SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Bài Ðọc I: Ðnl 18, 15-20
"Ta sẽ gầy dựng một tiên tri và Ta sẽ đặt lời Ta vào miệng người".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói với dân chúng rằng: "Chúa là Thiên Chúa các ngươi, sẽ gầy dựng giữa các ngươi và giữa những anh em các ngươi, một tiên tri như ta: các ngươi sẽ nghe lời người, như các nguơi đã xin cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi ở Horeb khi có cuộc đại hội, và các ngươi nói rằng: Tôi không muốn nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa tôi nữa, tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết. Và Chúa phán cùng tôi: sự họ đã nói, là tốt. Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi; Ta sẽ đặt vào miệng người những lời của Ta, người sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Ta sẽ truyền cho người. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Ta mà người sẽ nói nhân danh Ta, chính Ta sẽ xét xử nó. Nhưng tiên tri nào tự phụ, nhân danh Ta mà nói lời Ta không truyền phải nói, hoặc nhân danh các thần khác mà nói, thì sẽ chết".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9.
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: các bạn đừng cứng lòng (c. 8).
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. - Ðáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 7, 32-35
"Người nữ đồng trinh lo lắng việc Chúa, để nên thánh".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi ước mong anh em khỏi phải lo lắng. Người không có vợ thì lo lắng việc Chúa, và tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Nhưng người đã có vợ thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng vợ mình, và họ bị chia xẻ. Cũng thế, người phụ nữ không có chồng và đồng trinh thì lo lắng việc Chúa, để nên thánh phần xác và phần hồn. Còn người phụ nữ đã có chồng thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng chồng mình. Tôi nói thế vì ích lợi cho anh em, chứ không phải để gài bẫy anh em đâu, nhưng là để hướng dẫn anh em đến đời sống đoan chính và hoàn toàn khắng khít với Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 1, 14 và 12
Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta; những ai đón nhận Người, Người sẽ ban cho quyền làm con cái Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 1, 21-28
"Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
(Ðến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa". Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người". Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
ĐỨC KITÔ - THẦN HIỂN
Mới đọc Bài Đọc I cho Chúa Nhật Thứ IV Thường Niên Năm B hôm nay, nếu lưu ý tới tâm thức của dân Do Thái qua giòng lịch sử, sẽ thấy có một sự mâu thuẫn thật là mâu thuẫn ở nơi họ. Đó là, họ tỏ ra sợ hãi Thiên Chúa, nhất là mỗi khi Ngài tỏ mình ra cho họ, nghĩa là qua sự kiện thần hiển của Ngài (theophany), một cuộc thần hiển bao gồm những hiện tượng sấm xét, mây mù, lửa bốc, khói tỏa, động đất v.v. như trong biến cố ở Núi Sinai, được thuật lại trong Sách Xuất Hành (19:16-20) như sau:
"Ðến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ. Ông Mô-sê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa; họ đứng dưới chân núi. Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì Ðức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh. Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh. Ông Mô-sê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. Ðức Chúa ngự xuống trên núi Xi-nai, trên đỉnh núi. Người gọi ông Mô-sê lên đỉnh núi, và ông đi lên".
Lý do họ đã không muốn thấy những cuộc thần hiển kinh thiên động địa, đầy tính cách rùng rợn kinh hoàng này là như thế, họ đã ngỏ ý muốn và họ đã nhận được lời hứa đáp ứng thỏa đáng lời yêu cầu có lý của họ, như những gì Moisen nói với dân chúng trong Sách Đệ Nhị Luật ở Bài Đọc I hôm nay:
"Chúa là Thiên Chúa các ngươi, sẽ gầy dựng giữa các ngươi và giữa những anh em các ngươi, một tiên tri như ta: các ngươi sẽ nghe lời người, như các nguơi đã xin cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi ở Horeb khi có cuộc đại hội, và các ngươi nói rằng: Tôi không muốn nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa tôi nữa, tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết. Và Chúa phán cùng tôi: sự họ đã nói, là tốt. Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi; Ta sẽ đặt vào miệng người những lời của Ta, người sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Ta sẽ truyền cho người. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Ta mà người sẽ nói nhân danh Ta, chính Ta sẽ xét xử nó".
Ở đây, qua lời hứa với dân Do Thái về một "một tiên tri như ta" (tức như Moisen) như thế Thiên Chúa như muốn lập lại lời Ngài đã hứa với hai nguyên tổ ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15) về "Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Redemptor Hominis" (ĐTC Gioan Phaolô II - nhan đề Thông Điệp đầu tiên ngày 4/3/1979), Đấng thuộc "giòng dõi người nữ". Và lời Ngài hứa ngay từ ban đầu với chung loài người và lời Ngài hứa với dân Do Thái qua Moisen trong Bài Đọc I hôm nay đã trở thành hiện thực "vào lúc thời điểm viên mãn" (Galata 4:4), tức "vào thời kỳ sau hết, Thiên Chúa đã nói với chúng ta nơi Người Con của Ngài" (Do Thái 1:1), chứ không phải "bằng nhiều thể nhiều cách khác nhau trong những thời gian đã qua" (Do Thái 1:1), và Người Con của Ngài "đã được hạ sinh bởi một người nữ, được sinh hạ dưới lề luật để cứu những ai bị lệ thuộc lề luật, hầu chúng ta được nhận lãnh thân phận làm dưỡng tử" (Galata 4:4-5).
Tuy nhiên, cho đến khi Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần này xuất hiện, nơi Nhân Vật Lịch Sử Giêsu Nazarét, đóng vai "một tiên tri như (Moisen)", trong việc "nói cho họ biết tất cả những điều Ta sẽ truyền cho người", như Moisen lập lại lời Thiên Chúa về sứ vụ của vị tiên tri tương lai đầy hứa hẹn ấy với dân Do Thái trong bài Đọc I hôm nay, nhất là khi Vị Đại Tiên Tri Thiên Sai này nói cho họ biết tất cả sự thật về bản thân Người, thì dân Do Thái lại không chịu tin, lại tỏ ra hoàn toàn mâu thuẫn với cha ông của họ là thành phần sợ các cuộc thần hiển đầy rùng rợn đến chết được, như họ bày tỏ trong Bài Đọc I hôm nay; trái lại, họ còn lên án Người, ném đá Người và tìm cách sát hại Người nữa: "Ông chỉ là một con người mà cho mình là Thiên Chúa" (Gioan 10:33), và chính vì thế cuối cùng Người đã bị Hội Đồng Đầu Mục Do Thái, sau khi nhân danh Thiên Chúa hỏi Người và được Người xác nhận Người là ai, thì đã vì Người mà vấp phạm: "Hắn lộng ngôn phạm thượng... Hắn đáng chết" (Mathêu 26:65-66).
Dân Do Thái mâu thuẫn và thật là mâu thuẫn ở chỗ đó. Nói đúng ra dân nào cũng vậy, cũng là người, cũng mang nhân tính nhiễm lây nguyên tội đầy mù quáng. Ở chỗ, họ chẳng những không chấp nhận Vị Thiên Chúa vô hình thần hiển đáng sợ, mà cũng chẳng chấp nhận Thiên Chúa hiện thân hữu hình như họ, sống gần gũi với họ. Đó là lý do câu xướng trước Bài Phúc Âm hôm nay mới được Giáo Hội chọn câu Phúc Âm của Thánh ký Gioan, liên quan đến cả mầu nhiệm nhập thể về phía Thiên Chúa lẫn điều kiện cứu độ bất khả thiếu về phía con người (ở những chi tiết được người viết gạch dưới): "Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta; những ai đón nhận Người, Người sẽ ban cho quyền làm con cái Thiên Chúa. - Alleluia" (xem Gioan 1:14 và 12).
Và đó cũng là lý do, về phía con người, Giáo Hội đã chọn những câu trong Thánh Vịnh 94 (1-2. 6-7. 8-9) để khuyên dân Chúa "đừng cứng lòng" khi "các bạn nghe tiếng Người" như sau:
1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta".
Thế nhưng, nếu vị Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay tỏ lòng mong muốn "ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: các bạn đừng cứng lòng", thì Thánh Phaolô, Vị Tông Đồ Dân Ngoại, trong Thư Thứ Nhất gửi giáo đoàn Corintô ở Bài Đọc II hôm nay nêu lên cho Kitô hữu một lối sống bình an tự tại, không bị chi phối bởi những lo lắng trần gian, nhờ đó mới có thể gắn bó với Chúa, một lối sống có thể nói là trinh khiết, hay của thành phần trinh nữ, như sau (người viết cố ý nhấn mạnh đến những chi tiết được gạch dưới):
"Anh em thân mến, tôi ước mong anh em khỏi phải lo lắng. Người không có vợ thì lo lắng việc Chúa, và tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Nhưng người đã có vợ thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng vợ mình, và họ bị chia xẻ. Cũng thế, người phụ nữ không có chồng và đồng trinh thì lo lắng việc Chúa, để nên thánh phần xác và phần hồn. Còn người phụ nữ đã có chồng thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng chồng mình. Tôi nói thế vì ích lợi cho anh em, chứ không phải để gài bẫy anh em đâu, nhưng là để hướng dẫn anh em đến đời sống đoan chính và hoàn toàn khắng khít với Chúa".
Vấn đề được đặt ra liên quan đến Bài Đọc II hôm nay, một bài đọc được Giáo Hội chọn đọc để ngầm bảo với con cái của mình rằng chỉ có khi nào "hoàn toàn khắng khít với Chúa",
"khỏi phải lo lắng", như thành phần không vợ không chồng, như thành phần tu sĩ nam nữa sau này trong lịch sử Giáo Hội, thì như thế những ai sống theo ơn gọi vợ chồng khó nghe lời Chúa lắm sao, và vì thể sẽ khó nhận thức được những gì Chúa muốn và trọn vẹn đáp trả ý muốn của Thiên Chúa? Khách quan mà nói thì đúng như vậy. Đó là lý do, trong Bài Dọc I tuần trước, Thánh Phaolô đã khuyên Kitô hữu sống đời gia đình hãy sống ở thế gian như không thuộc về thế gian: "có vợ như không có vợ".
Nghĩa là vợ chồng hãy chấp nhận nhau trong Chúa và vì Chúa, nên có xẩy ra những gì khác nhau, nghịch nhau và thậm chí đụng nhau, họ vẫn có thể trung thành với nhau cho đến cùng. Chính khi vợ chồng sống đức ái trọn hảo, bằng đức tin sâu xa như thế, trong đời sống hôn nhân gia đình, là họ đã thực sự sống lời Chúa rồi vậy. Nhất là khi họ nhận biết Thiên Chúa tỏ mình ra qua các biến cố ngoài ý muốn của họ trong đời sống hôn nhân gia đình, những biến cố cũng là những gì Thiên Chúa muốn nói với con người, như việc Chúa Giêsu trừ thần ô uế trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Kitô muốn lập lại lời Người đã báo trước trong Bài Phúc Âm tuần trước rằng "Nước Thiên Chúa gần đến rồi" vậy.
Chính vì Chúa Giêsu Kitô chẳng những là "một tiên tri như (Moisen)" mà còn là chính "Lời đã có ngay từ ban đầu, Lời hằng ở nơi Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa" (Gioan 1:1), "Lời (ấy) đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), nên khi "Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta (mới) kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ".
Cái "uy quyền" xuất phát từ Người qua lời "giảng dạy" của Người là do ba yếu tố bất khả thiếu sau đây: trước hết, xuất phát từ chính bản thân của Người là một Ngôi Vị Thần Linh, một Ngôi Vị đầy Thánh Linh, đầy sự sống, được tỏa ra từng lời nói, cử chỉ, tác hành và phản ứng của Người; sau nữa, xuất phát từ chính lời của Người, một lời chất chứa chính chân lý và là một chân lý có tác dụng "giải phóng" (Gioan 8:32) những tâm hồn nào khao khát chân lý, cởi mở và biết lắng nghe; sau hết, xuất phát từ chính các việc quyền năng Người làm, chẳng hạn như việc Người chữa lành và trừ quĩ, những việc đầy quyền năng có tác dụng tất yếu trong việc làm gia tăng thần lực cho lời giảng dạy của Người.
Phải chăng, chính vì thế mà trong Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Marcô, ngay sau khi nhận định "người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ", liền thuật lại việc Người cứu chữa một người bị thần ô uế ám như sau: "Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: 'Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa'. Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: 'Hãy im đi và ra khỏi người này!' Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy".
Đúng vậy, nếu Thánh ký không cố ý sử dụng việc trừ thần ô uế ám của Chúa Giêsu để chứng tỏ cái "uy quyền" của Người nói chung và của lời Người nói riêng thì tại sao, ngay sau sự kiện trừ tà này của Chúa Giêsu, Thánh ký Marco cho biết thêm một chi tiết là lạ liên hệ tới lời giảng dạy của Người hơn là tới chính việc Người làm: "Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: 'Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người'. Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa".
"Ðấy là một giáo lý mới ư?", dân chúng chứng kiến thấy việc Chúa Giêsu trừ tà nói như vậy, nói về "giáo lý", tức về những gì liên quan đến lời nói, đến lời giảng dạy hay đến giáo huấn của Người, chứ không phải họ nói rằng: Ðấy là một quyền năng mới ư? Bởi vì thứ "giáo lý" mới này, đối với dân chúng, ở nơi việc trừ tà của Chúa Giêsu, là những gì liên quan đến lệnh truyền của Người: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" đúng như họ đã cảm nhận: "Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người".
