SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: G 7, 1-4. 6-7
"Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối".
Trích sách Gióp.
Bấy giờ Gióp nói rằng: "Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi, có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: "Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối". Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 146, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Hãy chúc tụng Chúa, Ðấng cứu chữa những kẻ giập nát tâm can (c. 3a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa, vì Người hảo tâm; hãy ca mừng Thiên Chúa chúng ta, vì Người êm ái, thực Người rất đáng ngợi khen. Chúa xây dựng lại Giêrusalem, tập họp con cái Israel phân tán. - Ðáp.
2) Chính Người chữa những kẻ giập nát tâm can, và băng bó vết thương của lòng họ. Người ấn định con số các ngôi sao, và gọi đích danh từng ngôi một. - Ðáp.
3) Chúa chúng ta cao cả và mãnh liệt quyền năng, sự khôn ngoan của Người thực là vô lượng. Chúa nâng cao những kẻ khiêm cung, Người đè bẹp đứa ác nhân xuống tận đất. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 9, 16-19. 22-23
"Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng Tin Mừng, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi. Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giả như nếu tôi tự ý đảm nhận việc ấy, thì tôi có công; nhưng nếu tôi bị ép buộc, thì tôi phải làm trọn nghĩa vụ đã giao phó cho tôi. Vậy thì phần thưởng của tôi ở đâu? Khi rao giảng Tin Mừng, tôi đem Tin Mừng biếu không, tôi không dùng quyền mà Tin Mừng dành cho tôi. Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Chiên của Ta nghe biết tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 1, 29-39
"Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài.
Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.
Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy". Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
ĐỨC KITÔ - KHU TRỪ MA QUỈ
Chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14) cho Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh vẫn tiếp tục một cách hết sức xác đáng trong phần Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật Thứ V Năm B Thường Niên tuần này. Ở chỗ, Người Con "đầy ân sủng" này "chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ", và ở chỗ Người Con "đầy chân lý" này "đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ".
Thật vậy, loài người, sau nguyên tội lại càng trở thành đáng thương hơn bao giờ hết và hơn ai hết, đến độ Thiên Chúa đã phải đích thân hóa thành nhục thể nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô để nên giống con người mọi bề ngoại trừ tội lỗi, nhờ đó, qua Con của Ngài, bằng nhân tính của Con Ngài như dấu chỉ hiện diện, như phương tiện cứu độ và như bí tích thông ban, Ngài có thể chữa lành cho họ về phần xác, khu trừ ma quỉ cho họ về phần tâm linh và tha thứ tội lỗi cho họ về phần lương tri.
Bởi nguyên tội, bản tính của loài người đã bị băng hoại, và hoàn toàn bị mất đi mối hiệp thông thần linh với Thiên Chúa cùng mối liên hiệp với thiên nhiên tạo vật, khiến cuộc sống của con người được sinh ra trên trần gian này chẳng khác gì như là một "bể khổ" (theo cảm quan của Phật giáo), hay như là một cuộc lưu đầy ở trong thung lũng châu lệ (theo cảm nhận của Kitô giáo trong Kinh Salve Regina Lạy Nữ Vương), một cảm nhận đầy tính chất bi quan như được Ông Gióp bày tỏ trong Bài Đọc I hôm nay:
"Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi, có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: 'Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối'. Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc".
Tuy nhiên, chính vì cuộc đời bất hạnh của mình trên trần gian này mà con người, theo lý thuyết, mới không bị hay khó bị trói buộc vào những gì là tạm bợ mau qua trên trần gian này, trái lại, có thể nhờ đó mà họ tìm kiếm những gì là hạnh phúc nhất, chân thật nhất và thiện hảo nhất, tìm kiếm một sự sống viên mãn vô cùng bất tận, bằng một lòng tin tưởng vào Đấng Tối Cao, hơn là tin vào mình, tin vào khả năng tự độ ảo tưởng của mình, một Đấng Tối Cao toàn năng có thể giải cứu họ, nhất là vào những lúc họ cảm thấy đau thương đến độ "giập nát tâm can", như tâm tình của họ được chất chứa trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Hãy ngợi khen Chúa, vì Người hảo tâm; hãy ca mừng Thiên Chúa chúng ta, vì Người êm ái, thực Người rất đáng ngợi khen. Chúa xây dựng lại Giêrusalem, tập họp con cái Israel phân tán.
2) Chính Người chữa những kẻ giập nát tâm can, và băng bó vết thương của lòng họ. Người ấn định con số các ngôi sao, và gọi đích danh từng ngôi một.
3) Chúa chúng ta cao cả và mãnh liệt quyền năng, sự khôn ngoan của Người thực là vô lượng. Chúa nâng cao những kẻ khiêm cung, Người đè bẹp đứa ác nhân xuống tận đất.
Đúng thế, con người không thể nào tự cứu được mình cho khỏi hầu quả của nguyên tội là đau khổ và chết chóc về thể lý, cùng với những băng hoại về tâm linh, bao gồm tình trạng mù quáng nơi trí khôn và yếu nhược nơi ý chí, đến độ cuộc chiến nội tâm của họ giữa lành và dữ, nếu họ còn lương tâm, đã khiến họ phải cùng với Thánh Phaolô than lên rằng: "Bởi đó tôi khám phá ra cái luật là khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy xuất hiện ngay sự ác. Con người nội tâm của tôi vui thích luật của Thiên Chúa; nhưng các chi thể của tôi lại hướng về một thứ luật khác chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong thứ luật tội lỗi vẫn tiềm tàng trong các chi thể của tôi. Tôi thật là một con người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi cái thân xác chết chóc này đây? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!" (Roma 7:21-25).
Phải, chính "Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta", "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" mới có thể cứu loài người đã vướng mắc nguyên tội chúng ta mà thôi, thành phần đã từ thân phận làm con cái Thiên Chúa ngay từ ban đầu tự nguyện trở thành nô lệ của Satan và đồng bọn ngụy thần của hắn, những tác nhân "gieo rắc sự chết ngay từ ban đầu" (Gioan 8:44), cho đến khi Chúa Giêsu Kitô xuất hiện để phá hủy vương quốc của ma quỉ và thiết lập vương quốc của Thiên Chúa: "Ai phạm tội, thì là người của ma quỷ, vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu. Sỡ dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá hủy công việc của ma quỷ" (1Gioan 3:8).
Đó là lý do, trong Bài Phúc Âm hôm nay, ở cả hai câu chính yếu nhất về việc làm và lời nói của Chúa Giêsu, Thánh ký Marco đều nhắc đến cùng một sự kiện then chốt bất khả thiếu, và đều liên quan đến ma quỉ (được người viết gạch dưới để chứng thực): "Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn... Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người."... "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa. Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ".
Nếu Chúa Kitô chỉ chữa lành bệnh tật mà không khu trừ ma quỉ thì Người giống như vị thày thuốc chỉ chữa triệu chứng mà không chữa cho tận tuyệt gốc chứng bệnh vậy. Nếu việc chữa lành bệnh nạn tật nguyền của con người là chữa lành hậu quả của nguyên tội nơi con người, thì việc trừ quỉ cho con người là việc giải thoát con người khỏi thân phận làm nô lệ ma quỉ, là việc chiếm lại thành phần nạn nhân con tin nhân loại đã và đang bị lọt vào tay bọn cướp ma quỉ. Nếu hiện tượng quỉ ám liên quan tình trạng con người nạn nhân nào đó bị ma quỉ chi phối điều khiển bao gồm cả thân xác của họ, thì hiện tượng quỉ ám này cũng có thể áp dụng cho bất kỳ trường hợp nào con người chiều theo chước cám dỗ của ma quỉ. Thật ra, nói chung, ở một nghĩa nào đó, con người ai cũng bị quỉ ám, bởi nơi bất kỳ ai trong họ cũng đều có sẵn nội công của thần dữ, có nọc độc của rắn quỉ, đó là các thứ đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu, những độc chất gian dối chết chóc do ma quỉ tiêm nhiễm vào trần gian ngay từ ban đầu qua hai nguyên tổ nói chung và qua nữ nguyên tổ Evà nói riêng.
Một hoa trái tuyệt vời cho thấy cuộc vượt qua từ sự chết gây ra bởi ma quỉ mà vào sự sống được thông ban từ Chúa Kitô, "Người Con duy nhất đến từ Cha.. đầy ân sủng và chân lý", đó là chàng thanh niên Saulê, một tín đồ nhiệt thành (đến cuồng tín) với Do Thái giáo một cách chân tình, nhưng lại hoàn toàn nhầm lạc, cho tới khi chàng bị quật ngã trong lúc hung hăng đi bách hại Kitô hữu tiên khởi, bởi một ánh sáng từ trời (xem Tông Vụ 9:3-4). Sau khi được giải phóng, chàng đã trở thành một Đại Tông Đồ Dân Ngoại, cho đến độ ngài không thể không rao giảng Tin Mừng ngài đã lãnh nhận và dám hy sinh tất cả cho phần rỗi của anh em mình, như chính ngài đã tự thú trong Thư Thứ Nhất gửi Giáo đoàn Corintô trong Bài Đọc II hôm nay:
"Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.... Khi rao giảng Tin Mừng, tôi đem Tin Mừng biếu không, tôi không dùng quyền mà Tin Mừng dành cho tôi. Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng".
