Ep 1, 17-18
Alleluia, alleluia! - Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã soi lòng trí để chúng ta biết thế nào là sự cậy trông Chúa kêu gọi chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 14, 13-21
"Mọi người đều ăn no".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ.
Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn". Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Các ông thưa lại rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy".
Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.
Ðó là lời Chúa.
1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.
2) Muôn loài để mắt cậy trông vào Chúa, và Ngài ban lương thực cho chúng đúng theo giờ. Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho mọi sinh vật được no nê.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm.
Phúc Âm: Mt 14, 13-21
Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XVIII Thường Niên hôm nay của Thánh Ký Mathêu thuật lại về biến cố phép lạ bánh hóa ra nhiều từ 5 ổ bánh và 2 con cá. Cùng biến cố hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất này cũng đã được Phúc Âm của Thánh ký Gioan thuật lại trong Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm B tuần trước.
Trong bài Phúc Âm được Thánh ký Gioan thuật lại về biến cố phép lạ hóa bánh ra nhiều thì Chúa Giêsu đóng vai chủ động. Ở chỗ, chính Người lên tiếng hỏi các ông trước và đích thân Người phân phát bánh cùng cá cho dân chúng.
Chính Người lên tiếng hỏi: "Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: 'Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?' Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm".
Chính Người đích thân phân phát bánh cùng cá cho dân: "Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".
Trong khi đó, ở bài Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay, các tông đồ đóng vai chủ động, cả về việc quan tâm đến dân chúng lẫn phân phát cho dân chúng.
Các tông đồ quan tâm đến dân chúng: "Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: 'Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi: xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn'".
Các tông đồ phân phát cho dân chúng: "Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng".
Tuy nhiên, việc các tông đồ quan tâm đến dân chúng đói ăn đây có tích cách tiêu cực hơn là tích cực. Ở chỗ các vị đẩy trách nhiệm cho chính dân chúng hơn là chính các vị tìm cách thỏa đáng nhu cầu đói ăn của họ. Lý do cũng dễ hiểu, là vì việc làm ấy quá sức của các vị. Thế nhưng Thày của các vị đang ở đó: tại sao các vị không đến với Người như Mẹ Maria đã đến với Người trong tiệc cưới Cana mà nhắc khéo Người rằng: "Thày ơi, dân chúng đang đói kìa!"
Cho dù các tông đồ không tích cực và chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu đói ăn của dân chúng bấy giờ, nhưng các vị hình như đã sửa soạn sẵn sàng nên đã mau mắn đáp lại khi được Chúa Giêsu hỏi các vị trước khi ra tay làm phép lạ hóa bánh ra nhiều:
"Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Họ chẳng cần phải
đi, các con hãy cho họ ăn'. Các ông thưa lại rằng: 'Ở đây chúng con chỉ có
năm chiếc bánh và hai con cá'. Người bảo các ông rằng: 'Hãy đem lại cho
Thầy'".
Thật sự là các tông đồ đã sửa soạn sẵn sàng, bởi thế, vừa được Chúa Giêsu hỏi là các vị trả lời liền, không cần phải thắc mắc hay do dự gì, sau đó các vị đáp ứng ngay khi được Chúa bảo: "Hãy đem lại cho Thầy".
Căn cứ vào chi tiết nho nhỏ này thì có thể các tông đồ đã đi thăm dò dân chúng xem họ có mang theo lương thực phòng thân hay chăng, nhưng chắc các vị thấy hầu hết hay hầu như chẳng mấy ai có gì để ăn uống hết, ngoài trừ có một cậu bé có 5 ổ bánh và 2 con cá.
Thấy tình hình như thế nên các vị mới giục Thày giải tán dân chúng cho họ đi tìm của ăn. Nhưng không ngờ lý lẽ của Chúa Giêsu khác với, đúng ra hơn hẳn lý lẽ của các tông đồ, ở chỗ, không phải là dân chúng tự lo giải quyết tình trạng đói ăn của họ mà ngược lại: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn".
