THƯ PHÒNG LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

của Nhóm Tông Đồ Chúa Tình Thương

 

NĂM BÍ MẬT THƯƠNG XÓT 2019

 

Các đề tài chia sẻ chủ đề phụ họa 2019

 

 

“THẾ GIỚI NGÀY NAY

CẦN ĐẾN LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA BIẾT BAO”

(Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II – Balan 17/8/2002)

TĐCTT Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Bài chia sẻ cho các Khóa LTXC 2019

 

1-     THẾ GIỚI NGÀY NAY

 

Thế giới ngày nay, theo nhãn quan của 2 vị giáo hoàng, Gioan Phaolô II và Phanxicô, một nhãn quan xuất phát từ ngai tòa Thánh Phêrô cao cả, một vị thế có thể nhìn xa trông rộng, về cả thời gian lẫn không gian, là một thế giới đang ở vào thời điểm thương xót, như chính ĐTC Phanxicô đã khẳng định với hàng giáo sĩ Roma vào đầu Mùa Chay ngày 16/3/2014, sau một năm làm giáo hoàng, một khẳng định lien quan đến cả vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II của ngài như sau:

Chúng ta không phải ở đây để thực hiện một cuộc tĩnh tâm vào đầu Mùa Chay, mà là lắng nghe tiếng của Vị Thần Linh đang nói cùng toàn thể Giáo Hội trong thời điểm của chúng ta đây, thực sự là thời điểm thương xót. Tôi chắc chắn như thế. Nó không phải chỉ trong Mùa Chay. Chúng ta đang sống trong thời điểm thương xót đã 30 năm hay hơn thế nữa, cho đến hiện nay.

“Đây là thời điểm thương xót trong toàn thể Giáo Hội. Nó đã được thiết lập bởi Chân Phước Gioan Phaolô II. Ngài đã "trực giác" thấy rằng đây là thời điểm thương xót. Chúng ta nhớ lại việc phong chân phước và hiển thánh cho Nữ Tu Faustina Kowalska; sau đó ngài đã lập lễ Lòng Thương Xót Chúa. Ngài đã đi từ từ, từ từ, và đã dẫn đầu về điều này”.

Tuy nhiên, mỗi vị giáo hoàng lại thấy thế giới ngày nay ở vào thời điểm thương xót khác nhau, về nguyên nhân và hiện tượng của nó, nên các vị đã có những đường hướng giải quyết khác nhau, nhưng tất cả đều bổ túc cho nhau, ở từng thời diểm thương xót của các ngài. Chẳng hạn, trong khi ĐTC Gioan Phaolô II nhận thấy thế giới ngay nay ở vào thời điểm thương xót là vì “mầu nhiệm lỗi lầm hay mầu nhiệm gian ác” (mystery of iniquity), thì ĐTC Phanxicô cho rằng thế giới ngày nay ở vào thời điểm thương xót là vì nó có “quá nhiều các vết thương”.

 

Chính vì thế, vì nguyên nhân thế giới ngày nay đang sống trong thời điểm thương xót là vì “mầu nhiệm lỗi lầm” mà ĐTC Gioan Phaolô II đã kêu gọi chung loài người văn minh “đừng sợ, hãy mở rộng các cánh cửa cho Chúa Kitô” (22/10/1978); trong khi đó, vì hiện tượng thế giới ngày nay có quá nhiều các vết thương mà ĐTC Phanxicô đã mong muốn cho Giáo Hội trở thành như “một bệnh viện lưu động (hay) bệnh viện dã chiến / field hospital”, và thôi thúc Giáo Hội chẳng những “cởi mở / open” mà còn hơn thế nữa, phải “xông pha / go forthward”, nhưng không phải chỉ xông pha gần gần và ở những chỗ an toàn, mà là phải đi thật xa, đến tận các vùng sâu vùng xa như ở "các chốn ngoại biên / peripheries”, ngoại biên về cả phương diện không gian lẫn phương diện nhân bản, cho dù bản thân Giáo Hội hay Kitô hữu chứng nhân có ”bị lem luốn và bầm dập / dirty and bruised”, để nhờ đó mới có thể thực sự và tác hiệu trong việc băng bó và chữa lành đủ mọi thương tích của nhân loại trong một "thế giới ngày nay cần đến LTXC biết bao".

 

Thế giới ngày nay: đang sống trong “mầu nhiệm lỗi lầm”.

 

“Mầu nhiệm lỗi lầm” của thế giới đây là gì, nếu không phải là tâm thức lầm lạc của con người càng văn minh về vật chất và càng văn hóa về nhân bản lẫn nhân quyền, họ lại càng trở thành vô thần và bạo loạn, đến độ họ đang tiến đến vực thẳm tự diệt, bởi chính những gì do chính họ chế tạo ra, như nguyên tử và phá thai, thậm chí họ lo sợ bị tự diệt mà họ lại sợ chính Đấng duy nhất có thể cứu họ là Chúa Giêsu Kitô! Chúng ta hãy đọc lại chính những nhận định của ĐTC Gioan Phaolô II ngày 17/8/2002 trong bài giảng (đoạn 3) cử hành việc cung hiến đền thờ LTXC ở Balan như sau:

 

"Thiên Chúa đã chọn thời đại của chúng ta cho mục đích này. Có lẽ vì thế kỷ 20, mặc dù có những thành đạt không thể chối cãi về nhiều lãnh vực, cũng đã bị ghi dấu một cách đặc biệt bởi mầu nhiệm lỗi lầm 'mystery of iniquity'. Chúng ta đã tiến vào ngàn năm mới với di sản vừa thiện vừa ác này. Những chân trời mới trong việc phát triển đang mở ra trước nhân loại, kèm theo đó có cả những cái nguy hiểm chưa từng có. Con người thường sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, thậm chí đặt mình vào vị thế của Thiên Chúa nữa. Họ tự cho mình quyền hành của một Vị Tạo Hóa trong việc can thiệp vào mầu nhiệm sự sống con người. Họ muốn định đoạt sự sống con người bằng cách léo lái việc truyền giống cũng như muốn thiết định giới hạn sự chết. Khi loại trừ lề luật thần linh và những nguyên tắc luân lý, họ công khai tấn công cơ cấu gia đình. Bằng những cách thức khác nhau, họ cố gắng làm cho Thiên Chúa phải im hơi lặng tiếng nơi tâm can của con người; họ muốn làm cho Thiên Chúa 'hoàn toàn khuất bóng' nơi văn hóa và lương tâm các dân tộc. 'Mầu nhiệm lầm lỗi' tiếp tục đánh dấu cái thực tại của thế giới này. Cảm nghiệm được mầu nhiệm ấy, con người mới sống trong nơm nớp lo sợ về tương lai, lo sợ về tình trạng trống rỗng, lo sợ phải khổ đau, lo sợ bị hủy diệt. Có lẽ chính vì lý do này mà Chúa Kitô, qua việc sử dụng chứng từ của một Nữ Tu thấp hèn, đã đến với thời đại của chúng ta để tỏ cho chúng ta thấy một cách rõ ràng nguồn mạch sống khuây khỏa và hy vọng ở nơi tình thương đời đời của Thiên Chúa". 

Thật vậy, "chúng ta đã tiến vào ngàn năm mới với di sản vừa thiện vừa ác này", ở chỗ "những chân trời mới trong việc phát triển đang mở ra trước nhân loại, kèm theo đó có cả những cái nguy hiểm chưa từng có". Nghĩa là con người phát triển cả về văn minh vật chất, liên quan đến khoa học và kỹ thuật, lẫn về văn hóa nhân bản, liên quan đến nhân quyền và tự do, thì đồng thời lại băng hoại đến hủy hoại về tâm linh, liên quan đến luân lý và đạo lý là những gì làm nên con người "nhân linh ư van vạn", một con người được dựng nên theo hình ảnh thần linh và tương tự thần linh, để có đủ tư cách thần linh trong sứ vụ hợp tác với Thiên Chúa Hóa Công để quản trị trái đất này, theo đúng dự án tạo dựng của Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-28).

Thế nhưng, tiếc thay và thảm thay, "'mầu nhiệm lầm lỗi' tiếp tục đánh dấu cái thực tại của thế giới này", một mầu nhiệm mà ngay từ nguyên tội đang càng ngày càng đục khoét tâm linh con người và càng tàn phá lịch sử nhân loại, cho dù nhân loại đã được cứu độ nơi "Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Redemptor hominis" là Đức Giêsu Kitô cả hai ngàn năm trước. Nếu nguyên tội tự nó là một thái độ trắng trợn phủ nhận Thiên Chúa và hồ hởi chấp nhận Satan cùng tôn sùng Satan hơn Thiên Chúa thế nào, thì thế giới ngày nay thực sự đã đúng như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định:

 

"Con người thường sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, thậm chí đặt mình vào vị thế của Thiên Chúa nữa. Họ tự cho mình quyền hành của một Vị Tạo Hóa trong việc can thiệp vào mầu nhiệm sự sống con người. Họ muốn định đoạt sự sống con người bằng cách léo lái việc truyền giống cũng như muốn thiết định giới hạn sự chết. Khi loại trừ lề luật thần linh và những nguyên tắc luân lý, họ công khai tấn công cơ cấu gia đình. Bằng những cách thức khác nhau, họ cố gắng làm cho Thiên Chúa phải im hơi lặng tiếng nơi tâm can của con người; họ muốn làm cho Thiên Chúa 'hoàn toàn khuất bóng' nơi văn hóa và lương tâm các dân tộc".

Đúng thế, hơn lúc nào hết, lịch sử loài người trong thời điểm "thế giới ngày nay cần đến LTXC biết bao" này đang chứng thực rằng "con người thường sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, thậm chí đặt mình vào vị thế của Thiên Chúa nữa", ở chỗ, "họ cố gắng làm cho Thiên Chúa phải im hơi lặng tiếng nơi tâm can của con người; họ muốn làm cho Thiên Chúa 'hoàn toàn khuất bóng' nơi văn hóa và lương tâm các dân tộc". Bằng cách "họ tự cho mình quyền hành của một Vị Tạo Hóa...", ở chỗ "họ muốn định đoạt" tất cả mọi sự theo ý riêng của họ, nhất là liên quan đến hai yếu tố chính yếu làm nền tảng của xã hội loài người nói chung và của đòi sống hôn nhân gia đình nói riêng là yêu thương và sự sống: "Khi loại trừ lề luật thần linh và những nguyên tắc luân lý, họ công khai tấn công cơ cấu gia đình".

Về lãnh vực yêu thương: con người văn minh ngày nay chẳng những hạ bệ Thiên Chúa xuống: "sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu", ở chỗ gạt bỏ tất cả những nguyên tắc bất di bất dịch của luân thường đạo lý, được thể hiện qua các thứ luật nhân tạo, cho con người có quyền ly dị đơn phương, mà còn đưa mình lên thay chỗ của Ngài: "thậm chí đặt mình vào vị thế của Thiên Chúa nữa. Họ tự cho mình quyền hành của một Vị Tạo Hóa trong việc" ban bố một thứ luật nhân tạo khác, quái dị hơn, cho con người được quyền đồng tình luyến ái và đồng tính hôn nhân, cho họ được quyền chuyển giới hay đổi giống tùy ý theo sở thích, chứ không còn muốn là phái tính theo bẩm sinh thiên phú của mình.

Về lãnh vực sự sống: con người văn minh ngày nay chẳng những hạ bệ Thiên Chúa xuống: "sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu", ở chỗ gạt bỏ tất cả những nguyên tắc bất di bất dịch của luân thường đạo lý, và thay thế bằng các thứ luật nhân tạo, cho con người có toàn quyền trên thân xác của mình cũng như của người khác, cho họ quyền phá thai, thậm chí vào lúc thai kỳ gần sinh nở, cho họ quyền triệt sinh an tử hay triệt sinh trợ tử thân nhân hay bệnh nhân bất khả chữa trị dù chưa chết v.v., mà còn đưa mình lên thay chỗ của Ngài: "thậm chí đặt mình vào vị thế của Thiên Chúa nữa. Họ tự cho mình quyền hành của một Vị Tạo Hóa trong việc" ban bố một thứ luật nhân tạo khác, quái dị hơn, cho con người được quyền truyền sinh ống nghiệm, truyền sinh thai mướn, truyền sinh sao bản (cloning): "Họ muốn định đoạt sự sống con người bằng cách léo lái việc truyền giống cũng như muốn thiết định giới hạn sự chết".

Thế giới ngày nay: đang mang trên mình “rất ư là nhiều thương tích, rất ư là nhiều thương tích”.

 

Đó là những thương tích nào, và cần phải chữa trị ra sao, tất cả đã được vị giáo hoàng thương xót là Phanxicô, vị giáo hoàng đã mở Năm Thánh Thương Xót Ngoại Lệ Năm 2016 lần đầu tiên trong Giáo Hội, vị giáo hoàng đã “xông pha” cho dù “bị lem luốc và bầm dập". Ở đây chúng ta trước hết hãy lắng nghe chính cảm nhận từ trên ngai tòa cao giáo hoàng của ngài, một cảm nhận thực ra ngài đã có trước khi làm giáo hoàng, điển hình như việc mở Năm Thánh Thương Xót, như ngài cho biết, ngài cũng đã có ý nghĩ đó trước khi làm giáo hoàng, để rồi khi làm giáo hoàng ngài đã thực hiện Năm Thánh Thương Xót vào năm 2016, sau 3 năm ngài làm giáo hoàng, và đã bày tỏ cảm nhận của mình về tình hình "đây là thời điểm thương xót" đối với một "thế giới ngày nay cần đến LTXC biết bao" do nó có quá nhiều thương tích, như sau:

 

"Ngày nay, chúng ta có thể nghĩ về Giáo Hội như là 'một bệnh viện lưu động (hay) bệnh viện dã chiến - a field hospital'.... Cần phải chữa trị các vết thương, rất ư là nhiều vết thương! Rất ư là nhiều vết thương! Có rất nhiều người bị thương, bởi các vấn đề về vật chất, bởi gương mù gương xấu, cả ở trong Giáo Hội nữa... Thành phần bị thương bởi những ảo tưởng của thế gian...  Tình thương trước hết là chữa trị các vết thương.... Thế nhưng cần chữa trị các vết thương bên ngoài (open wounds) trước. Đối với tôi, vào lúc này đây, đó là những gì quan trọng nhất. Rồi cũng có cả các vết thương sâu kín nữa, vì có những con người rời xa khiến không thấy được các vết thương của họ... Có những con người rời xa vì hổ thẹn, vì ngại ngùng để lộ ra vết thương của họ.... Và họ rời xa có lẽ mang một bộ mặt lầm lỡ khác với Giáo Hội, nhưng tận thâm tâm họ mang một vết thương đau... Họ cần một vỗ về nào đó!

 

Ở đây, căn cứ vào nhận định trên đây của Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng ta thấy trước hết, ngài nói đến căn nguyên của các vết thương: gây ra bởi vật chất, bởi gương xấu và bởi ảo tưởng; sau đó ngài nói tới các loại vết thương: vết thương hử và vết thương kín

 

"Bị thương bởi các vấn đề về vật chất": nạn nhân của thiên tai (bão lụt, sóng thần, núi lửa, động đất v.v.), hay nạn nhân của nhân tai (chiến tranh, bóc lột, đàn áp về tôn giáo và kinh tế, buôn người, di dân bị hất hủi ngược đãi, người già bị bỏ rơi coi thường, giới trẻ bị khai thác và đầu độc, những đứa con mồ côi bất đắc dĩ từ các cuộc ly dị của cha mẹ v.v.). "Bị thương bởi gương mù gương xấu, cả ở trong Giáo Hội nữa": truyền thông xuyên tạc, tài chính gian lận, chính trị mị dân và tham quyền, luật lệ buông thả, hình ảnh khiêu dâm, giáo sĩ ấu dâm v.v. "Bị thương bởi những ảo tưởng của thế gian": chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa duy thực dụng, chủ nghĩa duy nhân bản, chủ nghĩa tương đối hóa, chủ nghĩa cộng sản vô thần, chủ nghĩa tư bản duy vật, chủ nghĩa tân thực dân đế quốc, chủ nghĩa toàn cầu tha hóa, chủ nghĩa dân túy co cụm duy tổ quốc v.v.

 

"Các vết thương bên ngoài": điển hình nhất là thành phần tín hữu Công giáo ly dị tái hôn ở tòa đời, hay thành phần đồng tính luyến ái hoặc hôn nhân đồng tính, thậm chí bao gồm cả các đấng bậc trong Giáo Hội sống theo tinh thần thế tục bất xứng với ơn gọi, sứ vụ và thừa tác vụ thánh của mình; "cũng có cả các vết thương sâu kín nữa": điển hình nhất là thành phần nạn nhân thiếu niên bị giáo sĩ lạm dụng tình dục, sợ không dám tố cáo vì biết rằng có nói cũng chẳng ai tin mình, trái lại, còn bị các đấng giấu đi, bao che thậm chí hủy hoại các cáo giác của mình, chưa kể đến bị ngờ vực và tấn công bởi cả cộng đồng dân Chúa, nhất là ở những nơi các vị giáo sĩ vẫn được kính trọng và tôn sùng hơn ai hết. Thành phần mang các vết thương sâu kín này, như Đức Thánh Cha Phanxicô nhận xét, "có những con người  rời xa vì hổ thẹn, vì ngại ngùng để lộ ra vết thương của họ".

  

2-     CẦN ĐẾN

Chính vì "thế giới ngày nay" đang sống "mầu nhiệm lỗi lầm", với "rất ư là nhiều thương tích" như vậy mà cả hai vị giáo hoàng liên quan đến LTXC là Gioan Phaolô II và Phanxicô đều muốn thực hiện những gì có thể cứu lấy thế giới "cần đến LTXC biết bao" ấy, hai vị giáo hoàng được Đấng quan phòng thần linh sai đến đúng với thời điểm của mình, nhưng hoàn toàn bất ngờ và lạ lùng trước mắt thế giới, một vị đến từ Balan thuộc khối cộng sản Đông Âu, và một vị tự cho mình đến "từ tận cùng trái đất" (13/3/2013) là Á Căn Đình thuộc khối Mỹ Châu Latinh nghèo khổ. Những gì có thể cứu lấy thế giới, theo Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, là chính thế giới con người, lệ thuộc vào con người, ở chỗ “đừng sợ, hãy mở rộng các cánh cửa cho Chúa Kitô, còn theo ĐTC Phanxicô thì chính Giáo Hội phải nhúng tay vào cứu thế giới, bởi chính thế giới không thể tự cứu lấy mình...  Như thế, qua hai vị giáo hoàng được Đấng quan phòng thần linh sai đến vào "thời điểm thương xót" này, LTXC vẫn ở với con người, nhất là vào chính lúc họ "cần đến" LTXC biết bao" như hiện nay. Sau đây chúng ta cùng nhau ôn lại những gì được cả 2 vị giáo hoàng này thực hiện trong thời điểm giáo triều của các vị.

Thế giới ngày nay: cần đến lòng tin tưởng vào LTXC, ở chỗ “đừng sợ, hãy mở rộng các cánh cửa cho Chúa Kitô”

 

Có thể nói, tất cả giáo triều của ĐTC Gioan Phaolô II là ở câu ngài kêu gọi chúng thế giới loài người và riêng Kitô hữu Công giáo trong bài giảng lễ đăng quang giáo triều của mình ngày Chúa Nhật 22/10/1978: “đừng sợ, hãy mở rộng các cánh cửa cho Chúa Kitô”. Chính ngài, trong tác phẩm Hồi Niệm và Căn Tính, trang 219, ấn bản Anh ngữ) đã thú nhận như thế:  “Tại sao chúng ta đừng sợ? Vì con người đã được Thiên Chúa cứu chuộc. Khi nói lên những lời này ở Quảng Trường Thánh Phêrô, tôi đã biết được bức thông điệp đầu tiên của tôi và tất cả vai trò làm giáo hoàng của tôi sẽ gắn liền với sự thật Cứu Chuộc. Nơi Ơn Cứu Chuộc chúng ta thấy được nền tảng sâu xa nhất của những lời ‘Đừng sợ!’" - "Chỉ có một mình Người mới có thể tuyệt đối bảo đảm bằng lời tuyên phán: ‘Đừng sợ!’ mà thôi” (cùng nguồn, trang 222).

 

Bởi thế, tất cả 104 chuyến tông du của vị giáo hoàng ngoài Ý quốc sau 455 năm và đến từ một nước cộng sản Đông Âu này là để đi khắp mọi nơi kêu gọi từng nơi và mọi nơi “đừng sợ, hãy mở rộng các cánh cửa cho Chúa Kitô”. Nghĩa là hãy tin vào "Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần" (Thông Điệp thứ 1 của ngài), ban hành ngày 4/3/1978, mở đầu Mùa Chay, vì "Quyền năng nơi Thập Giá và Phục Sinh của Chúa Kitô là những gì mãnh liệt hơn bất cứ sự dữ nào khiến con người có thể hay cần phải sợ hãi” (cùng nguồn vừa trích dẫn). Tin vào "Đấng Cứu Chuộc Nhân  Trần" chính là tin vào LTXC: "'Vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến ban Con Một của Ngài’ (x Jn 3:16). Người Con này luôn hiện diện như Đấng Cứu Chuộc nơi lịch sử của loài người. Ơn Cứu Chuộc thấm nhập tất cả lịch sử của con người, ngay cả trước khi Đức Kitô sinh ra, và sửa soạn cho tương lai cánh chung của mình" (cùng nguồn vừa trích dẫn). Và đó là lý do mới xuất hiện một cách nhịp nhàng với thông điệp thứ hai ngay sau thông điệp đầu tay: "Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần", đó là thông điệp "Giầu Lòng Thương Xót - Dives in Misericordia", ban hành ngày 30/11/1980 mở đầu Mùa Vọng.