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1
V 8, 1-7. 9-13
"Họ mang hòm bia Thiên Chúa vào nơi Cực Thánh, và mây bao phủ nhà Chúa".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, các kỳ lão Israel, cùng những thủ lãnh các chi họ và
những trưởng gia tộc con cái Israel đều tề tựu trước mặt vua tại Giêrusalem,
để cung nghinh hòm bia Thiên Chúa từ thành Ðavít, tức là thành Sion. Trong
ngày đại lễ, nhằm tháng Ethanim, tức tháng bảy, toàn dân Israel tụ họp quanh
vua Salomon. Khi các kỳ lão Israel đến, các tư tế liền khiêng hòm bia, và
mang hòm bia Chúa đi, mang cả nhà tạm giao ước và tất cả những đồ thánh
trong nhà tạm; các tư tế và các thầy Lêvi phụ trách khiêng đi.
Vua Salomon và toàn dân Israel tề tựu quanh ngài, tiến đi với ngài trước hòm
bia, và tế lễ vô số chiên bò không kể xiết. Các tư tế khiêng hòm bia Thiên
Chúa đặt vào nơi đã chỉ định tại đền thờ, nơi cực thánh, dưới cánh các tượng
vệ binh thần. Các tượng này giang cánh trên nơi để hòm bia, và che phủ hòm
bia và các đòn khiêng. Trong hòm bia không có gì khác ngoài hai bia đá mà
Môsê đã đặt vào hòm ở núi Horeb, lúc Chúa lập giao ước với con cái Israel
khi họ ra khỏi đất Ai-cập. Khi các tư tế lui ra khỏi cung thánh, thì có mây
bao phủ nhà Chúa. Vì mây mù, nên các tư tế không thể đứng đó mà thi hành
chức vụ: vì vinh quang của Chúa tràn đầy nhà Chúa. Bấy giờ Salomon nói rằng:
"Chúa đã từng phán sẽ ngự trong đám mây. Vậy tôi đã xây cất ngôi nhà làm nơi
ở cho Chúa, một nơi vững chắc Chúa ngự đến muôi đời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 131, 6-7. 8-10
Ðáp: Lạy
Chúa, xin lên đường đi tới nơi an nghỉ (c. 8a).
Xướng: 1) Ðây là điều chúng tôi đã nghe nói tại Ephrata, chúng tôi đã gặp
thấy nơi đồng ruộng Gia-ar. Chúng ta hãy tiến vào nhà Chúa, hãy sụp lạy
trước bệ dưới chân Ngài. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, xin lên đường đi tới nơi an nghỉ, Chúa và Hòm Bia oai quyền của
Chúa cùng đi! Các tư tế của Ngài hãy mặc lấy lòng đạo đức, và các tín đồ của
Ngài hãy mừng rỡ hân hoan. Xin vì Ðavít là tôi tớ Chúa, Chúa đừng hắt hủi
người được Chúa xức dầu. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống,
không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 53-56
"Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét
và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ
liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau
yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người
ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được
chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi
bệnh.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô Thần Lực
Hôm nay, Thứ Hai Tuần V Thường Niên, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kéo dài tới Thứ Tư Lễ Tro mở đầu Mùa Chay hằng năm, lại càng rõ nét hơn bao giờ nơi Bài Phúc Âm hôm nay, một bài phúc âm được Thánh ký Marco thuật lại về quyền năng chữa lành của Người như sau:
"Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền
Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận
ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng
những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại
hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và
xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai
chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".
Thật vậy, cảnh tượng được Bài Phúc Âm hôm nay trình thuật đã làm cho chúng ta thấy được hình ảnh đáng thương của thành phần dân chúng đau khổ bởi tật nguyền bệnh nạn cần được chữa lành luôn sống trong hy vọng, đợi chờ và tìm kiếm Đấng Cứu Tinh của mình: "nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng".
Bài Phúc Âm hôm nay còn cho thấy cả hình ảnh chính yếu về một Đấng Cứu Thế đầy quyền lực, đến độ Người không cần trực tiếp giơ tay đụng đến bất cứ một bệnh nhân hay một người bị tật nguyền nào, thế mà họ vẫn được chữa lành, chỉ cần họ tin tưởng sờ đến gấu áo của Người (chứ không phải hay không cần chạm đến thân xác của Người) là đủ: "tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".
Hiện tượng chữa lành hay được chữa lành kiểu mới, hoàn toàn không theo truyền thống này, xuất phát từ sáng kiến và hành động đầy đức tin của người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm ở bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước, một người đàn bà đã được Chúa Giêsu có ý công khai hóa việc bà làm giữa một đám thật đông đang chen nhau theo Người lúc ấy. Biết được cái mẹo vặt mà tuyệt này, dân chúng bảo nhau làm, vừa giản tiện vừa mau chóng nữa, giúp cho chính Chúa Giêsu cũng có thể nhờ đó chữa lành nhiều người trong một thời gian ngắn.
Hiện tượng chữa lành như trong bài Phúc Âm hôm nay còn xẩy ra cả ở nơi Thánh Tông Đồ Phêrô nữa, như Sách Tông Vụ thuật lại ở đoạn 5 câu 15-16, một vị thánh có một thần lực đến độ cả đến bóng của ngài đi ngang qua phủ trên ai thì người ấy được chữa lành, một thần lực bề ngoài có thể hơn cả chính bản thân Chúa Kitô, Đấng đã khẳng định trước với các môn đệ ở Bữa Tiệc Ly rằng "ai tin vào Thày ... họ sẽ làm được những việc lớn lao hơn những gì Thày làm, vì Thày về cùng Cha" (Gioan 14:12).
Đúng thế, cho dù thành phần tật nguyện bệnh hoạn không cần sờ đến gấu áo của Thánh Phêrô, như gấu áo của Chúa Kitô, mà chỉ cần được bóng của ngài thoáng qua thôi đã được chữa lành, thì thần lực xuất phát từ ngài cũng không phải tự ngài và của ngài, mà là bởi Chúa Kitô ở trong ngài, như cây nho thông nhựa sống của mình cho cành nho, nhờ đó và vì thế chỉ có cành nho (là các môn đệ của Người) mới sinh trái và mới có thể sinh hoa trái, chứ hoa trái không bao giờ xuất phát từ chính thân nho (là Chúa Kitô).
Vấn đề chính yếu ở đây có thể chứng thực Đức Giêsu Nazarét là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" là thần lực của Người và là thần lực từ Người xuất phát, ngoài ra không bao giờ có một con người thuần túy nào ở trên đời này như Người, có thể chữa lành cho con người ta, không phải chỉ bằng cách trực tiếp đặt tay, đụng chạm đến con người cần được chữa lành, mà chỉ cần bằng gấu áo của Người, thậm chí còn qua cả thành phần môn đệ trung gian của Người sau này nữa.
Cách thức chữa lành bằng gấu áo và qua trung gian môn đệ như thế là hình bóng tiên báo về bản chất thần linh cùng tác dụng thần linh nơi các Bí Tích của Chúa Giêsu, những khí cụ thần linh được Người thiết lập để tiếp tục hiện diện với Giáo Hội cho đến tận thế, và qua thừa tác vụ của Giáo Hội trong việc cử hành cùng ban phát các Bí Tích Thánh, Người tiếp tục chữa lành cho chung nhân loại và riêng đàn chiên của Người, đến độ chính Giáo Hội đã trở thành bí tích cứu độ của Người và cho Người (xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 1).
Thế nhưng, về phần người được chữa lành hay muốn được chữa lành thì vấn đề quan trọng và then chốt đối với họ là tin tưởng. Bằng không, cho dù Chúa Kitô có thần lực đến đâu chăng nữa, Người cũng chẳng có tác dụng thần linh gì nơi họ, dù họ có tật nguyện bệnh nạn về cả phần xác lẫn phần hồn đáng thương đến đâu chăng nữa.
Như thế không phải là thần lực của Chúa Giêsu có giới hạn và bị bất lực trước những ai không chấp nhận Người, và do đó Người không làm gì được họ, cho dù Người hết sức muốn thông ban và cứu độ, trái lại, chính đương sự tự vô hiệu hóa thần lực cứu độ vô cùng linh hiệu của Người nơi bản thân của họ, và chính bản thân họ cũng chứng thực là thần lực chữa lành của Người chỉ giành cho người nào xứng đáng lãnh nhận mà thôi, một thứ vô cùng quí báu của Người như thế không thể nào lấy quẳng cho loài chó hay loài heo dơ bẩn (xem Mathêu 7:6).