Thật thế, chính nhờ quyền lực vô song của "giáo lý mới" là lời Thiên Chúa mà nạn nhân bất hạnh trong Bài Phúc Âm hôm nay mới được trừ cho khỏi thần ô uế, ám chỉ các khuynh hướng trần tục đầy tính chất xấu xa hèn hạ nhơ nhớp, nhờ đó, Kitô hữu, như nạn nhân, mới có thể trở nên tinh tuyền, khỏi các đam mê nhục dục và tính mê nết xấu v.v., và mới có được một tấm lòng gắn bó với Chúa, không còn bận bịu lo toan trần tục, theo tinh thần của Bài Đọc II hôm nay, để rồi, nhờ tấm lòng gắn bó với Chúa, theo chiều hướng của câu xướng trước Bài Phúc Âm hôm nay, họ mới dễ "đón nhận Người", nhờ đó, "Người sẽ ban cho họ quyền làm con cái Thiên Chúa", nghĩa là được hiệp thông thần linh với "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14) - Alleluia".
Ngày 28 tháng 1 -
Thánh Tôma Aquinô, linh mục, tiến sĩ Hội thánh
Thánh Tôma sinh tại thành Naples năm 1225 trong một gia đình giàu sang và
đạo hạnh. Cha ngài làm lãnh chúa đảo Aquinô. Chính nhờ ảnh hưởng gia đình mà
Tôma đã hấp thụ được một nền đạo đức chắc chắn để tiến lên đỉnh trọn lành,
một ý chí sắt đá để theo ơn gọi và một nền học vấn uyên thâm để giải đáp các
vấn nạn của thời đại.
Lúc đầu Tôma được cha gửi ở tu viện Cassino của các cha dòng Bênêđictô.
Nhưng 9 năm sau, vì một biến cố chính trị, tu viện bị giải tán, Tôma được
gửi về gia đình và tiếp tục học đại học Naples. Nơi đây, Tôma có dịp tiếp
xúc với các tu sĩ dòng Ða Minh và cậu bắt đầu say mê lý tưởng sống nghèo khó
và làm việc trí thức để truyền bá cho người khác chân lý đã suy niệm.
Năm 1244, Tôma đã quyết định xin khoác bộ áo trắng của dòng Ða Minh. Việc
này đã gây chấn động mạnh mẽ cho gia đình, vì thân mẫu ngài vẫn thầm có tham
vọng muốn cho con mình trở thành tu viện trưởng ở Cassino. Bà đã quyết định
bắt Tôma về giam trong nhà và dùng mọi mưu kế để dụ dỗ cậu trở về thế gian,
nhưng bị thất bại nên cuối cùng trong cơn mù quáng bà đã nhờ tới một cô gái
trắc nết quyến rũ Tôma. Thầy đã dùng một thanh củi đang cháy đuổi cô gái
phóng đãng ra khỏi phòng. Sau việc này, Chúa đã sai thiên thần xuống thắt
dây trinh khiết biểu hiện huy chương chiến thắng cho Tôma.
Trước ý chí sắt đácủa con, bà mẹ đành chịu để cho Tôma trốn thoát về tu
viện. Năm sau, ngài được thụ huấn với thánh Albertô, một học giả nổi danh
thời ấy. Năm 27 tuổi, ngài trở thành giảng sư đại học với một kiến thức uyên
bác có thể hướng dẫn được giới trí thức bấy giờ đang say mê với nền triết lý
ngoại giáo Hy Lạp. Công trình tuyệt tác của thánh Tôma chính là bộ "Tông
Luận Thần Học" mà ngài còn lưu lại cho hậu thế. Ngài thú nhận mình đã kín
múc tất cả sự thông thái ấy nơi Chúa qua suy niệm và cầu nguyện.
Ngài qua đời năm 1274, hưởng thọ 49 tuổi.
Năm 1328, Ðức Giáo Hoàng Gioan XXII tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh.
Năm 1567, Ðức Piô V lại phong ngài làm Tiến Sĩ Hội Thánh với biệt hiệu "Tiến
Sĩ Thiên Thần".
Ðến năm 1880, Ðức Lêô XIII đặt ngài làm quan thầy các trường Công Giáo.
Thứ Hai
Bài Ðọc I (Năm
II): 2
Sm 15, 13-14. 30; 16, 5-13a
"Chúng ta hãy trốn khỏi Absalon. Hãy để Sêmê nguyền rủa theo lệnh của Chúa".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, có kẻ đến báo tin cho Ðavít rằng: "Toàn dân Israel hết
lòng theo Absalon. Ðavít liền nói cùng các cận thần của ông ở Giêrusalem
rằng: "Hãy chỗi dậy, chúng ta trốn đi, vì chúng ta không sao thoát khỏi tay
Absalon. Các ngươi hãy ra mau đi, kẻo nó đến bắt chúng ta, gây tai hại cho
chúng ta và dùng gươm giết hết dân thành". Ðavít trèo lên núi Cây Dầu, ông
vừa leo vừa khóc lóc, đi chân không, đầu phủ khăn. Toàn dân theo ông cũng
trùm đầu, vừa leo vừa khóc. Vậy vua Ðavít đến Bahumrim. Và này xuất hiện một
người thuộc dòng họ Saolê, tên là Sêmê, con ông Giêra. Anh ta vừa đi vừa
nguyền rủa, rồi ném đá Ðavít và những cận vệ của vua. Toàn thể dân chúng và
tất cả binh sĩ đều đi hai bên tả hữu nhà vua. Vậy Sêmê nguyền rủa nhà vua
rằng: "Hỡi kẻ khát máu, người của Bêlial, xéo đi, xéo đi! Chúa đã đổ trên
đầu ngươi tất cả máu của nhà Saolê mà ngươi đã tiếm vị. Thiên Chúa đã trao
vương quốc vào tay Absalon, con ngươi. Này tai hoạ hành hạ ngươi, vì ngươi
là một tên khát máu". Bấy giờ Abisai con trai của Sarvia, tâu vua rằng: "Cớ
sao thằng chó chết này nguyền rủa đức vua tôi? Ðể tôi đi lấy đầu nó". Vua
phán rằng: "Hỡi con của Sarvia, Ta với khanh có liên hệ gì đâu? Cứ để mặc nó
nguyền rủa. Vì Chúa bảo nó: 'Hãy nguyền rủa Ðavít', ai dám hỏi nó: 'Tại sao
ngươi hành động như vậy?'" Và Ðavít nói với Abisai và toàn thể các cận vệ
rằng: "Kìa, con trai bởi lòng ta sinh ra, mà còn tìm giết ta, phương chi con
của Giêmini đây. Hãy để nó nguyền rủa theo lệnh Chúa. Biết đâu Chúa sẽ nhìn
thấy nỗi khổ tâm của ta, và hôm nay, Người sẽ đổi lời dữ ra hạnh phúc cho
ta". Ðavít và các cận vệ của ông cứ tiếp tục đi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 3, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Lạy Chúa! Xin Chúa đứng lên, xin cứu vớt con! (c.
8).
Xướng: 1) Thân lạy Chúa, nhiều thay người bách hại con, nhiều thay người nổi
dậy chống con. Về con, nhiều kẻ thốt ra lời: "Hết trông hắn được Chúa trời
cứu độ". - Ðáp.
2) Nhưng, lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con, Chúa cho
con ngẩng đầu lên. Con lên tiếng kêu cầu tới Chúa, và Chúa đã nghe con từ
núi thánh của Ngài. - Ðáp.
3) Con nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng con. Con
không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại con. Lạy Chúa! Xin
Chúa đứng lên, xin cứu vớt con! - Ðáp.
Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy
ở lời Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 5, 1-20
"Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa.
Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra
gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù
dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng
xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có
thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la
và lấy đá rạch mình mẩy. Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy
Người và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với
tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ
tôi". Nhưng Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này".
Và Người hỏi nó: "Tên ngươi là gì?" Nó thưa: "Tên tôi là cơ binh, vì chúng
tôi đông lắm". Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy.
Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin
Chúa Giêsu rằng: "Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo". Và Chúa Giêsu
liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn
chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối. Những kẻ chăn heo chạy
trốn và loan tin đó trong thành phố và các trại. Người ta liền đến xem việc
gì vừa xảy ra. Họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi
đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng. Những người đã được
chứng kiến thuật lại cho họ nghe mọi sự đã xảy ra như thế nào đối với người
bị quỷ ám và đàn heo. Họ liền xin Chúa Giêsu rời khỏi ranh giới họ. Khi
Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỷ ám xin theo Người. Nhưng người không
cho mà rằng: "Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết
những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con". Người đó liền đi và
bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm
cho anh ta, và mọi người đều thán phục.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô Trừ Quỉ
Ngày Thứ Hai trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay, quyền uy trừ quỉ của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay thực sự là những gì phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này.
Đúng thế, nếu quỉ cả không thể nào đi trừ quỉ con, vì ma quỉ không thể nào tự chia rẽ nhau, như chính Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Phúc Âm Thứ Hai tuần trước, và nếu loài người vốn bị ma quỉ thống trị từ sau nguyên tội không ai có thể trừ quỉ, thì ai trừ được quỉ người đó chắc chắn phải từ Thiên Chúa là Đấng vô cùng toàn năng mà đến, hay là chính Thiên Chúa, như trường hợp của Vị Thiên Chúa Làm Người Giêsu Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Thật vậy, trong các người bị quỉ ám được bộ Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại, chưa có một trường hợp nào đầy kinh hoàng và thật khiếp sợ như trường hợp này, một trường hợp được Thánh ký Marco thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay, vừa quá dữ tợn, quá mãnh liệt và quá nhiều quỉ, chứng tỏ không một con người thuần túy nào có thể trừ quỉ ngoại trừ một mình Vị Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô:
"Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy".
Sự kiện "một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra" và "người đó vẫn ở trong các mồ mả" (câu này bản dịch có thể bị hiểu lầm là người bị quỉ ám ở bên trong các ngôi mộ, đúng hơn là "ẩn nấp ở giữa các ngôi mộ - the man had taken refuge among the tombs") cho thấy ma quỉ đồng nghĩa với chết chóc và gây ra chết chóc (xem Gioan 8:44), mà đã là người thì tự nhiên ai cũng sợ chết và bị chết về thể lý, không ai có thể thoát chết và làm chủ được sự chết, ngoại trừ Đấng từ cõi chết sống lại là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý".
Cho dù vì kiêu ngạo ngay từ ban đầu mà đệ nhất thần trời là minh thần Luxiphe đã cùng với 1/3 thần trời trở thành ma quỉ (xem Khải Huyền 12:4,7-9), chúng sau đó đã tỏ ra biết mình, như Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy thái độ của chúng tự động tỏ ra với Đấng quyền năng hơn chúng, dù Người còn ở đằng xa, và van xin với Người là Đấng mà chúng nhận biết là ai và đừng ra tay làm khốn chúng:
"Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: 'Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi'".
Thế nhưng, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" đến để cứu độ con người được dựng nên theo hình thần linh và tương tự thần linh (xem Khởi Nguyên 1:26-27) khỏi tội lỗi và sự chết gây nên bởi ma quỉ ngay từ ban đầu, khỏi tình trạng con người đang bị nô lệ ma quỉ và bị ma quỉ thống trị, làm sao có thể làm theo ý muốn gian ác hại người của chúng. Bởi thế Người đã ra tay trừ chúng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này".
Tuy nhiên, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, trước khi chúng xuất ra, "Người hỏi nó: 'Tên ngươi là gì?' Nó thưa: 'Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm'. Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy". Nếu tên của một con quỉ ám người ấy là "cơ binh" thì có thể suy ra rằng:
1- Ma quỉ là một tập thể hơn là từng cá nhân, (hoàn toàn khác hẳn với con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa nhờ đó trở thành từng cá nhân được Ngài yêu thương), nên chúng không thể tách lìa nhau, "trừ khử nhau... chia rẽ nhau" (Marco 3:23-24);
2- Ma quỉ là một quyền lực mãnh liệt, quyền lực tối tăm, quyền lực sự dữ, quyền lực chết chóc, không gì có thể thắng nổi, (như ở nơi trường hợp người bị chúng ám được diễn tả trong Bài Phúc Âm hôm nay), ngoại trừ quyền năng của một mình Thiên Chúa.
Ma quỉ chẳng những là một quyền năng nhưng tự bản chất chúng vẫn sợ đau khổ, vẫn sợ bị trừng phạt, bởi thế, cho dù tự mình là một quyền lực hủy hoại, chúng cũng đã đề nghị với Đấng trừ chúng, đúng hơn là xin cùng Đấng không thể nào không trừ chúng, cho chúng nhập vào đàn heo ở gần đó để chúng tự dùng quyền năng chết chóc của mình mà thực hiện một hành động "tự tử" qua đàn heo ấy, còn hơn bị một tay cao thủ hơn mình như Chúa Kitô ra tay hạ sát cho đỡ bị nhục nhã:
"Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: 'Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo'. Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối".
Sự kiện đám quỉ xin nhập vào đàn heo đây dường như ám chỉ là ở nơi đâu vốn sống theo xu hướng về xác thịt, về đam mê nhục dục, về tham lam hưởng thụ, về những gì xấu ra tồi bại thấp hèn đều là những chỗ của ma quỉ và giành cho ma quỉ, những chỗ hết sức thuận lợi cho ma quỉ hoành hành hơn đâu hết, những chỗ ma quỉ là tác nhân mang lại chết chóc cho những tâm hồn quay cuồng theo cuộc sống buông thả như thế...
Trường hợp của những con người sống băng hoại buông thả ấy có thể nói còn tệ hại và nguy hiểm hơn cả của trường hợp những ai bị quỉ ám nữa, vì người bị quỉ ám hoàn toàn xẩy ra ngoài ý muốn của họ, và họ không thể tự cứu mình cho đến khi được giải cứu bởi một quyền lực thần linh của Thiên Chúa. Họ thật là đáng thương và cần cứu. Một khi được cứu và tỉnh lại, họ trở thành những con người tốt hơn trước, như trường hợp nạn nhân đương sự trong Bài Phúc Âm hôm nay:
"Kẻ trước kia bị quỉ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng... Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỉ ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: 'Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con'. Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục".