Trong bức Thông Điệp "Giầu Lòng Thương Xót" thứ hai, liên quan đến Chúa Cha, tiếp theo Thông Điệp Thứ Nhất "Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần", liên quan đến Chúa Kitô, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đã nhận định về một "thế giới cần đến LTXC biết bao", một thông điệp được chính Đức Thánh Cha Phanxicô trích lại trong Tông Sắc "Dung Nhan Thương Xót" của ngài những đoạn quan trọng như sau:

 

"Chúng ta đừng quên giáo huấn cao cả của Thánh Gioan Phaolô II gửi cho chúng ta trong bức Thông Điệp thứ 2 của ngài, Giầu Lòng Thương Xót - Dives in Misericordia, một thông điệp vào lúc ấy là những gì không ngờ lại có, mà đề tài của bức thông điệp này đã làm cho nhiều người cảm thấy ngỡ ngàng. Có 2 đoạn đặc biệt tôi muốn nhấn mạnh đến. Đoạn thứ nhất, Thánh Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh đến sự kiện là chúng ta đã quên vấn đề về tình thương trong môi trường văn hóa ngày nay: 'Tâm thức của ngày hôm nay đây, có lẽ hơn tâm thức của con người ta trong quá khứ, dường như chống lại với một Vị Thiên Chúa của tình thương, thực sự là có khuynh hướng loại trừ ra khỏi đời sống và tẩy chay khỏi tâm can của con người chính ý nghĩ tình thương. Từ ngữ và quan niệm 'tình thương' dường như gây ra cái cảm giác khó chịu nơi con người, thành phần mà nhờ sự phát triển khổng lồ về khoa học và kỹ thuật, chưa từng thấy trong lịch sử, đã trở thành chủ nhân ông của trái đất này và đã làm chủ cùng thống trị nó (xem Khởi Nguyên 1:28). Việc thống trị trái đất này, đôi khi được hiểu theo một chiều và hời hợt, dường như không còn chỗ đứng cho tình thương.... Và đó là lý do tại sao, trong tình trạng của Giáo Hội và thế giới ngày nay, nhiều cá nhân và tập thể được hướng dẫn bởi một cảm quan sống động của đức tin đang quay về, tôi có thể nói là hầu như một cách bộc phát tự nhiên, với tình thương của Thiên Chúa" (Saint John Paul II, Encyclical Letter Dives in Misericordia, 13)

 

"Ngoài ra, Thánh Gioan Phaolô II đã đẩy mạnh việc loan báo và chứng từ cho tình thương một cách khẩn trương hơn nữa trong thế giới hiện đại: 'Nó được thúc đẩy bởi tình yêu thương giành cho con người, giành cho tất cả những gì là nhân bản và là những gì, theo trực giác của nhiều người đồng thời của chúng ta, đang bị đe dọa bởi một mối nguy hiểm ngút ngàn. Mầu nhiệm của Chúa Kitô... buộc tôi phải loan báo tình thương như là tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, một tình yêu được mạc khải cũng ở nơi mầu nhiệm Chúa Kitô ấy. Nó đồng thời cũng bắt buộc tôi phải chạy đến với tình thương ấy mà van xin tình thương vào lúc khó khăn này, giai đoạn nghiêm trọng của lịch sử Giáo Hội và thế giới" (Saint John Paul II, Encyclical Letter Dives in Misericordia, 15). Giáo huấn này càng liên hệ hơn bao giờ hết và đáng được tái tiếp tục trong Năm Thánh này. Chúng ta hãy nghe lời ngài một lần nữa: 'Giáo Hội sống một đời sống chân thực khi Giáo Hội tuyên xưng và loan báo tình thương - một phẩm tính kỳ diệu nhất của Đấng Hóa Công và của Đấng Cứu Chuộc - cũng như khi Giáo Hội mang con người đến gần với các nguồn mạch tình thương của Đấng Cứu Thế, một tình thương mà Giáo Hội là ký thác viên và là nơi chất chứa'" (Saint John Paul II, Encyclical Letter Dives in Misericordia, 13).

 

Thế nhưng, chính vị giáo hoàng xuất phát từ một xứ sở được chính Thiên Chúa sử dụng để ban bố sứ điệp LTXC của Người qua nữ tu Faustina, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong biến cố Đông Âu bất ngờ sụp độ một cách bất bạo động, khởi đầu từ Balan vào Tháng 6/1989, đúng 10 năm sau chuyến tông du đầu tiên của ngài về Balan 6/1979, đã không thể chối cãi được rằng: “Con người hiện đại khó lòng mà trở về với đức tin được lắm, bởi vì họ sợ những đòi hỏi về luân lý như đức tin buộc họ phải thi hành" ("Hồi Niệm và Căn Tính” - ấn bản Anh ngữ, trang 222). Và vì vậy ngài đã khẩn trương kêu gọi thành phần Kitô hữu Công giáo nói chung và những ai tôn sùng LTXC nói riêng, trong bài giảng Cung Hiến Đền Thờ LTXC ở Balan Thứ Bảy ngày 17/8/2002 rằng: “Trong tình thương của Thiên Chúa thế giới mới tìm thấy hòa bình và nhân loại mới tìm thấy hạnh phúc! Tôi ký thác công việc này cho tất cả mọi người sùng mộ Lòng Thương Xót Chúa Chớ gì anh chị em là những chứng nhân cho tình thương!”

 

Bởi thế, phải chăng LTXC đã tiếp tục gửi đến cho chung loài người và riêng Giáo Hội một vị giáo hoàng tiếp tục đường hướng LTXC của vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II là Đức Thánh Cha Phanxicô, vị giáo hoàng chủ trương chính Giáo Hội phải tích cực và chủ động hơn nữa trong "thời điểm thương xót"

 

Thế giới ngày nay: cần đến Giáo Hội như “một bệnh viện lưu động” dám “xông pha” đến tận “các vùng ngoại biên” cho dù “bị lem luốc và bầm dập”.

Thật vậy, vị giáo hoàng "đến từ tận cùng trái đất", như chính ngài cảm nhận khi ngỏ lời với riêng Giáo Hội và chung thế giới vào lúc ngài ra mắt như vị tân giáo hoàng thứ 266 của Giáo Hội tối ngày 13/3/2013, đã làm gương "xông pha" đến độ "lem luốc, bầm dập và đớn đau" để băng bó các vết thương cho con người trong "thế giới cần đến LTXC biết bao" hiện nay, cả các vết thương hở lẫn vết thương kín, ở bốn trường hợp điển hình như sau:

 

Trường hợp thứ nhất là trường hợp rửa chân, tay ngài "lem luốc" khi ngài cúi mình xuống rửa chân cho các tù nhân bị "thương tích" trong cuộc đời tù ngục của họ vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh, tại 4 nhà tù khác nhau ở Roma, ngay từ khi mới lên làm Giáo Hoàng 2013, trong đó ngài rửa chân cho cả những người ngoại giáo và cho cả nữ giới, nên ngài đã bị "bầm dập và đớn đau" bởi thành phần bảo thủ tấn công ngài bởi việc ngài làm chướng tai gai mắt họ, như là một việc hoàn toàn sai trái với truyền thống chính truyền của Giáo Hội. Thế nhưng, nếu đọc kỹ Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 13 về sự kiện rửa chân này của Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy rằng vị giáo hoàng Phanxicô của chúng ta đã đúng, vì ý nghĩa sâu xa và chính xác của việc Chúa Giêsu rửa chân đây liên quan đến tội lỗi và tội nhân (tông đồ Giuđa Íchca - Gioan 13:2,10-11,18,21). Nếu việc rửa chân liên quan đến tội lỗi và tội nhân thì ai trong loài người nói chung lại không có tội, kể cả người ngoại đạo và nữ giới, nên tất cả đều cần phải được thanh tẩy, được cứu độ, được thương xót. Đó là lý do, bắt đầu từ năm Thánh Thương Xót 2016, theo ý của ngài, Giáo Hội bắt đầu rửa chân cho đủ mọi thành phần trong Giáo Hội, không còn chỉ nam nhân nữa.

 

Thật vậy, theo truyền thống thì vị giáo hoàng rửa chân cho các linh mục. Qui định phụng vụ Roman Missal 2002, thì chỉ rửa cho nam nhân lớn ("adult males"). Thế nhưng, từ Thứ Năm Tuần Thánh 24/3/2016 trong Năm Thánh Thương Xót, nghi thức rửa chân đưc bao gồm mọi thành phần dân Chúa. Trong Thư  20/12/2015, gửi ĐHY Robert Sarah, Tổng Trưởng Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích, ĐTC Phanxicô đã cho biết: "Ý định muốn cải tiến cách thức thi hành nghi thức rửa chân trong Phụng Vụ Lễ Coena Domini (Tiệc Ly) để làm sao có thể tỏ hiện trọn vẹn hơn nữa ý nghĩa của cử chỉ Chúa Giêsu làm trong Nhà Tiệc Ly, của việc Người hiến mình đến cùng cho phần rỗi của thế giới, của lòng bác ái yêu thương vô hạn của NgườiSau khi cẩn thận cân nhắc, tôi đã quyết định thực hiện một sự thay đổi cho Lễ Nghi Roma. Bởi vậy tôi truyền rằng khoản về những người được chọn để Rửa Chân cần phải là nam nhân hay em trai thì từ nay trở đi các vị Mục Tử của Giáo Hội có thể chọn những tham dự viên ở nghi thức này trong số tất cả mọi phần tử của Dân Chúa". Thánh Bộ này đã phổ biến sắc lệnh ngày 6/1/2016 theo quyết định của ĐTC Phanxicô.

 

Trường hợp thứ hai là trường hợp của thành phần Kitô hữu Công giáo ly dị và tái hôn bất hợp pháp theo luật Giáo Hội. Ngài đã không sợ bị "lem luốc" khi dám đụng đến vấn đề tế nhị này, vấn đề có thể đụng chạm đến cả luật Chúa "bất khả phân ly" mà còn đến luật Giáo Hội liên quan đến điều kiện xứng hợp để xứng đáng được rước lễ. Tuy trong Tông Huấn "Niềm Vui Yêu Thương" hậu Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới ngoại lệ 2015 và thường lệ 2016 về hôn nhân gia đình, hoàn toàn không có chuyện chính thức cho phép những người anh chị em Công giáo ly dị và tái hôn bất hợp pháp theo luật Giáo Hội này được rước lễ, nhưng theo chiều hướng mục vụ cá nhân hóa của ngài thì nên cứu xét từng trường hợp cụ thể để làm sao giúp cho từng người (nhất là khoản 300-305), bị "thương tích" gây ra bởi tấm lòng thật tình khao khát thần linh nhưng bất khả giải quyết những khúc mắc trục trặc về hôn nhân gia đình, cho dù không bị tuyệt thông như trường hợp phá thai, có thể được tiếp tục hiệp thông với Giáo Hội qua bí tích, cho lợi ích của chính bản thân họ cũng như con cái của họ, một quan tâm cứu xét từng trường hợp đã được thực hiện bởi chính Chúa Kitô, Đấng đã tìm đến một số tội nhân tiêu biểu, như người đàn bà Samaritano ở Giếng Giacóp (xem Gioan 4:7-26), như người đàn bà tội lỗi trong thành Người để cho bàn tay dâm ô chạm đến Thánh Thể của Người (xem Luca 7:37-39), như vị trưởng ban thu thuế Giakêu lùn (xem Luca 19:1-10), hay như người trộm tử tội bị đóng đanh bên phải của Người (xem Luca 23:39-43) v.v.

 

Đó là lý do, trong khoản 47 của Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm hậu Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới 2013, ngài đã chủ trương: "Giáo Hội được kêu gọi trở thành nhà Cha, cửa luôn mở.... Các cửa ngõ bí tích không được đóng lại vì bất cứ lý do nào.... Điều này đặc biệt đúng về bí tích được gọi là 'cửa' đó là phép rửa. Bí tích Thánh Thể, mặc dù bí tích này là tất cả sự sống về bí tích, không phải là một thứ phần thưởng cho thành phần trọn hảo mà là một phương dược mãnh liệt và là thứ dưỡng thực cho kẻ hèn yếu... Những niềm xác tín có những hệ quả về mục vụ này kêu gọi chúng ta hãy khôn ngoan và mạnh dạn cứu xét. Thường chúng ta tác hành như thành phần độc thủ ân sủng hơn là phân phối ân sủng. Thế nhưng Giáo Hội không phải là một nơi thu lộ phí; mà là nhà Cha, nơi có chỗ cho hết mọi người, với tất cả mọi vấn đề của họ". Nhưng sau đó ngài đã bị "bầm dập và đớn đau" bởi một số tín hữu cực bảo thủ cảm thấy bị "thương tích" trầm trọng không thể nào chịu được, nên đã vùng lên kịch liệt và công khai chống đối, chính yếu nhất là 4 vị hồng y với 5 nghi vấn "dubia" ngày 19/9/2016 sau đó là một tối hậu thư, và 62 nhân vật trí thức Công giáo qua văn bản "filial correction" của họ ngày 16/7/2017 ...

Trường hợp thứ ba là trường hợp chính hàng giáo phẩm và giáo sĩ nói chung, nhất là các vị đang phục vụ trong giáo triều Roma nói riêng, ngài cũng đã bị "lem luốc", khi ngài dám nhúng bàn tay của ngài vào thành phần lãnh đạo trong Giáo Hội nhưng lại sống theo chiều hướng "clericalism", chiều hướng quan liêu và thế tục, một việc chưa từng có vị giáo hoàng tiền nhiệm nào của ngài đã làm và từng làm một cách thẳng thắn và trực diện như ngài. Nếu Chúa Giêsu là "dung nhan thương xót" của Chúa Cha, trong khi rất thương dân chúng, không hề vạch tội của dân chúng ra, lại tỏ ra rất nghiêm khắc với thành phần biệt phái và luật sĩ Do Thái thời bấy giờ sống duy luật, giả hình (xem Mathêu đoạn 23), thậm chí ngài nói họ là "đồ mãng xà, nòi rắn độc" (Mathêu 23:33). ĐTC Phanxicô, vị giáo hoàng đã ban quyền tha vạ tuyệt thông của ngài cho một số vị linh mục trong Năm Thánh Thương Xót 2016, và tiếp tục cho tất cả mọi vị linh mục sau Năm Thánh này, để các vị thay ngài tha vạ tuyệt thông cho những ai cần, nhất là những người anh chị em tín hữu Công giáo nào lỡ nhúng tay vào việc phá thai bị vạ tuyệt thông tiền kết, những lại là vị giáo hoàng tỏ ra rất quyết liệt với hàng giáo sĩ và giáo phẩm, như ngài đã công khai nói với các vị vào dịp chào chúc Giáng Sinh năm 2014 và 2015, chẳng hạn ở năm 2014 như sau:

Đúng thế, vào hôm Thứ hai 22/12/2014, sau khi ban huấn từ chúc mừng Giáng Sinh với Giáo Triều Rôma từ lúc 10 giờ 30 sáng, sau đó, trước trưa một chút, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban huấn từ chúc Giáng Sinh đến thành phần nhân viên phục vụ cho Tòa Thánh, một việc chưa bao giờ xẩy ra và đó là lần đầu tiên vị giáo hoàng luôn chuyên chú tới khu vực xa xôi hẻo lánh là thành phần anh chị em hèn mọn trong xã hội và Giáo Hội đã thực hiện. Nếu trong huấn dụ của mình đối với thành phần anh chị em thấp hèn phục vụ Giáo Triều Roma, ngài đã thân thương chỉ vẽ cho họ 9 cái mẹo sống tốt lành và hạnh phúc, thì với các đấng bậc chức sắc nắm các vai trò quan trọng trong Giáo Triều Rôma lại được ngài mổ xẻ 15 thứ bệnh cần chữa trị, được liệt kê theo thứ tự sau đây:  1- Bệnh cảm thấy mình là "bất tử", "vô nhiễm"; 2- Bệnh quá bận rộn; 3- Bệnh bị "thạch hóa" tâm thần và tâm linh; 4- Bệnh hoạch định thái quá và duy chức năng; 5- Bệnh điều hợp tồi tệ; 6- Bệnh Alzheimer thiêng liêng; 7- Bệnh cạnh tranh kình địch và tự cao tự đắc; 8- Bệnh hoang tưởng đời sống; 9- Bệnh đồn đoán, càu nhàu, nhảm nhí; 10- Bệnh thần tượng hóa bề trên; 11- Bệnh lạnh cảm với người khác; 12- Bệnh dung diện đau thương; 13- Bệnh tích lũy; 14- Bệnh phe nhóm bế quan; 15- Bệnh lợi lộc trần gian và thích phô trương. Năm 2015 cũng thế, tại Sảnh Đường Clemente, trong Bài Huấn Từ Chúc Mừng Giáng Sinh cho Giáo Triều Rôma, ngài còn cống hiến cho các vị "những thứ kháng sinh" và kêu gọi các Đấng Bậc đang phục vụ ở Trung Tâm Thế Giới Công Giáo là Tòa Thánh Vatican này "hãy trở về với những gì thiết yếu". 

 

Chính vì ngài dám đụng chạm tới các "thương tích" vừa hở vừa kín của các đấng bậc mà ngài đã không khỏi bị "bầm dập và đớn đau" bởi các vị lãnh đạo trợ giúp ngài phục vụ Giáo Hội hoàn vũ, vì đã có những vị hồng y cảm thấy hối tiếc bởi đã bầu cho vị giáo hoàng này, thậm chí còn có ý lật đổ ngài nhân dịp tai tiếng về vụ việc giáo sĩ ấu dâm xẩy ra chưa từng thấy trong giáo triều của ngài. Tiêu biểu nhất là vị TGM Sứ Thần Tòa Thánh ở Washington Hoa Kỳ (2011-2016) Carlo Maria Viganò, sau khi bị ĐTC Phanxicô không cho vị này tiếp tục đóng vai trò mà vị này hằng mong muốn, sau chuyến tông du của ngài ở Hoa Kỳ 9/2015, đã tung ra một bức thư dài 11 trang vào Chúa Nhật 26/8/2018, từ một nơi bí ẩn của mình, qua truyền thông, công khai cáo buộc các đấng bậc ở Hoa Kỳ, liên quan đến vụ ĐHY McCarrick, bao gồm cả việc yêu cầu chính ĐTC từ chức.  Tuy nhiên, nếu khách quan theo dõi từng hành vi cử chỉ và đường hướng của vị giáo hoàng đại diện Chúa Kitô trên trần gian thứ 266 này, thì phải nói ĐTC Phanxicô chính là vị giáo hoàng cách mạng, nhưng không phải cách mạng từ cũ ra mới, mà là từ hiện tại đang xa mờ căn tính Kitô giáo của mình nơi thành phần lãnh đạo dân Chúa, về lại chính nguồn của Giáo Hội là LTXC, một LTXC Giáo Hội phải sống động phản ảnh "dung nhan thương xót / Misericordiae Vultus" (Nhan đề của Tông Sắc mở Năm Thánh Thương Xót 2016) mới thực sự là Giáo Hội của Chúa Kitô (xem Tông Sắc Dung Nhan Thương Xót, các đoạn 10 &12).

Trường hợp thứ bốn là trường hợp của nạn nhân thiếu niên bị giáo sĩ lạm dụng tình dục, thành phần trầm trọng bị "những thương tín sâu kín", cần phải được khám phá và chữa trị hơn ai hết và hơn bao giờ hết. Thật vậy, hiện tượng giáo sĩ lạm dụng tình dục, còn được vị giám mục bản quyền địa phương che giấu, đã bị truyền thông công khai phanh phui và làm bùng phát lên từ Tháng 2/2002 ở TGP Boston Hoa Kỳ, cho đến vụ ĐHY McCarrick, TGP Washington (2001-2006), bị ĐTC Phanxicô cho hồi tục, một trừng phạt chưa từng thấy trong Giáo Hội, vào tháng 2/2019, 17 năm sau vụ Boston cũng ở Hoa Kỳ, sau khi vị hồng y nổi tiếng này bị cả tòa đời lẫn tòa đạo luận tội chẳng những về tội ngài ấu dâm mà còn cả tội ngài đã lạm dụng tình dục người lớn nữa; đó là chưa kể đến vụ giáo sĩ ấu dâm ở Chí Lợi cũng đã được bùng lên và được Tòa Thánh điều tra, đến độ 34 vị lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo ở Chí Lợi đồng loạt đệ đơn xin ĐTC cho các vị từ chức ngày 18/5/2018. Chính vì thế, ĐTC Phanxicô đã quyết định thực hiện một cuộc họp thượng đỉnh để dứt khoát giải quyết hiện tượng quái gở và vô cùng tác hại đến Giáo Hội nói chung và nạn nhân thiếu niên nói riêng, và cuộc họp thưởng định bao gồm 190 vị, do chính ĐTC chủ tọa, với sự tham dự chính yếu là 114 vị chủ tịch hội đồng Giám Mục các nước trên thế giới và 20 vị bề trên tổng quyền nam nữ của các dòng tu.