Nếu gấu áo của Chúa Kitô có thể chữa lành thì có nghĩa là những gì được đụng chạm đến Người đều có sức chữa lành (xem 1Gioan 1:1-2). Đó là lý do những ai gặp gỡ Chúa Kitô không thể nào không trở thành chứng nhân của Người và cho Người, như 2 môn đệ của tiền hô Gioan tẩy Giả (xem Gioan 1:35-50). Vậy Kitô hữu chúng ta quả thực đã được đụng chạm đến Thánh Thể của Ngưòi khi cử hành Thánh Lễ, thậm chí được nên một với Người khi hiệp lễ. Nhưng thử hỏi chúng ta đã có sức chữa lành hay chăng? Ở chỗ những ai giao tiếp với chúng ta có nhận ra Chúa Kitô nơi chúng ta chăng, hay trái lại, họ chỉ thấy toàn là những gì phản kitô nơi chúng ta, ở những thái độ ghen ghét hận thù, nói hành nói xấu, gian dối lừa đảo, vị kỷ chấp nhất v.v. Chính hoa trái chứng từ của chúng ta tới đâu cho chúng ta bieêt mức độ chúng ta đã hiệp thông thần linh có thật hay chăng và tới đâu! Tuy nhiên, cho dù chúng ta có còn đầy những gì là phản kitô như thế, mà vẫn tỏ ra biết mình, với tất cả thiện chí ăn năn thống hối của chúng ta, thì cũng cho thấy LTXC đã chạm đến chúng ta, nhờ đó chúng ta, bằng chính bản chất yếu hèn của mình, có thể trở thành nhân chứng cho tình yêu vô cùng nhân hậu của Người, như người đàn bà Samaritanô ở bờ giếng Giacop (xem Gioan đoạn 4).
Nếu Dân Tân Ước là Giáo Hội có các Bí Tích Thánh nói chung và Thánh Thể nói riêng là một thực tại hiện diện thần linh của Chúa Kitô giữa đàn chiên của Người như thế nào, thì Dân Cựu Ước là Do Thái cũng có Hòm Bia nói chung và chính Hai Bia Đá nói riêng như một biểu hiệu cho hiện diện thần linh của Thiên Chúa nơi họ như vậy.
Bài Đọc I cho Năm Chẵn hôm nay được trích từ Sách Các Vua quyển 1 thuật lại biến cố từ vua (Solomon) đến dân bấy giờ long trọng nghênh đón Hòm Bia, được các vị tư tế chuyên lo việc thờ phượng trong dân (như các vị thừa tế thánh chức trong Giáo Hội từ đầu tới mãi mãi), khiêng từ Nhà tạm vào Đến Thánh Giêrusalem như sau:
"Vua Salomon và toàn dân Israel tề tựu quanh ngài, tiến đi với ngài trước hòm bia, và tế lễ vô số chiên bò không kể xiết. Các tư tế khiêng hòm bia Thiên Chúa đặt vào nơi đã chỉ định tại đền thờ, nơi cực thánh, dưới cánh các tượng vệ binh thần. Các tượng này giang cánh trên nơi để hòm bia, và che phủ hòm bia và các đòn khiêng. Trong hòm bia không có gì khác ngoài hai bia đá mà Môsê đã đặt vào hòm ở núi Horeb, lúc Chúa lập giao ước với con cái Israel khi họ ra khỏi đất Ai-cập. Khi các tư tế lui ra khỏi cung thánh, thì có mây bao phủ nhà Chúa. Vì mây mù, nên các tư tế không thể đứng đó mà thi hành chức vụ: vì vinh quang của Chúa tràn đầy nhà Chúa. Bấy giờ Salomon nói rằng: 'Chúa đã từng phán sẽ ngự trong đám mây. Vậy tôi đã xây cất ngôi nhà làm nơi ở cho Chúa, một nơi vững chắc Chúa ngự đến muôi đời'".
Hòm Bia Cựu Ước quả thực là biểu hiện cho sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa giữa dân Ngài, bởi thế, Hòm Bia ở đâu Thiên Chúa hiện diện ở đó, như trong Bài Đọc 1 cho thấy: "Khi các tư tế lui ra khỏi cung thánh, thì có mây bao phủ nhà Chúa. Vì mây mù, nên các tư tế không thể đứng đó mà thi hành chức vụ: vì vinh quang của Chúa tràn đầy nhà Chúa".
Hình ảnh "mây bao phủ" vẫn được Thánh Kinh Cựu Ước sử dụng liên quan đến sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa có thể ám chỉ Thánh Thần, "Quyền Năng của Đấng Tối Cao sẽ bao phủ cô" (xem Luca 1:35). Bởi thế theo niềm tin của mình, Giáo Hội vẫn liên kết Thánh Linh với Đền Thờ Thiên Chúa là nơi Thiên Chúa ngự trị.
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, chính Vua Solomon, khi chứng kiến thấy "có mây bao phủ nhà Chúa" và thấy "vinh quang của Chúa tràn đầy nhà Chúa" như thế, vua cũng đã bày tỏ niềm tin của mình rằng: "Chúa đã từng phán sẽ ngự trong đám mây. Vậy tôi đã xây cất ngôi nhà làm nơi ở cho Chúa, một nơi vững chắc Chúa ngự đến muôi đời".
Bài Đáp Ca hôm nay cũng liên kết Thiên Chúa với Hòm Bia của Ngài, mà còn nhấn mạnh đến vai trò của các vị tư tế là thành phần trực tiếp đến phụng vụ thần linh:
1) Ðây là điều chúng tôi đã nghe nói tại Ephrata, chúng tôi đã gặp thấy nơi đồng ruộng Gia-ar. Chúng ta hãy tiến vào nhà Chúa, hãy sụp lạy trước bệ dưới chân Ngài.
2) Lạy Chúa, xin lên đường đi tới nơi an nghỉ, Chúa và Hòm Bia oai quyền của Chúa cùng đi! Các tư tế của Ngài hãy mặc lấy lòng đạo đức, và các tín đồ của Ngài hãy mừng rỡ hân hoan. Xin vì Ðavít là tôi tớ Chúa, Chúa đừng hắt hủi người được Chúa xức dầu.
Ngày
05: Thánh Agata, đồng trinh tử đạo
Thánh Agata sinh tại Sicilia trong một gia đình danh giá. Các chị em của
người là Anê, Lucia và Cêcilia đã đổ máu ra minh chứng Chúa Kitô dưới thời
bạo vương Ðêciô, năm 251.
Tương truyền rằng từ thuở bé, Agata đã hứa giữ mình đồng trinh. Nhưng quan
trấn ở Sicilia là Quintianô ngỏ ý xin cưới thánh nữ. Bị từ khước, ông tức
giận bắt giam thánh nữ, lấy cớ ngài là người Công Giáo. Người ta đã hành hạ,
khinh khi làm nhục ngài. Ðể trả thù, bạo quan hạ lệnh nướng ngài trên giường
sắt. Sau đó, người ta lại tống giam thánh nữ. Lạ thay, trong đêm đó, thánh
Phêrô đã hiện ra và chữa lành cho ngài. Dù bị quan trấn Quintianô nhiều lần
dụ dỗ, ngài vẫn một lòng trung kiên với đạo Chúa. Dù đau đớn lăn lộn trên
than hồng và mảnh chai nhọn, ngài vẫn tin cậy vào Chúa, Ðấng sẽ cứu linh hồn
ngài. Chính cử chỉ của thánh nữ khiến cả thành phố náo động, Quintianô sợ
dân nổi loạn nên truyền giam thánh nữ trong ngục. Ngài đã chết rũ tù ngày
05/12/251. Thánh nữ đã làm nhiều phép lạ như che chở thành Catana khỏi hiểm
họa núi lửa Etna. Ngay từ thời đó, người ta đã cầu khẩn và cậy trông vào sự
cầu bầu của thánh nữ. Giáo Hội mừng kính ngài vào ngày 05/02 mỗi năm.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1
V 8, 22-23. 27-30
"Chúa đã phán: "Danh Ta sẽ ở nơi đó, để nhậm lời van nài của dân Israel".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Salomon đứng trước bàn thờ Chúa, đối diện với cộng đoàn
Israel, ông giơ hai tay lên trời và nguyện rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa
Israel, trên trời dưới đất, không có thần nào giống như Chúa. Chúa giữ lời
giao ước và lòng từ bi đối với các tôi tớ đang thành tâm đi trước mặt Chúa.