Có những giải thích phép lạ
Chúa Giêsu làm theo kiểu khoa học, như thể cố ý hay tìm cách xuyên tạc
phép lạ Chúa Giêsu làm, bằng cách gián tiếp hay trực tiếp chối
bỏ các phép lạ của Người. Chẳng hạn trong phép lạ bánh hóa ra nhiều này, họ
giải thích rằng vì dân chúng nghe lời giảng của Chúa Giêsu xong thì động
lòng nên ai có đồ ăn thức uống thì mang ra chia cho nhau cùng ăn cùng uống,
nên ai cũng ăn no.
Vậy thì "12 thúng đầy" dư ở đâu mà ra, dư từ 5 chiếc bánh và 2 con cá hóa nhiều hay từ đă ăn của dân chúng san sẻ cho nhau? Nếu thế thì (theo Phúc Âm Thánh ký Gioan) chính Chúa Giêsu phân phát cho dân chúng bánh trước và cá sau phải hiểu như thế nào, từ 5 ổ bánh và 2 con cá hay từ những gì của chính dân chúng chứ? Và trong Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay, lời Chúa Giêsu bảo các tông đồ "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn" phải hiểu ra sao, từ 5 ổ bánh và 2 con cá do Người làm phép lạ hóa ra nhiều hay từ những gì của dân chúng mang theo??
Trong Bài Đọc cho năm lẻ hôm nay, Sách Dân Số thuật lại việc dân Do Thái đòi ăn thịt, vì ăn manna mãi cũng chán, và vì thèm thịt nên họ đã tưởng nhớ lại một thời dĩ vãng họ đã được tha hồ ăn những thứ họ thích: "Trong những ngày ấy, con cái Israel nói rằng: 'Ai sẽ cho chúng tôi thịt ăn? Chúng tôi nhớ lại hồi còn ở Ai-cập, cá thì được ăn không, rồi có dưa chuột, dưa gang, rau cải, hành tỏi. Giờ thì chúng tôi suy nhược, thiếu hết mọi thứ: quay đi ngó lại chỉ thấy manna'".
Phần Moisen, càng ngày càng cảm thấy trách nhiệm nặng nề đối với dân chúng, nhất là không thể nào làm thỏa đáng nhu cầu vật chất của họ, đến độ ông đã "nghe dân chúng than khóc, nhà nào cũng đứng ở cửa lều", một tình trạng chẳng những khiến "Chúa bừng bừng nổi giận" mà còn khiến cho cả ông "rất đỗi bực mình", và vì thế ông không thể không thưa cùng Chúa rằng:
"Sao Chúa làm khổ tôi tớ Chúa? Sao con không được nghĩa
với Chúa? Sao Chúa bắt con phải mang cả dân này? Con đâu có cưu mang cả đám
dân này, con đâu có sinh ra nó, mà Chúa bảo con: 'Hãy ẵm nó vào lòng, như vú
nuôi ẵm trẻ thơ, hãy mang nó vào đất Ta đã thề hứa ban cho tổ tiên nó?' Con
biết tìm đâu ra thịt để cho cả đám dân này? Họ kêu khóc với con rằng: 'Hãy
cho chúng tôi ăn thịt'. Một mình con không mang nổi dân này vì là gánh nặng
nề đối với con. Nếu Chúa muốn xử với con như thế, thì xin giết con đi, và
cho con được nghĩa với Chúa, kẻo con phải khốn cực dường này".
Ở đây, tuy Moisen không đáp ứng nhu cầu của dân, như các tông đồ trong bài Phúc Âm đã không chủ động và tích cực thỏa đáng nhu cầu đói ăn của dân chúng bấy giờ, nhưng việc sẵn sàng hợp tác của các vị đã đủ để Chúa Giêsu đáp ứng nhu cầu của dân chúng thế nào thì việc Moisen nhịn nhục chịu đựng dân chúng cho tới cùng, đến độ không thể nào chịu nổi nữa, cũng là những gì cần phải có để Thiên Chúa tiếp tục tỏ mình ra cho họ.