 

 Trong lời mở đầu khai mạc cuộc họp khẩn thiết và quan trọng này, ĐTC Phanxicô đã vắn gọn như sau: "Trước nạn lạm dụng tình dục mà các giáo sĩ vấp phạm gây tai hại trầm trọng cho các em nhỏ niên thiếu, tôi muốn tham vấn với anh em, Quí Thượng Phụ, Hồng Y, Giám Mục cùng Bề Trên Các Dòng và Quí Vị Lãnh Đạo, để cùng nhau chúng ta có thể lắng nghe Thánh Linh, và chiều theo hướng dẫn của Ngài, chúng ta nghe cả tiếng kêu của những con người bé nhỏ đang nài xin công lý. Trong cuộc họp này, chúng ta cảm thấy được gánh nặng của trách nhiệm về mục vụ và về Giáo Hội đang đòi buộc chúng ta phải bàn luận với nhau, một cách hội thảo, thẳng thắn và sâu xa, để làm sao có thể đương đầu với sự dữ đang ảnh hưởng tới Giáo Hội và nhân loại này. Dân thánh của Chúa nhìn đến chúng ta, và mong chúng ta không phải chỉ biết lên án, mà còn cả những biện pháp cụ thể và hiệu nghiệm cần được thực hiện nữa. Chúng ta cần phải cụ thể". Và trong diễn từ kết thúc của mình, ngài nêu lên 8 điểm chính yếu cần phải áp dụng thực hành, trong đó có 2 điểm liên quan đến nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tình dục như sau:

 

1- Việc bảo vệ trẻ em. Đích nhắm chính của hết mọi biện pháp là cần phải bảo vệ những con người bé nhỏ và ngăn ngừa chúng khỏi trở thành nạn nhân của bất cứ hình thức nào về tâm lý và thể lý. Bởi thế cần phải thay đổi tâm thức trong việc chiến đấu với đường lối bênh vực và phản ứng bảo vệ cơ cấu, và hết lòng cùng quyết liệt theo đuổi thiện ích của cộng đồng bằng cách ưu tiên cho các nhân nhân bị lạm dụng đúng nghĩa nhất.... 6- Hỗ trợ những ai bị lạm dụngSự dữ mà họ trải qua lưu lại nơi họ những vết thương bất khả xóa nhòa, những vết thương tỏ hiện ở nơi nỗi phẫn uất và là một khuynh hướng tự diệt. Bởi thế Giáo Hội có nhiệm vụ phải cung cấp cho họ tất cả mọi nâng đỡ cần thiết, bằng việc lợi dụng các chuyên gia về lãnh vực này. Việc lắng nghe, thậm chí tôi muốn nói rằng 'việc mất giờ' để lắng nghe. Việc lắng nghe là những gì chữa lành người bị nhức nhối đớn đau, cũng chữa lành cả chúng ta cho khỏi cái tôi của mình nữa, khỏi việc xa lánh và thiếu quan tâm, khỏi cái thái độ của vị tư tế và thày Levi trong dụ ngôn Người Samaritano nhân lành".

 

Đức Thánh Cha Phanxicô chẳng những đích thân "xông pha" loan truyền LTXC cho đến độ bất chấp bản thân ngài bị "lem luốc" cùng "bầm dập và đớn đau", để được nên giống chính LTXC nơi dung nhan của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Đấng bị "lem luốc" cùng "bầm dập và đớn đau" hơn ai hết trong cuộc khổ nạn và tử giá của Người, mà còn thôi thúc chính Giáo Hội và Kitô hữu hãy cùng ngài thực hiện như vậy. Đối với ngài, "Giáo Hội mở cửa" chưa đủ, mà còn phải "xông pha" nữa, đến tận các vùng xa xôi hẻo lánh ở "ngoại biên", như ngài đã kêu gọi trong Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm của ngài ở đoạn 49 như sau: " Bởi vậy chúng ta hãy xông pha, chúng ta hãy xông pha để cống hiến cho hết mọi người sự sống của Chúa Giêsu Kitô. Ở đây tôi muốn lập lại cho toàn thể Giáo Hội những gì tôi đã thường nói với các linh mục và giáo dân ở Buenos Aires rằng: Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập, đớn đau và lem luốc vì xuống đường vào đời hơn là một Giáo Hội thiếu lành mạnh bởi bị giam hãm và dính chặt với cái an toàn của mình (I prefer a Church which is bruised, hurting and dirty because it has been out on the streets, rather than a Church which is unhealthy from being confined and from clinging to its own security)"

3-     LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

 

Thật ra, như thực tế cho thấy, cho dù hai vị giáo hoàng của "thời điểm thương xót là Gioan Phaolô II và Phanxicô có làm hết sức trong giáo triều của mình chăng nữa, hình như những gì các ngài thực hiện chẳng có tác dụng gì hay tác dụng mấy, trái lại, tình hình thế giới càng thảm hại hơn, càng nguy vong hơn, và càng chứng thực nhận định quá chí lý của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: "Thế giới ngày nay cần đến LTXC biết bao" - “Con người hiện đại khó lòng mà trở về với đức tin được lắm, bởi vì họ sợ những đòi hỏi về luân lý như đức tin buộc họ phải thi hành". Phải, chính vì thế giới sợ chính "Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Redemptor Hominis", Đấng duy nhất có thể cứu họ trong lúc họ đang sợ bị diệt vong bởi chính những gì họ chế tạo ra, bởi họ không muốn mất tự do làm ác nếu đón nhận Người, lại càng chứng tỏ "thế giới ngày nay cần đến LTXC biết bao" hơn bao giờ hết. Bởi vì LTXC là niềm hy vọng cuối cùng của họ, như chính Chúa Kitô đã vừa kêu gọi vừa cảnh báo cho chung thế giới cũng như cho riêng Kitô hữu, qua Chị Thánh Faustina ở những khoản Nhật Ký sau đây:

 

Các linh hồn hư vong bất chấp cuộc Khổ Nạn cay đắng của Cha. Cha đang ban cho họ niềm hy vọng cuối cùng của ơn cứu độ; tức là Lễ Kính Tình thương của Cha. Nếu họ không tôn thờ tình thương của Cha, họ sẽ bị hư vong cho đến muốn đời kiếp kiếp. Hỡi thư ký của tình thương Cha, con hãy viết, hãy nói cho các linh hồn về tình thương cao cả này của Cha, vì ngày kinh hoàng, ngày của đức công minh của Cha, đang cận kề” (Nhật Ký - 965); Cha mong muốn là Tình Thương của Cha được tôn thờ, và Cha đang ban cho nhân loại niềm hy vọng cuối cùng của ơn cứu độ; tức là việc chạy đến với tình thương của Cha. Lòng của Cha hân hoan trong ngày lễ này (Nhật Ký - 998). LTXC là niềm hy vọng cuối cùng này thậm chí còn bảo đảm phần rỗi cho cả những linh hồn bất khả nhất: "Nếu một linh hồn giống như một thi thể rữa nát, mà theo quan niệm loài người, không còn phục hồi được nữa, mọi sự hoàn toàn đã tiêu tan, thì đối với Thiên Chúa, lại không như vậy. Phép lạ của Tình Thương Thần Linh phục hồi trọn vẹn linh hồn đó. Ôi, bất hạnh biết bao những linh hồn không lợi dụng phép lạ của tình thương Thiên Chúa! Các người sẽ kêu gào vô vọng mà cũng đã quá muộn mất rồi". (Nhật Ký - 1448)

Một trong những lý do sâu xa tại sao "thế giới ngày nay cần đến LTXC biết bao" nhưng lại sợ chính Đấng đến cứu mình cho khỏi bị diệt vong là vì họ chưa thấu hiểu được LTXC, và cũng chính vì thế mà LTXC muốn tỏ mình ra cho họ, nhất là khi họ càng khốn cùng, càng nguy vong lại càng là cơ hội vô cùng thuận lợi và tốt đẹp để LTXC tỏ hết mình ra. Sau đây là chính những lời Chúa Giêsu tỏ bày LTXC của Người cho Chị Thánh Faustina, những câu chí tình nhất, tuyệt vời nhất và tác động nhất của LTXC:

 

"Con hãy công bố rằng lòng thương xót là ưu phẩm cao cả nhất của Thiên Chúa. Tất cả những việc Cha làm đều do lòng thương xót tỏ hiện". (Thánh Faustina: Nhật Ký 301); ]

"Giữa Cha và con có một vực thẳm vô đáy, một vực thẳm phân chia Tạo Hoá với tạo vật. Thế nhưng, vực thẳm này đã được tình thương của Cha lấp đầy" (Nhật Ký 1576);

"Càng là đại tội nhân càng có quyền đối với tình thương của Cha" (Nhật Ký 723) - "Nỗi khốn cùng của con không ngăn trở tình thương Cha. Nỗi khốn cùng của linh hồn càng lớn thì nó càng có quyền đối với tình thương của Cha" (Nhật Ký 1182);

 "Cha chính là tình thương đối với linh hồn thống hối ăn năn" (Nhật Ký 1739) - "Cha bị tổn thương đau đớn biết bao khi lòng thiện hảo của Cha bị ngờ vực! Những tội bất tin tưởng đả thương Cha nhức nhối nhất" (Nhật Ký 1076) 

1- LTXC là ưu phẩm cao cả nhất của Thiên Chúa:

Nói đến Thiên Chúa hay nghĩ đến Thiên Chúa thì ý tưởng chính yếu xuất hiện trong tâm tưởng của chúng ta đó là Ngài toàn năng, toàn thiện, vô cùng khôn ngoan và công minh chính trực. Nếu không có 4 ưu phẩm tối thiểu bất khả thiếu và bất khả phân ly này, Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa và không còn là Thiên Chúa nữa. Tuy nhiên, so với 4 ưu phẩm thần linh này, LTXC vẫn là ưu phẩm cao cả nhất. Đến độ, có thể nói, nếu không có ưu phẩm cao cả nhất là LTXC, thì Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa nữa, cho dù Ngài có hội đủ 4 ưu phẩm vô cùng khôn ngoan, công minh chính trực, toàn năng và toàn thiện, trái lại, Ngài sẽ trở thành một ác thần.

Không phải hay sao, tự bản chất, loài người không phải là Thiên Chúa, chỉ là một tạo vật, và đã là một tạo vật, dù có được Thiên Chúa dựng nên tốt đẹp mấy chăng nữa, tự mình vẫn bất toàn, không thể nào toàn thiện như Thiên Chúa. Nghĩa là vẫn chất chứa những gì là bất toàn, bất hảo, không được như Thiên Chúa muốn, không xứng với vị Thiên Chúa toàn thiện. Và đó là lý do dễ hiểu tại sao con người sa ngã phạm tội. Mà nếu con người bất toàn và sa ngã phạm tội, bất xứng với Thiên Chúa toàn thiện, phạm đến Thiên Chúa toàn thiện, mà Ngài lại vô cùng công minh chính trực, thì Ngài chỉ thẳng tay trừng phạt con người bằng quyền toàn năng của Ngài, cho dù con người có phạm tội thầm kín trong lòng chăng nữa, cũng không thể giấu được Ngài là Đấng vô cùng khôn ngoan thấu suốt tất cả mọi sự. Nếu con người bất toàn không thể không sa ngã phạm tội thì làm sao có thể đứng vững trước vị Thiên Chúa không có LTXC, mà chỉ có khôn ngoan, toàn năng, toàn thiện và công minh!

Thế nhưng, theo mạc khải thần linh, qua giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái, một lịch sử cứu độ đã lên đến tột đỉnh nơi mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, mầu nhiệm của LTXC, thì LTXC quả thực là ưu phẩm cao cả nhất của Thiên Chúa đã thực sự tỏ hiện qua 4 ưu phẩm gắn liền với Ngài. Có thể nói, nếu tất cả LTXC được tỏ hiện và lên đến tột đỉnh nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, thì chung Mầu Nhiệm Vượt Qua và riêng Cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Chúa Kitô là tất cả những gì cho thấy Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan, toàn năng, toàn thiện và công minh. Nơi cuộc khổ giá và tử nạn của Chúa Kitô, Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan khi "không dung tha cho Con Một của Ngài..." (Roma 8:32) chỉ vì LTXC của Ngài đối với loài người tội lỗi, như thể loài người tội lỗi còn có giá hơn chính Người Con duy nhất của Ngài, đến độ nơi Người Con "không còn hình tượng gì" (Isaia 52:14), "đã bị khai trừ ra khỏi cõi nhân sinh" (Isaia 53:8), "trở nên như sâu bọ đất" (Thánh Vịnh 22:7) của mình, Thiên Chúa còn đáng thương hơn cả loài người tội nhân đáng thương. Nơi cuộc khổ giá và tử nạn của Chúa Kitô, Thiên Chúa toàn năng ở chỗ đã biến sự dữ thành sự lành cho con người, biến thập giá là biểu hiệu cho tội lỗi và sự chết thành Thánh Giá ân sủng và sự sống. Nơi cuộc khổ giá và tử nạn của Chúa Kitô, Thiên Chúa công minh ở chỗ con người không phải là Thiên Chúa toàn thiện như mình, mà chỉ là một loài tạo vật bất toàn và yếu đuối, vô cùng đáng thương, hoàn toàn "nhầm không biết việc mình làm" (Luca 23:34). Nơi cuộc khổ giá và tử nạn của Chúa Kitô, Thiên Chúa toàn thiện chính là ở chỗ xót thương này vậy (xem Mathêu 5:48; Luca 6:36).

2- LTXC lấp đầy vực thẳm ngăn cách tạo hóa với tạo vật:

Vực thẳm phân chia giữa Thiên Chúa hóa công và loài người tạo vật có thể chia ra làm hai tầng, và cả 2 tầng này đều đã được LTXC tự động lấp đầy bằng tất cả bản chất và các ưu phẩm thần linh toàn thiện, khôn ngoan và toàn năng của Ngài. Vực thẳm ngăn cách giữa Thiên Chúa tạo hóa và loài người tạo vật tầng thứ nhất, từ trời xuống đất, được lấp đầy, hoàn toàn vì LTXC vô biên và nhưng không của Ngài, bằng mầu nhiệm và biến cố Nhập Thể Giáng Sinh của "Đấng tuy là Thiên Chúa nhưng đã không tự coi mình cứ phải ngang hàng với Thiên Chúa mới được, trái lại, Người đã tự hủy ra hư vô, mặc lấy thân phận tôi đòi, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế" (Philiphe 2:6-7), như là một "Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14).

Vực thẳm ngăn cách giữa Thiên Chúa tạo hóa và loài người tạo vật tầng thứ hai, từ trần gian xuống hỏa ngục, được lấp đầy, hoàn toàn vì LTXC vô biên và nhưng không của Ngài, bằng mầu nhiệm và biến cố Vượt Qua của "Đấng không biết đến tội lỗi nhưng đã trở thành tội lỗi cho chúng ta được nên công chính" (2Corinto 5:21), Đấng "đã vâng lời cho đến chết cho dù có phải chết trên thập tự giá" (Philiphe 2:7), Đấng "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư vong" (Luca 19:10), Đấng "đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho phần rỗi của nhiều người" (Mathêu 20:28), Đấng "đã yêu thương những kẻ thuộc về mình còn trên thế gian thì muốn chứng tỏ rằng mình yêu thương họ đến cùng" (Gioan 13:1), đến con chiên lạc cuối cùng (xem Luca 15:1-7), đến tự hiến mạng sống của mình (xem Gioan 15:13).

3- LTXC ưu tiên hơn hết cho những tội nhân khốn nạn nhất:

Nếu thành phần tội nhân khốn nạn nhất trong các Phúc Âm tiêu biểu nhất có thể kể đến đó là 4 nhân vật, 2 nữ (người đàn bà Samaritano và người phụ nữ tội lỗi trong thành) và 2 nam (tông đồ Giuđa Íchca và tông đồ Phêrô), thì cả 4 vị này đều được các Phúc Âm cho thấy đã có uyền trên LTXC hơn bất cứ một nhân vật nào khác. Trước hết là 2 nữ đại tội nhân: nữ đại tội nhân Samaritano đã có quyền trên LTXC đến độ Người phải tìm đến gặp riêng chị (xem Gioan 4:7-26), và nữ đại tội nhân tội lỗi trong thành đã có quyền trên LTXC khi được đặc ân chạm bàn tay dâm ô của mình vào Thánh Thể của Người (xem Luca 7:37-39). Sau nữa là 2 nam đại tội nhân: nam đại tội nhân Giuđa Íchca đã có quyền trên LTXC hơn ai hết khi bắt Chúa Kitô là Thày của mình phải cúi xuống rửa chân cho tông đồ đoàn, một cứ chỉ ám chỉ chính nam đại tội nhân này (xem Gioan 13:10-11), và nam đại tội nhân thứ hai là nhân vật Simon Phêrô, vị lãnh đạo tông đồ đoàn, vị đã được chính Chúa Kitô tin tưởng trao chìa khóa Nước Trời cho (xem Mathêu 16:18), thế mà đã 3 lần trắng trợn chối bỏ Thày của mình (xem , nhưng đã có quyền trên LTXC, khi nam đại tội nhân này đã kéo được ánh mắt từ bi nhân hậu của Người nhìn mình (xem Luca 22:54-62).

Bốn đại tội nhân cả nam lẫn nữ tiêu biểu trên đây có quyền trên LTXC hơn ai hết, vì họ là những con chiên lạc có giá hơn 99 con không lạc, đến độ vị chủ chiên phải bỏ cả 99 con để đi tìm một mình họ, từng người trong họ (xem Luca 15:1-7). Đó là lý do chúng ta có thể nên thánh sort cut hay nên thánh một cách đốt giai đoạn là ở chỗ hoàn toàn tuyệt đối tin tưởng vào LTXC. Bởi vì, chính con người tội lỗi khốn nạn nhất là một vực thẳm vô đáy chỉ được lấp đầy bằng chính LTXC vô cùng bất tận mà thôi, và chính lúc họ thực sự nhận mình là tội lỗi vô cùng đáng thương trước LTXC, như người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện (xem Luca 18:13-14), thì họ được tất cả LTXC là ưu phẩm tối cao của Thiên Chúa, được chính Ngài là tình yêu vô cùng nhân hậu, nghĩa là được tất cả mọi sự, được nên trọn lành như Ngài là Đấng trọn lành đồng thời cũng chính là Đấng thương xót (xem Mathêu 5:48 và Luca 6:36).

4- LTXC nhức nhối nhất khi bị ngờ vực:

Không còn gì đớn đau bằng bị phủ nhận và hất hủi, nhất là đối với một Vị Thiên Chúa vô cùng cao cả, chí ái, chí tôn, chí thánh, bởi một tạo vật vô cùng thấp hèn và tội lỗi mà mình đã hết lòng và hết sức yêu thương cho đến cùng. Và cũng chính vì thế, không một tội nào trầm trọng và xúc phạm đến Thiên Chúa tới độ không thể tha thứ, đó là tội không tin tưởng vào LTXC. Phải nói rằng cuộc khổ nạn của Chúa Kitô không phải bắt đầu từ Thứ Sáu Tuần Thánh mà là đêm Thứ Năm Tuần Thánh, khi mà Chúa Kitô, sau Bữa Tiệc Ly, đem các tông đồ vào Vườn Cây Dầu để cùng Người "cầu nguyện", bởi vì ngay lúc bấy giờ Người cảm thấy "đau buồn đến chết được" (Mathêu 26:38), đến độ toát cả mồ hôi máu nhỏ xuống đất (xem Luca 22:44), và Người đã xin Cha của Người cất chén mà Người phải uống đi.

 

Hầu hết người ta cho rằng chén này ám chỉ đau thương và cái chết về thể xác Người phải chịu. Nếu vậy thì Chúa Kitô, Vị Thiên Chúa làm người còn thua cả các vị tử đạo, những vị công khai tỏ ra ham ước chịu khổ để được phúc tử đạo, để nên giống Chúa Kitô, để làm chứng cho Đấng đã yêu thương mình đến cùng, điển hình nhất là phó tế Laurenso, còn nhắc nhở thôi thúc những kẻ tra tấn ngài hãy lật thân xác của ngài sang phía bên chưa bị nung chín như bên đã bị. Đúng thế, nếu mục đích tối hậu của Vị Thiên Chúa làm người là cứu chuộc nhân loại bằng khổ nạn và tử giá, thì Người còn mong gì hơn là đến giây phút cứu chuộc này: "Lạy Cha, xin Cha hãy làm rạng danh Con Cha, để Con Cha cũng được làm vinh danh Cha" (Gioan 17:1).

 

Do đó, "chén" mà Chúa Kitô xin với Cha của Người cất đi cho Người chắc chắn không phải là những đớn đau thân xác của Người phải chịu vì khổ nạn và tử giá, mà còn hơn thế nữa là tất cả những gì vô cùng đắng cay chua chát mà Người đã thấy trước trong giòng thời gian, có một số linh hồn nào đó, ơn cứu chuộc vô cùng cao quí và vô cùng khổ nhục của Người chẳng những trở thành vô ích cho họ khi họ đời đời hư đi, khi họ dứt khoát không chấp nhận ơn cứu độ từ LTXC của Người, mà chính ơn cứu độ của Người lại còn trở thành án phạt đời đời kiếp kiếp cho họ, đầy đọa họ. Phải, tội gì LTXC cũng có thể tha thứ, ngoại trừ tội phạm đến chính LTXC, ở chỗ không tin tưởng vào LTXC, không chấp nhận LTXC, hoàn toàn phủ nhận Thiên Chúa là Tình Yêu vô cùng nhân hậu.

 

4-     BIẾT BAO

      "Thế giới ngày nay cần đến LTXC biết bao", nghĩa là cần hơn bao giờ hết. Bởi vì ngày nay, con người càng văn minh về vật chất thì càng vô thần, duy vật, bạo loạn, càng tội lỗi và khổ đau chết chóc chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Đó là lý do, trong bài giảng tuyên phong 4 tân chân phước Balan hôm Chúa Nhật 18/8/2002 ở Đền Thánh LTXC Balan, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đã cảm nhận và kêu gọi như thế này:

      "Từ khi bắt đầu hiện hữu, Giáo Hội, qua việc bày tỏ mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh, đã rao giảng tình thương Chúa, một bảo chứng hy vọng và là nguồn mạch cứu độ con người. Tuy nhiên, hôm nay đây chúng ta dường như được kêu gọi đặc biệt để loan báo sứ điệp này trước thế giới. Chúng ta không thể lơ là với sứ vụ này, nếu chính Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta thực hiện sứ vụ này qua chứng từ của Thánh Nữ Faustina. Sứ điệp tình yêu nhân hậu cần được vang vọng một cách mạnh mẽ một lần nữa. Thế giới cần đến thứ tình yêu này. Đã đến thời giờ cần phải mang sứ điệp của Chúa Kitô đến cho mọi người: cho các kẻ trị vì và thành phần bị áp bức, cho những ai có bản tính và phẩm vị bị tiêu ma trong mầu nhiệm lỗi lầm. Đã đến thời giờ sứ điệp Lòng Thương Xót Chúa có thể làm cho các tâm hồn tràn đầy hy vọng và trở nên tia sáng cho một nền văn minh mới, một nền văn minh yêu thương". 