Nhưng ai dám nghĩ rằng: quả thật Thiên Chúa ngự ở trần gian? Vì nếu trời và
các tầng trời còn không thể chứa được Chúa, huống chi ngôi nhà con xây cất
đây! Nhưng lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin đoái nghe lời cầu nguyện và
sự van nài của tôi tớ Chúa; xin lắng nghe lời ca khen và kinh nguyện mà tôi
tớ Chúa dâng lên trước mặt Chúa hôm nay, ngõ hầu đêm ngày mắt Chúa nhìn xem
ngôi nhà này là nơi Chúa đã phán 'Danh Ta sẽ ở nơi đó', để nghe lời cầu
nguyện mà tôi tớ Chúa kêu xin trong nơi này, để nhậm lời van nài của tôi tớ
Chúa và của dân Israel sẽ cầu nguyện tại nơi đây. Từ thiên cung nơi Chúa
ngự, xin Chúa nhậm lời, và khi đã nhậm lời, xin Chúa dủ lòng thương".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 83, 3. 4. 5 và 10. 11
Ðáp: Lạy
Chúa thiên binh, khả ái thay cung điện của Chúa (c. 2).
Xướng: 1) Linh hồn tôi khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Ðức
Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác tôi hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường
sinh. - Ðáp.
2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi
ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, Ôi Ðại
Vương và Thiên Chúa của con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới
muôn đời. Thuẫn đỡ cho chúng con, xin hãy nhìn xem, lạy Thiên Chúa, xin hãy
đoái nhìn mặt Ðức Kitô của Người. - Ðáp.
4) Thực, một ngày sống trong hành lang nhà Chúa, đáng quý hơn ngàn ngày ở
nơi đâu khác. Con ưa đứng nơi ngưỡng cửa nhà Chúa con, hơn là cư ngụ trong
lều bọn ác nhân. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy
sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 7, 1-13
"Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm
nhân".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên
Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không
tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân,
những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay
trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ
còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy
những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập
tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Người
đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi,
như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa
Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật
lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập
tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy". Và Người bảo:
"Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi.
Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử
tử". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của
tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)", và
các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ
bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm
nhiều điều khác giống như thế".
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô Dạy Luật
Hôm nay, Thứ Ba Tuần V Thường Niên, Bài Phúc Âm vẫn tiếp tục chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kéo dài tới Thứ Tư Lễ Tro mở đầu Mùa Chay hằng năm.
Nếu trong Bài Phúc Âm hôm qua, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" tỏ mình ra, đúng hơn, thông mình ra, hay thông ban ân sủng của mình ra qua việc chữa lành bệnh nạn tật nguyền, thậm chí bằng cả gấu áo của Người cho những ai tin tưởng chạm đến gấu áo ấy, thì trong Bài Phúc Âm hôm nay, Người tỏ mình ra "là chân lý" (Gioan 14:6), Người thông ban chân lý của Người và từ Người ra cho những ai mù quáng, hay nói cách khác, Người mang chân lý đến cho những ai về tâm linh cần chữa lành cái vô thức hay mù quáng của họ, như những người bị bệnh nạn tật nguyền về phần xác cần được Người chữa lành về thể lý vậy.
Thật thế, thành phần mù quáng về tâm linh cần được "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" chữa lành cho đó là "những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem", tức là thành phần giữ luật, thông luật và dạy luật thuộc loại thế giá, thế lực, thuộc loại chính qui, chính gốc, bởi họ có dính dáng tới giáo đô "Giêrusalem", như thể các vị giáo sĩ ở các nước Công giáo trên khắp thế giới ngoài Âu Châu và Tây phương, như ở Á Châu hay Phi Châu hoặc Mỹ Châu Latinh có bằng cấp ở Giáo đô Roma vậy.
Thành phần biệt phái và luật sĩ thuộc loại chính hiệu "made in Jerusalem" này đã bị khuyết tật hay bị mắc tật nguyền bẩm sinh di truyền mù quáng này ở chỗ nào, nếu không phải ở chỗ đúng như lời Chúa Giêsu nhận định và khiển trách họ trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người".
Phải, cái tật nguyền mù quáng của họ là ở chỗ "giả hình", bôi bác ngoài "môi miệng" chứ không thật "lòng", sống một cuộc đời "giả dối", ở chỗ "dạy những giáo lý và những luật lệ loài người", như những gì được Thánh ký Marco liệt kê trong Bài Phúc Âm hôm nay: "không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng".
Đáng lẽ, nếu thực sự xứng danh là thành phần thông luật thì họ phải nắm bắt được tất cả sự thật của luật và về luật, liên quan đến mục đích của luật và tinh thần của luật, từ đó họ mới có thể dạy luật cho dân chúng hiểu mà theo, để cả họ lẫn dân đều giữ luật đúng với những gì Thiên Chúa là Đấng ban luật qua Moisen mong muốn.
Đằng này, chính vì họ coi trọng loài người hơn Thiên Chúa, hay nói ngược lại, coi Thiên Chúa không bằng loài người, coi giá trị nhân bản cao hơn giá trị thần linh, như chính Chúa Giêsu nhận định "các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy", mà họ đã giảng dạy một cách sai lầm, điển hình là họ đã dạy sai lạc điều răn thảo kính cha mẹ trong 10 Điều Răn Chúa dạy, như Chúa Giêsu đã vạch ra cho họ thấy trong Bài Phúc Âm hôm nay:
"Thật vậy, Môsê đã nói: 'Hãy thảo kính cha mẹ', và 'ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử'. Còn các ngươi thì lại bảo: 'Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)', và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi hủy bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".
Sở dĩ thành phần chính hiệu Giêrusalem biệt phái và luật sĩ thông luật trong bài Phúc Âm hôm nay bị Chúa Giêsu vạch trần bộ mặt giả hình và lối sống giả dối của họ ra như vậy là vì họ đã dẫn giải sai ý nghĩa của lề luật liên quan đến ý của Đấng ban lề luật cho con người, và những dẫn giải của họ hoàn toàn theo khuynh hướng tự nhiên muốn sống hưởng thụ và dễ chịu hơn là hy sinh và chịu khó, kể cả đối với những bậc sinh thành dưỡng dục họ.
Hiện tượng và tình trạng thiên lệch đầy chủ quan và vị kỷ này của "những người biệt phái và luật sĩ từ Giêrusalem" này cũng không có gì là khó hiểu, bởi vì một khi họ coi nhẹ Thiên Chúa, coi luật của Ngài không bằng tục lệ loài người, thì cha mẹ loài người của họ cũng đâu có giá trị gì đối với họ mấy nữa.
Và như thế, ở một nghĩa nào đó, họ đã lấy họ làm cùng đích, khi họ coi luật lệ của Thiên Chúa chỉ là phương tiện để họ hưởng thụ, ở chỗ, một đàng bề ngoài họ có vẻ tuân thủ kỹ lưỡng lề luật đấy, nhưng về tinh thần họ lại tuân thủ lề luật một cách chủ quan, nghĩa là, việc họ giữ luật là đường lối tinh ranh để họ có thể nhờ đó thỏa mãn ý riêng của họ một cách chính đáng, và như thế và nhờ thế họ mới có thể làm chủ lề luật, thay thế vị trí của chính Đấng lập luật và ban luật cho họ.
Vua Solomon trong Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay đã cảm nhận rất chí lý trong lời vua nguyện cầu dâng lên Thiên Chúa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, trên trời dưới đất, không có thần nào giống như Chúa. Chúa giữ lời giao ước và lòng từ bi đối với các tôi tớ đang thành tâm đi trước mặt Chúa. Nhưng ai dám nghĩ rằng: quả thật Thiên Chúa ngự ở trần gian? Vì nếu trời và các tầng trời còn không thể chứa được Chúa, huống chi ngôi nhà con xây cất đây!"
Đúng vậy, trước hết, chính vì "trên trời dưới đất, không có thần nào giống như Chúa", nên loài người nói chung, nhất là dân Chúa là thành phần được Ngài tỏ mình ra cho dọc suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, bao gồm cả việc Ngài ban lề luật của Ngài cho họ, chẳng những không được theo một tà thần nào khác, mà còn không được tạo nên các thứ ngẫu tượng của mình thay thế Ngài, hay nói ngược lại, không được nhân tạo hóa Thiên Chúa là Đấng đã tỏ mình ra theo ý nghĩ chủ quan nông cạn của họ, điển hình là khuynh hướng dẫn giải lề luật của Ngài hoàn toàn thuần nhân bản như trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Sau nữa, "nếu trời và các tầng trời còn không thể chứa được Chúa, huống chi ngôi nhà con xây cất đây!", theo nghĩa bóng, còn có nghĩa là loài người hữu hình và hữu hạn không thể nào thấu suốt được Thiên Chúa, nên không thể giam nhốt Ngài trong lòng trí chủ quan và vốn thiên lệch của mình, trái lại, Ngài sẽ thật sự ở với họ và ngự trong họ một khi họ thành tâm tìm kiếm và phụng thờ Ngài "trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24), vì như Vua Solomon cảm nhận rất đúng trong Bài Đọc 1 hôm nay, Ngài là Vị "Chúa giữ lời giao ước và lòng từ bi đối với các tôi tớ đang thành tâm đi trước mặt Chúa".