Trong bài Đáp Ca hôm nay, Lời của Chúa về dân Do Thái, một dân tộc bất tuân và cứng cổ (câu 1), mà nếu họ sống ngược lại bằng cách dễ dậy và tuân phục (câu 2) thì Ngài sẽ làm cho họ được sống viên mãn hơn nhờ Lời Nhập Thể là Bánh Từ Trời, như được ám chỉ ở câu Đáp Ca cuối cùng: "Ta sẽ lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra": "tinh hoa lúa mì" đây phải chăng ám chỉ Bánh Thánh Thể, và "mật từ hốc đá chảy ra" đây phải chăng là từ cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Kitô trên thập giá (xem Gioan 19:34)?
1) Dân tộc của Ta chẳng có nghe Ta; Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho chúng cứng lòng, để chúng sinh hoạt tùy theo sở thích.
2) Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở, thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ trở tay.
3) Quân thù của chúng sẽ phải xưng tụng chúng, và vận mạng của chúng sẽ bền vững muôn đời. Ta sẽ lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra.
2) Vì sự lỗi con thực là con biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Thiên Chúa.
3) Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con.
Ngày 08: Thánh Ða Minh, linh mục lập dòng
Phúc Âm: Mt 15, 21-28
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư trong Tuần XVIII Thường Niên, Thánh ký Mathêu thuật lại cho chúng ta về việc Chúa Giêsu chữa cho con gái của người đàn bà xứ Canaan được khỏi bị quỉ ám, một người đàn bà dân ngoại nhưng có một đức tin "muốn gì được nấy".
Thế nhưng, để có một đức tin "muốn gì được nấy" này, người đàn bà ngoại bang Cannan này đã phải trải qua một một cơn thử thách phải nói là khủng khiếp, một trận đấu sinh tử, trận đấu thập tử nhất sinh, liên quan đến sắc tộc của bà cũng như đến chính phẩm giá của bà.
Cuộc thử thách đức tin liên quan đến sắc tộc của người đàn bà Canaan: "Các môn đệ đến gần Người mà rằng: 'Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi'. Người trả lời: 'Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel'". Qua câu trả lời cho các môn đệ này, Chúa Giêsu như muốn nói rằng chỉ có dân Do Thái của Người là nhất, còn các dân ngoại chỉ là đồ thứ yếu, không đáng chú trọng cho bằng dân Do Thái.
Cuộc thử thách đức tin liên quan đến phẩm giá làm người của người đàn bà Canaan: "Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: 'Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi'. Người đáp: 'Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó'". Đến đây, bị chạm tự ái như thế, bị coi như loài chó như vậy, không biết có ai còn nhẫn nại để tiếp tục với con người khinh bỉ mình và chửi mình như thế nữa hay chăng, hay là điên tiết quại lại bằng câu hùng hổ như: "Này, ông đừng có tưởng rằng ông ngon lắm, không đáp ứng những gì tôi xin thì thôi, chứ đừng có mà khinh bỉ tôi như vậy. Tôi cóc cần ông".
Thế nhưng, cho dù người đàn bà Canaan bị một độc chưởng vô cùng lợi hại chỉ từ chết tới bị thương như vậy mà bà chẳng những vẫn không hề hấn gì, trái lại, bà còn tung lại một tuyệt chiêu vô cùng ngoạn mục: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống", một tuyệt chiêu đã làm cho đối thủ vô địch của bà đành chào thua bà lập tức: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy".
So sánh với tông đồ Phêrô trong Bài Phúc Âm hôm qua, vị tông đồ vì không còn gắn mắt vào Thày mình nữa nên đã bắt đầu bị chìm xuống nước thì người đàn bà xứ Canaan trong bài Phúc Âm hôm nay, cho dù ở dưới gầm bàn ăn chực của thành phần con cái nhưng vẫn cứ gắn mắt vào vị chủ nhà nên đã được thừa hưởng những vụn lương thực của con cái.
Điều duy nhất người đàn bà ngoại bang Canaan này muốn đó là làm sao để người con gái của bà khỏi "bị quỷ ám khốn cực lắm", đến độ, bà cảm thấy cái khổ của chính con bà như là của bà, nên bà đã xin Chúa Giêsu thương chính bản thân bà chứ không phải là đứa con gái của bà: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi". Để rồi, nhờ đức tin "muốn gì được nấy" của bà mà "ngay lúc đó, con gái bà đã được lành".
Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay được Sách Dân Số thuật lại hậu quả của biến cố thăm dò Đất Hứa được Chúa truyền cho Moisen thực hiện: "Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê (ở trong hoang địa Pharan) rằng: 'Ngươi hãy sai đàn ông, mỗi chi tộc một người (thuộc hàng vương công trong chúng), đi xem đất Canaan mà Ta sẽ ban cho con cái Israel'".
Hậu quả đó là họ nghe được đám thám tử tường thuật về đất đai và dân cư địa phương như thế này: "Sau bốn mươi ngày, những người dò thám đất đi khắp miền, đoạn trở về... Và họ đã báo cáo với các ông và toàn thể cộng đồng, và cho người ta thấy thổ sản đất ấy. Họ đã tường thuật và nói: 'Chúng tôi đã vào đất, nơi các ông sai chúng tôi đến, và thật là đất chảy tràn sữa và mật, và đây là thổ sản đất ấy. Hiềm một nỗi là dân cư trong xứ hùng cường! Thành trì kiên cố (và) lớn lắm... Đất chúng tôi đã băng qua để dò thám là đất làm tiêu diệt cả những người ở trên ấy; dân chúng tôi đã thấy trong xứ toàn là những người vóc dạng. Chúng tôi đã thấy ở đó những người khổng lồ (con cháu của Anaq thuộc hạng người khổng lồ). Quay nhìn lại mình, thật chúng tôi chỉ như những con châu chấu, và trước mắt họ, chúng tôi chỉ như thế đó'".
Từ đó và bởi đó họ đã tỏ ra chán nản thất vọng đến độ "đêm ấy toàn dân la lối khóc lóc. (Họ trách móc Môsê và Aaron, và nói rằng: '(...) Phải chi chúng tôi chết quách ở trong sa mạc này!')". Tinh thần và thái độ của dân Do Thái trong trường hợp này quả thực cho thấy họ thật là cứng lòng và yếu tin, cho dù họ đã thấy tận mắt các điềm thiêng dấu lạ cả thể Thiên Chúa đã làm để cứu họ ra khỏi Ai Cập, hầu đưa họ vào Đất Hứa cho bằng được, như Ngài đã hứa với tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp của họ. Động một tí là than, hơi một tí là trách, bị một tí là kêu.
Bởi thế không lạ gì ở Bài Đọc 1 Thứ Hai vừa rồi Moisen đã xin Thiên Chúa thà giết ông đi cho rồi hơn là phải chịu đựng đám dân quá quẩn này, dù ông là con người hiền nhất trên thế gian này, như Thiên Chúa phán với Aaron và Maria về ông trong Bài Đọc 1 hôm qua. Chính Thiên Chúa cũng đã tỏ ra như thể không còn chịu được họ nữa và để cho họ chết dần chết mòn trong sa mạc:
"Dân bạc ác này kêu trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe tiếng kêu trách của con cái Israel. Ngươi hãy nói với chúng rằng: Chúa phán: Ta hằng sống, như các ngươi đã nói, Ta đã nghe, nên Ta sẽ làm cho các ngươi như vậy. Xác chết của các ngươi sẽ nằm trên rừng vắng này. Tất cả các ngươi, tính từ hai mươi tuổi trở lên, đều đã kêu trách Ta. Các ngươi đã xem thấy đất, trong bốn mươi ngày, (thì) một năm kể thay cho một ngày; các ngươi mang lấy cái khổ của sự gian ác các ngươi, và sẽ biết sự thù ghét của Ta: vì Ta đã phán thế nào, thì Ta sẽ làm cho dân bạc ác này dấy lên chống lại Ta như vậy: nó sẽ hao mòn và chết trên rừng vắng này".
Bài đọc 1 hôm nay về trường hợp dân Do Thái bất nhẫn đáng bị trừng phạt có liên quan gì tới bài Phúc Âm về người đàn bà xứ Canaan mạnh tin muốn gì được nấy hay chăng? Thưa có, cả hai bài đọc đều liên quan đến đức tin, ở chỗ, một khi tuyệt đối tin tưởng vào Chúa thì sẽ thấy Người tỏ mình ra, như trường hợp của người đàn bà dân ngoại xứ Canaan, ngược lại, không tin vào Chúa thì sẽ chịu hậu quả tương xứng, như trường hợp dân Do Thái trong hoang điạ.
Có thể so sánh dân Do Thái như đứa con gái của người đàn bà xứ Canaan bị qủi ám mà bà phải chịu khổ với nó và như nó, và đến kêu xin Chúa trừ quỉ cho nó thế nào, thì dân Do Thái cũng như bị quỉ ám ở chỗ có những tác hành phản lại với đức tin, phạm đến Vị Thiên Chúa hằng ở với họ, đến độ Moisen đã phải gánh chịu lỗi tội của họ mà cầu khẩn Chúa tha cho họ, đúng như cảm nhận của dân Do Thái sau này về lỗi lầm quên Chúa của mình và vai trò của Moisen trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúng con đã phạm
tội cũng như tổ phụ chúng con, chúng con đã làm điều gian ác và ăn ở bất
nhân. Tổ phụ chúng con khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc
lạ lùng của Chúa.
2) Nhưng họ đã mau quên công việc của Chúa khi gia ân huệ cho dân Ngài, họ không tin cậy vào định kế của Ngài. Họ chiều theo dục vọng ở nơi hoang địa, và thử thách Thiên Chúa trong cõi cô liêu.
3) Họ đã quên Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình, Đấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Đấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Đỏ.
4) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Moisen là Người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Người, để Người nguôi giận và đừng tiêu diệt họ.
Bài Đáp Ca hôm nay bày tỏ cảm nhận về một vị Thiên Chúa cứu độ, cần phải tin tưởng cậy trông (câu 1), vị Thiên Chúa chăn dắt dân của Ngài như mục tử chăn chiên của mình (câu 2), bởi thế hãy nghe tiếng của Ngài chứ đừng cứng lòng như dân Do Thái trong bài Đọc Một hôm nay (câu 3):
Ngày 10: Thánh Laurensô, phó tế tử đạo
Thứ
Sáu
chỉ tuyệt mạng mới biến hình
Bài Đọc I: (Năm I) Đnl 4,
32-40
Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XVIII Thường Niên, để tiếp tục tất cả sự thật về mầu nhiệm Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm qua, ở chỗ: Nếu Ngưòi là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", thì Người đồng thời cũng phải là một Đức Kitô Vượt Qua, tử giá và phục sinh, nhờ đó Người mới chứng thực Người quả là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", Chúa Kitô, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã thẳng thắn tuyên bố một hệ luận hay một lối sống liên quan trực tiếp đến thân phận của những ai muốn theo Người là một Đức Kitô Vượt Qua từ khổ giá đến phục sinh rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy".
Sau đó, Người cho các môn đệ của Người biết về lý do tại sao họ cần phải sống như thế, cần phải bỏ mình và vác thập giá mà theo Người như vậy, hay đúng hơn cần phải bỏ mình và vác thập giá mới có thể theo Người, bằng không, họ không thể nào theo Người được, thậm chí như Người phán trong Phúc Âm của Thánh ký Luca: "Ai không vác thập giá mình mà theo Thày không xứng đáng làm môn đệ của Thày" (14:27). Lý do được Người nêu lên cho các môn đệ thấy đó là:
"Vì chưng, ai muốn cứu sự sống
mình thì sẽ mất; còn ai đành mất sự sống
mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự
sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống
mình?"
Câu tuyên bố này của Chúa Kitô có thể hiểu về trường hợp của các vị tử đạo trong Giáo Hội từ trước tới nay trong lịch sử của Giáo Hội. Nguyên tắc cứu thì mất bỏ thì còn có vẻ mâu thuẫn này cũng đúng trong cả trường hợp bị rắn độc cắn nếu không chặt cánh tay hay chặt bàn chân bị nó cắn chỉ vì tiếc rẻ hay sợ đau cứ muốn giữ lấy chỗ bị cắn đó thì nạn nhân sẽ mất mạng, ngược lại thì còn mạng.
Đó là lý do trong bài giảng Phúc Đức Trọn Lành trên núi của Phúc Âm Thánh ký Mathêu, Chúa Kitô cũng đã khuyên các môn đệ của Người rằng nếu mắt của các con hay tay của các con mà nên cớ vấp phạm cho các con thì hãy móc nó đi, hãy chặt nó đi, thà mất một mắt hay thiếu một tay mà vào Nước Trời còn hơn còn nguyên toàn thân lại bị quẳng vào hỏa ngục (xem 5:29-30).
"Sự sống mình" mà Chúa bảo cần phải mất đi để "được sự sống" đây là gì, nếu không phải nếu "sự sống" họ được đây là Chúa Kitô, Đấng đã tuyên bố mình là "sự sống" (Gioan 11:25,14:6), thì "sự sống mình" đây chính là bản thân con người. Đó là lý do Người đã dứt khoát với những ai muốn theo Người "phải bỏ chính bản thân mình đi - must deny his very self".
Việc "phải bỏ chính bản thân mình" của những ai muốn theo Chúa Kitô này không phải là việc họ tự hủy diệt bản thân họ, mà là một tiến trình biến đổi bản thân họ, biến đổi từ bản thân vô cùng thấp hèn xấu xa tội lỗi của họ để trở nên một Chúa Kitô vô cùng cao cả là chính sự sống thần linh của họ, nghĩa là họ đánh đổi bản thân mình để lấy chính Chúa Kitô, như thể họ là người tim thấy kho tàng là Chúa Kitô trong thửa ruộng thế gian thì đã bán hết mọi sự mình có, bán chính bản thân mình đi, để mua lấy thửa ruộng có kho tàng được chôn giấu ấy vậy (xem Mathêu 13:44).
Chúa Kitô là "sự sống" của thành phần muốn theo Người và cho những ai từ bỏ chính bản thân mình, đến độ không một sự gì trên thế gian này có thể so sánh được: có Người là có tất cả, mất Người là mất tất cả. Đó là lý do Chúa Kitô đã khẳng định với các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?".
Chưa hết, những ai dám hy sinh tất cả mọi sự chẳng là gì trên trần gian tạm gửi mau qua chóng hết hết sức tầm thường này để theo Người cho tới cùng thì sau này sẽ được phần thưởng xứng đáng bất diệt đời sau nữa, như Người hứa với họ ở cuối bài Phúc Âm hôm nay: "Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tùy theo việc họ làm".
Thế nhưng, để có thể "bỏ chính bản thân mình" mà theo Chúa, con người cần phải có đức tin, phải tin vào Đấng đã kêu gọi họ và chính là Đấng họ theo đuổi cho tới cùng, Đấng luôn tỏ mình ra cho họ, chẳng những bằng điềm thiêng dấu lạ trong cuộc đời họ mà nhất là bằng đau khổ thử thách để họ càng tin vào Người hơn, nhờ đó họ có thể hiệp nhất nên một với Người là "sự sống" của họ mỗi ngày một hơn. Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay cũng chất chứa những lời của Moisen nói với dân Do Thái trong Sách Đệ Nhị Luật đã cho thấy đúng như vậy:
"Tất cả những điều đó,
Người chỉ cho các ngươi xem thấy, để các ngươi biết rằng Chúa là Thiên Chúa
thật, và ngoài Người, không có chúa nào khác. Từ trên trời, Người cho các
ngươi nghe tiếng Người; ở dưới đất, Người cho các ngươi thấy đám lửa to lớn
của Người; và từ giữa đám lửa ấy, các ngươi đã nghe lời Người, vì Người đã
yêu thương cha ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy.
Người đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập khi Người dùng quyền năng cao cả mà đi
trước mặt các ngươi, để tiêu diệt trước mặt các ngươi những dân tộc lớn mạnh
hơn các ngươi, và đem các ngươi vào trong xứ của họ và ban đất của họ cho
các ngươi làm gia nghiệp, như các ngươi vẫn thấy hiện nay. Vậy hôm nay các
ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng rằng: Trên trời dưới đất, chính
Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Hãy tuân giữ các lề luật và
giới răn mà hôm nay chính ta truyền dạy cho các ngươi, hầu cho các ngươi và
con cháu mai sau được hạnh phúc, và tồn tại trên phần đất mà Chúa là Thiên
Chúa sẽ ban cho các ngươi".
Bài Đáp Ca hôm nay là tâm tình cảm nhận thần linh về những gì Thiên Chúa đã làm cho dân của Ngài trong quá khứ (câu 1), một vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân Do Thái luôn tỏ mình ra cho họ (câu 2), Vị Thiên Chúa đã luôn ở với dân qua các vị lãnh đạo của dân (câu 3):
1) Tôi hồi tưởng lại những việc làm của
Chúa; tôi cũng nhớ những điều kỳ diệu thuở trước của Ngài. Tôi nghiền ngẫm
về mọi việc làm của Chúa, và tôi suy tư về những đại sự của Ngài.
2) Ôi Thiên Chúa, đường lối của Ngài thánh thiện; có thần minh nào vĩ đại như Thiên Chúa chúng tôi? Ngài là Thiên Chúa làm nên những điều kỳ diệu, làm sáng tỏ quyền năng ở giữa chư dân.
3) Ngài đã ra tay thục mạng
dân Ngài, thục mạng con cháu của Giacóp và Giuse. Nhờ tay Moisen và Aaron,
Chúa chăn dắt dân Ngài như thể đoàn chiên.
Phúc Âm: Mt 17, 14-19
Hôm nay, bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XVIII Thường Niên không phải là bài tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, cuối đoạn 16 theo Phúc Âm Thánh Mathêu, mà là bài Phúc Âm sang đoạn 17, từ câu 14 đến 21, thay vì từ câu 1 đến câu 13. Bởi vì bài Phúc Âm từ câu 1 đến 13 mở đầu đoạn 17 là bài Phúc Âm về biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi, một biến cố đã được Giáo Hội cử hành hôm Thứ Năm (ngày 6/8 năm 2015) hay Chúa Nhật (ngày 6/8 năm 2017).
Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho ngày cuối tuần XVIII Thường Niên hôm nay tường thuật về sự việc Chúa Giêsu trừ quỉ cho đứa con trai của một người đến xin Người, vì môn đệ của Người đã không thể trừ được quỉ cho con của ông ta:
"Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng:
'Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất
trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem
nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được'".
Chính các môn đệ cũng thắc mắc là tại sao các vị không trừ được quỉ, và đã được Chúa Giêsu trả lời cho các vị biết rằng: "Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: 'Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?' Chúa Giêsu bảo các ông rằng: 'Vì các con yếu lòng tin!'"
Đó là lý do sau khi nghe ông bố của đứa con trai bị quỉ ám cho biết các môn đệ của Người không trừ được quỉ ra khỏi con ông ta, Chúa Giêsu đã không than trách chung dân chúng và riêng ông bố đang xin Người trừ quỉ cho con ông ta, cho bằng chính các môn đệ của Người, thành phần đã được Người ban cho quyền trừ quỉ từ khi Người sai các vị đi truyền giáo trước kia (xem Mathêu 10:1) mà quyền trừ quỉ nơi các vị vẫn không có công hiệu gì nơi các vị trong trường hợp này, chỉ vì các vị yếu lòng tin: "Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa?"
Như thế, căn cứ vào trường hợp trừ quỉ được bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại hôm nay thì không phải có quyền trừ quỉ mà trừ được quỉ đâu, nếu chính tác nhân trừ quỉ yếu đức tin. Đúng thế, nếu "ai được sinh bởi Thiên Chúa là kẻ chiến thắng thế gian và quyền năng chiến thắng thế gian là đức tin của chúng ta" (1Gioan 5:4) thì ai không có đức tin hay yếu đức tin không thể nào chiến thắng thế gian vốn thuộc quyền cai trị của ma quỉ sau nguyên tội.
Nếu "Con Thiên Chúa tỏ mình ra là để hủy hoại các việc làm của ma quỉ" (1Gioan 3:8) thì quả thực "Người chiến thắng thế gian là ai? Chính là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa"(1Gioan 5:5). Đó là lý do, như bài Phúc Âm hôm Thứ Năm tuần này cho thấy, ngay sau khi vừa tuyên xưng thật chính xác "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), tông đồ Phêrô đã bị Thày thậm tệ nguyền rủa là "đồ Satan" (Mathêu 16:23), vì ngài phán đoán theo thế gian hơn là theo Thiên Chúa, mà theo thế gian là theo ma quỉ, vậy thì trừ quỉ làm sao được là đúng lắm vậy!?!
Trái lại, nếu các tông đồ có đức tin mạnh mẽ thì các vị chẳng những trừ được quỉ mà còn làm gì cũng được nữa, kiểu "muốn gì được nấy", (giống trường hợp của người đàn bà Canaan trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần này), như lời Chúa Giêsu khẳng định kết bài Phúc Âm hôm nay: "Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".
"Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải" đây nghĩa là gì nếu không phải trong dụ ngôn về Nước Trời giống như hạt cải (xem Mathêu 13:31-32) mà hạt cải nhỏ bé nhất trở thành cây lớn nhất ám chỉ Chúa Kitô nhập thể tử giá (hạt nhỏ nhất) và phục sinh thăng thiên (cây lớn nhất), thì "lòng tin" của các môn đệ cần phải "lớn bằng hạt cải" đây có nghĩa là "lòng tin" của các vị cần phải đạt tới tầm vóc Chúa Kitô, nghĩa là "lòng tin" của các vị cần phải làm sao hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Kitô, đến độ Chúa Kitô sống trong họ, biến họ trở thành chứng nhân trung thực và sống động của Người, tác nhân để Người tỏ mình ra và làm mọi sự trong họ, nhờ họ và qua họ.
Nếu "đức tin tỏ hiện qua đức mến" (Galata 5:6) thì tình trạng của các tâm hồn tin vào Chúa Kitô cũng được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô trong tình yêu là thế, như trên vừa cảm nhận. Trong Cựu Ước cũng thế, Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân Do Thái là để họ nhận biết Ngài và tin vào Ngài, nhờ đó họ chứng tỏ sự nhận biết và lòng tin của họ nơi Ngài bằng việc kính mến Ngài với tất cả con người của họ, như Moisen đã kêu gọi họ trong Sách Đệ Nhị Luật được Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay thuật lại:
"Moisen nói với dân chúng rằng: 'Hỡi Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi.... Khi Chúa là Thiên Chúa ngươi dẫn ngươi đến xứ Người đã thề với các tổ phụ ngươi là Abraham, Isaac và Giacóp, và ban cho ngươi những thành phố to lớn và phồn thịnh mà ngươi không xây cất, những ngôi nhà đầy mọi của cải mà ngươi không làm ra, những giếng nước mà ngươi không đào, vườn nho và vườn cây ôliu mà ngươi không trồng, ngươi sẽ được no nê: ngươi hãy nhớ, đừng quên Chúa, Đấng đã dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập và khỏi nhà nô lệ. Ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa ngươi, hãy làm tôi một mình Người và lấy danh Người mà thề".
Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa tâm tình mến yêu Vị Thiên Chúa là Đấng cứu tinh (câu 1), là Đấng bênh vực chở che (câu 2), là Đấng hằng sống từ bi nhân hậu (câu 3).
1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Đá Tảng, chiến lũy, và cứu tinh.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù.
3) Chúa hằng sống, chúc tụng Đá Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là Đấng cứu độ con. Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Đấng được xức dầu của Ngài.