      Mà nếu "thế giới ngày nay cần đến LTXC biết bao", hơn bao giờ hết như thế, mà chính thế giới càng ngày càng có vẻ đầy quyền năng tự nhiên của mình, về cả khoa học và kỹ thuật, lẫn nhân bản và nhân quyền, lại không thể cứu được mình, lại còn thậm chí sợ chính Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần là Đấng duy nhất có thể cứu họ, ở chỗ không dám "mở rộng các cánh cửa cho Chúa Kitô", thì chẳng lẽ cứ để cho thế giới này hư đi hay sao, cứ để cho loài người đã được dựng nên theo hình ảnh thần linh và tương tự như thần linh (xem Khởi Nguyên 1:26-27) hư mất hay sao. Nghĩa là cứ để cho công ơn cứu độ vô cùng quí giá của Vị Thiên Chúa Nhập Thể và Vượt Qua trở thành vô giá trị nơi những con người hư đi này, cũng có nghĩa là cứ để cho dự án thần linh vô cùng khôn ngoan và toàn năng toàn ái của "Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý" (1Timotheu 2:4) thực sự bất thành hay sao? Tức là cứ để mặc cho Satan cùng với bọn ngụy thần của hắn tha hồ mà chiếm được bao nhiêu có thể thành phần những linh hồn bất tử nhưng vô cùng dại khờ và yếu hèn, nhờ đó, quyền lực hỏa ngục của hắn cùng bọn ngụy thần có thể tàn phá tan tành ơn cứu độ vô cùng cao cả của Thiên Chúa nơi Người Con Nhập Thể và Vượt Qua của Ngài hay sao?

      Chính ở Fatima, vào lần hiện ra thứ tư ngày 18/9/1917, Mẹ Maria đã phải than phiền nhưng đồng thời kêu gọi 3 thiếu nhi Fatima thụ khải nói riêng và thành phần môn đệ trung kiên của Chúa Kitô cũng là thành phần cảm tử quân bất khuất thuộc đạo binh dàn trận của Mẹ nói chung như sau: "Hãy cầu nguyện thực nhiều và hy sinh cho tội nhân; nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì không có ai hy sinh cầu cho họ". Ở đây, Mẹ Maria không có ý nói đến thực trạng "nhiều linh hồn sa hỏa ngục" đây là ít linh hồn được cứu độ hơn là số linh hồn sa hỏa ngục. Trái lại, đối với Mẹ, một người Mẹ đầy ơn phúc, một tạo vật đệ nhất về ân sủng, được nên một với Chúa Kitô là "ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12) đến độ "rực rỡ như mặt trời" (Diễm Tình Ca 6:10), một con người có một tấm lòng kính mến Chúa hơn tất cả các thần trời và các thánh hợp lại, thấu hiểu giá trị vô cùng cao quí của ơn cứu độ như thế nào, thì dù chỉ một linh hồn hư đi thôi cũng là "nhiều" rồi, cũng làm cho Mẹ vô cùng xót xa đau đớn.

      Ngoài ra, Mẹ cũng không cố ý qui trách nhiệm hư đi của nhiều linh hồn cho ai ngoài chính họ, mà chỉ nhắc nhở con cái mình biết rằng họ không được chỉ biết đến phần rỗi của bản thân mình, mà còn cả phần rỗi của anh chị em mình nữa. Nghĩa là các linh hồn không thể tự cứu mình vẫn có thể được cứu bởi anh chị em của mình biết "hy sinh cầu cho họ". Và đó là lý do, ngay sau khi tiết lộ toàn bộ Bí Mật Fatima 3 phần vào lần hiện ra thứ 3 ngày 13/7/1917, Mẹ Maria đã kêu gọi 3 thiếu nhi Fatima thụ khải rằng: "Mỗi khi lần hạt, sau mỗi một mầu nhiệm, các con hãy đọc lời nguyện sau đây: 'Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đem mọi linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn'". Ở đây, chúng ta chẳng những được Mẹ Maria dạy cho lời nguyện tắt để cầu cho tội nhân "sau mỗi một mầu nhiệm" của Chúa Kitô cũng chính là mầu nhiệm của LTXC, mà còn thấy được rằng "thời điểm thương xót" đã được mở màn từ Biến Cố Thánh Mẫu Fatima 1917. Nhất là ở trong Bí Mật Fatima.

      Thật vậy, nếu cẩn thận nghiên cứu kỹ lưỡng, chúng ta thấy Mẹ Maria hiện ra ở Fatima năm 1917, thời điểm gần cuối Thế Chiến Thứ 1 (1914-1918), thời điểm của tội lỗi (đánh nhau chưa từng có trong lịch sử loài người ở ngay thế giới Kitô giáo là Âu Châu) và sự chết (giết nhau một cách huynh đệ tương tàn hoàn toàn phản lại với giáo huấn "yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con" - Gioan 13:34, 15:12), và chính vì thế nên thời điểm tội lỗi và sự chết này đã trở thành "thời điểm thương xót", một thời điểm thương xót được hiện thực nơi những hành động chính yếu Mẹ Maria thực hiện ở Fatima theo thứ tự thời gian như sau: trước hết là Mẹ thiết lập một Đạo Binh Thương Xót vào ngày 13/5; sau đó là Mẹ đã tiết lộ một Bí Mật Thương Xót vào ngày 13/7; và sau hết Mẹ đã ban bố một Sứ Điệp Thương Xót vào ngày 13/10. Tuy nhiên, chúng ta không thể nào hiểu được lý do tại sao Mẹ Maria thiết lập Đạo Binh Thương Xót ngay lần đầu hiện ra, và cũng không thể nào hiểu được tầm quan trọng của Sứ Điệp Thương Xót được Mẹ ban bố vào lần hiện ra cuối cùng, nếu chúng ta không nắm bắt được tất cả sự thật về Bí Mật Thương Xót là tâm điểm và cốt lõi ở Fatima.

       Đúng thế, Bí Mật Fatima chất chứa một nội dung có thể nói là Bí Mật Thương Xót, một nội dung có 3 phần bất khả phân ly, liên quan đến Ơn Cứu Độ vô cùng cao quí của Chúa Kitô và phần rỗi vô cùng quan trọng của loài người: Ở phần 1 là thị kiến hỏa ngục cho thấy thực sự là có những linh hồn vô cùng khốn nạn bị hư đi đời đời; ở phần 2 là quyền lực cứu độ của Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, một Trái Tim được chính Mẹ Maria tiết lộ ở ngày đầu phần bí mật thứ hai này là "Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới" cho "nhiều linh hồn được cứu độ và thế giới được hòa bình",  và quyền lực cứu độ này của Mẹ thực sự đã được hoàn toàn tỏ hiện cùng ứng nghiệm từng li từng tí, đúng như lời Mẹ tiên báo ở cuối phần hai của bí mật này rằng: "Cuối cùng Trái Tim Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được một thời gian hòa bình"; và ở phần 3 là một thị kiến cho thấy hành động Mẹ Maria trực tiếp nhúng tay vào việc cứu độ thế giới cho khỏi bị Thiên Chúa tiêu diệt, bằng một cách thức khác hợp với LTXC hơn là việc Thiên Chúa vô cùng công minh ra tay trừng phạt thế giới tội lỗi theo phép công thẳng của Ngài.

      Tất cả những gì chất chứa trong Bí Mật Fatima đều đã được Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) báo trước từ đầu thế kỷ 18, trong tác phẩm lừng danh của ngài là "Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria", nhất là ở đoạn 50 như sau:

       "Vào những thời buổi sau này, Mẹ Maria cần phải chiếu sáng hơn bao giờ hết về tình thương, quyền phép và ân sủng; về tình thươngđể mang về và ưu ái đón nhận thành phần tội nhân và hoang đàng đáng thương cần phải hoán cải và trở về với Giáo Hội Công Giáo (Bí Mật Fatima phần 1 về phần rỗi tội nhân); về quyền phép, để chống lại thành phần thù địch với Thiên Chúa, thành phần muốn nổi dậy một cách đáng sợ để dụ dỗ và thắng đoạt, bằng những hứa hẹn và đe dọa, tất cả những ai chống lại họ (Bí Mật Fatima phần 2 về cộng sản); sau hết, Mẹ cần phải sáng tỏ về ân sủng để phấn khởi và hỗ trợ thành phần quân quốc tinh nhuệ và tôi tớ trung thành của Chúa Giêsu Kitô đang vì Người mà chiến đấu (Bí Mật Fatima phần 3 về đạo binh thương xót).

       "Cuối cùng, Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau nàyĐối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".      

      1- Đạo Binh Dàn Trận - Đạo Binh Thương Xót trong Bí Mật Fatima phần thứ 3 

        Đúng thế, Đạo Binh Dàn Trận ở đây, như Thánh Long Mộng Phố đã tiên báo về Mẹ Maria "vào những thời buổi sau này", chính là Đạo Binh Thương Xót trong Bí Mật Fatima phần thứ ba. Bởi vì, chỉ có máu tử đạo của thành phần thuộc Đạo Binh Thương Xót này, máu của những con người thánh đức mà chịu khổ như cành nho đã sinh trái càng được cắt tỉa đi chio càng sinh trái hơn (xem Gioan 15:2), máu của những tâm hồn sống "đức tin tuân phúc" (Roma 1:5) và đức ái trọn hảo như Mẹ Maria đứng dưới chân  Thánh Giá Chúa Giêsu Con Mẹ (xem Gioan 19:25), mới có thể bù đắp cho tội lỗi khủng khiếp kinh hoàng của con người văn minh ngày nay, đáng bị trừng phạt, không thể tha thứ được nữa. Thánh nhân đã diễn tả Đạo Binh Dàn Trận này của Mẹ Maria ở trong cùng tác phẩm, đoạn 59, như sau: "Miệng họ sẽ ngậm thanh gươm hai lưỡi lời Chúa, và vai họ vác cây Thập Tự Giá đẫm máu. Tay phải họ cầm tượng chuộc tội, tay trái cầm chuỗi hạt mân côi, lòng họ khắc thánh danh Giêsu Maria. Hành vi cử chỉ của họ phản ảnh tính chất đơn sơ và tự hiến của Chúa Giêsu. Những con người cao cả này là thành phần phải đến. Theo ý muốn của Thiên Chúa, Mẹ Maria là vị trang bị cho họ để vương quốc của Ngài bao trùm trên vương quốc vô đạo, vương quốc ngẫu tượng và vương quốc tín đồ Hồi Giáo / the Mahometans".

      Trong thị kiến của phần 3 Bí Mật Fatima, chúng ta thấy quả thực hiện lên một Đạo Binh Dàn Trận của Mẹ Maria, mang tính cách của một Đạo Binh Thương Xót như thế này: Sau hai phần con đã diễn tả, thì ở bên trái của Đức Mẹ và cao hơn một chút, chúng con thấy có một vị Thiên Thần cầm một lưỡi gươm cháy lửa nơi tay trái; thanh gươm chớp chớp phát ra những ngọn lửa như muốn thiêu đốt thế giới; tuy nhiên, những ngọn lửa ấy đã bị tắt mất trước ánh quang sáng ngời từ bàn tay phải của Đức Mẹ phát ra chiếu về phía vị Thiên Thần, bởi thế, lấy bàn tay phải của mình mà chỉ xuống trái đất, vị Thiên Thần đã kêu lớn tiếng rằng: ‘Hãy ăn năn đền tội, hãy ăn năn đền tội, hãy ăn năn đền tội!’. Rồi chúng con thấy một vị Giám Mục mặc Áo Trắng, ‘mà chúng con có cảm nhận đó là Đức Thánh Cha’, trong một vùng sáng mênh mông là Thiên Chúa, ‘giống như người ta thấy mình đi ngang qua trước một tấm gương soi’. Các vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ khác đang tiến lên một ngọn núi dốc đứng, trên đỉnh có một cây Thập Giá lớn, được làm bằng những thân cây nứt nẻ như loại thân cây điên điển còn vỏ; trước khi tiến lên tới đỉnh núi, Đức Thánh Cha đã băng qua một thành phố lớn, một nửa đã bị tàn rụi, còn một nửa kia thì đang run rẩy loạng quạng lê bước với đầy những đớn đau và buồn khổ, Ngài cầu nguyện cho các linh hồn của những thi thể Ngài gặp thấy trên quãng đường đi; tiến tới đỉnh núi rồi thì khi đang quì ở dưới chân cây Thập Giá lớn, Ngài đã bị một nhóm lính bắn các đầu đạn và mũi tên đến hạ sát, cũng lần lượt bị sát hại như thế có cả các vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ cùng với thành phần giáo dân ở các tầng lớp và vai trò khác nhau. Dưới hai cánh Thập Giá có hai Thiên Thần, mỗi vị cầm trong tay mình một bình nước thánh bằng pha lê để chứa đựng máu của các vị Tử Đạo và hai vị dùng máu ấy vẩy trên những linh hồn đang tìm đường đến cùng Thiên Chúa”.

      Thị kiến của phần thứ ba Bí Mật Fatima tiết lộ cho chúng ta những điểm chính yếu sau đây:

       1- Thế giới loài người đã đến lúc (từ đầu thế kỷ 20) và đến độ bị hủy diệt bởi tội lỗi bất khả tha thứ của mình, thế nhưng, Mẹ Maria vẫn bao che cho thế giới tội lỗi, không cho Thiên Chúa hủy diệt loài người theo phép công thẳng của Thiên Chúa, tuy nhiên không phải Mẹ bênh vực tội lỗi của con người mà là bênh vực con người tội lỗi đáng thương;

       2- Con người tội lỗi đáng thương đây chính là thế giới Tây phương Kitô giáo, được ám chỉ nơi một "thành phố lớn", nơi mà "một nửa đã bị tàn rụi (ám chỉ cộng sản Đông Âu và Liên Sô), còn một nửa kia thì đang run rẩy loạng quạng lê bước với đầy những đớn đau và buồn khổ (ám chỉ thế giới tư bản càng ngày càng vô thần và duy vật đang tiến đến bờ vực diệt vong)";

      3- Thế giới Kitô giáo băng hoại đã thật sự đáng bị tiệu diệt này vẫn còn tồn tại là nhờ máu tử đạo của một Đạo Binh Dàn Trận, bao gồm đủ mọi thành phần trong Giáo Hội, chẳng những "vị giám mục mặc áo trắng" là giáo mục Roma cũng là giáo hoàng, còn "có cả các vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ cùng với thành phần giáo dân ở các tầng lớp và vai trò khác nhau";

      4- Đạo binh dàn trận cũng là Đạo Binh Thương Xót trong thị kiến phần ba Bí Mật Fatima này bao gồm những tâm hồn sống đức tin mãnh liệt, đến độ có thể vuợt qua "một ngọn núi dốc đứng" vô cùng khó leo, và sống đức ái trọn hảo, đến độ được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô khổ nạn và tử giá, qua cử chỉ "đang quì ở dưới chân cây Thập Giá lớn";

       5- Chính lúc Đạo Binh Thương Xót này đạt tới tột đỉnh thánh thiện như thế, nhờ đức tin tuân phục và đức ái trọn hảo của mình, thì họ đều bị sát hại, như thể chính Chúa Kitô tiếp tục chịu khổ nạn và tử giá nơi họ để cứu "thế giới cần đến LTXC biết bao" trong "thời điểm thương xót";

       6- Thành phần sát hại Đạo Binh Thương Xót này là "một nhóm lính", ám chỉ thành phần Hồi giáo quá khích đang hung hăng bách hại và sát hại Kitô hữu hiện nay ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở hầu hết các xứ sở Hồi giáo, mà một trong họ là tay sát thủ Ali Agca, một tín đồ Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ đã ám sát Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (vị Giám Mục Roma bấy giờ đang mặc áo trắng) ngày 13/5/1981 ở Quảng Trường Thánh Phêrô;

       7- Máu tử đạo của Đạo Binh Thương Xót cần phải đổ ra, cần phải có để cứu lấy loài người nói chung và thế giới Kitô giáo nói riêng, bởi thế mới xuất hiện cảnh "dưới hai cánh Thập Giá có hai Thiên Thần, mỗi vị cầm trong tay mình một bình nước thánh bằng pha lê để chứa đựng máu của các vị Tử Đạo và hai vị dùng máu ấy vẩy trên những linh hồn đang tìm đường đến cùng Thiên Chúa", tức là những ai tin tưởng vào LTXC.

      Nếu thị kiến phần 3 của Bí Mật Fatima về máu tử đạo của Đạo Binh Dàn Trận của Mẹ Maria cũng là Đạo Binh Thương Xót của Chúa Kitô, thành phần Kitô hữu chứng nhân đích thực và sống động của Chúa Kitô như Mẹ Maria và với Mẹ Maria, Người Mẹ tử đạo ở dưới chân Thánh Giá Con Mình, thứ máu cần phải đổ ra để cứu lấy "thế giới ngày nay cần đến LTXC biết bao", nhất là "những linh hồn đang tìm đường đến cùng Thiên Chúa" trong thị kiến, tức "những linh hồn cần đến LTXC hơn", gây ra do bàn tay khủng bố của "một nhóm lính", ám chỉ thành phần tín đồ Hồi giáo cực đoan, thì phần thứ 3 của Bí Mật Fatima này đang hiện thực từ ngày 11/9/2001, ngày đệ nhất cường quốc Hoa Kỳ bị khủng bố tấn công vào hai trụ sở đầu não là Trung Tâm Thương Mại Thế Giới (kinh tế và thương mại) và Ngũ Giác Đài (chính trị và quân sự), một cách công khai giữa thanh thiên bạch nhật, hoàn toàn không kịp trở tay, và như thế lời Mẹ tiên báo ở cuối phần thứ hai Bí Mật Fatima về tình trạng "thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình", sau khi "Nước Nga trở lại" chỉ vỏn vẹn có 10 năm, từ năm 1991 đến năm 2001, sau đó là thế chiến thứ ba kiểu khủng bố khắp thế giời bắt đầu, một thứ thế chiến thứ ba ở khắp các nơi được ĐTC Phanxicô không ít lần công khai đề cập tới.

       Thế nhưng, cuối cùng, như Thánh Long Mộng Phố tiên đoán (như đã trích dẫn trên đây ở đoạn 59 cuốn Thành Thực Sùng Kính của ngài): "Vương quốc của Ngài bao trùm trên vương quốc vô đạo, vương quốc ngẫu tượng và vương quốc tín đồ Hồi Giáo / the Mahometans", một lời tiên đoán trước Biến Cố Thánh Mẫu Fatima cả trăm năm đã được hiện thực nơi Bí Mật Fatima phần thứ ba, một phần bí mật quả thực cho thấy: "Vương quốc của Thiên Chúa bao trùm trên vương quốc vô đạo, vương quốc ngẫu tượng và vương quốc tín đồ Hồi Giáo / the Mahometans".

      1- "Vương quốc vô đạo" trong thị kiến đây ám chỉ "thành phố lớn, một nửa đã bị tàn rụi" là thế giới cộng sản Âu Châu, một vương quốc quả thực đã bị "vương quốc của Thiên Chúa bao trùm", sau khi ĐTC Gioan Phaolô II cùng với toàn thế các vị giám mục trên thế giới, đáp ứng chính xác lời Mẹ kêu gọi ngày 13/6/1929 trong thị kiến Fatima cuối cùng về "ân sủng và thương xót", hiến dâng thế giới và Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria ngày 25/3/1984, nhờ đó đúng 1 năm sau 3/1985, nhân vật Gorbachew xuất hiện và Đông Âu sụp đổ từ khởi đi Balan vào 6/1989, và cuối cùng "Nước Nga trở lại" ngày 25/12/1991;

      2- "Vương quốc ngẫu tượng" trong thị kiến đây ám chỉ "thành phố lớn.. đang run rẩy loạng quạng lê bước với đầy những đớn đau và buồn khổ" là thế giới tư bản duy vật văn minh Tây phương đang bị khủng hoảng đức tin và phá sản văn hóa đến độ vừa sợ bị diệt vong bởi chính những gì mình chế tạo ra lại vừa sợ chính Đấng có thể giải cứu mình, không dám "mở rộng các cánh cửa" để đón nhận Người;

       3- "Vương quốc tín đồ Hồi Giáo" khủng bố hình như đang được Đấng Quan Phòng thần linh dùng, sau cái roi cộng sản vô thần không công hiệu, để chẳng những cho phép họ khủng bố tấn công "vương quốc ngẫu tượng" văn  minh Tây phương được họ đồng hóa với Kitô giáo đang cần được thanh tẩy, mà còn gây ra máu tử đạo để cứu lấy chính "vương quốc ngẫu tượng" này. Đó có thể là phương cách trong "thời điểm thương xót" của mình, Thiên Chúa là chủ lịch sử này, qua Mẹ Maria và Đạo Binh Dàn Trận của Mẹ, sẽ "bao trùm trên vương quốc ngẫu tượng và vương quốc tín đồ Hồi Giáo".

2- Đạo Binh Dàn Trận - Đạo Binh Thương Xót nơi 3 Thiếu Nhi Fatima thụ khải

   Đạo Binh Dàn Trận của Mẹ Maria, cũng là Đạo Binh Thương Xót cho "các linh hồn cần đến LTXC hơn", như trong thị kiến phần thứ 3 Bí Mật Fatima cho thấy ngày 13/7/1917, thật ra đã được Mẹ Maria thiết lập trước đó đúng 2 tháng, tức là vào  ngày 13/5/1917, ngay vào lần hiện ra thứ nhất, lúc mà Mẹ chưa xưng mình là ai (mãi tới vào lần cuối cùng 13/10 Mẹ mới xưng mình "Mẹ là Mẹ Mân Côi"), và đến để làm gì, như được gói ghém tất cả trong Bí Mật Fatima ngày 13/7/1917, thì ngay khi vừa hiện ra lần đầu tiên, Mẹ đã kêu gọi và triệu tập 3 em thiếu nhi Fatima thụ khải, Lucia 10 tuổi, Phanxicô 9 tuổi và Giaxinta 7 tuổi, vào Đạo Binh Dàn Trận của Mẹ để làm Đạo Binh Thương Xót của LTXC, cho phần rỗi các linh hồn: ''Các con có sẵn lòng dâng mình cho Thiên Chúa để chấp nhận mọi đau khổ Ngài gửi đến, như một việc đền tạ những xúc phạm Ngài phải chịu mà cầu cho tội nhân ăn năn trở lại không?” (13/5/1917).