Bài Đáp Ca hôm nay cũng theo chiều hướng chung của phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói chung và Bài Đọc 1 nói riêng, ở chỗ, linh hồn chỉ sống hạnh phúc khi sống trong "nhà Chúa" (câu 2) hay ở "hành làng nhà Chúa" (câu 3) hoặc ở "ngưỡng cửa nhà Chúa" (câu 3) mà thôi, chứ không phải là nhà của mình là ý riêng của mình, hay ở hành lang nhà mình là khuynh hướng chủ quan của mình, hoặc ở ngưỡng cửa nhà mình là những việc làm giả hình của mình.
1) Linh hồn tôi khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Ðức Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác tôi hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh.
2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, Ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của con.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Thuẫn đỡ cho chúng con, xin hãy nhìn xem, lạy Thiên Chúa, xin hãy đoái nhìn mặt Ðức Kitô của Người.
4) Thực, một ngày sống trong hành lang nhà Chúa, đáng quý hơn ngàn ngày ở nơi đâu khác. Con ưa đứng nơi ngưỡng cửa nhà Chúa con, hơn là cư ngụ trong lều bọn ác nhân.
Ngày
06: Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo (+1597)
Phaolô Miki là một tu sĩ Nhật Bản rất hăng say với công việc truyền giáo.
Ngài sinh vào thế kỷ XVI, giữa cơn bách hại khá gắt gao.
Ngày 05/02/1597, trên một chuyến tàu, Miki và 25 bạn đồng đội bị bắt và bị
treo lên những cây thập tự đối diện với bờ biển. Tuy bị treo nhưng Miki và
các bạn vẫn luôn vui tươi và không ngừng giảng đạo và khuyên răn những người
đến xem. Ngài kêu gọi họ ăn năn trở lại. Ngài tha thứ cho những kẻ sỉ vả và
kết án ngài. Quá tức giận, họ đã đâm ngài cùng các bạn.
Phaolô Miki và các bạn được diễm phúc tử đạo. Các ngài đã bị đóng đinh, vì
thế các ngài cũng được tôn vinh cùng với Ðức Kitô.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 10, 1-10
"Nữ hoàng Saba đã nhìn thấy mọi sự khôn ngoan của vua Salomon".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, nữ hoàng Saba nghe biết Salomon nổi tiếng vì danh Chúa, bà đến hỏi thử ông nhiều câu đố. Bà đến Giêrusalem với đoàn tuỳ tùng đông đảo và nhiều của cải, gồm có lạc đà chở thuốc thơm, vô số vàng và đá ngọc quý báu. Bà yết kiến Salomon và bày tỏ cùng vua mọi nỗi niềm tâm sự. Salomon giải đáp mọi vấn nạn bà nêu ra, và không một lời bí ẩn nào mà không được vua giải đáp.
Nữ hoàng Saba nhìn thấy sự khôn ngoan của Salomon, thấy nhà ngài xây cất, món ăn ngài dùng, nhà của quần thần, trật tự của các công thần và y phục của họ, các quan chước tửu, và các của lễ toàn thiêu mà ngài hiến dâng trong đền thờ Chúa, thì bà hết hồn. Bà thưa cùng vua rằng: "Thật đúng như lời tôi nghe đồn trong xứ tôi về các công trình và sự khôn ngoan của ngài. Và lúc đó tôi không tin những điều người ta kể cho tôi, cho tới khi tôi đến đây, chính mắt tôi đã trông thấy, và tôi quả quyết rằng những điều đồn đại tôi nghe chưa bằng một phân nửa. Sự khôn ngoan và các công trình của ngài còn vĩ đại hơn tiếng đồn tôi đã nghe. Phúc cho thần dân của ngài, và phúc cho các cận vệ của ngài, luôn luôn được ở trước mặt ngài và nghe lời khôn ngoan của ngài. Chúc tụng Thiên Chúa của ngài là Ðấng yêu thương ngài, và đặt ngài lên ngôi báu Israel. Vì Chúa yêu quý Israel muôn đời, nên đã đặt ngài làm vua, để ngài cai trị công minh chính trực". Vậy bà tặng vua một trăm hai mươi nén vàng, một số rất lớn thuốc thơm và đá ngọc quý giá. Người ta không khi nào thấy một số thuốc thơm nhiều hơn thuốc thơm mà nữ hoàng Saba tặng cho vua Salomon. Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 36, 5-6. 30-31. 39-40
Ðáp: Miệng người hiền thuyết đức khôn ngoan (c. 30a).
Xướng: 1) Bạn hãy phó thác đường lối mình cho Chúa, hãy trông cậy vào Người và để chính Người hành động. Người sẽ làm cho chính nghĩa bạn sáng như bình minh, và quyền lợi bạn tỏ như giờ ngọ. - Ðáp.
2) Miệng người hiền thuyết đức khôn ngoan, và lưỡi người nói điều đoan chánh. Luật Thiên Chúa ở trong lòng người, và bước chân người không xiêu té. - Ðáp.
3) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân. Chúa bang trợ và giải thoát họ, Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người. - Ðáp.
Alleluia: Ga. 15, 15b
Alleluia, alleluia - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.- Alleluia.
Phúc Âm: Mc 7,14-23
"Những gì từ con ngùi ta xuất ra, đó là cái làm cho người ta ra ô uế"
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu lại gọi dân chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".
Lúc Người lìa dân chúng mà về nhà, các môn đệ hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn ấy.
Người liền bảo các ông: "Các con cũng mê muội như thế ư? Các con không hiểu rằng tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra".
Như vậy Người tuyên bố mọi của ăn đều sạch.
Người lại phán: "Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng.
Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế".
Ðó là Lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Bài Phúc Âm cho Thứ Tư tuần 5 Thường Niên Hậu Giáng Sinh hôm nay liên quan đến bản thân của con người ta và những gì làm cho con người ra nhơ bẩn. Theo Lời Chúa Giêsu phán dạy cho các tông đồ ở bài Phúc Âm hôm nay thì "Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế".
Nếu những gì xuất phát từ nội tâm của con người mới làm cho họ ra ô uế xấu xa thì ngược lại những gì từ ngoài vào không thể nào làm cho họ ra ô uế, như chính Chúa Kitô đã khẳng định trong cùng bài Phúc Âm hôm nay: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế". Vì, như Người dẫn giải thêm cho các môn đệ khi ở riêng với các vị: "tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra". Căn cứ vào đó, Thánh ký Marcô đã thêm chi tiết kết luận như sau: "Như vậy Người tuyên bố mọi của ăn đều sạch".
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, những cái ở ngoài vào trong con người không phải chỉ có đồ ăn thức uống, là những gì qua cửa miệng của con người, mà còn bao gồm cả những thứ khác nữa, như hình ảnh qua mắt của con người, hay lời nói qua tai của con người, hoặc xúc giác kích thích qua làn da của con người, 3 giác quan có thể thu thập những cái xấu xa hay gương mù gương xấu từ bên ngoài xã hội vào trong tâm trí bên trong: chẳng hạn những hình ảnh xấu, những lời nói xấu hay những sờ mó xấu. Thế nhưng, vấn đề ở đây là nếu con người chấp nhận những cái xấu từ bên ngoài bất khả tránh trên thế gian này ấy thì chúng mới có tác dụng xấu đến nội tâm của họ.
Vấn đề tiếp theo vấn đề trên là con người khó đề phòng và ngăn cản nổi những hình ảnh xấu, những lời nói xấu và những đụng chạm xấu bất ngờ xẩy ra cho mình, dù mình không muốn, để rồi sau đó những chất liệu xấu từ ngoài đó một khi đã lọt qua mắt, qua tai và qua xúc giác của họ, họ bị chúng ám ảnh, bị chúng quấy nhiễu, trở thành như những chước cám dỗ khiến họ khó lòng mà chống trả, thậm chí chúng đã làm cho nội tâm của họ ra xấu bằng những ý nghĩ xấu kèm theo ước muốn xấu, chẳng hạn như ngoại tình trong lòng (xem Mathêu 5:28).
Bởi thế, vấn đề khổ chế mới được đặt ra để giải quyết hai vấn đề then chốt trên đây. Nếu chúng ta biết chúng ta không thoát khỏi, dụ chẳng có ý tìm kiếm, hoàn toàn bất ngờ, bị ảnh hưởng và chi phối bởi những thứ xấu xa từ bên ngoài vào, qua thị giác của chúng ta, hay quá thính giác của chúng ta, hoặc qua xúc giác của chúng ta, đến độ làm cho chúng ta bối rối, bất an, thậm chí sa ngã phạm tội... thì buộc chúng ta phải thực hành phương cách bất khả thiếu vô cùng cần thiết đó là khổ chế giác quan. Một khi đã khổ chế giác quan rồi mà vẫn thỉnh thoảng còn bị cái xấu bên ngoài lọt vào bên trong chúng ta vào một lúc nào đó thì nó cũng khó lòng chi phối chúng ta dễ dàng và mạnh mẽ như trước, bởi chúng ta đã cố ý tránh né nó rồi.