Về phía thành phần dân chúng nói chung và chủ nhân của đàn heo bị thiệt hại nói riêng: "họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng", đến độ, họ chẳng những không tỏ ra cảm phục "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", như dân làng Samaria của người phụ nữ tội lỗi đã "tuốn ra gặp Người" mà còn "tin vào Người" nữa (xem Gioan 4:30,39), và mừng cho nạn nhân bị quỉ ám vốn là người trong làng của mình, mà họ lại còn có một thái độ hoàn toàn phản ngược, ở chỗ họ đã tỏ ra sợ hãi Chúa Kitô, như thể họ sợ hãi quyền năng trừ quỉ của Chúa, sợ hãi hành động bị trừ quỉ gây thiệt hại cho họ...
Phải chăng đó là lý do ma quỉ đông như "đạo binh" đã thích thú ở vùng lầy bại hoại này, một vùng đầy những ma quỉ đông như cả một "đạo binh", một sào huyệt của ma quỉ nên chúng không muốn rời bỏ một nơi béo bở như vậy, và "nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy"?
Và cũng phải chăng sau khi thoát khỏi cảnh bị ma quỉ khống chế ở miền này, nạn nhân được trừ quỉ không muốn ở lại một miền đất như sào huyệt của ma quỉ ấy nữa, mà chỉ muốn theo Đấng đã trừ qủi cho mình, theo Đấng đã giải thoát mình, một trường hợp duy nhất trong Phúc Âm liên quan đến nạn nhân trừ quỉ muốn theo Chúa Kitô sau khi được trừ quỉ??
Nhất là phải chăng Chúa Giêsu không chấp nhận lời xin rất chân thành và tốt lành hiếm có này của nạn nhân bị quỉ ám được Người giải thoát là vì Người muốn anh ta trở thành tông đồ của Người và cho Người ở ngay vùng đất của ma quỉ này, một vùng đất dân địa phương ở đấy không muốn thấy sự hiện diện cứu độ của Người, sợ hãi quyền năng giải thoát của Người, nhờ đó, nhờ sự hiện diện gián tiếp của Người qua chứng nhân sống động là anh ta mà ma quỉ không dám hoành hành miền đất ấy nữa. Anh ta trở thành như một ấn tín cứu độ của Người ở vùng này và cho vùng đất vốn là của ma quỉ và thuộc về ma quỉ mà chính anh ta đã từng là ngai tòa ngự trụ của chúng giữa vương quốc của chúng ở đấy???
Trong bài giảng cho Lễ Thứ Sáu 29/1/2016 tại Nhà Trọ Thánh Matta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh một lần nữa, trong nhiều lần khác, về tình trạng tội lỗi là những gì khả chấp còn băng hoại là những gì bất khả chấp, như trường hợp của dân làng sống ở "địa hạt Giêrasa" có thái độ sợ Chúa trên đây trong bài Phúc Âm hôm nay, khi ngài kết thúc bài giảng của mình bằng lời cầu nguyện như sau:
"Lạy Chúa, xin cứu chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi bị băng hoại. Ôi Chúa, vâng, chúng con là những tội nhân, thế nhưng không bao giờ trở thành băng hoại. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn này".
Lời cầu nguyện này của Đức Thánh Cha Phanxicô là để kết thúc bài giảng liên quan đến Bài Phúc Âm trong ngày hôm ấy (Thứ Sáu tuần trước) về một Vua Đavít đi từ tội lỗi (ngoại tình với vợ người ta) đến băng hoại (lén lút sát hại người tôi trung của mình là chồng của một người vợ vì sợ mà ăn nằm với mình), và chính vì tội lỗi của vị vua được gọi là Thánh Vương Đavít này, cho dù vua đã tỏ ra thống hối, vua vẫn phải chịu tất cả mọi hậu quả bởi đó mà ra do chính Thiên Chúa ra tay sửa phạt vua, đúng như những gì Ngài phán qua miệng Tiên Tri Nathan trong Bài Đọc 1 Thứ Bảy tuần trước:
"Lưỡi gươm sẽ không bao giờ rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời,
vì ngươi đã khinh dể Ta, đã cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình. Vì
thế Chúa phán rằng: Từ gia đình ngươi, Ta sẽ gây nên tai hoạ đổ trên đầu
ngươi. Ngay trước mặt ngươi, Ta sẽ đem thê thiếp của ngươi trao cho
người khác, nó sẽ ăn ở với chúng ngay dưới ánh sáng mặt trời. Ngươi đã
hành động thầm lén, còn Ta, Ta sẽ làm việc đó trước mặt toàn dân Israel
và giữa thanh thiên bạch nhật".
Bài Đọc 1 hôm nay đã cho thấy những lời cảnh báo ấy của Thiên Chúa đã trở thành hiện thực và ứng nghiệm qua sự kiện nhà vua này chẳng những bị chính một trong những người con trai của mình là Absalon phản loạn mà còn bị một lê dân thường hèn dám ngang nhiên ném đá và công khai nhục mạ nữa:
"Và này xuất hiện một người thuộc dòng họ Saolê, tên là Sêmê, con ông
Giêra. Anh ta vừa đi vừa nguyền rủa, rồi ném đá Ðavít và những cận vệ
của vua...: 'Hỡi kẻ khát máu, người của Bêlial, xéo đi, xéo đi! Chúa đã
đổ trên đầu ngươi tất cả máu của nhà Saolê mà ngươi đã tiếm vị. Thiên
Chúa đã trao vương quốc vào tay Absalon, con ngươi. Này tai hoạ hành hạ
ngươi, vì ngươi là một tên khát máu'".
Tuy nhiên, phản ứng của vị vua tội lỗi nhưng không đến nỗi quá băng hoại này, trái lại, đã biết thống hối và thật tình thống hối này, qua thái độ vua sẵn sàng chấp nhận bị phạm thương và nhục mạ trước mặt quần thần của vua, và không cho phép ai được đụng đến phạm nhân của vua, nhất là đã trấn an một cận vệ của mình đang nguyền rủa phạm nhân và muốn ra tay cắt đầu hắn:
"'Cớ sao thằng chó chết này nguyền rủa đức vua tôi? Ðể tôi đi lấy đầu
nó'. Vua phán rằng: 'Hỡi con của Sarvia, Ta với khanh có liên hệ gì đâu?
Cứ để mặc nó nguyền rủa. Vì Chúa bảo nó: 'Hãy nguyền rủa Ðavít', ai dám
hỏi nó: 'Tại sao ngươi hành động như vậy?' Và Ðavít nói với Abisai và
toàn thể các cận vệ rằng: 'Kìa, con trai bởi lòng ta sinh ra, mà còn tìm
giết ta, phương chi con của Giêmini đây. Hãy để nó nguyền rủa theo lệnh
Chúa. Biết đâu Chúa sẽ nhìn thấy nỗi khổ tâm của ta, và hôm nay, Người
sẽ đổi lời dữ ra hạnh phúc cho ta". Ðavít và các cận vệ của ông cứ tiếp
tục đi".
Theo tự nhiên, ai cũng sợ chết nên chẳng ai dám đụng đến kẻ có quyền giết mình như vua chúa của mình. Bởi thế, con người dám công khai ném đá vua cùng triều thần của vua và phạm thượng nhục mạ Vua Đavít trong Bài Đọc 1 hôm nay quả là điên khùng, như thể bị quỉ ám vậy, một thứ quỉ ám chỉ có thể bị trừ bằng bác ái yêu thương của một tấm lòng tan nát khiêm cung như Vua Đavít ở Bài Đọc 1 hôm nay.
Ngược lại, cũng có thể nói Thánh Vương Đavít đã bị quỉ ám khi phạm tội ngoại tình và sát nhân, bằng không, tự bản chất vốn tốt lành, đầy tin tưởng và yêu thương của vua từ nhỏ cũng như sau này, căn cứ vào các đoạn sách Samuel trước đó thuật lại về vua trong 2 tuần vừa qua, vì thế vua cần phải được trừ quỉ, và Thiên Chúa đã thực hiện việc trừ quỉ này cho vua, chẳng những đã dùng lời nói của Tiên Tri Nathan mà còn qua những hành động và lời nói phạm thượng của một tên lê dân của vua nữa trong Bài Đọc 1 hôm nay.
Bài Đáp Ca hôm nay như phản ảnh tâm tình đối với Thiên Chúa của Vua Đavít trong lúc vua bị đứa con mình phản loạn và bị một lê dân của mình ném đá cùng nhục mạ:
1) Thân lạy Chúa, nhiều thay người bách hại con, nhiều thay người nổi
dậy chống con. Về con, nhiều kẻ thốt ra lời: "Hết trông hắn được Chúa
trời cứu độ".
2) Nhưng, lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con, Chúa cho con ngẩng đầu lên. Con lên tiếng kêu cầu tới Chúa, và Chúa đã nghe con từ núi thánh của Ngài.
3) Con nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng con. Con không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại con. Lạy Chúa! Xin Chúa đứng lên, xin cứu vớt con!
Thứ Ba
Bài Ðọc I (Năm
II): 2
Sm 18, 9-10. 14b. 24-25a. 30 - 19, 3
"Absalon con cha ơi, sao cha không chết thay cho con?"
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Absalon đang cỡi lừa, tình cờ gặp các cận vệ của Ðavít,
và khi con lừa đi qua dưới cây sồi to lớn rậm rạp, thì đầu ông vướng vào cây
sồi, và ông bị treo lơ lửng, và con lừa ông đang cỡi cứ chạy. Có người thấy
vậy, liền đi báo cho Gioáp rằng: "Tôi đã thấy Absalon bị treo trên cây sồi".
Gioáp cầm ba chiếc lao phóng thẳng vào tim Absalon.
Bấy giờ Ðavít đang ngồi giữa hai cửa, còn người lính gác lúc đó đi trên
thành phía trên cửa, ngước mắt lên trông thấy một người chạy về. Tên lính
gác hô to báo tin cho vua. Vua liền nói: "Nếu chỉ có một đứa, tức là nó mang
tin mừng". Vua nói với anh ta: "Ngươi hãy qua bên này". Khi anh ta đi qua và
đứng đó, thì tên Kusi xuất hiện và tâu vua rằng: "Tâu đức vua, tôi mang đến
cho vua một tin mừng, vì hôm nay, Chúa đã xét xử bênh vực đức vua, Người đã
giải thoát đức vua khỏi tay tất cả những kẻ dấy lên chống lại đức vua". Vua
hỏi Kusi: "Absalon con ta có bình an không?" Kusi thưa lại: "Ước gì các thù
địch của đức vua và toàn thể những kẻ dấy lên chống đức vua, đều bị tai hoạ
như chàng thanh niên đó".
Bấy giờ vua buồn sầu và đi lên lầu nơi cổng thành mà khóc lóc. Ngài vừa đi
vừa nói: "Con ơi, hỡi Absalon! Absalon con ơi! Sao cha không chết thay cho
con! Absalon con ơi! Absalon con ơi! Chớ gì ai để cha chết thay cho con.
Absalon con ơi! Con ơi, hỡi Absalon!"
Người ta đi báo tin cho Gioáp hay rằng đức vua khóc lóc và than tiếc con,
nên hôm đó cuộc chiến thắng trở nên tang chế cho toàn dân, vì hôm đó, dân
chúng nghe nói rằng: "Ðức vua thương tiếc con mình".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 85, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Lạy
Chúa, xin ghé tai nghe, xin nhậm lời con (c. 1a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ghé tai nghe, xin nhậm lời con, vì con đau khổ và cơ
bần. Xin bảo toàn mạng sống con, vì con hiếu thảo với Ngài, xin cứu vớt
người bầy tôi đang cậy trông vào Chúa. - Ðáp.
2) Ngài là Thiên Chúa của con, xin thương con, lạy Chúa, vì con ân cần kêu
van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì, lạy Chúa, con vươn hồn
lên tới Chúa. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai
kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng
con van nài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 144, 13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh
thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 5, 21-43
"Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng
tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng
hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng:
"Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và
được sống". Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo
chen lấn Người tứ phía.
Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực
khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại
bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông
đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: "Miễn sao tôi chạm tới
áo Người thì tôi sẽ được lành". Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong
mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã
xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai đã chạm đến áo
Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía,
vậy mà Thầy còn hỏi "Ai chạm đến Ta?" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem
kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra
nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người
bảo bà: "Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi
bệnh".
Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng:
"Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã
thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: "Ông
đừng sợ, hãy cứ tin". Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và
Gioan, em Giacôbê. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy
người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: "Sao ồn ào và khóc
lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó". Họ liền chế diễu Người.
Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ
đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng:
"Talitha, Koumi!", nghĩa là: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức
thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt
kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho
em bé ăn.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô cứu chữa
Hôm nay, Thứ Ba trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này vẫn tiếp tục với phụng vụ lời Chúa hôm nay nói chung và bài Phúc Âm nói riêng.
Thật thế, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" đã tỏ mình ra trong bài Phúc Âm hôm nay ở chỗ chữa lành cho một người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm và đã hồi sinh một bé gái 12 tuổi.
Trước hết là phép lạ chữa lành người đàn bà loạn huyết 12 năm:
"Có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực
khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại
bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông
đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: 'Miễn sao tôi chạm tới
áo Người thì tôi sẽ được lành'. Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong
mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã
xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: 'Ai đã chạm đến áo
Ta?' Các môn đệ thưa Người rằng: 'Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía,
vậy mà Thầy còn hỏi Ai chạm đến Ta?' Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ
đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi
mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo
bà: 'Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh'".
Sau nữa là phép lạ hồi sinh một bé gái 12 tuổi:
"Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: 'Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?' Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: 'Ông đừng sợ, hãy cứ tin'. Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: 'Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó'. Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: 'Talitha, Koumi!', nghĩa là: 'Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!' Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho em bé ăn".
Theo bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm thì 2 phép lạ này bao giờ cũng đi liền với nhau, nhưng có cái lạ là con số 12 trùng hợp ở giữa hai nạn nhân nhận được phép lạ của Chúa Giêsu, rồi một điều nữa là phép lạ chữa lành cho nữ nạn nhân loạn huyết 12 năm đã kéo dài thời giờ khiến bé gái 12 tuổi "đang hấp hối" không kịp chữa lành khi còn sống như người đàn bà loạn huyết 12 năm. Ngoài ra, sự kiện "đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía" khiến Người không thể đi nhanh hơn cũng là nguyên nhân chậm trễ khiến Chúa Giêsu không đến kịp lúc trước khi bé gái chết.
Tuy nhiên, vì là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Chúa Giêsu vẫn có thể tỏ mình ra một cách hữu hiệu nhất và sáng tỏ nhất vào bất cứ lúc nào, tùy từng trường hợp của mỗi người cũng như của những ai liên hệ, miễn là làm sao để mang lại lợi ích thiêng liêng tối đa chẳng những cho chính nạn nhân đương sự mà còn cho chung cả cộng đồng của họ nữa. Phải chăng đó là lý do có con số trùng hợp 12 với 12: 12 x 12 = 144, hình ảnh vuông trọn của con số đông được tuyển chọn, bao gồm cả cựu ước (12 chi tộc dân Do Thái) lẫn tân ước (12 tông đồ của Giáo Hội), như được Sách Khải Huyền đề cập tới (21:17) về một Tân Thánh Đô Giêrusalem?
Về trường hợp của người đàn bà loạn huyết 12 năm, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" muốn tỏ mình ra ở một "đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía", nhờ đó, riêng người đàn bà bị bệnh loạn huyết có thể lợi dụng dịp may hiếm quí ấy mà tự động chạm đến gấu áo của Người hầu được chữa lành, bằng không, như những lần khác, Người thường xuống thuyền để tránh đám đông thì bà ấy chẳng bao giờ có thể chạm đến Người.
Và mục đích Người cố ý lên tiếng hỏi "ai đã đụng đến Tôi" một cách công khai giữa đám đông trong Bài Phúc Âm hôm nay, không phải là vì Người không biết kẻ nào đã động đến Người, hay Người muốn kẻ đụng đến Người tự thú; thực sự Người đã biết được rằng chính những gì từ Người xuất ra, (như tác dụng thần linh và ân sủng vẫn từ các Bí Tích Thánh hiện nay), và quyền lực chữa lành từ Người thông ra đó đã chữa lành con người chạm đến Người là ai; vì thế, mục đích Người lên tiếng là để cho mọi người hiện diện bấy giờ hãy lưu ý đến nạn nhân được Người chữa lành, đúng hơn đến yếu tố bà đã được chữa lành là chính "đức tin con đã chữa con" của bà, một đức tin có tác dụng chữa lành dù bề ngoài Người như thể không biết và hoàn toàn do đương sự tự động làm thôi.
Về trường hợp của bé gái 12 tuổi hấp hối và lìa đời, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" muốn tỏ mình ra vào chính lúc em chết rồi mới rạng ngời hơn lúc em đang hấp hối, và mới đúng lúc hơn, bởi vì, lúc ấy mới là lúc có đông người thương cảm về cái chết mệnh yểu của một "lá xanh rụng xuống lá vàng trên cây" như em đến chia buồn với tang gia, đông hơn là lúc em mới hấp hối.
Đối với Người, cái chết tự nhiên về phần xác của con người trên trần gian này, như trường hợp của bé gái 12 tuổi này, hay của Lazarô bạn thân của Người (xem Gioan 11:11), chỉ là một giấc ngủ mà thôi: "Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó", còn có thể thức dậy được, đúng hơn, còn có thể đánh thức dậy bằng quyền năng của Người, vì thân xác chết chóc của con người sau nguyên tội và bởi nguyên tội, nhờ quyền năng Vượt Qua của Người sau này, hay nhờ Thánh Thần của Người (xem Roma 8:11), "sẽ được sống lại vào ngày sau hết" (Gioan 11:24).
Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay cho thấy một con người bao gồm cả hai hiện tượng loạn huyết và chết chóc của hai nạn nhân trong Bài Phúc Âm hôm nay. Đó là Absalon, một trong những người con trai của Vua Đavít, một người con "loạn huyết" ở chỗ có máu phản loạn, dám ngang nhiên chống lại vương phụ Đavít của mình, và chính vì tội của mình, người con bị "loạn huyết" này đã bị chết một cách thảm thương, bởi chính vị lãnh tướng của vua cha:
"Trong những ngày ấy, Absalon đang cỡi lừa, tình cờ gặp các cận vệ của
Ðavít, và khi con lừa đi qua dưới cây sồi to lớn rậm rạp, thì đầu ông vướng
vào cây sồi, và ông bị treo lơ lửng, và con lừa ông đang cỡi cứ chạy. Có
người thấy vậy, liền đi báo cho Gioáp rằng: 'Tôi đã thấy Absalon bị treo
trên cây sồi'. Gioáp cầm ba chiếc lao phóng thẳng vào tim Absalon".
Thế nhưng nếu hai nạn nhân trong Bài Phúc Âm hôm nay được "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" chữa lành và hồi sinh thế nào, Absalon "loạn huyết" và bị "ba chiếc lao phóng thẳng vào tim" trong Bài Đọc 1 hôm nay cũng được bù đắp bằng sự lành thắng sự dữ, như thể lỗi lầm của người con này được chữa lành và hồi sinh bởi chính vua cha của nó, bằng quyền lực yêu thương thứ tha vô bờ bến của vua cha, như Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy:
"'Tâu đức vua, tôi mang đến cho vua một tin mừng, vì hôm nay, Chúa đã xét xử bênh vực đức vua, Người đã giải thoát đức vua khỏi tay tất cả những kẻ dấy lên chống lại đức vua'. Vua hỏi Kusi: 'Absalon con ta có bình an không?' Kusi thưa lại: 'Ước gì các thù địch của đức vua và toàn thể những kẻ dấy lên chống đức vua, đều bị tai hoạ như chàng thanh niên đó'. Bấy giờ vua buồn sầu và đi lên lầu nơi cổng thành mà khóc lóc. Ngài vừa đi vừa nói: 'Con ơi, hỡi Absalon! Absalon con ơi! Sao cha không chết thay cho con! Absalon con ơi! Absalon con ơi! Chớ gì ai để cha chết thay cho con. Absalon con ơi! Con ơi, hỡi Absalon!'"
Bài Đáp Ca hôm nay có thể áp dụng vào thân phận và tâm tình của chính Vua Đavít là nạn nhân bị con mình phản loạn mà lại thương mất con, nhưng cũng có thể áp dụng cho cả trường hợp của người đàn bà loạn huyết 12 năm và bé gái 12 tuổi qua đời trong Bài Phúc Âm hôm nay, và cho trường hợp của cả Absalon trong Bài Đọc 1 hôm nay nữa:
1) Lạy Chúa, xin ghé tai nghe, xin nhậm lời con, vì con đau khổ và cơ bần. Xin bảo toàn mạng sống con, vì con hiếu thảo với Ngài, xin cứu vớt người bầy tôi đang cậy trông vào Chúa.
2) Ngài là Thiên Chúa của con, xin thương con, lạy Chúa, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì, lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa.
3) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài.
Thứ Tư
Bài Ðọc I (Năm
II): 2
Sm 24, 2. 9-17
"Chính con đã phạm tội, nhưng những người này là những con chiên, họ có làm
gì đâu?"
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, vua Ðavít nói với Gioáp tư lệnh quân đội rằng: "Ngươi
hãy đi kinh lý khắp các chi tộc Israel, từ Ðan đến Bersabê, và kiểm tra dân
chúng, để ta biết dân số".
Gioáp nạp sổ kiểm tra dân chúng cho vua. Trong dân Israel có tám trăm ngàn
dũng sĩ biết xử dụng gươm, còn phía Giuđa có năm trăm ngàn người thiện
chiến.
Sau khi kiểm tra dân số, Ðavít hồi hộp và thưa cùng Chúa rằng: "Con đã phạm
tội nặng nề trong việc con đã làm. Nhưng, lạy Chúa, xin xoá tội ác cho tôi
tớ Chúa, vì con đã hành động quá dại dột". Sáng hôm sau, khi Ðavít thức dậy,
có lời Chúa phán cùng ông Gad, vị tiên tri và thị kiến của Ðavít rằng:
"Ngươi hãy đi nói với Ðavít: Ðây Chúa phán: Ta cho ngươi ba điều, ngươi hãy
chọn điều nào ngươi muốn, rồi Ta sẽ thi hành". Gad đến cùng Ðavít và tâu
rằng: "Hoặc ngài phải chịu bảy năm đói kém trong nước ngài, hoặc trong ba
tháng, ngài phải lẩn trốn quân thù tìm bắt bớ ngài, hoặc là trong nước ngài
phải chịu dịch tả suốt ba ngày, giờ đây ngài hãy suy nghĩ đắn đo và chịu
điều nào đi để tôi thưa lại cùng Ðấng đã sai tôi". Ðavít trả lời cho Gad
rằng: "Tôi khổ quá! Nhưng thà rơi vào tay Chúa còn hơn là rơi vào tay người
phàm, vì Chúa rất nhân từ".
Chúa đã giáng cơn dịch tả xuống Israel từ sáng hôm ấy cho đến thời gian đã
định. Từ Ðan tới Bersabê, có đến bảy mươi ngàn người đàn ông trong dân phải
chết. Ðang lúc thiên thần Chúa giơ tay để tàn phá Giêrusalem, thì Chúa hối
tiếc trước sự đau khổ, nên phán bảo thiên thần đang giết phạt dân chúng
rằng: "Thôi đủ rồi! Giờ đây hãy dừng tay lại". Bấy giờ thiên thần Chúa đang
ở gần sân lúa của Aruna người Giêbusa. Khi thấy thiên thần sát phạt dân
chúng, Ðavít thưa cùng Chúa rằng: "Chính con là kẻ đã phạm tội, chính con đã
làm điều gian ác; nhưng những người này là những con chiên, họ có làm gì
đâu? Vậy xin tay Chúa đè nặng trên con và trên nhà cha con".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 31, 1-2. 5. 6. 7
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con (c.
5c).
Xướng: 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được
ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng
người đó chẳng có mưu gian. - Ðáp.
2) Con xưng ra cùng Chúa tội phạm của con, và lỗi lầm của con, con đã không
che giấu. Con nói: "Con thú thực cùng Chúa điều gian ác của con, và Chúa đã
tha thứ tội lỗi cho con". - Ðáp.
3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cầu cùng Chúa trong thời buổi
khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nổi những
người này. - Ðáp.
4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi
trong niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8,12
Alleluia, Alleluia. - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ
được ánh sáng ban sự sống. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6,1-6
"Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người.
Ðến ngày Sabát, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sủng sốt
về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông
được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông
nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và
Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?"
Và họ vấp phạm vì Người.
Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê
hương, gia đình họ hàng mình".
Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân,
và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin.
Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
Ðó là Lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô Nazarét
Phụng vụ lời Chúa, nhất là Bài Phúc Âm, cho Thứ Tư trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay vẫn tiếp tục phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này.
Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh ký Marco thuật lại, có nội dung phần nào giống phần đầu của bài Phúc Âm được Thánh ký Luca thuật lại và được Giáo Hội sử dụng cho Chúa Nhật IV đầu tuần này. Bài Phúc Âm hôm nay, tuy ở cùng một địa điểm và cùng một thành phần thính giả: "Chúa Giêsu trở về quê nhà" như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, nhưng khác với bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này ở chỗ không có đoạn Chúa Giêsu bị dân làng dẫn ra sườn núi để xô Người xuống cho chết như ở phần cuối của Bài Phúc Âm Chúa Nhật vừa rồi.
Tuy nhiên, cả hai bài Phúc Âm cho Chúa Nhật đầu tuần của Thánh ký Luca cũng như cho Thứ Tư hôm nay của Thánh ký Marco đều giống nhau ở phản ứng của dân chúng về Chúa Giêsu Kitô, ở chỗ, một đàng thì họ tỏ ra "sửng sốt về giáo lý của Người", đàng khác, trái lại, chính vì họ cảm thấy lạ lùng "sửng sốt" như vậy về Người "nên nói rằng: 'Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?'"
Thái độ ba phải của họ đã được Thánh ký Marco trong Bài Phúc Âm hôm nay kết luận là: "Và họ vấp phạm vì Người". "Vấp phạm" ở chỗ nào? Phải chăng ở chỗ họ đã phạm tội, ở chỗ họ đã tỏ ra uất hận với Người đến độ muốn sát hại Người như trong Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho Chúa Nhật đầu tuần?
Thế nhưng, phản ứng và hành động sát hại Chúa Giêsu Kitô đây chỉ xẩy ra sau khi Người thẳng thắn cho họ biết về tình trạng mù quáng và cứng lòng tin của họ mà thôi, như Bài Phúc Âm Chúa Nhật cho biết, còn ở trong Bài Phúc Âm hôm nay, trước khi Người cảnh giác họ rằng: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình", thì Thánh ký Marcô đã khẳng định rằng "họ vấp phạm vì Người" rồi.
Vậy thì phải chăng không tin vào Chúa Kitô là một thái độ hay hành động hoặc trạng thái "vấp phạm". Theo nguyên tắc có thể hiểu như thế. Bởi vì, nếu Chúa Kitô là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người..." (Gioan 1:9) thì một khi Người chưa xuất hiện thì tất cả nhân loại vẫn còn tiếp tục "ngồi trong tăm tối và trong bóng sự chết" (Luca 1:79), tức là vẫn còn ở trong tình trạng "vấp phạm", cần phải được cứu độ, cần phải được giải cứu cho khỏi tình trạng bất hạnh vô phúc ấy.
Con người lại càng "vấp phạm" hơn nữa, khi "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), nghĩa là khi Thiên Chúa đã "hóa thành nhục thể" nơi Con Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) cho họ mà họ vẫn "không nhận biết Người" (Gioan 1:10) và vẫn "không chấp nhận Người" (Gioan 1:11), như trường hợp điển hình là dân làng Nazarét của Người được Thánh ký Marco ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Thật vậy, cho dù con người không phạm một thứ tội nào đó thật sự được liệt kê trong 10 điều răn, nhưng một khi con người không chấp nhận sự thật được tỏ ra cho họ, qua tiếng lương tâm của họ, qua những chứng từ của Giáo Hội, qua những nguyên tắc luân lý bất dịch, qua Giáo Huấn chân thật của Giáo Hội v.v., thì ở một nghĩa nào đó, tự mình, họ đã ở trong tình trạng "vấp phạm" rồi vậy, như chính Chúa Kitô đã khẳng định về họ dưới đây:
"Phán quyết luận phạt là thế này: ánh sáng đã đến trong thế gian nhưng con người lại chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều gian ác. Hết mọi kẻ làm điều gian ác xấu xa đều ghét ánh sáng, không muốn đến gần ánh sáng bởi sợ các việc làm của mình bị bại lộ" (Gioan 3:19-20).
Thành phần không chấp nhận sự thật hay từ chối sự thật này sở dĩ là thành phần "vấp phạm" vì họ không muốn hoán cải đời sống, trái lại họ muốn tiếp tục sống trong tội lỗi, cho dù họ thực sự biết mình đang tội lỗi, đang sống một cách giả dối và gian ác, hoàn toàn bất khả chấp. Thậm chí chính bản thân đương sự phạm nhân cũng không thể chịu được, khi họ bị lương tâm cắn rứt hay khi họ bị đau khổ bởi tội lỗi do chính họ gây ra.
Nếu họ chấp nhận sự thật thì họ phải hoán cải. Mà hoán cải thì mất tự do phạm tội. Bởi thế, họ không ngừng trốn tránh sự thật, không nương tay đàn áp sự thật và sát hại sự thật là chính những gì giải phóng họ (xem Gioan 8:32). Điển hình và thực tế nhất là trường hợp của những con người luôn trấn an lương tâm để cố tình lao đầu theo đam mê nhục dục và tham vọng lợi lộc điên cuồng của mình, bằng mọi giá, bất chấp mọi thiệt hại gây ra cho tha nhân.
Với những con người cố tình sống trong tình trạng băng hoại thối nát ấy, như Thiên Chúa không hiện hữu, hay như Thiên Chúa đã chết, như không có đời sau, như chỉ có thiên đường trần thế, như tử thi chết 4 ngày như vậy, cho dù Chúa Giêsu vẫn có thể hồi sinh như Lazarô, nhưng có những trường hợp "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này chỉ còn biết "khóc" (xem Gioan 11:39,35; Luca 19:41) mà thôi. Đó là lý do bài Phúc Âm hôm nay đã kết lại ở chỗ:
"Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy".
Đúng thế, đa số thành phần dân làng ở Nazarét có "vấp phạm vì Người" chăng nữa, Người đã chẳng những không chán nản hay thất vọng, trái lại, càng vì thế Người càng phải nỗ lực rao giảng hơn nữa, ở chỗ: "Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy", chẳng những để ngăn chặn tình trạng băng hoại như ở Nazarét mà còn để cứu độ những con người đáng thương khác, thật sự lầm lạc khác.
Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay trong Sách Samuel quyển thứ 2 cho biết về một Đavít lầm lạc trầm trọng một lần nữa, sau lần ngoại tình và giết người trước kia. Cái lầm lạc một lần nữa này của vị vua đệ nhị cai trị dân Do Thái này là ở chỗ: "Vua Ðavít nói với Gioáp tư lệnh quân đội rằng: 'Ngươi hãy đi kinh lý khắp các chi tộc Israel, từ Ðan đến Bersabê, và kiểm tra dân chúng, để ta biết dân số'".
Thế nhưng, nhà vua đã tỏ ra hối hận về lệnh kiểm tra dân số của mình: "Sau khi kiểm tra dân số, Ðavít hồi hộp và thưa cùng Chúa rằng: 'Con đã phạm tội nặng nề trong việc con đã làm. Nhưng, lạy Chúa, xin xoá tội ác cho tôi tớ Chúa, vì con đã hành động quá dại dột'".
Tại sao thế? Tự bản chất của việc kiểm tra dân số này đâu có gì là xấu! Thế nhưng, sở dĩ vua Đavít muốn thực hiện việc kiểm tra dân số là vì vua muốn tỏ ra cái hùng hậu của vương quốc trong thời hiển trị của mình, một vương quốc mà, căn cứ vào bản tổng kết được "Gioáp nạp sổ kiểm tra dân chúng cho vua" thì "trong dân Israel có tám trăm ngàn dũng sĩ biết sử dụng gươm, còn phía Giuđa có năm trăm ngàn người thiện chiến".
Nếu quả thật như vậy thì vua đã phạm tội đối với Thiên Chúa là Đấng đã ở với vua ngay từ khi vua còn là một cậu thanh thiếu niên được Tiên tri Samuel kín đáo xức dầu phong vương cho, ở chỗ vua đã tỏ ra kiêu hãnh, tự phụ và tự mãn v.v. không sống chân thật với mình và với Chúa.
Thế rồi, như trong trường hợp đã ngoại tình còn giết người của vua trước kia, lần này, vua cũng phạm hai tội liền nhau, chẳng những mù quáng kiêu hãnh lại còn gian ác ích kỷ nữa. Ở chỗ, khi được chọn một trong ba hình phạt để đền tội lỗi của mình, vua lại chọn hình phạt giáng xuống trên dân lành vô tội hơn là lên chính bản thân đáng phạt của vua là kẻ đã phạm tội:
"Ðây Chúa phán: 'Ta cho ngươi ba điều, ngươi hãy chọn điều nào ngươi
muốn, rồi Ta sẽ thi hành'. Gad đến cùng Ðavít và tâu rằng: 'Hoặc ngài phải
chịu bảy năm đói kém trong nước ngài, hoặc trong ba tháng, ngài phải lẩn
trốn quân thù tìm bắt bớ ngài, hoặc là trong nước ngài phải chịu dịch tả
suốt ba ngày, giờ đây ngài hãy suy nghĩ đắn đo và chịu điều nào đi để tôi
thưa lại cùng Ðấng đã sai tôi'. Ðavít trả lời cho Gad rằng: 'Tôi khổ quá!
Nhưng thà rơi vào tay Chúa còn hơn là rơi vào tay người phàm, vì Chúa rất
nhân từ'".
Lý do "thà rơi vào tay Chúa còn hơn là rơi vào tay người phàm, vì Chúa rất nhân từ'" được vua Đavít nêu lên và chọn lựa đây bề ngoài có vẻ là những gì chính đáng nhất đối với vua trong lúc vua đang mù quáng, nhưng thật ra là một mánh khóe để trốn tránh khổ đau xẩy ra cho bản thân vua, thà để cho dân lành vô tội chịu còn hơn vua.
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Thiên Chúa là Đấng vô cùng khôn ngoan và nhân từ lại có thể làm theo ý muốn đầy vị kỷ và tác hại dân chúng vô tội như của vua Đavít bấy giờ chứ? Thế nhưng, thật ra, chính trong việc này Thiên Chúa muốn chứng tỏ cho vua thấy rằng tội của vua quá ư là trầm trọng đến độ chỉ có thành phần vô tội như dân lành của vua mới có thể đền thay được cho vua mà thôi, chứ chính vua mà chịu cũng chưa xứng với tội tầy đình của vua nữa:
"Chúa đã giáng cơn dịch tả xuống Israel từ sáng hôm ấy cho đến thời gian
đã định. Từ Ðan tới Bersabê, có đến bảy mươi ngàn người đàn ông trong dân
phải chết".
Tuy nhiên, Thiên Chúa chẳng những công bằng giáng phạt nhưng vẫn nhân hậu như thường. Truớc hết là nhân hậu với thành phần nạn nhân vô tội bị chết trong vụ này, ở chỗ họ chắc chắn được Ngài cứu độ, chắc chắn được Ngài ban thưởng xứng đáng cho giá làm tế vật của họ, như trường hợp làm vật hy tế của Uria là chồng của người vợ mà vua ngoại tình với trước đó cũng vậy. Sau nữa, Ngài nhân hậu với phạm nhân ở chỗ dùng chính hình phạt kẻ vô tội của Ngài vừa đủ để thức tỉnh nạn nhân phạm đến Ngài. Đó là lý do Bài Đọc 1 đã kết luận như thế này:
"Ðang lúc thiên thần Chúa giơ tay để tàn phá Giêrusalem, thì Chúa hối
tiếc trước sự đau khổ, nên phán bảo thiên thần đang giết phạt dân chúng
rằng: 'Thôi đủ rồi! Giờ đây hãy dừng tay lại'. Bấy giờ thiên thần Chúa đang
ở gần sân lúa của Aruna người Giêbusa. Khi thấy thiên thần sát phạt dân
chúng, Ðavít thưa cùng Chúa rằng: 'Chính con là kẻ đã phạm tội, chính con đã
làm điều gian ác; nhưng những người này là những con chiên, họ có làm gì
đâu? Vậy xin tay Chúa đè nặng trên con và trên nhà cha con'".
Không như dân làng Nazarét "cứng lòng tin" trong Bài Phúc Âm hôm nay, vua Đavít đã tỏ ra biết mình và hối hận về những gì mình làm trước tác động thần linh của Thiên Chúa. Bởi thế, vị vua này đã có thể xướng lên Bài Đáp Ca hôm nay rất thích hợp với vua:
1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che
đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó
chẳng có mưu gian.
2) Con xưng ra cùng Chúa tội phạm của con, và lỗi lầm của con, con đã không che giấu. Con nói: "Con thú thực cùng Chúa điều gian ác của con, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con".
3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cầu cùng Chúa trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nổi những người này.
4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ.
Thứ Năm
Bài Ðọc I: (Năm
II): 1
V 2, 1-4. 10-12
"Cha sắp bước vào con đường chung của thiên hạ; Salomon, con hãy can đảm và
ăn ở xứng danh nam nhi".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Gần ngày băng hà, Ðavít truyền cho Salomon, con trai của ông rằng: "Cha sắp
bước vào con đường chung của thiên hạ. Con hãy can đảm, và ăn ở xứng danh
nam nhi. Con hãy tuân giữ các huấn lệnh của Chúa là Thiên Chúa con, hãy đi
trong đường lối của Người, hãy tuân giữ các lễ nghi, giới răn, thánh chỉ và
giáo huấn của Người như đã ghi chép trong Luật Môsê, ngõ hầu con đi đâu, con
cũng hiểu biết mọi việc con làm, để Chúa hoàn thành lời Người đã nói về cha
rằng: "Nếu con cái ngươi tuân giữ đường lối của chúng và hết lòng hết trí đi
trước mặt Ta trong chân lý, thì ngươi sẽ không bao giờ mất người kế vị trên
ngôi báu Israel".
Vậy vua Ðavít yên giấc với các tổ phụ và được mai táng trong thành Ðavít.
Ðavít làm vua Israel được bốn mươi năm: tại Hebron, ngài cai trị bảy năm;
tại Giêrusalem, ngài cai trị ba mươi ba năm. Còn Salomon lên ngôi Ðavít cha
ngài, và triều đại ngài rất vững bền.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: 1 Sb 29, 10. 11ab. 11d-12a. 12bcd
Ðáp: Chúa thống trị trên tất cả mọi loài (c. 12b).
Hoặc đọc: Giàu sang là của Chúa, và vinh quang là của Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Ðavít đã chúc tụng Chúa trước mặt toàn thể cộng đồng, người thưa:
"Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, từ
đời đời tới muôn muôn thuở". - Ðáp.
2) Lạy Chúa, cao sang, quyền bính và vinh quang, chiến thắng, lời ca khen
đều thuộc về Chúa, vì tất cả những gì trên trời dưới đất là của Chúa. - Ðáp.
3) Chúa ngự trên tất cả những đế vương. Giàu sang là của Chúa, và vinh quang
là của Chúa. - Ðáp.
4) Chúa thống trị trên tất cả mọi loài, sức mạnh quyền bính đều ở trong tay
Chúa; ở trong tay Chúa, mọi uy phong và vững bền.- Ðáp.
Alleluia: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống: Chúa
có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 7-13
"Người bắt đầu sai các ông đi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban
cho các ông có quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường
đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong
túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: "Ðến đâu, các con
vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng
không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố
cáo họ". Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức
dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô sai đi
Hôm nay, Thứ Năm trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này vẫn tiếp tục được tỏ hiện trong Bài Phúc Âm hôm nay, bài đọc chính yếu cho phần phụng vụ Lời Chúa mỗi ngày.
Ở chỗ, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", trong sự kiện Người "gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi", "Người (đã) ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế", và quả thực cái "quyền trên các thần ô uế" này nơi các tông đồ được Người sai đi như thế đã thực sự có tác dụng: "Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân".
Thế nhưng, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này không phải chỉ được tỏ hiện ở thành quả gặt hái được bởi các tông đồ, mà nhất là ở những gì các tông đồ thực hiện theo lời Người căn dặn các vị nữa, bằng không, cho dù các vị có quyền năng trừ quỉ đấy, quyền năng ấy cũng không có tác dụng gì hay chẳng tác dụng là bao nhiêu từ các vị, như sau này đã có lần các vị đã không trừ được quỉ (xem Marco 9:18,28-29), nếu các vị không sống theo tinh thần được Người chỉ bảo cặn kẽ kỹ càng trong Bài Phúc Âm hôm nay trước khi các vị lên đường thi hành sứ vụ truyền giáo của các vị:
"Người truyền các ông đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị
mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người
lại bảo: 'Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai
không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó,
phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ'".
Trong lời hướng dẫn sai đi này, các tông đồ thừa sai truyền giáo của Người cần phải tối thiểu có một tinh thần tin tưởng vào Đấng đã sai các vị, ở chỗ siêu thoát hơn là trần tục và phó mặc hơn là cân đo.
Trước hết là tinh thần tin tưởng ở chỗ siêu thoát hơn là trần tục: "đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo".
Truyền giáo là một công cuộc thần linh, ở chỗ truyền đạt thần linh để có thể hiệp thông thần linh, bởi thế nó không thể nào lệ thuộc vào phương tiện, cho dù là cần thiết, thậm chí cả những gì cần thiết mà có thiếu cũng vẫn có thể truyền giáo, vẫn càng đạt hiệu năng hơn, bởi tác nhân chính yếu của công cuộc và sứ vụ truyền giáo là Thánh Thần, Đấng hoàn thành mọi sự theo ý muốn của Chúa Cha, và theo mẫu gương của Chúa Kitô là Đấng "cáo có hang, chim có tổ Con Người không có chỗ dựa đầu" (Mathêu 8:20; Luca 9:58).
Truyền giáo thực sự là việc rao giảng và loan truyền tin mừng cứu độ cho nhân loại, cụ thể nhất ở nơi các vị thừa sai dấn thân truyền giáo ở khắp nơi trên thế giới, từ thời các tông đồ trở đi, dọc suốt giòng lịch sử của Giáo Hội, theo lệnh truyền khẩn trương bất khả châm chước của Chúa Kitô Phục Sinh (xem Mathêu 28:19-20; Marco 16:16); và cũng chính vì sứ mệnh truyền giáo gắn liền với bản chất của Giáo Hội này (xem Sắc Lệnh Truyền Giáo, 2), Giáo Hội mới đã được lãnh nhận "Thánh Thần là Đấng ban sự sống" từ Cha do Chúa Kitô sai xuống với Giáo Hội từ Ngày Lễ Ngũ Tuần (xem Tông Vụ 1:8).
Bởi thế, kinh nghiệm hoạt động tông đồ cho thấy có thời chúng ta làm được những gì chúng ta yêu thích, những gì mong muốn, những gì chúng ta có thừa khả năng, những gì chúng ta đã mang lại dồi dào thành quả thiêng liêng cho nhiều người, và chính bản thân chúng ta cũng đã từng được nhiều người biết đến cùng cảm phục, khi chúng ta dấn thân phục vụ hăng say, với tư cách tham gia hay đóng vai trò thực hiện những việc tông đồ giáo dân của mình, trong các giáo xứ, cộng đoàn, hội đoàn, phong trào v.v.
Thế nhưng, kinh nghiệm sống đạo cũng cho thấy không phải là không có trường hợp người tông đồ ấy lại bị người phối ngẫu của mình ngăn cản, hay bị lòng ganh tị cạnh tranh của những ai đồng hành tông đồ với mình và của mình tẩy chay loại trừ, hoặc bị liệt giường không thể làm gì được nữa v.v., chúng ta hãy yên tâm vui lòng tuân theo Thánh ý Chúa, vì chính lúc chúng ta không làm được những gì chỉ là phương tiện hơn là cùng đích truyền giáo ấy nữa lại chính là lúc chúng ta trở thành đắc lực nhất, bởi bấy giờ Thiên Chúa làm trong chúng ta qua niềm tin và sức chịu đựng của chúng ta.
Chúa Kitô cũng chỉ hoàn tất mọi sự của Người như Đấng đã sai Người mong muốn trên trần gian này một cách trọn vẹn và tối hậu không phải trong thời gian Người còn có thể đi đây đi đó rao giảng tin mừng, làm phép lạ, chữa lành và trừ quỉ, mà vào chính lúc Người kể như không còn nhúc nhích gì được nữa, trên thập tự giá ở Sọ Trường Canvê.
Sau nữa là tinh thần tin tưởng ở chỗ phó mặc hơn là cân đo: "Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ". Bởi vì, theo tự nhiên, con người, bao gồm cả thành phần thừa sai truyền giáo, thường lưu ý đến thành quả gặt hái được từ những gì mình làm và căn cứ vào đó để định lượng mức độ thành công hay thất bại của mình, của công việc mình làm, chứ không hay ít khi hoàn toàn chú trọng đến yếu tố chính yếu là ý muốn tối hậu của Thiên Chúa.
Điển hình nhất là chính Chúa Giêsu Kitô, Người chỉ làm sao chu toàn ý của Đấng đã sai Người mà thôi, nghĩa là việc thành công hay thất bại của Người là ở chỗ Người có hoàn thành đúng như ý muốn của Đấng đã sai Người hay chăng, chứ không phải ở chỗ cứu được tất cả mọi linh hồn hay chăng, hay có bao nhiêu kẻ đã tin vào Người, bằng không thì Người đã hoàn toàn thảm bại trong công cuộc cứu chuộc loài người khi Người bị chết trên thập tự giá ở Đồi Canvê.
Thành phần không tin Người, "không chấp nhận Người" (Gioan 1:11) thì Người không cần phải bận tâm phán xét họ, cho bằng chính họ đã tự luận tội họ rồi: "Ai không tin đã bị phán xử rồi, vì họ không tin vào danh Người Con duy nhất của Thiên Chúa" (Gioan 3:18). Bởi vậy, hãy cứ để Thiên Chúa xét xử những ai chúng ta thấy gian ác, tội lỗi, cứng lòng, băng hoại v.v., kể cả những ai phạm đến chúng ta, đừng xét đoán họ, đừng nguyền rủa họ, đừng khinh thường họ, nhất là đừng trả đũa những ai phạm đến chúng ta, chúng ta mới thật sự là giống Chúa Kitô và mới có thể làm chứng nhân truyền đạt Người cho tha nhân một cách hiệu năng.
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy một vua cha "truyền giáo" cho vua con, người sẽ lên kế vị mình, và nội dung của sứ điệp "truyền giáo" từ vua cha cho vua con không phải là những gì của vua cha mà là những gì chính Thiên Chúa đã truyền dạy vua cha và đồng thời cũng là những kinh nghiệm sống đạo của vua cha với tư cách làm vua, hơn là kinh nghiệm làm vua về chính trị và quản trị chỉ là những kinh nghiệm về phương tiện bề ngoài:
"Cha sắp bước vào con đường chung của thiên hạ. Con hãy can đảm, và ăn ở
xứng danh nam nhi. Con hãy tuân giữ các huấn lệnh của Chúa là Thiên Chúa
con, hãy đi trong đường lối của Người, hãy tuân giữ các lễ nghi, giới răn,
thánh chỉ và giáo huấn của Người như đã ghi chép trong Luật Môsê, ngõ hầu
con đi đâu, con cũng hiểu biết mọi việc con làm, để Chúa hoàn thành lời
Người đã nói về cha rằng: 'Nếu con cái ngươi tuân giữ đường lối của chúng và
hết lòng hết trí đi trước mặt Ta trong chân lý, thì ngươi sẽ không bao giờ
mất người kế vị trên ngôi báu Israel'".
Phải, để cai trị dân của Chúa thì, trước hết và trên hết mọi sự, các vị vua cần phải gắn bó với Thiên Chúa, bằng cách tuân hành ý muốn của Ngài hơn là của mình, nghĩa là các vị không được trở thành cùng đích của mình, trái lại các vị cần phải trở thành dụng cụ trong tay Ngài, thành phương tiện thuận lợi cho Ngài sử dụng tùy nghi, nhờ đó Thiên Chúa có thể hiện thực những gì Ngài muốn nơi họ, những gì sẽ được hoàn toàn ứng nghiệm trong lịch sử cho chung cộng đồng của họ.
Đúng vậy, câu cuối cùng của Bài Đọc 1 hôm nay cho biết rằng: "Salomon lên ngôi Ðavít cha ngài, và triều đại ngài rất vững bền", đúng như lời Chúa đã hứa với vua cha Đavít là những gì cũng đã được chính vua cha truyền lại cho vua con Solomon trước khi chết: "Nếu con cái ngươi tuân giữ đường lối của chúng và hết lòng hết trí đi trước mặt Ta trong chân lý, thì ngươi sẽ không bao giờ mất người kế vị trên ngôi báu Israel'".
Bài Đáp Ca hôm nay nói về Vua Đavít liên quan đến niềm tin tưởng và lòng gắn bó của vua đối với Thiên Chúa, Đấng đã tuyển chọn vua và ở cùng vua, chẳng những ở cùng vua trong triều đại của vua vào thời ấy của dân Do Thái, mà còn bền vững đến muôn đời qua giòng dõi của vua là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng mà vua "đã chúc tụng trước mặt toàn thể cộng đồng" như sau:
1) Ðavít đã chúc tụng Chúa trước mặt toàn thể cộng đồng, người thưa: "Lạy
Chúa là Thiên Chúa Israel cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, từ đời đời
tới muôn muôn thuở".
2) Lạy Chúa, cao sang, quyền bính và vinh quang, chiến thắng, lời ca khen đều thuộc về Chúa, vì tất cả những gì trên trời dưới đất là của Chúa.
3) Chúa ngự trên tất cả những đế vương. Giàu sang là của Chúa, và vinh quang là của Chúa.
4) Chúa thống trị trên tất cả mọi loài, sức mạnh quyền bính đều ở trong tay Chúa; ở trong tay Chúa, mọi uy phong và vững bền.
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời
Chúa
2/2 Đức Mẹ Dâng Con
Bài Ðọc I: Ml 3, 1-4
"Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh Người".
Bài trích sách Tiên tri Malakhi.
Này đây Chúa là Thiên Chúa phán: "Ðây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường
trước mặt Ta!" Lập tức Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần
giao ước mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh
phán: "Này đây Người đến". Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể
đứng vững để trông nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt
của thợ giặt. Người sẽ ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy
con cái Lêvi, và làm cho chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ
tế cho Chúa trong công bình. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa,
như ngày xưa và như những năm trước. Ðó là lời Chúa toàn năng phán.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 7. 8. 9. 10
Ðáp: Vua
hiển vinh là ai vậy? (c. 8a)
Xướng: 1) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để
Vua hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.
2) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa
anh hùng của chiến chinh. - Ðáp.
3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua
hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.
4) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là
Hoàng Ðế hiển vinh. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 2, 14-18
"Người phải nên giống anh em Mình mọi đàng".
Bài trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Vì các con trẻ cùng chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống
như chúng, cũng thông phần điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ
diệt kẻ thống trị sự chết là ma quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ
chết mà làm nô lệ suốt đời. Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên
thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham. Bởi thế, Người nên giống anh em
Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo
trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân. Quả thật, bởi
chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu giúp
những ai sống trong thử thách.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 2,32
Alleluia, alleluia! - Ánh sang đã chiếu soi muôn dân, và là vinh quang của
Israel dân Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 22-32 [hoặc 22-40]
"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người
lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng:
"Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để
dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay
một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính
sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở
trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi
thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc
cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề
luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa
đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn
trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của
Israel dân Chúa".
[ Cha
mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho
hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến
cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm
mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm
hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao
niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho
đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu
nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và
nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về
thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và
ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. ]
Ðó là lời Chúa.
Để tôn vinh mầu nhiệm thần linh chúng ta cử hành hôm
nay đây, tất cả chúng ta hãy mau mắn đến gặp gỡ Chúa Kitô. Mọi người phải
hăng hái nhập vào đoàn kiệu và cầm ánh sáng.
Những ngọn nến sáng của chúng ta là dấu hiệu tỏ cho thấy ánh quang vinh thần
linh của Đấng đến để đẩy lui bóng tối tăm sự dữ, và để làm cho cả hoàn vũ
này tỏa chiếu rạng ngời ánh sáng đời đời của Người. Những cây nến của chúng
ta cũng chứng tỏ cho thấy linh hồn của chúng ta phải làm sao cho ngời sáng
khi chúng ta đi nghênh đón Chúa Kitô.
Mẹ Thiên Chúa, Vị Trinh Nữ rất tinh tuyền, đã cầm trong đôi cánh tay của
mình một thứ ánh sáng thật, và đã mang Người đến cho những ai còn nằm trong
u tối. Cả chúng ta nữa cũng phải mang ánh sáng đến cho tất cả mọi người được
thấy, và phải phản chiếu ánh quang của ánh sáng thật khi chúng ta mau mắn
đến gặp gỡ Người.
Aùnh sáng đã đến và đã chiếu tỏa trên một thế giới đầy những bóng tối tăm;
Bình Minh từ trời cao đã đến viếng thăm chúng ta và chiếu sáng cho những ai
còn sống trong tăm tối. Bởi thế, đây là lễ của chúng ta, và chúng ta đi theo
đoàn rước cầm cây nến sáng để tỏ cho thấy rằng có một thứ ánh sáng đã chiếu
rọi trên chúng ta, cũng như để tỏ cho thấy rằng vinh quang từ Người vẫn tỏa
ra cho chúng ta. Bởi thế, tất cả chúng ta hãy mau mắn cùng nhau đến gặp Vị
Thiên Chúa của chúng ta.
Ánh sáng thật đã đến, ánh sáng chiếu soi hết mọi người sinh vào trần gian.
Hỡi anh em, tất cả chúng ta hãy nhờ ánh sáng này mà thắp sáng lên và tỏa
chiếu ra. Tất cả chúng ta thông phần vào ánh quang rạng ngời của ánh sáng
ấy, nhờ đó được tràn đầy ánh sáng để không ai còn ngồi trong tăm tối nữa.
Chúng ta hãy chiếu soi cho chúng ta khi chúng ta cùng nhau đi với ông già
Simêon đến gặp gỡ ánh sáng rạng ngời muôn thuở này. Hân hoan mừng rỡ với
Simêon, chúng ta hãy hát lên bài thánh ca tạ ơn Thiên Chúa, Cha của ánh
sáng, Đấng đã sai ánh sáng thật đến để đánh tan đi bóng tối tăm, cũng như để
cho tất cả chúng ta được tham phần vào ánh rạng ngời của Người.
Qua con mắt của Simêon, chúng ta cũng được thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa, ơn
cứu độ Ngài đã sửa soạn cho tất cả mọi dân tộc và tỏ ra cho thấy như vinh
quang của một dân tân Yến Duyên là chúng ta đây. Như Simêon đã ra đi khỏi
những ràng buộc ở đời này khi ông được trông thấy Chúa Kitô thế nào, chúng
ta cũng được giải thoát lập tức khỏi tình trạng tội lỗi cũ kỹ của mình như
vậy.
Nhờ đức tin chúng ta cũng ẵm lấy Chúa Kitô, ơn cứu độ của Thiên Chúa là Cha,
khi Người từ Bêlem đến với chúng ta. Trước kia chúng ta là Dân Ngoại, nay
chúng ta trở thành dân Chúa. Mắt chúng ta đã được thấy Thiên Chúa nhập thể,
và vì chúng ta đã thấy Người hiện diện giữa chúng ta, cũng như đã nhận lấy
Người trong cánh tay của mình, mà chúng ta được gọi là một dân tân Yến
Duyên. Chúng ta sẽ không bao giờ quên được sự hiện diện này; hằng năm chúng
ta cử hành lễ này để tôn kính Người.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul
Editions, 1983, trang 1332-1333)
Phụng Vụ Lời Chúa ngày trong tuần cho năm không trùng với Lễ Mẹ Dâng Con
Bài Ðọc I: (Năm
II): Hc
47, 2-11
"Ðavít đã thành tâm ca tụng và yêu mến Thiên Chúa".
Trích sách Huấn Ca.
Như miếng mỡ lóc ra khỏi thịt con vật tế lễ thế nào, thì Ðavít được chọn
giữa con cái Israel như vậy. Người dỡn với sư tử như dỡn với chiên con và
đùa với gấu như đùa với những chiên con. Khi còn trẻ, nào người đã chẳng hạ
sát tên khổng lồ và rửa nhục cho dân, khi vung dây ném đá đánh ngã tên
Goliath kiêu căng đó sao? Vì người đã kêu cầu Thiên Chúa toàn năng, và Chúa
đã ban sức mạnh cho người để hạ sát tên chiến sĩ hùng dũng, để nâng cao lòng
can đảm của dân người. Nhờ thế, người được tôn vinh như đã giết mười ngàn,
được ca tụng vì những lời Chúa chúc lành, và được người ta trao tặng triều
thiên vinh quang, vì người đã tiêu diệt quân thù chung quanh, đã thanh toán
bọn giặc Philitinh cho đến ngày nay, đã đập tan sức mạnh chúng đến muôn đời.
Trong mọi việc, người dùng lời ca khen mà tuyên xưng Ðấng Thánh Tối Cao;
người thành tâm ca tụng Chúa, và yêu mến Thiên Chúa đã sáng tạo người, đã
cho người quyền năng chống lại quân thù. Người thành lập ca đoàn trước bàn
thờ Chúa, để hoà nhịp những bài thánh ca. Người tổ chức những cuộc lễ huy
hoàng, quy định đầy đủ chu kỳ thời gian, để họ ca tụng thánh danh Chúa, và
từ sáng sớm, họ biểu dương sự thánh thiện của Thiên Chúa. Chúa đã thứ tha
tội lỗi của người, và tán dương sức mạnh của người đến muôn đời. Chúa đã ban
cho người giao ước vương quốc và ngôi báu vinh quang trong Israel.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 17, 31. 47 và 50. 51.
Ðáp: Tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ tôi (c. 47b).
Xướng: 1) Ðường lối Thiên Chúa là đường thanh khiết, lời của Chúa được luyện
trong lửa đỏ, chính Người là khiên thuẫn che kẻ nương nhờ Người. - Ðáp.
2) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của tôi, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng
cứu độ tôi! - Bởi vậy, con sẽ ca tụng Ngài giữa chư dân, lạy Chúa, và con sẽ
xướng ca khen ngợi danh Ngài. - Ðáp.
3) Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được
xức dầu của Ngài, với Ðavít và miêu duệ ông cho tới muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời
do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 14-29
"Ðó chính là Gioan Tẩy Giả trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng,
kẻ thì nói: "Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những
việc lạ lùng"; kẻ thì bảo: "Ðó là Êlia"; kẻ khác lại rằng: "Ðó là một tiên
tri như những tiên tri khác". Nghe vậy, Hêrôđê nói: "Ðó chính là Gioan trẫm
đã chặt đầu, nay sống lại". Vì chính vua Hêrôđê đã sai bắt Gioan và giam ông
trong ngục, nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới
lấy. Vì Gioan đã bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh
mình". Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì
được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện,
và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe. Dịp
thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại
thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái
nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì
vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và
vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho". Cô ra
hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gioan Tẩy Giả". Cô liền vội
vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy
Giả đặt trên đĩa". Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách,
nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi
lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan,
và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ. Nghe tin ấy, các
môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô Đầu Não
Ngày Thứ Sáu trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay bài Phúc Âm đã
chứng thực chủ đề "Người
Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm
phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này, với câu đầu tiên như thế này: "Khi
ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng".
Tuy nhiên, đối với chung dân chúng thì sở dĩ "Người
Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" trở thành "lừng lẫy danh
tiếng" như
thế là vì, như Bài Phúc Âm hôm nay cho biết: "kẻ
thì nói: 'Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc
lạ lùng'; kẻ thì bảo: 'Ðó là Êlia'; kẻ khác lại rằng: 'Ðó là một tiên tri
như những tiên tri khác'". Còn
riêng vua Hêrôđê thì khi "nghe vậy (đã) nói:
'Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại'".
Thật ra, theo nội dung của bài Phúc Âm hôm nay thì "Người
Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" không đóng
vai chủ động và tự tỏ mình ta như các bài Phúc Âm trước, mà chỉ được nói đến
lúc đầu thôi rồi sau đó chỉ liên quan đến những chi tiết về sự kiện vua
Hêrôđê sát hại Tiền Hô Gioan Tẩy Giả vậy thôi. Thế nhưng, chính trọng sự
kiện có tính cách tiêu cực như "sự cố" này cũng đã gián tiếp cho thấy Người
quả thực là "Người
Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý".
Không phải hay sao, chính Hêrôđê đã phải công nhận mối liên hệ bất khả phân
ly giữa Chúa Kitô là nhân vật mà ông ta chưa bao giờ gặp mà lại rất mong
muốn được gặp (xem Luca 23:8) với nhân vật đã bị ông bất đắc dĩ phải cắt thủ
cấp, chỉ vì đã bị lỡ lời giữa cả một triều thần bá quan văn võ để giữ lấy
thể diện của mình, ở chỗ, ông đã đồng hóa hai nhân vật đặc biệt này
của ông thành một: "Ðó
chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".
Cái "đầu" của Gioan bị vua Hêrôđê chặt mất đây, trước hết, là biểu
hiệu cho "chân lý" đã được Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhân vật
vốn được vua "kính nể, (vì
vua) biết ngài là người chính trực và thánh thiện", hiên
ngang bênh vực cho đến cùng, một "chân lý" về luân lý mà nhà vua đã
bất chấp vấp phạm: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình",
như thể nhà vua đã "chặt" đi "chân lý" ấy bằng đam mê nhục dục
của mình, một "chân lý" được biểu hiệu nơi cái "đầu" về thể lý
của nhân vật bất khuất Gioan đã bị nhà vua quả thực chặt đi để thỏa mãn ý
muốn gian ác hận thù của nàng Hêrôđia là người vợ bất chính của vua, một
người vợ bất chính hèn hạ vốn đã "mưu toan muốn giết ngài, nhưng không
thể làm gì được", cho tới khi bất ngờ nắm được cơ hội ngàn vàng trong
tay là lúc, như Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:
"Khi
con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan
khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: 'Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ
cho', và vua thề rằng: 'Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng
cho'. Cô ra hỏi mẹ: 'Con nên xin gì?' Mẹ cô đáp: 'Xin đầu Gioan Tẩy Giả'. Cô
liền vội vàng trở vào xin vua: 'Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu
Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa'. Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các
quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một
thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt
đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ".
Chưa hết, cái "đầu" của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê chặt
mất đây còn ám chỉ chính Chúa Kitô "là chân lý" (Gioan 14:6) mà ngài
chỉ được sai đến trước để dọn đường và để "làm chứng" cho Người (xem
Gioan 1:15), Đấng là "ánh sáng chiếu trong tăm tối nhưng tăm tối
không át được ánh sáng" (Gioan 1:5), Đấng đến sau ngài nhưng lại vô
cùng cao trọng hơn ngài và có trước ngài, như "đầu" của ngài,
như vị thủ lãnh tối cao của ngài, đến độ ngài "không đáng cởi giây giầy
cho Người" (xem Gioan 1:15,27), một "vị vua mới sinh" (Mathêu
2:2) ngày xưa đã từng bị vương phụ của Hêrôđê đương kim này bấy giờ tìm sát
hại khi sau biến cố tam vị chiêm
vương gia đến bái thờ Người ở Bêlem Xứ Giuđa mà không trở về trình báo lại
cho vua ấy (xem Mathêu 2:1-18).
Như thế, sự kiện cái "đầu" của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị quyền lực
chính trị đầy vô luân của dân Do Thái thời ấy chặt mất đây, đã trở thành
một dấu chỉ đầy bí nhiệm ám chỉ đến cuộc tử nạn của một nhân vật sau này
sẽ được một quyền lực chính trị khác, uy thế hơn, là tổng trấn Philatô ở
Giuđêa tôn vương là "Vua dân Do Thái" (xem Gioan 19:19; Mathêu
27:37), khi vị thẩm quyền của đế quốc Rôma này, một đàng thì muốn biết "chân
lý là gì?" khi tra vấn Chúa Giêsu và đối diện với Chúa Giêsu (Gioan
18:38), một đàng, cũng như Hêrôđê đang làm vua nước bị trị Do Thái bấy
giờ đã lấy "đầu" Gioan Tẩy Giả chỉ vì danh dự thế giá của mình trước
kia, đành phải ra lệnh đóng đanh một con người mà tự ông biệt được là vô tội
và tìm cách thả ra (xem Gioan 19:4,6,10-12).
Vậy thì sự kiện Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê sát hại quả thực có liên
quan đến cuộc tử nạn của Chúa Kitô là Đấng đến sau ngài, như một dấu báo
trước về Đấng mà ngài đã hai lần tuyên bố và công khai giới thiệu: ngày hôm
trước với chung dân chúng - "Kìa Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa
tội trần gian" (Gioan 1:29), và ngày hôm sau với riêng các môn đệ của
ngài - "Hãy nhìn xem kìa, Con Chiên Thiên Chúa đó" (Gioan 1:36).
Như thế, câu tuyên bố "đó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại"
của một nhà vua bất luân gian ác ấy dầu sao cũng có tính cách tiên tri, như
trong câu của vị thượng tế Caipha thời ấy quả thực đã chất chứa tính
chất tiên tri và đã thực sự hoàn toàn ứng nghiệm về nhân vật Giêsu
Nazarét đã gây chấn động cả Thành Giêrusalem là Giáo Đô Do Thái giáo về sự
kiện nhân vật tầm thường này, một nhân vật xuất thân từ Galilêa xa xôi là
nơi chẳng có vị tiên tri nào xuất thân (xem Gioan 7:52), chẳng phải là luật
sĩ hay thành phần trong hội đồng đầu mục Do Thái, nhưng đã làm cho
Lazarô, một tử thi hồi sinh sau 4 ngày đã lên mùi (xem Gioan 11:43-44), rằng
"các người chẳng hiểu gì hết, các người không thấy rằng thà một người
chết thay cho dân chúng còn hơn là toàn dân bị hủy diệt hay sao?" (Gioan
11:50).
Thật sự câu tuyên bố "đó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại"
của vua Hêrôđê, tự nó chất chứa tính chất tiên tri, mà chính người nói không
hề hay biết là mình muốn nói gì và lời ấy có ý nghĩa ra sao, không phải
chỉ ám cuộc tử nạn của Chúa Kitô là "đầu" tự hiến cho Giáo Hội là
thân thể của mình (xem Gioan 17:19; Epheso 5:23,25-27), mà còn ám chỉ những
gì vị Tiền Hô Gioan này "làm chứng" về Đấng là "Con Chiên Thiên
Chúa, Đấng gánh tội trần gian" đến sau ngài đều đúng, đều ứng nghiệm nơi
Chúa Kitô, như thể "Gioan ... nay đã sống lại" nơi Chúa Kitô ở cuộc
tử nạn của Người vậy, Đấng "đã được sinh ra, đã đến thế gian là để làm
chứng cho chân lý" (Gioan 18:37), như chính vị tiền hô của Người
cũng đã được sai đến tuy "không phải là ánh sáng" như Người nhưng
cũng đã "làm chứng" cho Người "là ánh sáng đã chiếu soi trong tăm
tối, một thứ tăm tối không át được ánh sáng" (Gioan 1:5).
Nếu vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã được sai đến để dọn đường cho Chúa Kitô bằng
cách "làm chứng" về Người và cho Người, thậm chí trước khi được thực
sự và trực tiếp gặp Người, chẳng những bằng lời rao giảng thống hối kèm theo
việc làm phép rửa thống hối, mà còn bằng chính cái "đầu" bất
khuất của mình thế nào, thì vua Đavít trong Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm
nay, được trích từ Sách Huấn Ca, cũng đã được chọn làm vương tổ của nhân vật
Giêsu Nazarét "vua dân Do Thái" (Mathêu 2:2; 27:37) sau này, bằng một
cuộc đời vua đã sống bao gồm cả công lênh sự nghiệp lẫn lỗi lầm của vua,
nhưng ngài, như Bài Đọc 1 hôm nay nhận định, vẫn được "Chúa đã thứ tha
tội lỗi của người, và tán dương sức mạnh của người đến muôn đời. Chúa đã ban
cho người giao ước vương quốc và ngôi báu vinh quang trong Israel".
Bài Đáp Ca hôm nay chẳng những nói về vua Đavít mà còn nói về vị thừa kế của
vua cũng như về triều đại vô cùng bất tận của vua nơi giòng dõi của vua
là Đấng Thiên Sai Cứu Thế Giêsu Kitô:
1) Ðường lối Thiên Chúa là đường thanh khiết, lời của Chúa được luyện trong
lửa đỏ, chính Người là khiên thuẫn che kẻ nương nhờ Người.
2) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của tôi, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng
cứu độ tôi! - Bởi vậy, con sẽ ca tụng Ngài giữa chư dân, lạy Chúa, và con sẽ
xướng ca khen ngợi danh Ngài.
3) Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được
xức dầu của Ngài, với Ðavít và miêu duệ ông cho tới muôn đời.
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II): 1
V 3, 4-13
"Xin ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn ngoan ngoãn để đoán xét dân Chúa".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Salomon đến Gabaon để dâng hy lễ, vì đây là nơi cao
rộng nhất. Salomon dâng trên bàn thờ này một ngàn lễ vật toàn thiêu. Tại
Gabaon ban đêm, Chúa hiện ra cùng Salomon trong giấc mộng, và phán rằng:
"Ngươi muốn gì thì hãy xin, Ta sẽ ban cho ngươi". Salomon thưa: "Chúa đã tỏ
lòng rất nhân hậu đối với cha con là Ðavít, tôi tớ Chúa, vì người đã sống
trước tôn nhan Chúa trong chân lý và công bình, đã ăn ở ngay thẳng đối với
Chúa. Chúa đã dành cho người một lòng nhân hậu lớn lao, đã ban cho người đứa
con trai hiện đang ngồi trên ngôi báu của người. Và giờ đây, lạy Chúa là
Thiên Chúa, Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Ðavít thân phụ con. Nhưng
con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa đang sống
giữa dân Chúa chọn, một dân đông đảo không thể đếm và ước lượng được. Vậy
xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn ngoan ngoãn để đoán xét dân Chúa, và
phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa đông đảo
thế này".
Ðiều Salomon kêu xin như trên đã làm đẹp lòng Chúa, nên Chúa phán cùng
Salomon rằng: "Vì ngươi đã xin điều đó, mà không xin sống lâu, được giàu có,
của cải, mạng sống quân thù, lại xin cho ngươi được khôn ngoan để biết xét
đoán, thì đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin, và ban cho ngươi một tâm hồn
khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống như ngươi, và sau
ngươi không có ai bằng ngươi. Cả những điều ngươi không xin, như giàu có và
vinh quang đến nỗi từ trước đến giờ, trong các vua, không vua nào được như
ngươi, Ta cũng ban cho ngươi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 9. 10. 11. 12. 13. 14.
Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy con các thánh chỉ của Chúa (c.
12b).
Xướng: 1) Tuổi trẻ lấy chi giữ cho thanh khiết đường đời? Bằng cách noi theo
lời vàng của Chúa. - Ðáp.
2) Với tất cả tâm can con tìm Chúa, xin chớ để con lạc xa chỉ thị Ngài. -
Ðáp.
3) Con chôn cất trong lòng lời răn của Chúa, để con không phạm tội phản
nghịch Ngài. - Ðáp.
4) Thân lạy Chúa, Ngài muôn phước đức, xin dạy con các thánh chỉ của Ngài. -
Ðáp.
5) Con kể được ra nơi đầu môi, tất cả những huấn dụ bởi miệng Ngài. - Ðáp.
6) Con vui vì đường lối lời Ngài nghiêm huấn, dường như được mọi thứ giàu
sang. - Ðáp.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết
chúng và chúng biết Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 30-34
"Họ như đàn chiên không người chăn".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Marcô.
Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc
các ông đã làm và đã giảng dạy. Người liền bảo các ông: "Các con hãy lui vào
nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Vì lúc ấy dân chúng đến tấp nập đến nỗi
các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới
một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các
thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài. Lúc ra
khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì
họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô động lòng
Hôm nay, Thứ Bảy, ngày cuối cùng trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh,
chủ đề "Người
Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm
phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này, vẫn tiếp tục với phụng vụ lời Chúa
hôm nay nói chung và bài Phúc Âm nói riêng, ở câu
"Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng
thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều"
Cũng có thể vì thế, vì ảnh hưởng thành công của
cuộc truyền giáo tiên khởi này của các tông đồ cho "các con chiên lạc nhà Yến Duyên / Israel"
H
Đối với Chúa Giêsu, vì "người ta sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời bởi miệng Thiên Chúa phán ra" (Matheu 4:4), và vì chỉ có "những lời Tôi nói với quí vị toàn là thần linh và là sự sống" (Gioan 6:63) mà trước khi Người làm phép lạ bánh hóa ra nhiều nuôi họ lần thứ nhất, như đoạn Phúc Âm tiếp theo sau bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, "Người (đã) dạy dỗ họ nhiều điều".
"Nhiều điều" mà Chúa Giêsu đã muốn "dạy dỗ" cho dân chúng bấy giờ là những gì? Phải chăng về Nước Trời, bằng các dụ ngôn khác với những dụ ngôn Người đã được Người sử dụng trước đó?? Phải chăng là các mối Phúc Đức Trọn Lành như Người đã giảng dạy và được Thánh ký Mathêu ghi lại trong Phúc Âm của mình kéo dài đến 3 đoạn, từ đoạn 5 đến hết đoạn 7, hay cũng đã được Thánh ký Luca ghi lại trong Phúc Âm của ngài ở đoạn 6, những gì được cả 2 vị thánh ký này ghi lại hoàn toàn chưa hề có trong Phúc Âm của Thánh ký Marco???
Căn cứ vào đoạn Phúc Âm ngay sau bài Phúc Âm hôm nay, đoạn Phúc Âm liên quan đến phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất, chúng ta chẳng những biết được con số dân chúng "tấp nập kéo đến" là bao nhiêu mà còn biết cả nội dung của những gì Chúa Giêsu muốn dạy dỗ cho dân chúng bấy giờ nữa.
Trước hết, căn cứ vào phần ăn được Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều mà còn thu lại được 12 thúng đầy thì con số dân chúng hiện diện bấy giờ là 5 ngàn người đàn ông, không kể đàn bà con nít, mà đàn bà con nít bao giờ cũng đông hơn gấp hai hay gấp ba đàn ông, thì con số dân chúng bấy giờ phải lên tới cả 15 - 20 ngàn người.
Sau nữa, về nội dung bài giảng của Chúa Giêsu, căn cứ vào Bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan, đoạn 6, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê còn dư 12 thúng đầy, và sau khi trốn lên núi để tránh cảnh dân chúng tôn vương mình, cuối cùng dân chúng cũng tìm thấy thày trò của Người thì Chúa Giêsu đã giảng dạy họ về Bánh Sự Sống là chính bản thân Người nói chung và thân xác của Người nói riêng cho những ai tin vào Người là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý": "Tôi chính là bánh sự sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời. Bánh Tôi ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sự sống" (Gioan 6:51).
Phải, chỉ có "những lời Tôi nói với quí vị toàn là thần linh và là sự sống", và những ai khao khát lời Người, theo đuổi Người cho đến cùng như đám đông dân chúng trong Bài Phúc Âm hôm nay mới được "Người dạy dỗ họ nhiều điều", về chính bản thân của Người, nhờ đó họ mới có thể khôn ngoan và sống trọn hảo theo đúng thân phận làm người phổ quát của họ cũng như ơn gọi riêng biệt trên đời của mỗi người trong họ.
Vua Solomon, vị vua con kế vị vua cha là Đavít, trong Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay, đã cho thấy được thừa hưởng chẳng những ngai vàng của vua cha mà còn cả tinh thần kính sợ Thiên Chúa của vua cha nữa, người "đã sống trước tôn nhan Chúa trong chân lý và công bình, đã ăn ở ngay thẳng đối với Chúa", một "lòng kính sợ là đầu mối sự khôn ngoan" (Cách Ngôn 9:10). Chính lòng kính sợ Chúa đã giúp cho vị vua thứ ba của dân nước Do Thái này trở thành khôn ngoan nên đã biết xin và chỉ xin những gì đẹp lòng Thiên Chúa nhất, như Bài Đọc 1 cho thấy:
"Trong
những ngày ấy, Salomon đến Gabaon để dâng hy lễ, vì đây là nơi cao rộng
nhất. Salomon dâng trên bàn thờ này một ngàn lễ vật toàn thiêu. Tại Gabaon
ban đêm, Chúa hiện ra cùng Salomon trong giấc mộng, và phán rằng: 'Ngươi
muốn gì thì hãy xin, Ta sẽ ban cho ngươi'. Salomon thưa: 'Chúa đã tỏ lòng
rất nhân hậu đối với cha con là Ðavít, tôi tớ Chúa, vì người đã sống trước
tôn nhan Chúa trong chân lý và công bình, đã ăn ở ngay thẳng đối với Chúa.
Chúa đã dành cho người một lòng nhân hậu lớn lao, đã ban cho người đứa con
trai hiện đang ngồi trên ngôi báu của người. Và giờ đây, lạy Chúa là Thiên
Chúa, Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Ðavít thân phụ con. Nhưng con chỉ
là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa đang sống giữa
dân Chúa chọn, một dân đông đảo không thể đếm và ước lượng được. Vậy xin
Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn ngoan ngoãn để đoán xét dân Chúa, và phân
biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa đông đảo thế này'".
"Ðiều Salomon kêu xin như trên đã làm đẹp lòng Chúa, nên Chúa phán cùng Salomon rằng: 'Vì ngươi đã xin điều đó, mà không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù, lại xin cho ngươi được khôn ngoan để biết xét đoán, thì đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin, và ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống như ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi. Cả những điều ngươi không xin, như giàu có và vinh quang đến nỗi từ trước đến giờ, trong các vua, không vua nào được như ngươi, Ta cũng ban cho ngươi'".
Lời nguyện cầu đẹp lòng Chúa của vua Solomon trong Bài Đọc 1 hôm nay hoàn toàn phản ảnh tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay, một tâm tình có thể đã tràn đầy lòng trí của vua khi vua dâng lời nguyện cầu lên Vị Thiên Chúa "đã tỏ lòng rất nhân hậu đối với cha con là Ðavít... và khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Ðavít thân phụ con", một triều đại Đavít sẽ tồn tại muôn đời nhờ Đấng Thiên Sai Cứu Thế là giòng dõi của Đavít như vua Solomon:
1) Tuổi
trẻ lấy chi giữ cho thanh khiết đường đời? Bằng cách noi theo lời vàng của
Chúa.
2) Với tất cả tâm can con tìm Chúa, xin chớ để con lạc xa chỉ thị Ngài.
3) Con
chôn cất trong lòng lời răn của Chúa, để con không phạm tội phản nghịch
Ngài.
4) Thân
lạy Chúa, Ngài muôn phước đức, xin dạy con các thánh chỉ của Ngài.
5) Con kể
được ra nơi đầu môi, tất cả những huấn dụ bởi miệng Ngài.
6) Con vui
vì đường lối lời Ngài nghiêm huấn, dường như được mọi thứ giàu sang.
Ngày
03/2: Thánh Blasiô, giám mục tử đạo và thánh Ansgariô, giám mục (316)
Khi còn nhỏ thánh Blasiô là một cậu bé hiền hậu và nhu mì. Tới tuổi trưởng
thành, ngài vẫn giữ được vẻ khiêm tốn và lòng đạo đức hiếm có ấy. Mọi người
đều quý mến và khen ngợi đức tính sáng chói của ngài nên đã đề cử ngài lên
chức Giám Mục thành Sébaste thuộc xứ Arménie (Thổ Nhĩ Kỳ). Licimius
(320-324) ra lệnh bắt đạo và áp dụng chính sách tiêu diệt chủ chiên, đoàn
chiên tự nhiên sẽ tan rã. Bị truy nã gắt gao, ngài phải trốn lên rừng vắng,
suốt ngày cầu nguyện cùng Thiên Chúa.
Ít lâu sau, cuộc bách hại gia tăng. Tổng trấn Agricola cho quân lùng bắt và
đem ngài về giam trong ngục thất. Ở đó, ngài đã làm nhiều phép lạ chữa lành
bệnh. Những phép lạ ấy được truyền tụng trong Giáo Hội Tây Phương cũng như
Ðông Phương. Sau cùng, ngài đã đổ máu đào vì Chúa Kitô, và nhờ lời bầu cử
của thánh nhân, Giáo Hội Arménie dù trải qua cơn sóng gió, vẫn sống bình yên
và kiên trì trong đức tin.