Sở dĩ Mẹ Maria không chọn người lớn mà là thiếu nhi để làm Đạo Binh Dàn Trận của Mẹ và là Đạo Binh Thương Xót của LTXC cho phần rỗi các linh hồn tội nhân, là vì các em còn ngây thơ vô tội, nhờ đó các em mới xứng đáng trở thành của lễ toàn thiêu hy sinh đền tội thay cho các tội nhân đáng thương cần được cứu độ. Cho dù các em không bị tử đạo, bằng cách đổ máu ra, như đoàn chứng nhân đích thực của Chúa Kitô trong thị kiến phần ba của Bí Mật Fatima, nhưng các em cũng đã chịu tử đạo bằng đau khổ các em cần phải chịu, đúng như các em đã đồng thanh thưa cùng Mẹ Maria khi các em vừa được Mẹ kêu gọi rằng: "Vâng, chúng con xin sẵn sàng". Ngoài ra, chính các em cũng không sợ tử đạo, khi các em bị chính quyền địa phương đánh lừa bắt các em về trụ sở của họ vào chính ngày 13/8/1917, để điều tra về Bí Mật Fatima mà các em được Mẹ dặn không được nói với ai, nhưng các em cương quyết, từng em một, không chịu nói bất chấp mọi giá, cho dù các em có bị họ dọa vứt vào vạc dầu xôi cho chết.

Ba thiếu nhi Fatima thụ khải, thành phần đầu tiên gia nhập Đạo Binh Dàn Trận của Mẹ để làm Đạo Binh Thương Xót của LTXC, quả thực đã chịu nhiều đau khổ, đúng như Mẹ Maria cảnh báo sau khi các em tỏ ra sẵn sàng đáp lại lời mời gọi ban đầu của Mẹ Maria: "Được, các con sẽ chịu nhiều đau khổ, thế nhưng ơn Chúa sẽ nâng đỡ các con". Trong khi cả 3 em đều để ý đến việc tự "hy sinh cầu nguyện cho các tội nhân", như lời Mẹ nhắc nhở và kêu gọi ngày 19/8/1917, thì mỗi em lại chịu đau khổ khác nhau, tùy theo thân phận và ơn gọi của mình. Chẳng hạn, em Phanxicô chịu đau khổ khi thấy người ta "xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa", vị Thiên Chúa vẫn hiện diện giữa loài người nơi Bí Tích Thánh Thể, mà em gọi là "Giêsu ẩn thân / hidden Jesus", Đấng mà em luôn tìm dịp ẩn mình đền tạ bằng Kinh mân Côi với chuỗi Mân Côi trong tay.

Trong khi đó, em Lucia lại chịu đau khổ bởi chính những người thân yêu nhất trong gia đình của em. Điển hình nhất là người mẹ của em và các người chị của em. Mẹ em thì cấm em không được nói dối, nhưng lại bắt em phải nói dối với cha xứ về chuyện Đức Mẹ không hiện ra với em. Chưa hết, sau khi 2 mẹ con vào gặp cha xứ, cha xứ lại bảo em rằng coi chừng em bị ma quỉ đánh lừa, và ngay đêm hôm đó em thấy ma quỉ trong giấc ngủ, khiến em hoảng sợ đến độ không dám gặp hai người em họ của mình là Phanxicô và Giaxinta nữa, luôn ẩn trốn 2 em của mình, kẻo bị 2 em thúc đẩy đến gặp Đức Mẹ vào chính ngày giờ và địa điểm Đức Mẹ đã căn dặn cả 3 em ngay từ lần hiện ra đầu tiên. Còn nữa, em còn bị gia đình trách mắng là vì em mà mảnh đất trồng trọt của gia đình bị dân làng thị hiếu kéo đến nơi Mẹ hiện ra khiến hoa mầu chết hết, không còn gì để sinh sống v.v. Nhưng em vẫn âm thầm chịu đừng và không hề giận dỗi mẹ và chị của em.

Nhưng có lẽ em thiếu nhi Fatima thụ khải bị đau khổ hơn hết trong 3 em chính là Giaxinta nhỏ nhất, một tâm hồn luôn kháo khát hy sinh, tìm đủ mọi dịp để hy sinh cứu các tội nhân đáng thương cho khỏi sa hoảa ngục, sau khi em thị kiến thấy hỏa ngục ở phần thứ nhất của Bí Mật Fatima ngày 13/7/1917. Và cái đau khổ chất ngất của em nhỏ chết vào năm mới có 10 tuổi này đó là chính lời tiên báo của Mẹ Maria về cái chết của em, một cái chết cô đơn một mình, không có cả cha mẹ lẫn chị Lucia là những người thân yêu nhất của em vào giây phút lìa đời. Em đã ôm chầm lấy Chị Lucia của em khóc nức nở trước khi em lên Lisbon để chữa bệnh mà em tin rằng đó là lần cuối cùng của đời em trước khi em qua đời và không còn đựợc gặp một ái trước khi em chết nữa. Chị Lucia đã khuyên em đừng nghĩ đến viễn tượng được Đức Mẹ oái oăm báo trước cho em biết đó, nhưng em đã nói với chị Lucia rằng em cứ muốn nghĩ đến nó để em càng đau khổ, nhờ đó có thể cứu các linh hồn, và cuối cùng em than lên với tất cả tấm lòng ngây thơ vô tội và thánh thiện của em rằng: "Ôi, em thương các linh hồn biết bao!".

   3- Đạo Binh Dàn Trận - Đạo Binh Thương Xót nơi Nhị Vị Thánh LTXC

Vì "thời điểm thương xót" được mở màn với Biến Cố Thánh Mẫu Fatima 1917 mà Đạo Binh Dàn Trận của Mẹ Mân Côi toàn thắng Maria ở Fatima sau đó được tiếp tục với chính Chúa Giêsu Kitô qua chị nữ tu Faustina, thuộc dòng Chị Em Đức Mẹ Thương Xót ở Balan từ đầu thập niên 1930, ngay sau thị kiến cuối cùng ở Fatima xẩy ra vào cuối thập niên 1920, ngày 13/6/1929, thị kiến "ân sủng và thương xót". Bởi vì, sau thị kiến "ân sủng và thương xót" liên quan đến Thánh Mẫu Fatima cũng là Thánh Mẫu Thương Xót này, liền xuất hiện thị kiến LTXC, được Chúa Giêsu cho chị nữ tu Faustina thấy vào ngày 22/2/1931, và sau đó Người bảo chị "hãy vẽ bằng cọ" những gì chị thị kiến thấy, và từ đó, mới có tấm ảnh LTXC cho đến nay. Tấm hình LTXC này có thể nói bao gồm hay tóm gọn toàn bộ mạc khải Thánh Kinh.

Thật vậy, nếu mạc khải Thánh Kinh chất chứa 2 yếu tố bất khả thiếu và bất khả phân ly là yếu tố mạc khải thần linh về phía Thiên Chúa, và yếu tố đức tin tuân phục về phía loài người, thì bức ảnh LTXC này cũng hội đủ 2 yếu tố đó: phần trên của tấm ảnh là một Chúa Kitô Phục Sinh trong bộ áo trắng, một Chúa Kitô đã chịu khổ nạn và tử giá, như còn thấy 5 dấu thánh Người tỏ ra, những dấu thánh cho thấy Người đã hoàn toàn vì yêu thương tự hiến cho phần rỗi của nhân loại, để chẳng những cứu họ khỏi tội lỗi mà sự chết mà còn ban cho họ "sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10), qua biểu hiệu "máu và nước chảy ra từ cạnh sườn của Người" (Gioan 19:34), "máu" biểu hiệu cho "sự sống" và "nước" biểu hiệu cho "sự sống viên mãn" nhờ Thánh Linh của Chúa Kitô Phục Sinh (xem Gioan 20:22), "máu và nước" ám chỉ "sự sống và sự sống viên mãn" này, trong tấm Ảnh LTXC, được tiêu biểu bằng hai luồng sáng "đỏ và trắng" chiếu ra từ trái tim vô cùng yêu thương và "đã yêu thương cho tới cùng" (Gioan 13:1) của Người. 

Nếu phần trên của tấm Ảnh LTXC liên quan đến mạc khải thần linh của Thiên Chúa, mà Chúa Giâeu Kitô Vượt Qua, một Chúa Giêsu Kitô là tột đỉnh mạc khải thần linh của Thiên Chúa và là tất cả mạc khải Thần Linh của Thiên Chúa, đến độ, như chính Chúa Kitô đã khẳng định với các tông đồ của Người trong Bữa Tiệc Ly rằng: "Ai thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9), thì phần dưới của tấm ảnh này có hàng chữ bất khả thiếu là "Giêsu ơi, con tin nơi Chúa". Sở dĩ có hàng chữ "Giêsu ơi con tin nơi Chúa" bất khả thiếu và bất khả phân lý với mạc khải thần linh là vì đó là điều kiện trên hết và duy nhất để con người được cứu độ và công chính hóa. Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định với nữ tu Faustina rằng: "Không một linh hồn nào sẽ được công chính hóa cho tới khi tin tưởng quay về với tình thương của Cha, và đó là lý do tại sao Chúa Nhật thứ nhất sau Phục Sinh là Lễ Chúa Tình Thương” (Nhật Ký - 570).

Đúng thế, Chúa Giêsu không phải chỉ muốn LTXC của Người được tôn kính nơi tấm Ảnh LTXC, mà còn phải đuợc tôn thờ trong Phụng Vụ nữa, và vì thế Người muốn bức Ảnh LTXC phải được làm phép và trưng bày vào Lễ LTXC hằng năm: "Cha mong có một Lễ Kính Tình Thương. Cha muốn bức ảnh mà con vẽ bằng cọ này phải được long trọng làm phép vào ngày Chúa Nhật Thứ Nhất sau Lễ Phục Sinh; Ngày Chúa Nhật này phải là ngày Lễ Kính Tình Thương". (Nhật Ký số 49). Bởi vì tột đỉnh của lòng tôn sùng LTXC là việc tôn thờ LTXC, một việc làm cho tâm hồn tin tưởng vào LTXC nên công chính, như người thu thuế sau khi cầu nguyện trong đền thờ với tất cả tấm lòng tan nát khiêm cung (xem Luca 18:13-14).

Và sở dĩ Lễ LTXC được Chúa Giêsu chọn vào Chúa Nhật I sau đại lễ Phục Sinh, nghĩa là vào Chúa Nhật cuối tuần bát nhật Phục Sinh, là vì bài Phúc Âm hôm ấy của Thánh ký Gioan trình thuật về sự kiện Chúa Kitô Phục Sinh tỏ mình ra bằng chính các dấu thánh của Người (hình ảnh phần trên tấm Ảnh LTXC), khiến người tông đồ Tôma không tin tưởng trước đó đã không thể nào chối cãi được nữa và đã tuyên xưng lòng tin của mình (hành chữ "Giêsu ơi con tin nơi Chúa" trong tấm Ảnh LTXC) rằng: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi" (Gioan 20:28). Nếu "lạy Chúa tôi" có nghĩa là Thày đã chiến thắng tội lỗi và sự chết là những gì còn hiển hiện nơi 5 dấu thánh của Thày, thì "lạy Thiên Chúa tôi" có nghĩa là Thày là Đấng hằng hữu, bất tử, "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25). Chính vì Thày đã bị con người ta giết đi, nhưng đã sống lại để chiến thắng tội lỗi và sự chết nơi loài người và của loài người, mà loài người hãy tin vào Người để được "sự sống và sự sống viên mãn", bằng niềm tin tưởng vào LTXC của Người: "Giêsu ơi, con tin nơi Chúa!"

Tuy nhiên, đối với Đạo Binh Thương Xót thì việc tôn kính Ảnh LTXC và tôn thờ LTXC trong phụng vụ vào Chúa Nhật II Phục Sinh cũng chưa đủ, bởi vì họ còn cần phải trở thành lễ vật toàn thiêu của LTXC và như LTXC cho phần rỗi các linh hồn nữa. Bởi thế mà không một tâm hồn nào thuộc về Đạo Binh Thương Xót mà lại thoát được đau khổ, như chính Chúa Giêsu Kitô là Dung Nhan Thương Xót của Chúa Cha đã làm gương, có thể họ mới được hiệp nhất nên một với Người, và Người mới có thể chiếm đoạt họ và sống trong họ, để nhờ con người của họ và qua cuộc đời của họ, Người tiếp tục công cuộc cứu độ của Người, tiếp tục cuộc hành trình tìm kiếm con chiên lạc của Người cho đến khi "Người lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và ké chết" (Kinh Tin Kính).

Hai vị thánh của LTXC và cho LTXC được chính LTXC tuyển chọn, đều xuất phát từ Balan, nơi được Thiên Chúa dùng để ban bố sứ điệp LTXC của Ngài, đó là Thánh Faustina (1005-1938) và Thánh Gioan Phaolô II (1920-2005). Có thể nói nếu Thánh Faustina được LTXC tuyển chọn để sống đời nội tâm về LTXC, bằng việc dâng mình cho LTXC, để LTXC muốn làm gì tùy ý, thì Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được LTXC tuyển chọn để làm thừa sai cho LTXC, loan truyền LTXC, kêu gọi loài người hãy tin tưởng vào LTXC, bằng cách "đừng sợ, hãy mở rộng các cửa cho Chúa Kitô!". Tuy nhiên, cả 2 vị thánh của LTXC và cho LTXC này đều phản ảnh LTXC, qua cuộc khổ nạn của mình, cho phần rỗi các linh hồn.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đã nói về Thánh Faustina trong bài giảng phong hiển thánh cho chị ngày 30/4 Đại Năm Thánh 2000 rằng: Nữ Tu Faustina Kowalska đã viết trong Nhật Ký của chị như sau: 'Tôi cảm thấy đớn đau kinh khủng khi tôi thấy những đớn đau của anh chị em tôi. Tất cả mọi khổ đau của anh chị em tôi đều dội lại nơi trái tim của tôi; tôi ôm ấp nỗi sầu thương của họ trong trái tim tôi đến độ thậm chí nó hủy hoại tôi về thể lý. Tôi muốn tất cả mọi nỗi sầu thương của họ đều đổ xuống trên tôi, để nhẹ gánh cho anh chị em của tôi' (Nhật Ký, trang 365). Đó là mức độ cảm thương được tình yêu dẫn tới, khi lấy tình yêu Thiên Chúa làm mức đo lường của nó”.

Để đáp lại lời kêu gọi của Chúa Giêsu: «Cha muốn con thực hiện việc hiến dâng bản thân con cho tội nhân, nhất là cho những linh hồn đã mất niềm hy vọng vào tình thương của Cha» (Nhật Ký 308), nữ tu Faustina đã long trọng đáp ứng vào ngày 29/3/1934 như sau: Trước trời đất, trước tất cả triều thần Thiên quốc, trước nhan Rất Thánh Trinh Nữ Maria, trước tất cả mọi Quyền Năng thiên đình, con xin tuyên hứa cùng Thiên Chúa Duy Nhất Ba Ngôi là hôm nay, hiệp cùng Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc của các linh hồn, con thực hiện một việc tự nguyện hiến dâng bản thân mình cho việc hoán cải của các tội nhân, nhất là cho những linh hồn đã mất niềm hy vọng vào tình thương của Chúa. Việc hiến dâng này là ở chỗ, bằng cách hoàn toàn thuận phục ý Chúa, con chấp nhận tất cả mọi đau khổ, sợ hãi và kinh hoàng tràn đầy nơi các tội nhân. Ngược lại, con sẽ hiến cho họ tất cả mọi niềm an ủi linh hồn con nhận được từ việc hiệp nhất với Chúa. Tắt một lời, con xin cống hiến hết mọi sự cho họ: Các Thánh Lễ, những lần Hiệp Lễ, các việc thống hối, những hãm mình khổ chế, các lời nguyện cầu. Con không sợ những giáng phạt, những giáng phạt của đức công minh thần linh, vì con liên kết với Chúa Giêsu. Ôi Chúa Trời con, nhờ đó, con muốn bù đắp cho Chúa thay thế những linh hồn không tin tưởng vào lòng nhân lành của Chúa..." (Nhật Ký - 309).

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, trong dịp kỷ niệm 1 năm qua đời của vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II của mình, trong huấn từ Truyền Tin Chúa Nhật 2/4/2006, cũng nhận định về ngài như sau: Vào ngày 2/4 năm ngoái, một ngày như hôm nay đây, Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II yêu dấu của chúng ta đã sống vào những giờ phút như thế này đoạn hành trình cuối cùng của đời ngài, một cuộc hành trình đức tin, đức mến và đức cậy, một cuộc hành trình đã để lại một nét đậm nơi lịch sủa Giáo Hội cũng như của nhân loại. Cuộc khổ nạn và cái chết của ngài giống như một giai đoạn kéo dài của Tam Nhật Phục Sinh.  Tất cả chúng ta vẫn còn nhớ các hình ảnh về cuộc Đi Đường Thánh Giá cuối cùng của ngài hôm Thứ Sáu Tuần Thánh: Vì không đến được Hí Trường Colosseum, ngài đã theo dõi đường thánh giá từ nguyện đường riêng của ngài, tay ôm cây thập giá. Thế rồi, vào Chúa Nhật Phục Sinh, ngài đã ban phép lành ‘urbi et orbi’, song không thể nói lên lời nào, mà chỉ lấy tay ra dấu mà thôi. Đó là một phép lành đớn đau và cảm kích được ngài lưu lại cho chúng ta như chứng từ cao cả nhất về việc ngài cương quyết hoàn thành sứ vụ của ngài cho tới cùng….. Trong những năm cuối cùng của ngài, Chúa đã dần dần tước lột ngài khỏi tất cả mọi sự, để làm cho ngài hoàn toàn nên giống Người. Và khi ngài không còn tông du được nữa, sau đó thậm chí không còn bước đi được nữa, sau cùng đến nỗi không còn nói được nữa, thì cử chỉ của ngài, việc loan báo của ngài được biến thành những gì thiết yếu, đó là việc ban tặng bản thân mình cho đến cùng….” 

4- Đạo Binh Dàn Trận - Đạo Binh Thương Xót trong Bí Mật La Salette

Phải chăng tất cả những gì đã được cả Thánh Long Mộng Phố tiên báo trong tác phẩm Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria của ngài, đặc biệt 2 khoản 50 và 59 như đã được trích dẫn trên đây, và những gì đã được hiện thực trong thị kiến ở phần 3 Bí Mật Fatima, như đã được suy đoán và diễn giải trên đây, đều hợp với Bí Mật La Salette, một Biến Cố Thánh Mẫu xẩy ra vào Thứ Bảy Lễ Mẹ Đau Thương (bấy giờ) 19/9/1846, chỉ sau 4 năm (1842) tác phẩm Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria được tìm thấy sau 126 năm mất tích, đúng như tiên báo của vị thánh tác giả (đoạn 114), một Thánh Mẫu La Salette chỉ còn biết khóc khi hiện ra với 2 thiếu niên, một nam là Maximin 11 tuổi và một nữ là Melanie 14 tuổi, và đã tiết lộ cho 2 em biết Bí Mật La Salette, liên quan đến tương lai kinh hoàng của chung thế giới loài người và của riêng Giáo Hội Chúa Kitô, chẳng những rất đúng với Thánh Long Mộng Phố trước đo và Bí Mật Fatima phần thứ ba sau đó, mà còn rất hiện thực với "thế giới ngày nay cần đến LTXC biết bao" nữa, nên Mẹ đã kêu gọi thành phần Đạo Binh Dàn Trận của Mẹ hiên ngang chiến đấu với Satan và bọn ngụy thần lộng hành trong thời điểm của chúng, để Đạo Binh Dàn Trận của Mẹ thực sự trở thành Đạo Binh Thương Xót của LTXC cho "các linh hồn cần đến LTXC hơn".

"Những linh mục, những thừa tác viên của Con Mẹ, những linh mục mà, với cuộc sống tội lỗi, với việc cử hành những mầu nhiệm thánh cách bất kính và khô đạo, với lòng ham mê tiền bạc, lòng yêu chuộng danh vọng cũng như khoái lạc, những vị linh mục đã trở nên những hố phân ô uế. (Đến đây chung ta mới thấy chí lý những gì ĐTC Phanxicô đã thẳng thắn nói với Giáo Triều Roma nhân dịp chào chúc Giáng Sinh 2014 và 2015).

"Phải, những linh mục đang đòi báo oán và sự báo oán đang treo trên đầu các vị. Khốn thay những linh mục và những tâm hồn tận hiến cho Thiên Chúa, Đấng đang đóng đanh Con Mẹ một lần nữa vì sự bất trung và đời sống tội lỗi của họ! Tội lỗi của những tâm hồn tận hiến cho Thiên Chúa đã kêu đến tận Trời và đòi báo oán, nay sự báo oán đã kề ngay bên họ, vì không còn ai kêu xin lòng thương xót và sự thứ tha cho chúng sinh nữa. Không còn những linh hồn quảng đại, không còn ai xứng đáng dâng hy lễ vô tì tích lên Đấng Hằng Sống cho thế giới nữa.