Chỉ có những tâm hồn Kitô hữu nào thực sự nhận biết mình vô cùng yếu đuối mới chịu khó và cẩn thận thực hành việc khổ chế khó khăn này có vẻ cổ hủ này. Nhờ đó họ có thể giữ tâm hồn trong trắng và mới dễ dàng sống cuộc đời "vô tội", hay cùng lắm chỉ "vô tình" tác hành xấu xa một chút nào đó hay vào một lúc nào đó thôi. Nếu nhờ khổ chế, không tò mò nhìn những gì không thực sự cần thiết, không đọc hay xem những cái chẳng giúp ích mấy cho đời sống thiêng liêng, không nghe những gì khiến bản thân bị phân tâm, không đụng chạm hay để mình bị đụng chạm gây xúc cảm không tốt, cho dù bất lịch sự v.v. mà Kitô hữu có được một đời sống nội tâm và bình an thì phải công nhận họ là một con người khôn ngoan.
Sự khôn ngoan của Vua Salomon trong Bài Đọc I hôm nay được nữ hoàng Saba hết lời khen tặng: "Thật đúng như lời tôi nghe đồn trong xứ tôi về các công trình và sự khôn ngoan của ngài. Và lúc đó tôi không tin những điều người ta kể cho tôi, cho tới khi tôi đến đây, chính mắt tôi đã trông thấy, và tôi quả quyết rằng những điều đồn đại tôi nghe chưa bằng một phân nửa. Sự khôn ngoan và các công trình của ngài còn vĩ đại hơn tiếng đồn tôi đã nghe. Phúc cho thần dân của ngài, và phúc cho các cận vệ của ngài, luôn luôn được ở trước mặt ngài và nghe lời khôn ngoan của ngài. Chúc tụng Thiên Chúa của ngài là Ðấng yêu thương ngài, và đặt ngài lên ngôi báu Israel. Vì Chúa yêu quý Israel muôn đời, nên đã đặt ngài làm vua, để ngài cai trị công minh chính trực".
Tuy nhiên, sự khôn ngoan của vua dầu sao cũng vẫn ở lãnh vực tự nhiên hơn siêu nhiên. Bởi thế mà sau này, cho dù có khôn ngoan trước mặt trần gian đến như thế, có thể nói vô tiền khoáng hậu như vậy, vua vẫn không khôn ngoan trước nhan Thiên Chúa, vẫn không tỏ ra khôn ngoan về đời sống đức tin và thiêng liêng, đến độ, như Bài Đọc I ngày mai cho thấy, vua đã trắng trợn ruồng bỏ chính Đấng đã ban cho vua sự khôn ngoan mà theo các thứ tà thần ngẫu tượng của thành phần thê thiết của vua. Đó là lý do, Bài Đáp Ca hôm nay mới nhấn mạnh đến khía cạnh đạo lý nơi tất cả những gì xuất phát từ "miệng người hiền thuyết đức khôn ngoan":
1) Bạn hãy phó thác đường lối mình cho Chúa, hãy trông cậy vào Người và để chính Người hành động. Người sẽ làm cho chính nghĩa bạn sáng như bình minh, và quyền lợi bạn tỏ như giờ ngọ.
2) Miệng người hiền thuyết đức khôn ngoan, và lưỡi người nói điều đoan chánh. Luật Thiên Chúa ở trong lòng người, và bước chân người không xiêu té.
3) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân. Chúa bang trợ và giải thoát họ, Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người.
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 11, 4-13
"Bởi ngươi không giữ giao ước, Ta cất vương quốc khỏi ngươi; nhưng vì Ðavít thân phụ ngươi,Ta sẽ dành một chi tộc cho con trai ngươi".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Khi vua Salomon đã về già, các bà vợ của ông mê hoặc lòng ông, kéo ông theo các thần dân ngoại, lòng ông không còn trọn vẹn với Chúa là Thiên Chúa của ông, như lòng Ðavít thân phụ ông. Salomon tôn thờ nữ thần Astarthê của dân Siđon, và thần Môlốc của dân Ammon. Và Salomon đã làm điều không đẹp lòng Chúa và không trọn niềm theo Chúa, như Ðavít thân phụ ông. Bấy giờ Salomon xây am trên núi đối diện với Giêrusalem cho Khanios, thần của dân Moab, và cho Môlốc, thần của dân Ammon. Ông cũng làm như thế cho tất cả các bà vợ ngoại bang của ông, để các bà dâng hương và tế lễ cho các thần của các bà. Vậy Chúa thịnh nộ với Salomon, vì tâm hồn ông đã bỏ Chúa là Thiên Chúa Israel, Ðấng đã hiện ra với ông hai lần, và cấm ông không được chạy theo các thần khác, nhưng Salomon không tuân giữ điều Chúa truyền dạy ông.
Do đó, Chúa phán cùng Salomon rằng: "Bởi ngươi đã ăn ở như thế, và đã không tuân giữ giao ước và lề luật mà Ta đã truyền cho ngươi, Ta sẽ phân chia vương quốc của ngươi, và trao cho tôi tớ ngươi. Nhưng vì nể Ðavít, thân phụ ngươi, Ta sẽ không thi hành điều đó khi ngươi còn sống. Ta sẽ phân chia vương quốc ngươi ngay trên tay con của ngươi. Vì Ðavít, tôi tớ Ta, và vì Giêrusalem Ta đã tuyển chọn, Ta sẽ không lấy tất cả vương quốc: Ta sẽ dành một chi tộc cho con trai ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 105, 3-4. 35-36. 37 và 40
Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).
Xướng: 1) Phúc cho ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài; xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con. - Ðáp.
2) Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm. Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ. - Ðáp.
3) Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sam 3,9
Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 7, 24-30
"Những con chó ở dưới gầm bàn cũng ăn những mụn bánh rơi của con cái"
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được. Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người.
Bà đó là người dân ngoại, dòng giống Syrôphênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà.
Người nói: "Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó".
Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái".
Người liền nói với bà: "Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi".
Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.
Ðó là Lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần V Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay liên quan đến một đàn bà "dân ngoại", thuộc "dòng giống Syrôphênixi", ở "địa hạt Tyrô và Siđon" ngoài lãnh thổ dân Do Thái. Sở dĩ Chúa Giêsu đến vùng đất của dân ngoại này, không còn trong lãnh thổ dân Do Thái ấy, là vì "Người không muốn ai biết mình", khi Người "vào một nhà kia" ở đó. Người có ngờ đâu rằng, nói theo kiểu trần gian, danh tiếng của ngài, như bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần 2 Thường Niên đã lan khắp đất nước Do Thái, vượt cả ra ngoài biên cương bờ cõi của đất nước này nữa: "Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về bờ biển, đám đông từ Galilêa theo Người, và từ Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và Siđon, nhiều kẻ đến cùng Người, khi nghe biết tất cả những việc Người đã làm".
Bởi thế, Người đã lọt vào tầm mắt theo dõi thật chuyên nghiệp trinh thám và lỗ tai nghe ngóng vô cùng thính thị của một người đàn bà dân ngoại chưa bao giờ gặp Người, như Bài Phúc Âm hôm nay ghi lại: "Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được. Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người... xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà".
Thật là oái oăm và nghiệt ngã thay, nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét nào đó mà "bà nghe nói về Người", liên quan đến các phép lạ Người làm, đến quyền năng khu trừ ma quỉ của Người, đến giáo huấn khôn ngoan đầy thần lực của Người, nhất là đến tấm lòng khoan dung thương cảm dân chúng nói chung và những con người đang gặp gian nan khốn khó nói riêng, như trường hợp của bà, bấy giờ, sau khi bà tỏ thái độ "phục lạy Người" hết sức kính cẩn Người và tin tưởng vào Người, thì Người lại tỏ một thái độ quá ư là dị thường, một thái độ mà xét theo bình thường thật sự là hết sức khinh miệt kẻ khác (coi họ như chó má vậy), và là một thái độ kỳ thị chủng tộc (dân ngoại với dân Do Thái), như chính tai của bà đã nghe thấy "Người nói: 'Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó'".
Không ngờ, người đàn bà dân ngoại này, thành phần vốn bị dân Do Thái khinh miệt ấy, trước con mắt thế gian, tưởng rằng bà ta chắc chắn bị gục ngay tại chỗ bởi cái độc chiêu tàn bạo ấy, một độc chiêu đánh trúng ngay vào nhân phẩm cao quí và danh dự chủng tộc của bà, bà ta vẫn không hề hấn chi, trái lại, cũng không ngờ, bà ta lại có một nội công hết sức thâm hậu, đến độ chẳng những đã chịu đòn quá giỏi "Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: 'Thưa Thầy, đúng thế...'", mà còn phản đòn một cách tuyệt diệu nữa: "Nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái".
Đáng lẽ câu Chúa Giêsu khen tặng viên đại đội trưởng Roma là nhân vật đã đến xin Người chữa lành cho đứa đầy tớ nam người Do Thái đang yếu bệnh liệt giường ở nhà ông: "Tôi bảo thật cho các người biết Tôi chưa hế thấy ai trong Isarael có một đức tin mạnh như vậy" (Mathêu 8:10), cũng phải được Người nói về nữ cao thủ dân ngoại thuộc "dòng giống Syrôphênixi" này. Cả viên đại đội trưởng người Roma, lẫn người đàn bà xứ Sidon trong bài Phúc Âm hôm nay, đều được như ý nguyện nhờ lòng tin của họ, và phải nói là chính lòng tin của họ đã chữa lành và trừ quỉ, bởi Chúa Giêsu không hề đến nhà của họ, không trực tiếp gặp nạn nhân của họ, mà nạn nhân được họ thương vẫn được lành mạnh hay được trừ quỉ: "'Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi'. Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi".
Dân ngoại cho dù bị dân Do Thái cho là thành phần ô uế xấu xa, so với họ là thành phần được Thiên Chúa tuyển chọn và tỏ mình ra cùng ban lề luật Thánh cho, tự dân ngoại, vẫn không xấu, nếu áp dụng nguyên tắc sạch dơ của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm qua: từ ngoài vào không làm cho con người ra dơ bẩn mà là những cái từ trong chính con người mà ra. Chẳng hạn người đàn bà dân ngoại trong Bài Phúc Âm hôm nay có xấu đâu, trái lại, còn mạnh tin hơn chính dân Do Thái nữa. Bởi thế, nếu dân Do Thái không chấp nhận những tà thần ngẫu tượng của họ, những tà thần ngẫu tượng so với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân Do Thái, thì các tà thần ngẫu tượng đó cũng chẳng làm gì được họ, cũng chẳng làm cho họ ra ô uế xấu xa đến độ bị Chúa ghê tởm ruồng bỏ như một Vua Salomon đầy vinh quang và khôn ngoan trần thế nhưng hoàn toàn bị mê hoặc mù quáng trong tâm hồn, như được Bài Đọc I hôm nay thuật lại:
"Khi vua Salomon đã về già, các bà vợ của ông mê hoặc lòng ông, kéo ông theo các thần dân ngoại, lòng ông không còn trọn vẹn với Chúa là Thiên Chúa của ông, như lòng Ðavít thân phụ ông. Salomon tôn thờ nữ thần Astarthê của dân Siđon, và thần Môlốc của dân Ammon. Và Salomon đã làm điều không đẹp lòng Chúa và không trọn niềm theo Chúa, như Ðavít thân phụ ông. Bấy giờ Salomon xây am trên núi đối diện với Giêrusalem cho Khanios, thần của dân Moab, và cho Môlốc, thần của dân Ammon. Ông cũng làm như thế cho tất cả các bà vợ ngoại bang của ông, để các bà dâng hương và tế lễ cho các thần của các bà. Vậy Chúa thịnh nộ với Salomon, vì tâm hồn ông đã bỏ Chúa là Thiên Chúa Israel, Ðấng đã hiện ra với ông hai lần, và cấm ông không được chạy theo các thần khác, nhưng Salomon không tuân giữ điều Chúa truyền dạy ông. Do đó, Chúa phán cùng Salomon rằng: 'Bởi ngươi đã ăn ở như thế, và đã không tuân giữ giao ước và lề luật mà Ta đã truyền cho ngươi, Ta sẽ phân chia vương quốc của ngươi, và trao cho tôi tớ ngươi'".
Bài Đáp Ca hôm nay cũng nhận định rằng nếu dân Do Thái nói chung và con người nói riêng không để cho cái xấu từ bên ngoài vào, theo phương cách khôn ngoan khổ chế được chia sẻ hôm qua, thì chẳng có tà thần ngẫu tượng nào có thể làm chủ mình, như trường hợp của Vua Salomon trong Bài Đọc I hôm nay:
2) Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm. Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ.
3) Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Ngài.
Đó là lý do câu đầu tiên của Bài Đáp Ca hôm nay mới cho biết ai là người có phúc và nguyện xin rằng:
1) Phúc cho ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài; xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con.
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 11, 29-32; 12, 19
"Israel lìa bỏ nhà Ðavít".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Khi ấy, Giêroboam từ Giêrusalem đi ra, thì tiên tri Ahia, người Silô mặc áo choàng mới, gặp ông dọc đường. Lúc đó chỉ có hai người ở ngoài đồng. Ahia cầm lấy áo choàng mới ông đang mặc, xé ra làm mười hai phần và nói với Giêroboam rằng: "Ông hãy cầm lấy mười phần cho ông, vì Chúa là Thiên Chúa Israel phán thế này: 'Ðây, Ta sẽ phân chia vương quốc từ tay Salomon, và Ta sẽ cho ngươi mười chi tộc. Vì Ðavít tôi tớ Ta, và vì thành Giêrusalem mà Ta đã lựa chọn trong mọi chi tộc Israel, Ta sẽ dành cho Salomon một chi tộc' ". Như thế, Israel lìa bỏ nhà Ðavít cho đến ngày nay.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 80, 10-11ab. 12-13. 14-15
Ðáp: Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, ngươi hãy nghe Ta răn bảo (c. 11a & 9a).
Xướng: 1) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác cả, ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra ngoài Ai-cập. - Ðáp.
2) Nhưng dân tộc của Ta chẳng có nghe lời Ta, Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho chúng cứng lòng để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích. - Ðáp.
3) Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở: thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ trở tay! - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin dạy bảo tôi về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn tôi trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 7, 31-37
"Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh.
Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy.
Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh.
Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng.
Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả.
Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn.
Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
Ðó là Lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đúng thế, "ân sủng và chân lý" nơi "Người Con duy nhất đến từ Cha" là Chúa Giêsu Kitô này được dịp tỏ hiện ra ở những nỗi khốn cùng và bất lực của con người đáng thương, nhưng qua nhân tính của Người, một nhân tính đã được ngôi hiệp (hypostatic union) với thân tính để trở thành dấu chỉ hiện diện thần linh của Thiên Chúa, thành phương tiện tỏ mình ra của Thần Tính Chúa Kitô và thành bí tích thông ban sự sống của Thánh Linh là Đấng ban sự sống.
1) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác cả, ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra ngoài Ai-cập.
2) Nhưng dân tộc của Ta chẳng có nghe lời Ta, Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho chúng cứng lòng để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích.
3) Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở: thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ trở tay!
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 12, 26-32; 13, 33-34
"Giêroboam đúc hai con bò vàng".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Giêroboam nói trong lòng rằng: "Giờ đây vương quốc sẽ trở về với nhà Ðavít; nếu dân này lên Giêrusalem để tế lễ trong nhà Chúa, thì lòng dân này sẽ quy thuận với chủ mình là Roboam, vua xứ Giuđa; họ sẽ giết ta và trở về với Roboam". Bấy giờ, ông triệu tập hội nghị và đúc hai con bò vàng, ông nói với dân chúng rằng: "Các ngươi không cần phải lên Giêrusalem nữa. Hỡi Israel, đây những vị thần minh đã dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập". Ông đặt một con bò vàng ở Bêthel và một con ở Ðan. Việc đó là dịp tội cho dân Israel, vì dân chúng lên tận Ðan để thờ con bò vàng. Ông còn xây chùa miếu trên những nơi cao, đặt các người trong dân làm tư tế, họ không phải là con cháu Lêvi. Ông chọn ngày rằm tháng tám là ngày lễ trọng, giống như lễ trọng thường cử hành trong xứ Giuđa. Ông lên bàn thờ để tế những tượng bò mà ông đã đúc, ông làm như thế ở Bêthel; cũng tại Bêthel, ông đã thiết lập hàng tư tế trong các chùa miếu mà ông đã xây cất trên những nơi cao.
Sau các sự việc đó, Giêroboam chẳng những không dứt bỏ đàng tội lỗi, mà trái lại ông còn tiếp tục đặt ở những nơi cao hàng tư tế chọn trong dân chúng. Do đó, nhà Giêroboam phạm tội, bị lật đổ và xoá khỏi mặt đất.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 105, 6-7a. 19-20. 21-22.
Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).
Xướng: 1) Chúng tôi đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng tôi, chúng tôi đã làm điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng tôi, khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ lùng của Chúa. - Ðáp.
2) Dân chúng đã đúc con bò tại Horéb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ. - Ðáp.
3) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.
Alleluia: Tv. 94, 8ab
Alleluia, alleluia - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 8,1-10
"Họ ăn no nê".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: "Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến".
Các môn đệ thưa: "Giữa nơi hoang địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no".
Và người hỏi các ông: "Các con có bao nhiêu bánh?"
Các ông thưa: "Có bảy chiếc".
Người truyền dân chúng ngồi xuống đất, rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát.
Các ông chia cho dân chúng.
Các môn đệ còn có mấy con cá nhỏ.
Người cũng đọc lời chúc tụng và truyền cho các ông phân phát.
Dân chúng ăn no nê và người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng.