"Thiên Chúa sẽ ra tay không thể nào lường được. (Phải chăng lưỡi gươm lửa của vị thiên thần chĩa xuống trái đất để tiêu diệt loài người trong thị kiến Bí Mật Fatima phần thứ 3 đã chứng thực lời tiên báo này!?)

"Khốn thay những dân cư trên mặt đất! Thiên Chúa sẽ trút xuống trên họ cơn phẫn nộ của Ngài, và không ai sẽ có thể thoát khỏi bao nhiêu khốn khổ dồn dập.

"Những vị làm đầu, những nhà lãnh đạo dân Thiên Chúa đã bỏ bê việc cầu nguyện và khổ hạnh, ma qủi đã làm cho trí tuệ của họ mù tối. Họ trở nên những vì tinh tú lang thang sẽ bị lôi kéo làm cho hư đi bởi cái đuôi của ma qủi xưa kia. (Lời tiên báo này phải chăng cho thấy nguyên do chính yếu khiến thành phần giáio sĩ, thậm chí cả giáo phẩm sống theo thế tục, đến độ lạm dụng tình dục thiếu niên?!)

"Một số sẽ chối bỏ Đức Tin, và một số lớn linh mục cũng như những phần tử của các dòng tu sẽ phá giới cuộc sống tu trì chân thật, trong số đó có cả các giám mục...." (Các cuộc trưng cầu dân ý ở một số nước Kitô giáo kỳ cựu như Tây Ban Nha, Pháp, Ái Nhĩ Lan, Mỹ Châu Latinh v.v. ủng hộ đồng tính hay những gì phản với giáo huấn của Giáo Hội và tinh thần Phúc Âm không cho thấy lời tiên báo này đang ứng nghiệm hay sao? Chẳng những thế, hiện tượng bỏ đạo hay rối đạo tập thể như thế đã không ứng nghiệm lời tiên báo "mass apostacy" của vị tông đồ dân ngoại Phaolô về dấu hiệu trước khi Chúa Kitô tái giáng hay sao - 2Thessalonica 2:3)

"Khắp nơi sẽ có những sự lạ lùng phi thường, khi mà Đức Tin đã bị lu mờ đi dần dần và ánh sáng giả tạo soi dẫn người ta. Khốn thay những vị Hoàng Gia của Giáo Hội chỉ nghĩ đến giầu có chất chồng trên giầu có để bảo vệ quyền lực và để ngênh ngang trị vì. (ĐTC Phanxicô đã nhiều lần nghiêm chỉnh cảnh báo về chủ trương 'clericalism' quan liêu giáo quyền hay giáo quyền thực dân của các đấng bậc lãnh đạo trong Giáo Hội quả thật đã đúng như lời Mẹ tiên báo và cảnh báo ở đây!)

"Vị Đại Diện Con Mẹ sẽ chịu nhiều đau khổ, vì Giáo Hội sẽ chịu đựng bắt bớ lớn lao một thời, thời tối tăm và Giáo Hội sẽ chứng kiến một cuộc khủng hoảng rùng rợn. (Phải chăng cuộc khủng hoảng rùng rợn này đang diễn ra nơi hiện tượng giáo sĩ lạm dụng tình dục thiếu niên và giám mục bao che tội ác này v.v.!?)

"Đức Tin chân thật đối với Chúa đang bị quên lãng mất rồi, mỗi người sẽ muốn làm chủ lấy mình và nắm đầu người cùng lứa với mình, họ sẽ hủy bỏ dân quyền cũng như giáo quyền, tất cả mọi trật tự và mọi công chính sẽ bị chà đạp dưới chân, chỉ còn tàn sát, giận hờn, ghen ghét, dối trá và nổi loạn là được thấy, không còn gì là tình yêu tổ quốc và gia đình. (Không còn gì đúng bằng lời tiên báo này vào chính lúc này đây, thế giới càng văn minh, con người càng bạo loạn về tất cả mọi lãnh vực, theo chiều hướng Tam Điểm muốn lật đổ tất cả những gì là thần linh và ân sủng, qua những dự luật hoàn toàn phi nhân và phản luân thường đạo lý, để xây dựng một trật tự thế giới mới hoàn toàn sống buông thả theo tự nhiên, một trật tự tôn thờ Satan).

"Đức Thánh Cha sẽ chịu nhiều đau khổ. Mẹ sẽ ở với ngài cho đến cùng để nhận lấy sự hy sinh của ngài. Kẻ phá hoại sẽ cố sát ngài một đôi lần để hãm hại và rút ngắn những ngày của ngài lại, thế nhưng, ngài và đấng kế vị ngài sẽ không được thấy cuộc chiến thắng của Giáo Hội Chúa. (Phải chăng vị giáo hoàng này vừa là ĐTC Gioan Phaolô II bị ám sát ngày 13/5/1981 và là Đức Thánh Cha Phanxicô đang bị kịch liệt công khai chống đối và âm mưu lật đổ hiện nay?! Hai vị giáo hoàng của "thời điểm thương xót"!?)

"Tất cả những chính quyền dân sự sẽ có cùng một dự định giống nhau, đó là hủy bỏ và loại trừ mọi nguyên tắc đạo giáo, thay vào đó là khuynh hướng duy vật, vô thần, duy linh và lầm lỗi đủ thứ. (Lời tiên báo này đã, đang và tiếp tục xẩy ra nơi các quốc hội ở các nước văn minh Tây phương, được Tam Điểm gài vào phần tử của nó, thành phần thợ xây trật tự thế giới mới cho vương quốc của Satan trị đến)

"Vào năm 1865 sẽ có một cuộc tục hoá các nơi thánh. Trong các viện tu, những bông hoa của Giáo Hội sẽ tàn lụi và ma qủi sẽ làm vua cai trị mọi con tim. Những ai mang trách nhiệm ở các viện tu hãy cẩn trọng đối với những người mà họ phải nhận vào, vì ma qủi sẽ vận dụng tất cả những mưu mô gian trá của hắn để đưa các tội nhân vào tu viện, vì sự lệch lạc và vì tình yêu khoái cảm nhục dục sẽ lan tràn khắp nơi trên mặt đất.... (Phải chăng lời tiên báo về sự nhận tu này đã hoàn toàn ứng nghiệm sau 1 trăm năm, vì vào thời điểm thập niên 1960 đã bắt đầu xẩy ra các vụ giáo sĩ lạm dụng tình dục thiếu niên, như các tòa đời đã điều tra và luận tội, thời điển khan hiếm linh mục nên cần ơn gọi linh mục thì dù tuyển sinh có khuynh hướng đồng tính cũng nhận... nên mới ra nông nỗi vô cùng thảm thương hiện nay, nhất là ở các nước văn minh tân tiến vốn tôn trọng nhân quyền và tự do quyết định tu trì của con người, nhưng lại là con dao hai lưỡi được ngụy thần sử dụng để gài thành phần nội công của chúng vào lòng Giáo Hội để đánh phá Giáo Hội từ trong ra, như chúng ta hiện nay đang bàng hoàng và kinh hoàng chứng kiến thấy...)

"Tên tiền hô của Phản Kitô cùng với các quân đoàn triệu tập từ một số nước sẽ chiến đấu chống lại Chúa Kitô đích thực, Đấng Cứu Thế duy nhất của thế giới. Hắn sẽ làm máu đổ nhiều và muốn tận diệt sự tôn thờ Thiên Chúa để tự làm cho mình được chiêm ngưỡng giống như một vị Thiên Chúa... (Satan, cho dù vương quốc của hắn đã bị phá tan bởi Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, nhưng vẫn được phép lộng hành cho tới hết thời điểm được phép của hắn, đang muốn tiếp tục thống trị thế gian này, qua Tam Điểm là hội thợ xây trật tự thế giới mới, xuất phát ở Anh quốc năm 1717, trước Biến Cố Thánh Mẫu Fatima 1917 đúng 200 năm và sau biến cố thệ phản tin lành 1517 đúng 200 năm, bằng các cuộc cách mạng và lật đổ những gì là thần linh và đạo lý, theo tinh thần chối bỏ chân thiện mỹ của Satan như Khải Huyền cho thấy về con khủng long đứng trước người nữ sắp sinh con để rình chực nuốt con trẻ được sinh ra - Khải Huyền 12:4).

"Trái đất sẽ bị điêu linh bởi đủ mọi thứ tai ương (thêm vào với dịch hạch và đói khát lan rộng). Sẽ có một chuỗi chiến tranh cho đến trận chiến cuối cùng là trận đánh giữa 10 vua của tên Phản Kitô, mà tất cả có cùng một dự tính và sẽ là những nhà lãnh đạo duy nhất trên thế giới. Dân chúng sẽ không nghĩ gì khác ngoài vui chơi xả láng. Tội nhân sẽ đâm đầu vào đủ mọi thứ tội lỗi. Nhưng con cái của Hội Thánh, con cái tin tưởng vào Mẹ, những môn đệ đích thực của Mẹ, họ sẽ lớn lên trong tình yêu của họ đối với Thiên Chúa và trong tất cả mọi nhân đức mà Mẹ qúi trọng. Phúc cho những linh hồn khiêm hạ được Thánh Linh hướng dẫn! Mẹ sẽ chiến đấu bên họ cho đến khi họ tiến tới sự tròn đầy của năm tháng... (Trước hết, về lời tiên báo "trái đất sẽ bị điêu linh bởi mọi thứ tai ương" phải chăng ám chỉ hiện tượng hâm nóng toàn cầu gây ra đủ mọi thứ thiên tai, do bởi con người phá hoại thiên nhiên cách bừa bãi, nhất là do bởi con người không thể không phóng uế môi sinh vì quyền lợi phát triển kinh tế, nhất là ở các nước tư bản, bất chấp tai họa thiên thường xẩy ra cho người nghèo cũng như cho các thế hệ tương lai. Sau nữa, về lời tiên báo về một hiện tượng tương phản giữa lúc thế gian băng hoại thì lại xuất hiện những con người tốt lành, đúng như thị kiến phần 3 Bí Mật Fatima cho thấy, giữa một "thành phố lớn" ám chỉ văn minh Tây phương băng hoại cần được cứu độ, với đoàn chứng nhân tử đạo đồng thời cũng xuất hiện)

"Đám qủi trên không trung hợp với tên Phản Kitô sẽ thực hiện những sự lạ lùng cả thể trên mặt đất và trên không trung, và con người sẽ càng ngày càng hư hỏng. Thiên Chúa sẽ gìn giữ những tôi trung của Ngài và thành phần thiện chí. Phúc Âm sẽ được rao giảng khắp nơi, và mọi dân nước sẽ nhận biết chân lý... (Lời tiên báo này quá hợp với chính dấu hiệu về ngày cùng tháng tận được Chúa Kitô khẳng định trong Phúc Âm Thánh Mathêu: "Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi.13 Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát. Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng." Không phải hay sao, chính vì "thế giới ngày nay cần đến LTXC biết bao", bởi sống theo giả dối của Satan, theo chiều hướng duy nhân bản tương đối hóa, mới cần đến việc rao giảng Phúc Âm, mới cần đến việc tân truyền bá phúc âm hóa, thậm chí bởi chính các vị giáo hoàng, qua các chuyến tông du khắp thế giới của các ngài, ngay từ Công Đồng Chung Vaticanô II 1962-1965, với chuyến tông du đầu tiên của Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đến Ân Độ cuối năm 1964, nhất là 104 chuyến tông du của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong giáo triều dài 26 năm rưỡi của ngài, và đặc biệt là của ĐTC Phanxicô là vị giáo hoàng "xông pha" đến "các vùng ngoại biên" của thế giới này, vị giáo hoàng trước và sau ỗi chuyến tông du đều đến Đền Thờ Đức Bà Cả để dâng chuyến đi của mình cho Mẹ. Có thể nói 2 vị giáo hoàng Gioan Phaolô II và Phanxicô của/cho "thời điểm thương xót" là những tướng lãnh trong Đạo Binh Thương Xót của LTXC, những vị đã sống và thực hiện đúng những gì Mẹ Maria kêu gọi Đạo Binh Dàn Trận của Mẹ Maria ở phần kết cuối Bí Mật Sa Lalette sau đây:)

"Mẹ khẩn thiết kêu gọi trái đất. Mẹ kêu gọi những môn đệ đích thực của Thiên Chúa hằng sống là Đấng ngự trên Trời. Mẹ kêu gọi những môn đồ của Chúa Kitô làm người, Vị Cứu Tinh chân thật duy nhất của con người. Mẹ kêu gọi con cái của Mẹ, những tín hữu đích thực, những người đã hiến mình cho Mẹ để Mẹ dẫn dắt họ đến cùng Con Thần Linh của Mẹ, những người mà Mẹ bồng trên tay, nói cách khác, những người sống theo tinh thần của Mẹ. Sau hết, Mẹ kêu gọi Những Tông Đồ Cuối Thời, những môn đệ trung kiên của Chúa Giêsu Kitô, những người sống trong sự khinh chê thế gian và chính mình, trong nghèo khó và khiêm hạ, trong lãnh đạm và thầm lặng, trong nguyện cầu và khổ chế, trong tinh tuyền và thần hiệp, trong khổ đau và ẩn khuất trước mắt thế gian. Đây là lúc họ xuất thân làm cho thế gian tràn đầy ánh sáng. Hãy đi mà tỏ mình ra là các con cái dễ thương nhất của Mẹ. Mẹ ở bên các con và ở trong các con, nếu Đức Tin của các con là ánh sáng soi cho các con trong những ngày bất hạnh này. Chớ gì lòng nhiệt thành của các con làm cho các con đói khát vinh quang và vinh dự của Chúa Giêsu Kitô. Hãy chiến đấu, hỡi các con cái của ánh sáng, các con là thành phần ít ỏi. Vì đây là thời điểm của mọi thời điểm, tận cùng của mọi cùng tận".

Tóm lại, qua những gì được trình bày trên đây liên quan đến cảm nhận của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về một "thế giới ngày nay cần đến LTXC biết bao", đã hoàn toàn ứng nghiệm Bí Mật Salatte năm 1846 và Bí Mật Fatima năm 1917, một "thế giới cần đến LTXC biết bao" chẳng những ở chỗ đã quá sức tội lỗi chưa từng có trong lịch sử loài người, khi con người càng văn minh và đã lên tới tột đỉnh về nhân bản và nhân quyền, đáng bị tiêu diệt, mà còn sợ chính Đấng có thể cứu mình khỏi bị diệt vong, nghĩa là thế giới con người ngày nay liều mình hư đi còn hơn được rỗi, hoàn toàn bất khả cứu.

Và chính vì thế mà "thế giới ngày nay cần đến LTXC biết bao" mới đang sống trong "thời điểm thương xót" với tất cả "mầu nhiệm lỗi lầm" của mình, mang trên mình "rất ư là nhiều thương tích", cần được Giáo Hội là "một bệnh viện lưu động" chữa lành, qua những chứng nhân thương xót cũng là thừa sai thương xót, thành phần môn đệ đích thực của Chúa Kitô là Dung Nhan Thương Xót của Chúa Cha, thành phần đã được Thánh Long Mộng Phố tiên báo thuộc về Đạo Binh Dàn Trận của Mẹ Maria, cũng là Đạo Binh Thương Xót của LTXC, cho phần rỗi vô cùng quan trọng của "các linh hồn cần đến LTXC hơn", như đoàn nhân chứng trong thị kiến phần 3 của Bí Mật Fatima, một đoàn chứng nhân Kitô hữu bao gồm từ giáo hoàng trở xuống giáo dân, đoàn chứng nhân có một đức tin mãnh liệt và bất khuất đến độ được nên một với Chúa Kitô tử giá để Người tiếp tục công ơn cứu độ vô cùng quí báu của Người qua máu tử đạo của họ, qua đau khổ họ phải chịu, điển hình nhất là 3 thiếu nhi Fatima thụ khải là Lucia, cùng cặp anh em thánh Phanxicô và Giaxinta, cũng như qua 2 vị thánh của LTXC là Thánh Faustina và Thánh Gioan Phaolô II, và qua cả vị giáo hoàng thương xót Phanxicô!

 

TĐCTT - HSTTM Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

California Chúa Nhật IV Mùa Chay 31/3/2019.

 

 

 

"Đem Mẹ về nhà mình"

(Gioan 19:27)

 

"Đem Mẹ về nhà mình": Tại sao? (1)

"Đem Mẹ về nhà mình": Cách nào? (2)

 

Nhập Cuộc

Có thể nói, vấn đề "đem Mẹ về nhà mình" rất quan trọng cho phần rỗi của Kitô hữu, nhất là trong thời điểm thương xót hiện nay, một thời điểm phải nói là được bắt đầu từ biến cố Thánh Mẫu Fatima vào đầu thế kỷ 20.

Thật vậy, ngay từ biến cố Thánh Mẫu Fatima đã xuất hiện Lòng Thương Xót Chúa (LTXC) rồi. Ở chỗ, vào lần hiện ra thứ 3 ngày 13/7/1917, ngay sau khi đã tiết lộ toan bộ Bí Mật Fatima 3 phần, Mẹ Maria đã kêu gọi 3 em thiếu nhi Fatima thụ khải rằng: "Sau mỗi một mầu nhiệm các con hãy đọc: 'Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là các linh hồn cần đến LTXC hơn".

Thế nhưng, cũng ở biến cố Thánh Mẫu Fatima 1917 này, LTXC lại muốn các linh hồn qua Mẹ mà đến với Ngài. Bởi thế, ngay sau khi cho 3 thiếu nhi Fatima thụ khải xem thấy hỏa ngục qua một thị kiến ở phần Bí Mật Fatima thứ nhất, bắt đầu sang phần Bí Mật Fatima thứ hai, Đức Mẹ đã trịnh trọng tuyên bố rằng: "Để cứu các linh hồn cho khỏi lửa hỏa ngục, Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới".

Ở đây, qua lời loan báo này của Mẹ, không phải là Thiên Chúa muốn phần rỗi của các linh hồn trong thời điểm thương xót lệ thuộc vào Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria hay sao. Đó là lý do, ngay sao lời công bố phải công nhận là tất cả bí mật Fatima ấy, Đức Mẹ còn khẳng định tiếp: "Nếu điều Mẹ nói với các con được thực hiện thì thế giới sẽ có hòa bình và nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi".

"Nếu điều Mẹ nói với các con được thực hiện" đây là gì, nếu không phải là "tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ", như Mẹ vừa tuyên bố ngay trước đó, một điều có một tác dụng kép, chẳng những giúp cho "thế giới có hòa bình" cho chung loài người ngay trên đời này, mà còn làm cho cá nhân của "nhiều linh hồn được cứu rỗi" ở đời sau nữa.

Về trường hợp "thế giới có hòa bình", lịch sử đã chứng thực cho thấy là sau sự kiện ĐTC Gioan Phaolô II hợp cùng các giám mục trên thế giới hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ ngày 25/3/1984 ở Vatican, thì đúng một năm sau, nhân vật Gorbachew xuất hiện ở Liên Sô với vai trò tổng bí thư trẻ nhất, để rồi sau đó 5 năm, biến cố Đông Âu đã xẩy ra, bắt đầu từ chính quê hương Balan của ngài, và cuối cùng "Nước Nga trở lại" vào ngày 25/12/1991, khi nước này từ bỏ chủ nghĩa và chế độ cộng sản cho tới nay.

Chính vì "Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới", đúng như lời Mẹ tuyên bố, mà Thiên Chúa đã thực hiện một biến cố liên quan đến toàn thế giới như vậy, biến cố cộng sản Đông Âu sụp đổ và "Nước Nga trở lại", hoàn toàn bất ngờ và hoàn toàn bất bạo động, vô cùng lạ lùng ngay trước mặt toàn thể nhân loại, một biến cố chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm được, chứ không phải thế giới tư bản thắng thế giới cộng sản.

 Thiên Chúa thực hiện biến cố "Nước Nga trở lại" một cách lạ lùng vượt trên tất cả mọi quyền lực trần gian như vậy mục đích cũng là để xác minh rằng Ngài thực sự "muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới", hay nói cách khác, tức là Thiên Chúa thực sự muốn "các linh hồn cần đến LTXC hơn" hãy tin tưởng cậy trông vào Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ để nhờ đó "nhiều linh hồn được cứu rỗi". Và phải chăng đó là lý do tại sao chính Mẹ Maria đã nói với chung 3 thiếu nhi Fatima thụ khải, và riêng thiếu nhi Lucia lớn nhất, vào lần hiện ra thứ hai ngày 13/6/1917 rằng: "Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi cho con nương náu và là đường đưa con đến cùng Thiên Chúa".

Vì "Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới" mà Mẹ Lời khẳng định "Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi cho con nương náu và là đường đưa con đến cùng Thiên Chúa" không phải chỉ nói riêng với thiếu nhi Fatima Lucia bấy giờ, mà còn muốn nhắn nhủ chung con cái Mẹ, cách riêng là "các linh hồn cần đến LTXC hơn". Lời khẳng định này, cho dù chỉ là một mạc khải tư, không buộc phải tin và thi hành như chính Lời Chúa, như chính Mạc Khải Thánh Kinh, cho dù cả biến cố Thánh Mẫu Fatima đã được Giáo Hội công nhận.

Tuy nhiên, lời cống hiến và kêu gọi hãy đến với Mẹ này lại có một nền tảng vững chắc trong Phúc Âm, qua câu Phúc Âm của Thánh Gioan: "Đem Mẹ về nhà mình" (Gioan 19:27), một tác động tôn sùng Thánh Mẫu bao gồm cả 2 sự kiện bất khả thiếu và bất khả phân ly trong cùng Phúc Âm của Thánh ký Gioan: sự kiện khổ giá Canvê và sự kiện tiệc cưới Cana, như sẽ được cố gắng trình bày dưới đây trong bài viết này.

1- Tại sao "Đem Mẹ về nhà mình"?

Xin thưa: chính vì "này là con Mẹ" và "này là Mẹ con" (Gioan 19:26). Thật vậy, theo thứ tự thời gian, thì chỉ sau khi Chúa Giêsu khổ giá trăn trối tông đồ Gioan cho Mẹ Maria đang đứng dưới chân cây thập tự giá của Người, và trăn trối Mẹ Maria cho tông đồ Gioan, "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" (Gioan 13:23, 20:2, 21:7), thánh ký Gioan mới thêm câu "từ bấy giờ trở đi, người môn đệ này mang Mẹ về nhà của mình" (Gioan 19:26).

Thoạt tiên, mới đọc câu Phúc Âm này của Thánh ký Gioan, căn cứ vào nguyên câu văn, bình thường chúng ta cứ tưởng rằng Chúa Giêsu cố ý bảo người môn đệ yêu dấu nhất của mình, cũng chính là người môn đệ duy nhất trong 12 tông đồ trung kiên theo mình cho đến cùng, rằng con hãy chịu khó thay Thày chăm sóc cho Mẹ của Thày nhé. Thế nhưng, chúng ta đã lầm, vì Chúa Giêsu đã trao vị tông đồ này cho Mẹ của Người, trước khi trao Mẹ cho vị tông đồ ấy, nghĩa là Mẹ của Người có trách nhiệm làm Mẹ của vị tông đồ còn non dại này, và vì thế khi trao Mẹ cho vị tông đồ này sau đó tức là Người có ý muốn vị tông đồ đại diện cho chung Giáo Hội của Người bấy giờ phải trân trọng Mẹ như Người đã làm con của Mẹ, và theo gương Mẹ của Người, thì mới có thể xứng đáng làm môn đệ của Người, vì Mẹ là đệ nhất môn đệ của Người và là người môn đệ tuyệt hảo nhất của Người.

Khi Chúa Kitô khổ giá trăn trối cho Mẹ của Người tông đồ Gioan "Này là con Mẹ", thì Người không phải chỉ xác định Người là người con duy nhất của Mẹ của Người về xác thịt, ngoài người ra không còn một đứa con nào khác, như một số Kitô hữu đã chủ trương khi căn cứ vào một số đoạn Phúc Âm nói về "anh em của Người" (xem Mathêu 12:46; Marco 3:31; Luca 8:19), chẳng hạn như "Giacôbê, Joses và Giuđa cùng Simon" (Marco 6:3), nhưng thật ra chỉ là những người anh em họ, như trường hợp của "Joses và Giuđa" là con của một Maria khác trong họ hàng của Mẹ Người (xem Marco 15:40), mà còn thiết lập một tình nghĩa siêu nhiên giữa Mẹ Người và tông đồ Gioan là hai con người thuộc về hai gia đình khác nhau, một tình nghĩa thiêng liêng bắt nguồn từ tình yêu đến cùng của Người, từ Cuộc Vượt Qua của Người.

Nếu là mẹ thì phải sinh con, cho dù là thế lý hay thiêng liêng. Nếu Mẹ Maria đã sinh ra Chúa Kitô là Đầu của Giáo Hội thì Mẹ cũng phải sinh ra thân mình của Người là Giáo Hội, nhiệm thể của Người. Vậy Mẹ Maria đã sinh ra Giáo Hội vào lúc nào và như thế nào, nếu không phải vào lúc Mẹ "đứng kề bên thập giá Chúa Kitô" (Gioan 19:25), và Mẹ quả thực đã như người đàn bà quằn quại sinh con (xem Gioan 16:21; Khải Huyền 12:4) vào lúc Mẹ chứng kiến thấy Người Con là Lời Nhập Thể của Mẹ vô cùng uy nghi cao cả và đáng tôn thờ kính mến bị lưỡi đòng đâm vào cạnh sườn (xem Gioan 19:34).

Phải, chính giây phút ấy, giây phút Mẹ Maria đã đau cái đau thay Con của Mẹ, vì Con của Mẹ đã chết rồi, không còn biết gì nữa, Mẹ đau cái đau của Con Mẹ và đau cái đau thay Con Mẹ, thì Mẹ sinh ra Giáo Hội, và chính vì thế, "máu và nước chảy ra" từ cạnh sườn Chúa Kitô cũng chính là từ trái tim của Mẹ bị lưỡi gươm đâm thâu, đúng như lời tiên báo của ông Simeon khi Mẹ dâng hài Nhi Giêsu vào Đền Thánh Giêrusalem ngày xưa (xem Luca 2:35). Nếu Evà xuất phát từ cạnh sườn của Adong thế nào (xem Khởi Nguyên 2:22) và nếu Giáo Hội cũng đã xuất phát như "nước và máu chảy ra" từ cạnh sườn của Chúa Kitô tử giá như vậy, mà chính lúc "máu và nước chảy ra" ấy lại là lúc Mẹ Maria đau đớn nhất, đến độ "máu và nước chảy ra" ấy như xuất phát từ chính cung lòng của Mẹ, thì quả thực là Mẹ đã hạ sinh Giáo Hội vào ngay lúc bấy giờ vậy.

Công Đồng Chung Êphêsô năm 431 đã tuyên tín Mẹ Maria là Mẹ của Thiên Chúa thế nào, chứ không phải Mẹ chỉ là Mẹ của Chúa Kitô về nhân tính, thì trong Công Đồng Chung Vaticanô II, vào ngày 21/11/1964, khi ban hành Hiến Chế Lumen Gentium, một Hiến Chế tín lý về Giáo Hội là "Ánh Sáng Muôn Dân", Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI cũng đã sử dụng quyền bính của mình để long trọng tuyên bố trước mặt toàn thể các nghị phụ giám mục trên thế giới bấy giờ rằng: Mẹ Maria là Mẹ của Giáo Hội - Mater Ecclesiae như vậy.

Chính vì Mẹ Maria đã hạ sinh ra Giáo Hội và là "Mẹ của Giáo Hội" mà Mẹ đã phải ở với Người Con Giáo Hội của mình vào giây phút quan trọng nhất của Giáo Hội, đó là giây phút Giáo Hội "được mặc lấy quyền lực từ trên cao" (Luca 24:49; Tông Vụ 1:14), tức là được Thánh Thần từ Cha và Con ngự xuống bao phủ, như Mẹ đã được "quyền phép Đấng tối cao bao phủ" trong biến cố Truyền Tin để có thể thụ thai Lời Nhập Thể (xem Luca 1:35), nhờ đó và từ đó Giáo Hội mới bắt đầu có thể thực hiện sứ vụ trước hết và trên hết là làm mẹ của mình, tức là sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô cùng với Thánh Thần (xem Gioan 15:26-27), nhờ đó Giáo Hội liên tục sinh hạ Chúa Kitô ra nơi các linh hồn tin nhận Người nơi Bí Tích Thánh Tẩy tái sinh. Vì Mẹ thực hiện vai trò làm "Mẹ của Giáo Hội" vào ngay giây phút Giáo Hội, qua các vị tông đồ là nền tảng của Giáo Hội, đang dọn mình xứng đáng trở thánh "các chứng nhân" bằng "quyền lực từ trên cao" (Luca 24:48-49) vào lúc Chúa Thánh Thần Hiện Xuống ấy mà Đức Thánh Cha Phanxicô, qua sắc lệnh ký ngày 11/2/2018 và ban hành ngày 3/3/2018, đã thiết lập Lễ Mẹ là Mẹ Giáo Hội vào Thứ Hai ngay sau Đại Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

Vì là con của Mẹ, Giáo Hội, qua giòng lịch sử của mình, cũng đã nhận biết Mẹ của mình mỗi ngày một hơn, qua việc thiết lập các lễ về Mẹ trong phụng vụ hằng năm (18 lễ Mẹ được cử hành trong Giáo Hội hoàn vũ), qua việc công nhận các lần Mẹ hiện ra ở một số nơi đặc biệt trên thế giới (nhất là 2 nơi nổi tiếng nhất: Lộ Đức năm 1858 và Fatima năm 1917), nhất là qua việc tuyên tín về Người Mẹ của mình, những tín điều buộc tín hữu phải tin vì chúng liên quan đến công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ. Thứ tự theo thời gian bốn tín điều về Thánh Mẫu này như sau: 1- Mẹ Maria là Mẹ của Thiên Chúa, được Công Đồng Chung Vaticanô Epheso công bố năm 431; 2- Mẹ Maria trọn đời đồng trinh, cả trước khi, đang khi và sau khi sinh Con, được Công Đồng Latero năm 649 công bố; 3- Mẹ Maria được hoài thai vô nhiễm nguyên tội, được Đức Thánh Cha Piô IX công bố ngày 8/12/1854; và 4- Mẹ Maria được mông triệu lên trời cả hồn lẫn xác, được Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố ngày Lễ Các Thánh 1/11/1950.

Trong 4 tín điều về Thánh Mẫu này, tín điều nào cũng có một lễ trọng buộc, Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1, Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12 và Lễ Mẹ Mông Triệu 15/8, ngoại trừ Lễ Truyền Tin Mẹ Thụ Thai Lời Nhập Thể 25/3 liên quan đến tín điều trọn đời đồng trinh, cũng lễ trọng nhưng không buộc. Tín điều nền tảng nhất trong 4 tín điều đó là tín điều Mẹ Maria là Mẹ của Thiên Chúa. Bởi vì Mẹ Maria được tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa mà Mẹ cần được hưởng các đặc ân xứng với chức phận và sứ vụ làm mẹ của Thiên Chúa: Hồn Mẹ cần phải được vô nhiễm nguyên tội; xác của Mẹ cần phải trọn đời trinh nguyên; và cả hồn lẫn xác của Mẹ nhờ đó không phải chịu hậu quả của nguyên tội như tất cả miêu duệ của hai nguyên tổ, trái lại, cần phải được mông triệu cả hồn lẫn xác.

Tín điều Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa buộc Kitô hữu Công giáo phải tin rằng Mẹ Maria không phải chỉ là Mẹ của Chúa Giêsu về nhân tính, mà còn là Mẹ của Thiên Chúa, vì Chúa Kitô Con Mẹ dù có 2 bản tính nhưng chỉ là một Ngôi Vị Thần Linh duy nhất, và vì Mẹ đã được thụ thai Con Thiên Chúa bởi chính quyền phép của Chúa Thánh Linh chứ không phải theo đường lối thuần tục (xem Luca 1:35; Mathêu 1:20).

Vì là Mẹ của Thiên Chúa, nên Mẹ Maria phải được Thiên Chúa gìn giữ cho khỏi nguyên tội, bằng cách cho Mẹ được đặc ân hưởng trước ơn cứu độ, bằng không, Mẹ sẽ hoàn toàn bất xứng làm Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Đấng Cứu Chuộc, trong khi ngay từ lúc được hoài thai Mẹ đã bị làm nô lệ cho ma quỉ bởi nhiễm lây nguyên tội như tất cả mọi con người khác thuộc giòng dõi hai nguyên tổ. Đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Mẹ chẳng những được bắt nguồn từ vai trò làm Mẹ của Thiên Chúa, mà còn hướng đến sứ vụ đồng công cứu chuộc của Mẹ nữa. Ở chỗ, tất cả những đau khổ Mẹ chịu trong cuộc đời của Mẹ là những gì đáng lẽ nhờ vô nhiễm nguyên tội Mẹ không bị, đều mang tính cách đồng công, đều mới xứng đáng thay cho loài người và vì loài người mà hiệp công cứu chuộc với Chúa Kitô Con Mẹ.

Tìn điều Mẹ Maria trọn đời đồng trinh chẳng những trước khi sinh con là lúc Mẹ thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Linh, mà còn cả đang khi sinh con và sau khi sinh con nữa, cũng bởi quyền phép Chúa Thánh Linh. Mẹ Maria đồng trinh đang khi sinh con bởi quyền phép Chúa Thánh Linh ở chỗ, nhờ đặc ân vô nhiễm nguyên tội, Mẹ đã không mang nặng nên cũng chẳng phải đẻ đau, theo kiểu thuần túy trần tục của một người đàn bà mắc nguyên tội bị ảnh hưởng án nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:16). Và một khi tử cung của Mẹ một khi đã trở thành Ngai Tòa của Con Đấng Tối Cao ngự trị cả 9 tháng 10 ngày như thế thì không thể một "nam nhân" nào Mẹ "không hề biết" (Luca 1:34) xứng đáng ngồi vào đó bằng những tác động ái ân vợ chồng, dù công chính như vị hôn thê Giuse của Mẹ, vị vì đã được báo mộng cho biết Mẹ được thụ thai bởi Chúa Thánh Linh và Đấng được Mẹ sinh ra là Con Thiên Chúa (xem Mathêu 1:20), vị chỉ là cha nuôi chứ không phải cha ruột của Con Thiên Chúa làm người, vị công chính này lại càng kính mến Mẹ hơn là sống đời vợ chồng theo tự nhiên với Mẹ, và nhờ Mẹ mà càng công chính hơn.

Vì Mẹ Maria được cả hồn vô nhiễm lẫn xác trinh nguyên như vậy mà Mẹ không phải trải qua cái chết về phần xác như tất cả mọi người khác và chờ ngày phục sinh khi Chúa Kitô tới trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, trái lại, Mẹ đã được Thiên Chúa cho Mẹ được về trời cả hồn lẫn xác, một con người duy nhất được ở trên Thiên Đàng cả hồn lẫn xác, được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa cả hồn lẫn xác, như chính Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ. Mẹ "đầy ơn phúc" (Luca 1:28) chẳng những cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời trần thế của Mẹ, mà còn kéo dài cho đến vĩnh cửu trên Thiên Đàng nữa, bao gồm cả hồn lẫn xác của Mẹ, một thân xác đã trở thành Ngai Tòa của Con Thiên Chúa, "nước Người sẽ vô cùng tận" (Luca 1:33), thì không thể nào bị mục nát đi, trái lại sẽ mãi mãi là Ngai Tòa của Người cho đến vô cùng bất tận trên Thiên Đàng với Người.

Công Đồng Chung Vaticanô II, công đồng chung thứ 21 của Giáo Hội, trong chương 8 của Hiến Chế tín lý về Giáo Hội là Ánh Sáng Muôn Dân, đã nhận biết vai trò làm Mẹ của Giáo Hội ở nơi gương sống của Mẹ, và vai trò Giáo Hội làm con của Mẹ, ở chỗ noi gương bắt chước Mẹ, như thế này (2 số dưới đây từ bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện Piô X):

Mẹ Maria là Mẹ của Giáo Hội: "Ðức Trinh Nữ nhờ ân huệ và sứ mệnh làm Mẹ Thiên Chúa, nhờ đó Ngài được hiệp nhất với Con là Ðấng Cứu Chuộc, và nhờ các ơn và nhiệm vụ đặc biệt khác, Ngài còn kết hiệp mật thiết với Giáo Hội, như thánh Ambrosiô đã dạy, Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô. Thực vậy, trong mầu nhiệm Giáo Hội, chính Giáo Hội cũng được gọi cách hợp pháp là Mẹ và Trinh Nữ, Ðức Nữ Trinh Maria đi tiên phong, tỏ ra là một người mẹ và một trinh nữ gương mẫu tuyệt vời và hiếm có. Vì, bởi lòng tin và vâng phục, Ngài đã sinh chính Con Chúa Cha nơi trần gian, mà không hề biết đến người nam, nhưng được Chúa Thánh Thần bao phủ. Như một Evà mới, Ngài đã đặt niềm tin vào sứ giả của Thiên Chúa, chứ không đặt vào con rắn xưa, một niềm tin không bị một nghi ngờ nào làm phai nhạt. Nhưng Người Con mà Ngài đã sinh ra, Thiên Chúa đã đặt làm Trưởng Tử trong nhiều anh em (x. Rm 8,29), nghĩa là các tín hữu, mà Ngài cộng tác vào việc sinh hạ và giáo dục với tình thương của một người mẹ." (số 63)

Giáo Hội là con của Mẹ Maria: "Tuy nhiên, Giáo Hội, qua con người của Ðức Nữ Trinh, đã đạt tới sự toàn thiện làm cho mình nên thanh sạch và vẹn tuyền (x. Eph 5,27), nhưng Kitô hữu vẫn còn phải cố gắng chiến thắng tội lỗi để tiến trên đường thánh thiện. Vì thế, họ ngước mắt nhìn lên Ðức Maria là một mẫu gương nhân đức sáng ngời cho toàn thể cộng đoàn những người được chọn. Nhờ thành kính tưởng nhớ Ðức Maria và chiêm ngưỡng Ngài dưới ánh sáng của Ngôi Lời nhập thể, Giáo Hội cung kính tiến sâu hơn vào mầu nhiệm cao thẳm, tức là mầu nhiệm nhập thể, và nên giống Phu Quân mình ngày một hơn. Thực vậy, Ðức Maria đã mật thiết gắn liền với lịch sử cứu rỗi, và có thể nói là Ngài đã qui tụ và phản chiếu nơi mình những đòi hỏi cao cả nhất của đức tin, và khi các tín hữu nghe rao giảng về Ngài và tôn sùng Ngài, họ được Ngài mời gọi đến kết hiệp với hy lễ của Con Ngài và yêu mến Chúa Cha. Phần Giáo Hội càng tìm kiếm vinh quang Chúa Kitô càng nên giống Khuôn Mẫu cao cả của mình, nhờ luôn tiến tới trong đức tin, đức cậy, đức mến, và tìm kiếm cùng vâng theo thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự. Do đó, trong công cuộc tông đồ, Giáo Hội có lý để nhìn lên Ðấng đã sinh Chúa Kitô là người được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và được Ðức Nữ Trinh sinh ra để, nhờ Giáo Hội, cũng sinh ra và lớn lên trong lòng các tín hữu. Ðời sống của Ðức Nữ Trinh là một gương sáng của tình mẫu tử thắm thiết. Tình mẫu tử ấy phải là động lực của tất cả những ai cộng tác vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội để tái sinh nhân loại." (số 65)

2- Cách nào "Đem Mẹ về nhà mình"?

Xin thưa: bằng cách "hãy làm những gì Người bảo" (Gioan 2:5) để "Người tỏ vinh quang của Người ra" (Gioan 2:11).

Vai trò Mẹ Maria là Mẹ của Giáo Hội, và vai trò của Giáo Hội là con của Mẹ Maria, đều chỉ có một mục đích duy nhất và trên hết, đó là hướng về Chúa Kitô, ở chỗ, làm sao cho Chúa Kitô được tỏ hiện nơi chính Giáo Hội như "Ánh Sáng Muôn Dân", phản ảnh Chúa Kitô "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), nhờ đó thế gian nhận biết Người mà trở về với Người hầu được cứu độ. Bởi thế, tất cả ý nghĩa của việc Giáo Hội nói chung và Kitô hữu nói riêng "đem Mẹ về nhà mình" là ở chỗ để Mẹ có thể ở cùng mình, như Mẹ đã ở cùng Giáo Hội ngay từ giây phút đầu tiên trước biến cố Thánh Thần hiện xuống, nhờ đó, Mẹ sẽ thực hiện vai trò làm mẹ của Mẹ, trong việc giúp con cái vốn yếu hèn và bất xứng của Mẹ đến với Chúa Kitô, sống với Chúa Kitô, đến độ chính Chúa Kitô có thể sống trong họ (xem Galata 2:20). Bằng cách Mẹ sửa soạn cho giờ của Chúa Kitô đến nơi con cái của Mẹ, nghĩa là sửa soạn cho họ biết sẵn sàng để Chúa Kitô có thể tỏ mình ra, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, nhờ đó họ có thể "tin vào Người" (Gioan 2:11).

Một điển hình nhất cho thấy vai trò môi giới của Mẹ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội trong việc làm cho giờ của Người chưa tới đã tới và phải tới là ở tiệc cưới Cana, nơi "Mẹ của Chúa Giêsu cũng ở đó" (Gioan 2:1), một sự kiện và hình ảnh báo trước sự kiện, ngay từ đầu "Mẹ Chúa Giêsu cũng ở đó" thế nào thì cuối cùng "Mẹ Chúa Giêsu cũng ở đó" như vậy, khi "đứng dưới chân thập giá của Chúa Giêsu có Mẹ của Người" (Gioan 19:25). Cụm từ ngay ở đầu bài Phúc Âm về tiệc cưới ở Cana là "vào ngày thứ ba" (Gioan 2:1) phải chăng ám chỉ mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô, đồng thời cũng là biến cố Chúa Kitô sống lại từ trong cõi chết, hoàn toàn chiến thắng tội lỗi và sự chết của con người và nơi con người, để tỏ vinh quang của Người ra cho các vị tông đồ của Người, bằng những lần hiện ra với các vị, nhờ đó, như ở tiệc cưới ở Cana ngay từ ban đầu, các vị "tin vào Người" (Gioan 2:11).

Tuy nhiên, để các môn đệ có thể "tin vào Người", không thể thiếu vai trò môi giới của Mẹ Maria bấy giờ "cũng ở đó", như Mẹ đã ở với các vị trước khi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, nhờ đó các vị đã trở thành những kẻ "đầy rượu rồi" (Tông Vụ 2:13). Thật vậy, một khi Mẹ hiện diện ở đâu thì Mẹ đều thực hiện vai trò làm Mẹ của mình, miễn là con cái của Mẹ biết "đem Mẹ về nhà của mình", như tông đồ Gioan đại diện cho Giáo Hội ở dưới chân cây thập tự giá của Chúa Kitô bấy giờ với Mẹ Maria. Với cảm nhận tinh tế của một người mẹ, Mẹ thậm chí biết trước được các nhu cầu và trục trặc của con cái mình, ngay cả trước khi chúng nhận ra tình trạng khốn khó của chúng. Và Mẹ đã tự động can thiệp để giải quyết vấn đề cho chúng. Khi biết được tình trạng "họ hết rượu rồi" (Gioan 2:3) ở tiệc cưới Cana, không ai bảo, Mẹ đã tự động đến nhắc cho Con của Mẹ, chứ hoàn toàn không xin Con Mẹ cho họ, vì Mẹ đã thừa biết rằng một khi Mẹ biết họ  hết rượu thì Con Mẹ cũng đã biết như Mẹ và còn hơn Mẹ nữa.

Thế nhưng, Con Mẹ đã thẳng thừng từ chối Mẹ bằng câu: "Này Bà, chuyện này đâu có liên quan gì đến Tôi và Bà. Giờ của Tôi chưa đến" (Gioan 2:4). Vì "đầy ơn phúc" (Luca 1:28) và liên lỉ "lưu giữ những sự ấy mà suy niệm trong lòng" (Luca 2:19,51), mà không ai hiểu Lời Chúa như Mẹ và không ai hiểu Con Mẹ bằng Mẹ. Bởi thế, hiểu ý của Con, "giờ Tôi chưa đến" có nghĩa là nếu họ sẵn sàng thì giờ Tôi chắc chắc sẽ đến. Bởi vì "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gioan 1:5), không thể nào thôi chiếu soi. "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16) không thể nào không yêu mà còn là Thiên Chúa. Tức là Thiên Chúa lúc nào cũng muốn tỏ mình ra, thông mình ra, muốn ban ơn cho con người, nhờ đó con người nhận biết Ngài, nhưng con người phải làm sao sẵn sàng để có thể đón nhận ơn của Ngài, vì ân sủng của Ngài là những gì vô cùng cao quí, chứ không phải đồ bỏ cho loại lợn "giầy đạp dưới chân" (Mathêu 7:6)

Do đó, Mẹ đã không nói lại điều gì với Chúa nữa, không năn nỉ kèo nài, trái lại, Mẹ đã đi thẳng đến với đối tượng mà Mẹ đoán trước được rằng Con Mẹ sẽ đến với họ để thực hiện tỏ mình ra, và Mẹ đã căn dặn họ rằng: "Người bảo làm gì hãy làm như vậy" (Gioan 2:5). Thành phần phục tiệc này chắc không biết Mẹ là ai, tại sao lại tự nhiên căn dặn họ như thế, và "Người" đây là ai? Thế mà, chỉ sau khi Mẹ hoàn thành nhiệm vụ làm môi giới của mình, trước hết là đến với Chúa, sau đó đến với con người, thì quả nhiên giờ của Chúa phải tới. Ở chỗ, chính Chúa Giêsu đã đích thân đến với chính thành phần phục tiệc, thành phần được Mẹ của Người căn dặn trước, như thể dọn đường sẵn cho Người, cho giờ của Người, và bảo họ rằng: "Hãy đổ nước đầy các chum" (Gioan 2:7). Dù chẳng hiểu gì, và dám chắc họ cũng chẳng biết Chúa Giêsu là ai, tại sao nhân vật này lại bảo mình làm một việc kỳ lạ như vậy, "hãy đổ nước đầy các chum", đầy 6 chum nước vốn được dùng để rửa chân là gì, vì đâu còn ai đến dự tiệc cưới nữa mà cần thêm nước để rửa chân, thế mà thành phần phục tiệc vẫn ngoan ngoãn tuân theo như chính chằng rể hay vị quản tiệc bảo làm vậy, làm đúng như lời người đàn bà nào đó đã đến trước căn dặn họ: "Người bảo làm gì hãy làm như thế". Quả nhiên, một khi con người sẵn sàng, thì giờ Chúa đã đến: nước lã đã trở thành một thứ rượu hảo hạng, thứ "rượu ngon hơn trước" (Gioan 2:10).

Đúng vậy, "đem Mẹ về nhà mình" sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không nghe lời Mẹ "làm những gì Người bảo" để "Người tỏ vinh quang của Người ra". Trong giòng lịch sử của Giáo Hội, nhất là vào Thời Điểm Maria, từ đầu thế kỷ 19, với biến cố Thánh Mẫu Ban Ơn ở Paris năm 1830, sang biến cố Thánh Mẫu Vô Nhiễm ở Lộ Đức năm 1858, cho tới biến cố Thánh Mẫu Mân Côi ở Fatima năm 1917, và một số nơi khác được Giáo Hội công nhận, cho dù sứ điện đặc biệt ở mỗi nơi khác nhau về thời điểm của nó, Mẹ Maria vẫn chỉ có một sứ điệp duy nhất và trên hết nhắn nhủ và van xin con cái của Mẹ, đó là "hãy làm những gì Người bảo" để "Người tỏ vinh quang của Người ra".

Có thể nói, trong các lần Đức Mẹ hiện ra được Giáo Hội chính thức công nhận, lời nhắn nhủ "hãy làm những gì Người bảo" rõ nét nhất, qua câu Mẹ nói vào lần hiện ra thứ hai ngày 13/6/1917: "Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi cho con nương náu và là đường đưa con đến cùng Thiên Chúa". Nghĩa là, Mẹ xin con cái Mẹ hãy tin tưởng vào Mẹ và nhờ Mẹ đến với Chúa. Vì nếu không có Mẹ và nhờ Mẹ, Kitô hữu không thể nào biết được Chúa muốn gì như Mẹ và bằng Mẹ để mà "làm theo những gì Người bảo", trái lại, cứ tưởng những gì mình nghĩ, dù tốt lành mấy cũng là ý Chúa, nhưng lại hoàn toàn phản Kitô, như trường hợp tông đồ Phêrô, ngay sau khi tuyên xưng "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16) rất chính xác, liền bị Thày thậm tệ quở trách "Đồ Satan, xéo đi" (Mathêu 16:23), khi ngài, chỉ vì lòng rất kính mến Thày, đã chân thành can ngăn Thày cho khỏi bị thân phận bất hạnh bất xứng với Thày là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", nhưng không ngờ lý lẽ trần gian có vẻ chí lý ấy của ngài lại hoạn toàn phản nghịch lại với ý muốn oai oăm đầy nghiệt ngã của Đấng đã sai Người: "Con không phán đoán theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mathêu 16:23).

Đến đây chúng ta mới thấy Mẹ Maria thật sự "đầy ơn phúc" như thế nào, ít là về mặt tiêu cực, Mẹ không hề làm mất lòng Thiên Chúa một tí nào và vào bất cứ một giây phút nào trong cuộc đời của Mẹ, ở chỗ Mẹ luôn chẳng những biết ý Chúa muốn Mẹ làm gì để đáp ứng ngay và đáp ứng một cách hết sức trọn vẹn và trọn hảo. Trong cụm từ "Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ" có hai phần hay hai yếu tố bất khả phân ly, đó là yếu tố "Trái Tim" và yếu tố "Vô Nhiễm Nguyên Tội". Nếu yếu tố "Vô Nhiễm Nguyên Tội" là yêu tố tiêu biểu cho ân sủng Chúa ban cho Mẹ, "Chúa ở cùng Mẹ" (Luca 1:28), thì "Trái Tim" là yếu tố biểu hiệu cho "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) của Mẹ, đức tin có phúc của Mẹ (xem Luca 1:45), yếu tố chứng tỏ Mẹ "được ơn nghĩa với Thiên Chúa" (Luca 1:30). Chính vì Mẹ Maria "được ơn nghĩa với Thiên Chúa", tức là Mẹ hằng liên lỉ trung thành với ân sủng của Thiên Chúa từ lúc được hoài thai trong lòng thai mẫu cho tới khi Mẹ được về trời cả hồn lẫn xác. Bởi vậy, có thể nói "Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ" chính là Trái Tim Đầy ơn phúc. Và đó là lý do, Giáo Hội, dù bản chất là "Thánh Thiện", nhưng lại bao gồm thành phần con cái tội lỗi, luôn phải hoán cải và canh tân đổi mới, nên không thể thiếu Đức Maria "đầy ơn phúc" là Mẹ Giáo Hội của mình. Tông đồ Gioan đã "đem mẹ về nhà mình" là Giáo Hội, thì con cái của Giáo Hội, cũng là con cái của Mẹ Maria, cũng phải tiếp tục làm sao để có thể giữ Mẹ ở lại với từng người mới được, mới có thể đến với Chúa Kitô và theo Chúa Kitô, như Mẹ và với Mẹ. Thế nhưng: bằng cách nào và như thế nào?

Một trong những cách tỏ ra Kitô hữu thực sự "nương náu" trong Trái Tim Mẹ và nhờ Mẹ cũng như qua Mẹ như là "đường đến cùng Thiên Chúa", đó là tận hiến cho Mẹ. Tác động tận hiến cho Mẹ, tự nó, là một việc chứng tỏ cho thấy, cả nơi tâm hồn tận hiến cũng như nơi Mẹ là Đấng tâm hồn tận hiến. Trước hết, ở nơi tâm hồn tận hiến, thì tác động tận hiến là việc họ nhận biết mình hoàn toàn bất xứng và bất lực trong việc tự mình đến với Chúa Kitô, nếu không có Mẹ. Sau nữa, ở nơi Mẹ là Đấng tâm hồn tận hiến, thì tác động tận hiện là việc nhìn nhận Mẹ là Đấng "đầy ơn phúc", chỉ có Mẹ biết Chúa nhất và sống đẹp lòng Chúa nhất, nên chỉ có Mẹ mới là Đấng giúp cho họ nhận biết Chúa và theo Chúa một cách liên lỉ và trọn hảo mà thôi.

Nếu Thiên Chúa là Đấng vô cùng toàn thiện, toàn tri và toàn năng mà còn nhờ Mẹ đến với loài người thì loài người cũng không còn con đường nào khác, ngắn nhất, vững chắc nhất và toàn hảo nhất, để đến với Chúa, ngoài Con Đường Maria. Tận hiến cho Mẹ Maria tức là "đem Mẹ về nhà mình", bằng tất cả lòng tin tưởng cậy trong phó thác của mình cho Mẹ và vào Mẹ, bất cứ cần cái gì cũng chạy đến với Mẹ, nài xin Mẹ, nhờ Mẹ chuyển cầu lên Chúa, xin Mẹ trợ giúp, nhất là khi bị cám dỗ và chịu khổ đau, để Mẹ làm chủ bản thân mình, như chính bản thân Mẹ, nhờ đó, ở một nghĩa nào đó, Mẹ như thể sống trong họ, qua những gì Mẹ muốn thì Mẹ đều làm được như ý Mẹ nơi họ, bởi họ luôn đáp ứng ý Mẹ.

Thực Hành

Vậy, một khi ý thức được tầm quan trọng và giá trị tuyệt vời của việc tận hiến hoàn toàn hợp với ý muốn của Thiên Chúa và đường lối Ngài đã dùng và làm gương, và muốn chính thức tận hiến cho Đức Mẹ, thì nên sử dụng bản kinh được chính Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort), vị thánh đã phát động phong trào tận hiến cho Mẹ qua tác phẩm Thánh Mẫu lừng danh của ngài là cuốn "Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria", một tác phẩm đã ảnh hưởng đến cuộc đời và giáo triều vị Giáo Hoàng lấy khẩu hiệu "totus tuus" (tất cả của con là của Mẹ) là Thánh Gioan Phaolô II, một bản kinh được thánh nhân soạn dọn ở phần phụ bản của tác phẩm, tuy dài nhưng rất đầy đủ ý nghĩa, nguyên văn như sau:

"Ôi Đấng Khôn Ngoan Hằng Hữu Nhập Thể, là Chúa Giêsu dịu hiền nhất và đáng tôn thờ nhất, là Thiên Chúa thật và là Người thật, là Con duy nhất của Cha Hằng Hữu, và của Mẹ Maria Trinh Nguyên, con sấp mình thờ lạy Chúa nơi thâm cung và vinh quang muôn thuở Cha của Chúa, và nơi cung lòng khiết trinh của Mẹ Maria, Người Mẹ rất xứng đáng của Chúa, khi Chúa Nhập Thể làm người.

 

"Con xin tạ ơn Chúa vì Chúa đã tự hủy Bản Thân Mình, mặc lấy thân phận của một kẻ nô lệ, để giải thoát con khỏi bị làm nô lệ dữ tợn của ma quỉ. Con ca ngợi Chúa và tôn vinh Chúa vì Chúa đã tự ý muốn tùy thuộc hết mọi sự vào Mẹ Maria là Người Mẹ thánh hảo của Chúa, để nhờ Mẹ làm cho con thành nô lệ trung thành của Chúa. Thế nhưng, than ôi, con là kẻ vô ơn và bất trung, con đã không giữ những lời hứa với Chúa một cách rất long trọng khi lãnh nhận Phép Rửa. Con còn chẳng hề chu toàn phận vụ phải làm của con; con chẳng đáng được gọi là con Chúa hay nô lệ của Chúa, và vì nơi con chẳng có gì mà không bị Chúa khiển trách và phẫn nộ, nên con không dám một mình ra trước nhan Chúa Uy Nghi  thánh thiện.

"Bởi thế con chạy đến với việc chuyển cầu của Người Mẹ rất thánh của Chúa, Người Mẹ Chúa đã ban cho con để làm vị cầu bầu của con nơi Chúa; nhờ đó con mới hy vọng được Chúa ban cho ơn thống hối, ơn thứ tha tội lỗi của con, và ơn được khôn ngoan mãi mãi. Đó là lý do con xin chào Mẹ, Ôi Mẹ Maria Vô Nhiễm, Nhà tạm sống động của Thần Tính, nơi Đấng Khôn Ngoan Hằng Hữu ẩn thân cho Thần Thiêng và loài người tôn thờ.

"Con xin chào Mẹ, Ôi Nữ Vương trời đất, Mẹ thống trị trên tất cả mọi thuộc hạ trừ Thiên Chúa. Con xin chào Mẹ, Ôi nơi ẩn náu vững chắc của tội nhân, Mẹ xót thương tất cả mọi tội nhân; Mẹ ân cần lắng nghe những lời con cầu xin cho được sự khôn ngoan Thần Linh, và để được thế, xin Mẹ hãy nhận các lời khấn và tiến vật con thấp hèn dâng lên Mẹ.

 

"Con là……………………………, một tội nhân bất trung, hôm nay, qua bàn tay của Mẹ, xin lập lại và xác nhận những lời hứa rửa tội của con. Con xin vĩnh viễn từ bỏ Satan cùng tất cả mọi việc làm và cám dỗ của hắn, và con xin hoàn toàn hiến mình cho Chúa Giêsu Kitô, Đấng Khôn Ngoan Nhập Thể, để vác thập giá mình theo Người mọi ngày trong đời con. Và để con có thể trung thành với Người hơn con đã từng trung thành cho đến nay, hôm nay đây, con chọn Mẹ, Ôi Maria, trước mặt toàn thể triều thần thiên quốc, là Người Mẹ của con và Bà Chủ của con.

 

"Con xin trao phó và tận hiến cho Mẹ bằng đường lối của một người nô lệ kết ước, thân xác của con và linh hồn của con, các thứ sản vật trong ngoài của con, thậm chí cả giá trị của các việc lành con làm, quá khứ, hiện tại và tương lai, để Mẹ toàn quyền định đoạt về con cùng với tất cả những gì thuộc về con, không trừ bất cứ sự gì, tùy theo ý thích tốt lành của Mẹ cho Chúa được hiển vinh hơn cả ở đời này và đời sau vô cùng.

 

"Ôi Trinh Nữ từ bi nhân ái, xin hãy chấp nhận việc hiến dâng nhỏ bé của việc con lệ thuộc Mẹ đây, để tôn kính và hiệp với việc thuận phục Đấng Khôn Ngoan Hằng Hữu tỏ ra với Mẹ là Mẹ của Người; như là một dấu chỉ tỏ ra tôn kính quyền thống trị của Mẹ và Người Con Thần Linh của Mẹ trên con, một con sâu đê hèn và là một tội nhân khốn nạn; hầu tạ ơn về các ân huệ Chúa Ba Ngôi Chí Thánh đã ưu ái ban cho Mẹ. Con xin cam quyết là từ nay trở đi con muốn, như một kẻ nô lệ đích thực của Mẹ, tìm kiếm vinh quang của Mẹ và vâng lời Mẹ trong hết mọi sự.

 

"Ôi Mẹ rất đáng ngợi khen, xin hãy dâng con cho Con của Mẹ, như là một kẻ nô lệ vĩnh viễn của Người, để, qua Mẹ con đã được mua chuộc, thì cũng nhờ Mẹ Người chấp nhận con. Ôi Mẹ của tình thương, xin hãy cầu Chúa cho con ơn được khôn ngoan đích thực và nhờ đó được thuộc vào số thành phần được Mẹ yêu thương, thành phần được Mẹ dạy bảo, thành phần được Mẹ dẫn dắt, thành phần được Mẹ nâng đỡ và bảo hộ như con cái và nô lệ của Mẹ.

 

"Ôi Vị Trinh Nữ trung tín, xin hãy làm cho con thật là trọn lành trong hết mọi sự trở thành một người môn đệ, người noi gương bắt chước và làm nô lệ của Đấng Khôn Ngoan Hằng Hữu, là Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ, để nhờ lời chuyển cầu và gương mẫu của Mẹ, con đạt tới tầm vóc vẹn toàn của Người trên thế gian này và tới vinh hiển rạng ngời của Người trên thiên quốc.  Amen".

 

Khi sử dụng kinh nguyện trên đây của Thánh Long Mộng Phố, nên chọn một ngày Lễ Trọng về Mẹ Maria để tận hiến bản thân, cuộc đời và tâm linh cho Mẹ: Bản thân bao gồm hồn xác, trí khôn, lòng muốn, tình cảm, sự sống, tự do, phẩm giá, ngũ quan v.v.; cuộc đời gồm có quá khứ, hiện tại, tương lai, các việc làm, các thử thách, các đau khổ, các may lành, các liên hệ v.v., và tâm linh là bản chất, khuynh hướng, ý nghĩ, ước muốn, dự tính, quyết định, tội lỗi, đức hạnh, ơn phúc v.v.

 

Tuy nhiên, trong năm, mỗi một ngày lễ Mẹ, hầu như tháng nào cũng có (trừ Tháng 4), có tháng 3 lễ (như Tháng 8 và Tháng 9), tất cả là 18 lễ (bao gồm cả 3 bậc lễ: 8 lễ nhớ, 6 lễ kính và 4 lễ trọng) cũng nên lập lại tâm tình tận hiến của mình bằng một kinh nguyện vắn gọn hơn, chẳng hạn kinh nguyện có từ năm 1964 ở Việt Nam sau đây, một kinh nguyện vắn tắt nhưng chất chứa đầy những tâm tình tận hiến, cũng rất ý nghĩa và thật thấm thía:

 

"Ôi Maria Trinh Vương là Mẹ Thương Xót của con, Mẹ được đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội do Chúa Ba Ngôi Chí Thánh ban cho Mẹ. Xin Mẹ lấy đặc ân ấy bao phủ trên con, thánh hóa và gìn giữ con khỏi mọi mưu chước ma quỉ, để cho tình yêu và thân xác con được trong sạch trước mặt Chúa luôn luôn. Xin Mẹ  lấy đức đơn sơ, điềm tĩnh, trung thành, khôn ngoan, hiền dịu  quả cảm của Mẹ thay thế vào lòng con, để làm cho con sống một cuộc đời như Mẹ. Mẹ ơi! Mẹ biết con yếu đuối bất lực trong tất cả mọi sự, nên con trông cậy, phó thác hoàn toàn nơi Mẹ. Xin Mẹ  sống và hành động trong con mãi mãi. Amen". 

 

Chưa hết, hằng ngày cũng nên tận hiến cho Mẹ sáng tối: sáng khi thức giấc và tối trước khi đi ngủ, bằng những lời nguyện vắn tắt thích hợp với từng lúc trong ngày, và dâng những gì thích hợp cho từng lúc ấy cho Mẹ. Chẳng hạn hai lời nguyện tận hiến sáng tối cho Mẹ sau đây:

 

Dâng Mình Ban Sáng cho Mẹ: "Ôi Maria Rạng Đông của Mặt Trời Công Chính là Chúa Kitô. Ngày hôm nay, con xin dâng lên Mẹ: con người bé nhỏ của con, cuộc đời ngắn ngủi của con, và tình yêu thơ dại của con. Xin Trái Tim Mẹ là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Chúa, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen".

 

Dâng Mình Vào Đêm cho Mẹ: "Ôi Maria Tình Thương vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại. Đêm hôm nay, con xin dâng lên Mẹ: linh hồn bất tử của con, thân xác tro bụi của con, và sự sống mong manh của con. Xin Trái Tim Mẹ là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Chúa, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen".

 

Nếu được nên dâng mình cho Mẹ cả ban trưa nữa, vào lúc 12 giờ, bằng cách lấy tâm tình tận hiến cho Mẹ để Nguyện Kinh Truyền Tin, một kinh nguyện nhắc nhớ cho chúng ta chẳng những về giây phút trời đất giao hòa trong lịch sử của loài người, giây phút cung lòng của Mẹ trở thành nơi hội ngộ thần linh giữa Thiên Chúa và loài người, mà còn là giây phút "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14) ngay trong cung dạ trinh nguyên của Mẹ, tự hiến mình cho Mẹ, hoàn toàn lệ thuộc vào Mẹ như một thai nhi bất lực đến độ sống động và phát triển không thể nào thiếu được người mẹ của mình, để nhờ Mẹ đến với chung loài người và mỗi một người chúng ta, một sự kiện tận hiến thần linh thực sự đã xẩy ra một cách thể lý, ngay sau tác động Mẹ Maria toàn hiến mình cho Thiên Chúa: "Này tôi là nữ tỳ Chúa. Xin hãy thực hiện nơi tôi những gì Ngài truyền" (Luca 1:38).

 

Sau hết, nên đeo trong mình một cái gì đó về Mẹ, tiêu biểu cho việc chúng ta đã thuộc về Mẹ, như sợi giây ràng buộc chúng ta với Mẹ, và như vòng tay của Mẹ bao bọc ấp ủ chúng ta là những đứa con bé mọn dại khờ của Mẹ. Chẳng hạn Áo Đức Bà, hay Ảnh Mẹ Ban Ơn, hoặc Chuỗi Kinh Mân Côi.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

bài chia sẻ trong Khóa LTXC XXXV ở TGP Galveston-Houston TX