Số người ăn độ chừng bốn ngàn.
Rồi Người giải tán họ, kế đó Người cùng các môn đệ xuống thuyền đến miền Ðammanutha.
Ðó là Lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
ĐỨC KITÔ - HÓA BÁNH RA NHIỀU
Theo bộ Phúc Âm Nhất Lãm thì Chúa Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa ra nhiều 2 lần. Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ hai. Chính việc Người hóa bánh ra nhiều bởi lòng thương xót của Người với dân chúng cũng chứng thực Ngưòi thực sự là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", hợp với chủ đề cho Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh mà hôm nay là Thứ Bảy trong Tuần Thứ V.
Đúng thế, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này không phải chỉ tỏ mình ra qua việc Người "đầy ân sủng" ở chỗ chữa lành bệnh tật và khu trừ ma quỉ cho dân chúng, mà còn "đầy chân lý" ở chỗ giảng dạy chung dân chúng với tất cả quyền uy và thế giá của mình, cũng như ở chỗ soi lòng mở trí cho thành phần trí thức và quyền hành trong dân, như nhóm biệt phái và luật sĩ, kỳ lão và tư tế, mỗi khi họ theo dõi Người để đặt vấn đề với Người và để bắt bẻ Người.
Qua bài Phúc Âm hôm nay, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" ấy còn tỏ ra mình "đầy ân sủng" ở chỗ Người quan tâm đến cả nhu cầu ăn uống căn bản bất khả thiếu của dân chúng bằng việc hóa bánh ra nhiều nữa; trong khi đó, các môn đệ của Người hầu như chẳng ai để ý gì hết, hay có để ý đi nữa cũng không biết làm sao có thể đáp ứng nhu cầu của dân chúng, nếu quan tâm tại sao các vị không tự động đến thân thưa cùng Thày mình, như trường hợp Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana: "Họ hết rượu rồi" (Gioan 2:3)?
Chúa Giêsu tự biết Người phải làm gì, nhưng Người muốn bao gồm cả phần của những ai theo Người nữa, thành phần đã được Người tuyển chọn để thay thế Người chăm sóc đoàn chiên của Người sau này. Trước hết bằng việc tỏ cho họ thấy mối quan tâm thương cảm dân chúng của Người: "Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: 'Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến'".
Sau nữa, Người muốn chính các môn đệ của Người phải cộng tác với Người, bằng việc đóng góp một chút gì đó họ có, để chính Người biến một chút đóng góp của các vị ấy tăng lên gấp bội, đủ để đáp ứng nhu cầu của dân chúng bấy giờ: "Các môn đệ thưa: 'Giữa nơi hoang địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no'. Và người hỏi các ông: 'Các con có bao nhiêu bánh?' Các ông thưa: 'Có bảy chiếc'.... Các môn đệ còn có mấy con cá nhỏ". Theo tự nhiên thì "bảy chiếc bánh" và "mấy con cá nhỏ" của các môn đệ chẳng thấm thía vào đâu với con "số người ăn độ chừng bốn ngàn". Thế nhưng, cho đến bấy giờ các vị vẫn chưa nghĩ được rằng Thày của các vị chỉ cần một chút ấy thôi vẫn có thể làm no thỏa số dân chúng ấy.
Sau hết, Người chẳng những muốn các môn đệ đóng góp vào việc Người làm, bằng tất cả những gì họ có, dù chỉ một chút xíu, dù chẳng là bao nhiêu, miễn là có thế thôi, mà còn làm thừa tác viên ban phát "ân sủng" của Người cho dân chúng nữa, vì sau này các vị chính là thừa tác viên ban phát mầu nhiệm thánh qua các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Đó là lý do Phúc Âm cho thấy, sau khi "Người truyền dân chúng ngồi xuống đất, rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra" thì chính Người không đích thân đi phân phát, mà "trao cho các môn đệ phân phát". Cả "mấy con cá nhỏ" cũng thế: "Người cũng đọc lời chúc tụng và truyền cho các ông phân phát". Kết quả tốt đẹp đó là: "Dân chúng ăn no nê và người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng".
Chi tiết "người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng" càng cho thấy "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Đấng ban ân sủng cho con người còn hơn cả mức độ họ cần, vì Người là "mục tử nhân lành đến cho chiên (chẳng những) được sự sống (mà còn là) một sự sống viên mãn" nữa (Gioan 10:10). Khi con người mới được Thiên Chúa tạo dựng nên, còn ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, chưa biết đến tội lỗi là gì, bấy giờ họ mới có "sự sống" nhưng vẫn chưa phải là "sự sống viên mãn", cho tới khi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người, vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14).
Nếu không có "sự sống" và là "sự sống viên mãn" thì, như các Bài Đọc I cho ngày Thứ Tư và Thứ Sáu Tuần II Thường Niên ghi nhận, dù là Thánh Vương Đavít, một con người đầy lòng tin tưởng vào Chúa (điển hình là trận đấu với viên tướng vô đối thủ Goliat người Philitinh) và bác ái với địch thù của mình (điển hình là Vua Saolê tìm sát hại chàng nhưng chàng vẫn tha chết cho 2 lần), cũng có lúc sa ngã nặng nề với tội ngoại tình kèm theo cả tội sát nhân, như Bài Đọc I Thứ Sáu Tuần III Thường Niên cho thấy, hay tệ hơn nữa là Salomon, một vị vua, như Bài Đọc I cho Thứ Tư và Thứ Năm tuần này cho thầy, khôn ngoan đệ nhất thiên hạ nhưng vẫn bị tà thần ngẫu tượng của dân ngoại làm mê hoặc đến cố chấp ruồng bỏ Thiên Chúa.
Thậm chí càng tệ hơn nữa, hơn ai hết và hơn bao giờ hết, là nhân vật Giêroboam trong Bài Đọc I hôm nay, một con người được Thiên Chúa nhưng không bất ngờ chọn làm vua 10 chi tộc Israel, như Bài Đọc I hôm qua cho thấy, mà vẫn chẳng những tỏ ra vô ơn bội nghĩa với Chúa lại còn âm mưu phản lại Ngài một cách trắng trợn, như thể ông ta là chúa tể chứ không phải là Đấng đã chọn ông, chỉ vì ông ta muốn "sự sống dồi dào" một cách chủ quan và vị kỷ, nhưng lại là những gì hủy diệt chính bản thân ông cùng với tất cả triều đại của ông. Ở chỗ, như Bài Đọc I hôm nay rõ ràng ghi thuật:
"Trong những ngày ấy, Giêroboam nói trong lòng rằng: 'Giờ đây vương quốc sẽ trở về với nhà Ðavít; nếu dân này lên Giêrusalem để tế lễ trong nhà Chúa, thì lòng dân này sẽ quy thuận với chủ mình là Roboam, vua xứ Giuđa; họ sẽ giết ta và trở về với Roboam'. Bấy giờ, ông triệu tập hội nghị và đúc hai con bò vàng, ông nói với dân chúng rằng: 'Các ngươi không cần phải lên Giêrusalem nữa. Hỡi Israel, đây những vị thần minh đã dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập'. Ông đặt một con bò vàng ở Bêthel và một con ở Ðan. Việc đó là dịp tội cho dân Israel, vì dân chúng lên tận Ðan để thờ con bò vàng. Ông còn xây chùa miếu trên những nơi cao, đặt các người trong dân làm tư tế, họ không phải là con cháu Lêvi. Ông chọn ngày rằm tháng tám là ngày lễ trọng, giống như lễ trọng thường cử hành trong xứ Giuđa. Ông lên bàn thờ để tế những tượng bò mà ông đã đúc, ông làm như thế ở Bêthel; cũng tại Bêthel, ông đã thiết lập hàng tư tế trong các chùa miếu mà ông đã xây cất trên những nơi cao. Sau các sự việc đó, Giêroboam chẳng những không dứt bỏ đàng tội lỗi, mà trái lại ông còn tiếp tục đặt ở những nơi cao hàng tư tế chọn trong dân chúng. Do đó, nhà Giêroboam phạm tội, bị lật đổ và xoá khỏi mặt đất".
Tuy nhiên, như tình trạng đói khổ về phần xác của dân chúng trong Bài Phúc Âm hôm nay còn được Chúa Giêsu động lòng thương đáp ứng cho họ no thỏa thế nào thì tình trạng khốn nạn phần hồn của dân Chúa, thành phần liên tục vô ơn bội nghĩa với Chúa và phản bội bất trung với Chúa, như một Giêroboam tiêu biểu trong Bài Đọc I hôm nay, vẫn đáng được Chúa thương khi họ nhận ra lầm lỗi của mình mà van xin Ngài: "Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài", với tất cả ý thức được gói gọn trong Bài Đáp Ca hôm nay như sau:
1) Chúng tôi đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng tôi, chúng tôi đã làm điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng tôi, khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ lùng của Chúa.
2) Dân chúng đã đúc con bò tại Horéb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ.
3) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ.