THƯ PHÒNG LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
của Nhóm Tông Đồ Chúa Tình Thương
NĂM BÍ MẬT THƯƠNG XÓT 2019
HÀNH HƯƠNG THÁNH ĐỊA - TUẦN THÁNH VƯỢT QUA
(12-22/4/2019)
Biên soạn - TĐCTT Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, kèm theo hình ảnh tài liệu được lấy từ google
Dẫn Nhập
Nội Dung
PHÁT ĐỘNG HÀNH HƯƠNG VÀ Ý HƯỚNG HÀNH HƯƠNG
THAM DỰ VIÊN HÀNH HƯƠNG
LỊCH TRÌNH HÀNH HƯƠNG 11 NGÀY (12-22/4/2019)
HÌNH ẢNH NHỮNG DI TÍCH THÁNH KINH Ở ISRAEL
KHÓA LTXC XXXVII THỨ BẢY TUẦN THÁNH: VƯỢT QUA "TỪ SỰ CHẾT VÀO SỰ SỐNG"
PHÁT ĐỘNG HÀNH HƯƠNG VÀ Ý HƯỚNG HÀNH HƯƠNG
Ave Maria TMTX,
Quí TĐCTT chí thiết của em trong LTXC vô biên,
Như đã từng diễn ra trong quá khứ, Nhóm
TĐCTT chủ trương và thực hiện các chuyến hành hương và truyền giáo cách năm.
Hành hương để tăng thêm cảm nghiệm đức tin thần linh và truyền giáo để tỏ
hiện đức tin qua đức ái trọn hảo.
Thật vậy, chuyến Hành
Hương Tia Sáng Từ Balan 2014 đầu
tiên, sau đó là chuyến Hành
Trình Truyền Giáo Xuyên Việt I - 2016,
rồi chuyến Hành
Hương Thời Điểm Maria 2017,
chuyến hành hương thứ 2, và chuyến Hành
Trình Truyền Giáo Xuyên Việt II - 2018.
Nay tới chuyến Hành
Hương Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua 2019.
Các chuyến hành hương cho nội bộ TĐCTT bao giờ cũng được diễn tiến vào một
thời điểm ý nghĩa của nó, như chủ đề của từng chuyến hành hương. Chẳng hạn:
Chuyến Hành
Hương Tia Sáng Từ Balan 24
anh chị em 12 ngày (24/4 - 5/5/2014), thời điểm ĐTC Gioan Phaolô II, Đấng Sáng
lập Nhóm TĐCTT, được Giáo Hội tôn phong hiển thánh, Chúa Nhật 27/4/2014; và
chuyến Hành Hương Thời Điểm Maria 58 anh chị em 13 ngày (10-22/5/2017), vào
thời điểm mừng kỷ niệm Bách Niên Fatima 13/5/2017.
Năm 2019, tuy chung Giáo Hội hoàn vũ không có một biến cố nào đặc biệt, ngoại
trừ Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Panama Mỹ Châu Latinh vào Tháng 1/2019, Nhóm TĐCTT
cũng tổ chức một chuyến hành hương, một chuyến hành hương tự nó đã chất chứa một
thời điểm vô cùng ý nghĩa và giá trị bất khả thiếu cho đức tin thần linh của
TĐCTT, đó là chuyến Hành
Hương Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua 11 ngày (12-22/4/2019). Nếu
tột đỉnh Mạc Khải Thần Linh về LTXC là Biến Cố Vượt Qua của Chúa Kitô, thì tất
cả sự thật của đức tin Kitô giáo cần phải cảm nghiệm là ở Tam Nhật Vượt Qua!
Thật vậy, TĐCTT cần phải đến tận Thánh Địa, nơi mang dấu vết lịch sử của một Vị
Thiên Chúa Làm Người cách đây đã hơn 2 ngàn năm, nhưng lại Hành Hương Thánh Địa
vào thời điểm Tuần Thánh Vượt Qua, để nhờ đó, TĐCTT có thể thấm thía sâu xa hơn
những giây phút cuối cùng trên trần gian của Vị Thiên Chúa Làm Người này trong
Biến Cố Vượt Qua của Người. TĐCTT sẽ đến tận những vị trí Người đã ở xưa khắp cả
Thánh Địa trong Tuần Thánh, đặc biệt nhất là, sau đó, TĐCTT chính thức tiến vào
thời điểm Tam Nhật Vượt Qua, thời điểm tột đỉnh của LTXC, ở ngay tại Giêrusalem,
nơi TĐCTT tưởng niệm và cảm nghiệm Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, thứ tự như
sau:
Thứ Năm Tuần Thánh: TĐCTT
- ban chiều sẽ ở Nhà Tiệc Ly, nơi Chúa Kitô lập Bí Tích Thánh Thể cùng Thừa Tác
Linh Mục và ban Giới Răn Mới, và ban tối vào Vườn Cây Dầu, nơi Chúa Kitô bắt đầu
cuộc tử nạn của Người.
Thứ Sáu Tuần Thánh: TĐCTT
- ban sáng đến Dinh Thượng Tế Caipha cùng Dinh Tổng Trấn Philato,
và ban trưa theo Con Đường Thánh Giá lên Đồi Canvê.
Thứ Bảy Tuần Thánh: TĐCTT
- ban ngày sẽ lắng đọng tĩnh tâm chung với nhau về cảm nghiệm mầu nhiệm khổ giá
và phục sinh, dọn mình chờ đón Chúa Phục Sinh, và ban đêm sẽ dự lễ Phục Sinh ở
Mồ Thánh.
Chúa Nhật Phục Sinh: TĐCTT
– ban ngày mua quà kỷ niệm ở Thánh Địa tại Giêrusalem, và ban tối sẽ trở lại Nhà
Tiệc Ly, nơi Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra lần đầu tiên với các tông đồ “vào ngày
thứ nhất trong tuần”.
Bắt đầu ghi danh ngay sau khi email thông báo này được gửi đi. Tối đa là 54 anh
chị em. Ưu tiên trên hết và trước hết cho TĐCTT, cho đến ngày 8/12/2018. Tuy
nhiên, TĐCTT nào có vợ hay chồng muốn đi theo cũng được hưởng ưu tiên như
TĐCTT. Vì mỗi phòng ngủ 2 người nên những TĐCTT nào không đi cặp vợ chồng thì
nên theo cặp TĐCTT thân tình với nhau.
Xin Mẹ Đồng Công Maria, Thánh Mẫu Thương Xót, đồng hành với chuyến Hành Hương
Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua 2019 của TĐCTT chúng ta.
TĐCTT-HSTTM Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
(Email cho chung Nhóm TĐCTT ngày 1/10/2018 về chuyến Hành Hương Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua)
THAM DỰ VIÊN HÀNH HƯƠNG
TĐCTT
1- Chị
Trần Lan Hương
(San Jose CA)
2- Chị Trần
Xuân Hường
3- Chị Nguyễn
Châu Ngọc Huệ
4- Chị
Nguyễn Natalia / Nga (San
Jose CA)
5-6 Chị
Ngô Trinh và phu quân Nguyễn Sơn Tâm
7- Chị
Văn Thị Nguyệt
8-9.
Chị Đinh Tuyết Mai + phu quân Vũ Đình Lung
10-11.
Chị Trần Kim Liên và phu quân Trần Vi Chánh
(San Jose CA)
12-
Chị Phạm Ngọc Anh
13-14.
Chị Khổng Thị Nhàn và phu quân Bùi Đăng
15-
Chị Mai Ngọc Dung
16-
Chị Lưu Ngọc Trinh
17-18.
Chị Lăng Thị Nguyệt và phu quân Nguyễn Đức Thiêm
19-
Nguyễn Thị Giang
20
- Nguyễn Thị Hoàng Minh
21-
Nguyễn Thủy
22-
Vũ Hồng
23-
Trần Thị Tiếu
24-
Nguyễn Nancy
26-
Cha Nguyễn Đức Minh
27-28.
Chúng em bé tĩnh nhỏ nga
Thân Nhân
29- Phạm Lynn (Em gái của Chị Khổng Thị Nhàn)
Thân Hữu
32
-33. Đinh Thị Sáng và Đặng Tammie34-37.
Lê Văn Mạnh và Lê Thị Ren, Trần Thị Hương và Tạ Lệ Quyên
(4 thân hữu
của Nhóm TĐCTT
GP Rochester
Tổng Kết và Phân Loại
28 TĐCTT
(trong
đó có 2 cặp TĐCTT và 4 chị TĐCTT đi với 4 phu quân, tất cả là 6 cặp)
1 Thân Nhân
8
thân hữu
(trong đó có 2 cặp)
11 DAYS HOLYLAND & EASTER TRIDUUM PILGRIMAGE | ||||||
2019 HOLYLAND TOUR - SHARING ROOM | ||||||
No. | TOUR MEMBERS' NAME | Relationship | No. | TOUR MEMBERS' NAME | Relationship | |
1 | Duc-Minh, Joseph Nguyen | Spiritual Dir. | 21 | Le, Manh Van | husband | |
2 | Cao, Tinh Tan (Domnic) | Tour Leader | 22 | Le, Ren Thi | wife | |
3 | Tran, Lan Huong Thi | female | 23 | Ta, Quyen Le | niece | |
4 | Nguyen, Natalia | female | 24 | Tran, Huong Thi | aunt | |
5 | Tran, Chanh Vi | husband | 25 | Dang, Tammie | daughter-in-law | |
6 | Tran, Kim Lien Vu | wife | 26 | Dinh, Sang Thi | mother-in-law | |
7 | Pham, Anh Ngoc Thi | female | 27 | Vu, Lung Dinh | husband | |
8 | Pham, Lynn | female | 28 | Dinh, Mai Thuyet | wife | |
9 | Van, Nguyet Thi | female | 29 | Dang, Dan Quy | husband | |
10 | Nguyen, Hoang Minh Thi | female | 30 | Nguyen, Tina | wife | |
11 | Tran, Tieu Thi | female | 31 | Nguyen, Tam Son | husband | |
12 | Đang, Men Thi | female | 32 | Ngo, Trinh Thi | wife | |
13 | Bui, Dang | husband | 33 | Nguyen, Marie Hue N. C. | female | |
14 | Khong, Nhan Thi | wife | 34 | Vu, Hong | female | |
15 | Nguyen, Thiem Duc | husband | 35 | Tran, Xuanhuong | female | |
16 | Lang, Nguyet Thi | wife | 36 | Luu, Trinh Ngoc | female | |
17 | Mai, Dung Thi Ngoc | female | 37 | Cao-Bui, Thuy-Nga (Marie) | Tour Leader | |
18 | Nguyen, Nancy | female | Cao, Tinh Tan (Domnic) | Tour Leader | ||
19 | Nguyen, Giang Thi | female | ||||
20 | Nguyen, Thuy Thi | female | ||||
LỊCH TRÌNH HÀNH HƯƠNG 11 NGÀY (12-22/4/2019)
Day 1 - Ngày 12/4 Thứ Sáu
3:10 chiều, khởi hành từ LAX California (33/37 tham dự viên, 4 đi từ New York)
Day 2 - Ngày 13/4 Thứ Bảy
10:50 sáng ghé Frankfurt Đức quốc
2:00 chiều bay sang Tel Aviv Israel
7:05 tối tới Tel Aviv Israel, sau đó được nhân viên của Nawas International Travel ở Israel đón ở phi trường và chở lên miền bắc Nước Israel đến Tiberia ở Biển Hồ Galilea, trọ đêm ở Khách sạn Leonardo Club Hotel, tọa lạc tại Habanim St 1 - 1420163 Tiberias, Israel / 972-4-671-4444.
Day 3 - Ngày 14 Chúa Nhật
Băng qua Biển Hồ Galiea sang Thành Carphanaum, nơi chính yếu được Chúa Giêsu tỏ mình ra ở Galiea. Tham quan những di tích tàn rụi của một ngôi Hội Đường Thế Kỷ thứ 2. Tiếp tục tới Tabgha, địa điểm Chúa Giêsu làm Phép Lạ Hóa Bánh ra nhiều. Sau đó lên Núi Bát Phúc, nơi Chúa Giêsu giảng dạy các mối phúc đức trọn lành cho các tông đồ. Cuối ngày trở lại Teberias trọ đêm ở cùng một khách sạn tối đêm hôm trước. Lễ riêng (private mass) 3 giờ chiều ở Cana tới 3 giờ 50 - Các cặp trong phái đoàn có thể tái tuyên lại lời thề hôn phối của mình trong Thánh Lễ của riêng nhóm hôm ấy.
Day 4 - Ngày 15 Thứ Hai
Đến Cana ngang qua Magdala, một Cana đã được Chúa Giêsu, theo Phúc Âm Thánh Gioan, làm một dấu lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon hơn trước. Lên Núi Tabor là nơi Chúa Giêsu biến hình. Rồi đến Nazarét, nơi sinh trưởng của Chúa Giêsu, và kính viếng Thánh Đường Truyền Tin, nơi phái đoàn dâng Lễ riêng (private mass) vào lúc 9 giờ sáng tới 9 giờ 50. Tham quan Meggido ở Đồng Bằng Esdraelon. Thăm viện bảo tàng, những di tích tàn rụi của thành Meggido này, một thành xẩy ra nhiều cuộc chiến tranh nhất trên thế giới; ngày nay được LHQ công nhận là một trong những di sản của thế giới. Meggido theo tiếng Do Thái khi được chuyển dịch sang tiếng Hy Lạp là Armageddon, một địa danh được nhắc đến trong Sách Khải Huyền 16:16, nơi xẩy ra trận chiến cuối cùng trước tận thế, và từ thành này tiếp tục băng qua Thung Lũng Jordan và Beit Shean về Jerusalem, trọ đêm ở Khách Sạn Leonardo Hotel, tọa lạc tại Saint George St 9 - 9720911 Jerusalem, Israel / 972-2-532-0000
Day 5 - Ngày 16 Thứ Ba
Day 6 - Ngày 17 Thứ Tư
Day 7 - Ngày 18 Thứ Năm Tuần Thánh
Buổi sáng tham quan cổ thành Giêrusalem. Vào Cổng Thánh Stephano. Thăm Nhà Thờ Bà Thánh Anna và Hồ Betsaida, nơi Chúa Giêsu đã chưa lành cho một người bất toại 38 năm (xem Gioan 5:1-15). Tiếp tục tham quan Khu Vực Đền Thờ. Xem Cái Thạch Vòm (Dome of the Rock, Đền Thờ El Aqsa và Bức Tường Khóc (Wailing Wall). Kính thăm Nhà Thờ Thánh Phêrô ở Dallicantu (Gà Gáy), ngôi nhà thờ được xây trên vị trí của Dinh Thượng Tế Caipha là nơi tông đồ Phêrô đã chối Thày mình 3 lần. Ngắm nhìn Thung Lũng Gehenna và Hồ Siloam.
Buổi chiều leo Núi Sion để kính viếng Căn Thượng Lầu (Upper Room) hay Nhà Tiệc Ly. Tham dự nghi thức rửa chân Công giáo ở Nhà Thờ Mồ Thánh. Về đêm thăm Vườn Nhiệt, nơi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc khổ nạn của Người khi Người buồn đến nỗi chết được (xem Mathêu 26:38), đến đổ mồ hôi máu nhỏ xuống đất (xem Luca 22:44). Thánh Lễ chung ở Nhà Thờ Vườn Nhiệt vào khoảng 7-8 giờ tối, sau lễ có rước nến từ Vườn Nhiệt đến Nhà Thờ Thánh Phêrô Gà Gáy.
Day 8 - Ngày 19 Thứ Sáu Tuần Thánh
Buổi sáng tham quan Dinh Thượng Tế Caipha và Dinh Tổng Trấn Philato. Tham dự đi đàng Thánh Giá và táng xác vào buổi trưa ở Nhà Thờ Mồ Thánh. Chiều vào Cổ Thành Giêrusalem qua Cổng Hêrôđê để đến Pháp Đình Roma (Roman Praetorium), ở bên dưới Tu Viện Các Sơ Zion, và đến cả Vòm Này Là Người (Ecce Homo Arch). Theo vết chân của Chúa Giêsu trên Đường Thập Giá (Via Dolorosa). Rời Cổ Thành Giêrusalem bằng Cổng Damascus. Vào lúc 3 giờ chiều, phái đoàn đến kính viếng Đồi Canve, sau đó viếng thăm Mồ Thánh.
Day 9 - Ngày 20 Thứ Bảy Tuần Thánh
Thứ Bảy Tuần Thánh, cả sáng lẫn chiều, phái đoàn tĩnh tâm, tham dự Khóa LTXC XXXVII ở ngay tại khách sạn, theo chương trình riêng, bao gồm cả các tham dự Lễ Vọng Phục Sinh tại một Nhà Thờ ở Giêrusalem và Kinh Nguyện Đêm Phục Sinh ở Nhà Thờ Mồ Thánh.
Day 10 - Ngày 21 Chúa Nhật
Chúa Nhật Phục Sinh là ngày mua kỷ vật Thánh Địa ở Giêrusalem trước khi về vào sáng sớm ngày hôm sau. Phái đoàn có thể chia nhau thành từng nhóm nhỏ đi tham quan (bằng taxi hay u-ber) các nơi phái đoàn đã tới mà mình cảm thấy ấn tượng v.v. Chiều phái đoàn sẽ trở lại Nhà Tiệc Ly để dâng lễ riêng (private mass) vào lúc 4 giờ chiều tới 4 giờ 50, trước 5 giờ chiều là giờ đóng cửa Nhà Tiệc Ly theo chương trình thường nhật. Trong Thánh Lễ sẽ có nghi thức tuyên hứa cho quí anh chị em nào ngoài Nhóm TĐCTT (thân nhân và thân hữu) muốn gia nhập Nhóm TĐCTT.
Day 11 - Ngày 22 Thứ Hai
6:55 sáng trở về Mỹ từ Tel Aviv Israel
9:50 sáng ghé Munich Đức quốc
12:05 trưa rời Munich Đức quốc
3:05 chiều về tới LAX California
DẪN NHẬP
Hành Hương Thánh Địa là Hành Trình Về Đất Hứa, một Hành Trình Lịch Sử Cứu Độ
Hành Hương Thánh Địa, ở một nghĩa nào đó, là cuộc Hành Trình về Đất Hứa, một mảnh đất tranh chấp giữa dân Do Thái là dân được Chúa tuyển chọn và tỏ mình ra trong suốt giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, với dân Palestine, một trong thành phần dân thuộc thế giới Ả Rập. Hai dân tộc này: trong khi dân Do Thái xuất thân từ đứa con theo lời hứa là Isaac, đứa con trai duy nhất của tổ phụ Abraham, thì dân Ả Rập, theo suy diễn Thánh Kinh (xem Khởi Nguyên 16:12), xuất thân từ Ismael, đứa con sinh bởi xác thịt, giữa tổ phụ Abraham và "nữ tỳ của Sara" (Khởi Nguyên 16:7), vợ của tổ phụ Abraham son sẻ, một người nữ tỳ người Ai Cập là Hagar.
Hai đứa con Ismael theo xác thịt và Isaac theo lời hứa này đều được sinh ra tại Đất Hứa, một mảnh đất Thiên Chúa ngay từ ban đầu đã kêu gọi Abraham từ bỏ nơi ông đang sống để đến đó (xem Khởi Nguyên 12:1-6). Mảnh đất đó chính là "đất Canaan" (Khởi Nguyên 12:5). Tuy nhiên, vào thời xẩy ra nạn đói ở xứ Canaan này (xem Khởi Nguyên 41:54, 42:1-2), toàn thể 12 chi tộc của dân Do Thái, gồm 70 người, đã theo tổ phụ Giacóp sang Ai Cập, nơi có Giuse đã được Thiên Chúa quan phòng thần linh sai đến trước để cứu đói chẳng những dòng tộc của mình mà còn cả Ai Cập nữa. Sau 430 năm sinh sống ở Ai Cập (xem Xuất Hành 12:40), trở thành một dân tộc đông đúc tràn đầy ở Ai Cập đến độ khiến vị vua mới của Ai Cập hoảng sợ nên âm mưu tiêu diệt dân Do Thái (xem Xuất Hành 1:7-10).
Thế nhưng, đúng như những gì Thiên Chúa đã tự hứa với tổ phụ Abraham, liên quan chẳng những đến Đất Hứa giành cho dân Do Thái là miêu duệ của ông (xem Khởi Nguyên 12:7), mà còn liên quan đến việc giải phòng dân Do Thái khỏi Ai Cập về Đất Hứa nữa (xem Khởi Nguyên 15:13-14). Tuy nhiên, trong thời gian 430 năm dân Do Thái ở Ai Cập ấy, ở Xứ Canaan cũng phát triển các thứ dân khác, to con lớn tướng hơn dân Do Thái rất nhiều (xem Dân Số 13:1-2, 27-29, 32-33), đến độ khiến dân Do Thái khi nghe các thám tử thuật lại những gì họ thấy thì tỏ ra hoảng sợ muốn trở về lại Ai Cập (xem Dân Số 14:1-4, 10).
Cuối cùng, họ vẫn vào được Đất Hứa sau khi băng qua Sông Dược Đăng / Jordan (xem Gio-Duệ đoạn 3), một mảnh đất không phải của họ, mà của các dân tộc khác, được Thiên Chúa giành cho họ (xem Gio-Duệ 1:1-6), và thậm chí còn trực tiếp ra tay giúp họ chiếm đoạt, như trường hợp Thành Giêrico là một thành kiên cố nhất và là thành đầu tiên họ cần phải đương đầu (xem Gio Duệ đoạn 6). Sau Thành Giêrico đến các dân tộc khác vẫn ở mảnh đất trước dân Do Thái (xem Gio-Duệ các đoạn 7-12), cho đến khi chiếm trọn Đất Hứa mới phân chia Đất Hứa cho từng chi tộc (xem Gio-Duệ các đoạn 13-21).
Dân Do Thái khi sống trong Đất Hứa đã làm ô uế mảnh đất này của Thiên Chúa, bằng việc họ ngoại tình với các thứ ngẫu tượng của họ, một tội bất trung trắng trợn với vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, một thứ bất trung luôn được vị Thiên Chúa chậm bất bình và hết sức khoan dung nhắc nhở và cảnh báo họ qua các vị tiên tri ngôn sứ Ngài sai đến với họ qua giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, và khi họ bị đi đầy, như ở Babylon trong thời khoảng 70 năm, họ lại làm ô danh Chúa giữa dân ngoại, nên Thiên Chúa lại phải mang họ về lại Đất Hứa (xem Êzêkiên 36: 16-24). Thế rồi, họ lại bị phân tán khắp nơi trên thế giới sau khi họ nổi loạn chống lại đế quốc Roma (66-70) bất thành, đến độ, Thành và Đền Thánh Giêrusalem đã bị tàn phá đúng như những gì Đấng Thiên sai cứu tinh của họ nhưng họ quyết sát hại đã tiên báo và cảnh giác (xem Luca 19:41-44).
Cho tới đầu thế kỷ thứ 20, qua phong trào và nhờ phong trào Zionism, phong trào hồi hương bắt đầu, với con số đầu tiên là 40 ngàn người, rồi vào đầu thập niên 1930 với 50 ngàn người nữa, thường từ Đông Âu là nơi phong trào bài Do Thái dữ dội. Thậm chí trong Thế Chiến Thứ II, 6 triệu người Do Thái của họ đã bị Đức Quốc Xã tàn sát. Thế nhưng, cuối cùng, họ cũng đã được quốc tế công nhận là một quốc gia trên thế giới vào năm 1948. Tuy nhiên, từ đó tới nay đã trên 70 năm, mảnh Đất Hứa cũng là Đất Thánh vẫn là một vùng đất liên lỉ tranh chấp hết sức gay go và đẫm máu, đến độ hầu như bất khả giải quyết, cho dù là Liên Hiệp Quốc, giữa người Do Thái và dân Palestine Ả Rập. Vấn đề được đặt ra ở đây là mảnh đất thuộc về ai và là của ai: dân Do Thái hay dân Palestine? Câu trả lời có thể phải dung hòa như thế này: Đất Hứa theo tự nhiên là của các dân tộc khác, nhưng theo Lời Hứa là của dân Do Thái.
Nếu Thiên Chúa đã hứa cho dân Do Thái, mà Ngài có toàn quyền trên trời dưới đất, thì Đất Hứa là đất của dân Do Thái. Đất Hứa không chỉ có ý nghĩa về địa dư và thể lý, mà còn chất chứa cả một mầu nhiệm siêu nhiên và thần linh theo lời hứa của Thiên Chúa. Bởi thế, Thiên Chúa vẫn không chỉ biết có dân Do Thái được Ngài tuyển chọn để tỏ mình ra trong giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, cho tới "thời gian viên trọn" (Galata 4:4) của Ngài, cũng là "thời sau hết" (xem Do Thái 1:2) hay thời cánh chung với Chúa Giêsu Kitô, Đấng là tột đỉnh mạc khải thần linh và là tất cả mạc khải thần linh, Ngài còn bao gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới nói chung và dân Palestine ở Thánh Địa nói riêng trong lời Ngài hứa với tổ phụ Abraham (xem Khởi Nguyên 22:18). Giáo Hội Kitô giáo bao gồm toàn thể dân ngoại khắp nơi trên thế giới, đã chứng thực và ứng nghiệm lời hứa cứu độ "từ dân Do Thái" (Gioan 4:22) này của Thiên Chúa.
Biến cố và sự kiện lịch sử dân Do Thái đã hồi hương và tái lập quốc gia của mình, và vẫn trông đợi Đấng Thiên Sai của mình, cho dù là về chính trị, cho thấy họ vẫn trung thành với vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, cho dù trong dòng lịch sử của mình, họ có bất trung với Ngài, nhất là đã cố tình giết Chúa Giêsu Kitô là Đấng Ngài sai chỉ vì theo quan niệm của họ nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét này đã lộng ngôn phạm thượng, chỉ là loài người mà dám cho mình là Thiên Chúa (xem Gioan 5:18; 10:33; 19:7). Thế nhưng, vì "Thiên Chúa không thể chối bỏ chính mình Ngài" (2Timôthêu 2:13), mà cuối cùng "cho đến khi đủ số dân ngoại, toàn thể Israel sẽ được cứu độ" (Roma 11:25-26).
Hành Hương Thánh Địa, đối với thành phần Kitô hữu dân ngoại chúng ta, như thế, quả là một Hành Trình Về Đất Hứa, về lại với lời hứa của Thiên Chúa với dân Do Thái qua tổ phụ Abraham của họ, một lời hứa bao gồm cả chúng ta, với tất cả ý thức rằng: Kitô giáo là một tôn giáo bởi trời, có tính chất thần linh, chứ không phải là một chuyện hoang đường, nên đức tin Kitô giáo không phải là một thứ duy tín hay cuồng tín, mà là một đức tin có chứng tích lịch sử đàng hoàng, ở ngay tại Thánh Địa, một mảnh Đất Hứa của dân Do Thái còn tồn tại tới ngày nay, một dân vẫn không công nhận nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai của họ, nhưng oái oăm thay và may mắn thay, chính việc phủ nhận của họ lại chứng thực có "Giêsu Nazarét, Vua Dân Do Thái", đúng như tổng trần Philatô đã công nhận (xem Gioan 19:18-22), Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại, Đấng đã biến Đất Hứa thành Đất Thánh cho tới nay.
Theo dự tính từ nay, từ chuyến Hành Hương Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua 4/2019 trong vòng 11 ngày này (12-22/4), cho đến năm 2015, Năm Thánh của Giáo Hội hoàn vũ, Nhóm TĐCTT, theo truyền thống cứ 1 năm hành hương và 1 năm truyền giáo: Năm 2014 Hành Hương Tia Sáng Từ Balan 12 ngày (24/4-5/5), Năm 2015 Hành Trình "Cho Tình Yêu Lên Ngôi" Miền Đông Bắc Hoa Kỳ 10 ngày (20-29/9: Tham quan New York, Washington DC, Khóa LTXC XVI và nghênh đón ĐTC Phanxicô Tông Du Hoa Kỳ ở TGP Philadelphia PA), Năm 2016 Hành Trình Truyền Giáo Xuyên Việt 1 ba tuần (18/9-8/10), Năm 2017 Hành Hương Thời Điểm Maria 13 ngày (10-22/5), Năm 2018 Hành Trình Truyền Giáo Xuyên Việt 2 ba tuần (4-24/10), sẽ thực hiện các cuộc hành hương và các chuyến truyền giáo thứ tự như sau:
2020: Hành Trình Truyền Giáo Xuyên Việt Niềm Vui Thương Xót III
2021: Hành Hương Kitô Giáo - "Đức tin tuân phục" (Roma 1:5 - Vatican, Roma và Ý quốc, có thể bao gồm cả Fatima và Lộ Đức liên quan đến Người Mẹ có đức tin diễm phúc)
2022: Hành Trình Truyền Giáo - "Những người anh em hèn mọn nhất của Ta" (Mathêu 25:40,45 - với Thánh Têrêsa ở Calcutta Ấn Độ)
2023: Hành Hương Truyền Giáo - "Ánh sáng chư dân" (Tông Vụ 13:47 - với Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ)
2024: Hành Trình Truyền Giáo - "Tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8 - ở Châu Phi)
2025: Hành Hương Năm Thánh - "Xuất Ai Cập" (Lịch Sử Cứu Độ - với Dân Chúa), có thể trở lại Roma và Jerusalem để Mừng Năm Thánh ở 2 nơi chính của Kitô giáo này.
Riêng chuyến 2021: Hành Hương Kitô Giáo - "Đức tin tuân phục" (Roma 1:5) là chuyến Hành Hương bất khả thiếu và bất khả phân ly với chuyến Hành Hương Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua 2019. Bởi vì, nếu Hành Hương Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua là đến một nơi (Đất Hứa của dân Do Thái) được Thiên Chúa chọn để tỏ thực hiện tất cả mạc khải thần linh về Ngài, mà tột đỉnh là Biến Cố Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô, thì Hành Hương Kitô Giáo - Đức Tin Tuân Phục là đến một nơi (Giáo đô Vatican ở Roma nói riêng và Ý quốc nói chung) cho thấy đức tin của con người (lương dân, không phải dân Do Thái), tiêu biểu nơi 2 vị tông đồ Phêrô và Phaolô, trong việc đáp ứng mạc khải thần linh của Thiên Chúa, một đức tin bất khuất trung kiên còn tỏ tường lưu dấu: 1- ở nơi một đế quốc Roma đệ nhất thiên hạ đã bị tàn rụi; 2- nơi các vị Thánh Kitô giáo lừng danh ở Ý Quốc: như Thánh Biển Đức, tổ phụ đời đan tu, sáng lập Đan Viện đầu tiên ở Monte Cassino và quan thày Châu Âu, liên quan đến ĐTC Biển Đức XVI; Thánh Phanxicô Assisi, vị sáng lập Dòng Anh Em Hèn Mọn, liên quan tông hiệu của ĐTC Phanxicô; và Cha Thánh Piô 5 Dấu, vị thánh thời đại đã nói tiên tri về vị linh mục trẻ Karol Wojtyla từ tháng 11/1946 là vị linh mục Balan ấy sẽ làm giáo hoàng; 3- và nơi các vết tích thần linh khác liên quan đến đức tin vẫn còn đó: như Khăn Liệm Thành Turin; như Nhà Đức Mẹ ở Loretto; như Phép Lạ Thánh Thể ở Bolsena liên quan đến Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô của Giáo Hội hoàn vũ, và nơi Phép Lạ Máu Chảy của Thánh Januarius ở Naples v.v.
HÌNH ẢNH NHỮNG DI TÍCH THÁNH KINH Ở THÁNH ĐỊA
(Chỉ có những địa danh - tên được viết bằng chữ hoa, đậm và đỏ ở các hình ảnh tiêu biểu dưới đây -
liên quan đến Thánh Kinh mới được trích dẫn chứng từ Thánh Kinh mà thôi,
và những câu Thánh Kinh được trưng dẫn theo bản dịch của Nhóm CGKPV)
Day 2 - Ngày 13 Thứ Bảy
Khách Sạn Leonardo Club Hotel ở Tiberia, nơi phái đoàn TĐCTT trú ngụ 2 đêm 13-14/4
Tiberia là 1 trong 6 thành phố chính yếu ở chung quanh "Biển Hồ Galilea", (xin xem lại bản đồ thời Chúa Giêsu trên đây), cũng gọi là "Biển Hồ Tiberia" (Gioan 21:1). Khách sạn này tọa lạc ở một vị thế rất tình tứ và ý nghĩa siêu việt: trong khi quay lên đồi núi khô cằn như đức tin tuân phục thì đồng thời lại hướng về biển hồ nước ngọt của đức ái trọn hảo tràn đầy sự sống.
ĐẤT HỨA được Thiên Chúa nói là "chảy sữa và mật" (Xuất Hành 3:8; Dân Số 13:27; 14:8), đến độ thân thể của dân địa phương khổng lồ và hoa trái của họ quá to lớn, như cành nho và chùm nho được hai trong 12 thám thính viên gánh về chứng thực (xem Dân Số 13:23,27), nhưng thực ra hiện nay, hầu hết là khô cằn và gập ghềnh đồi núi, bao gồm chung Giuđêa miền Nam và riêng Khu Vực lân cận Thành Giêrusalem. Phải chăng ý nghĩa "sữa và mật" đây, theo tôi, ám chỉ "sự sống (sữa) và sự sống viên mãn (mật)" (Gioan 10:10).
Bởi vì, Thiên Chúa đã cứu dân Do Thái được Ngài tuyển chọn làm dân riêng của Ngài khỏi Ai Cập - tiêu biểu cho thân phận nô lệ, một thân phận làm tôi cho thế gian và ma quỉ sau nguyên tội, để đưa họ vào Đất Hứa - tiêu biểu cho thân phận tự do làm con cái Thiên Chúa, một thân phận được tham phần vào sự sống thần linh viên trọn của Ngài.
Hành Hương Thánh Địa chính là Hành Hương về Đất Hứa hay đến Đất Hứa, một miền đất Canaan xưa kia của Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái, là để tái nhận thức và xác tín hơn nữa về thân phận làm con Thiên Chúa của Kitô hữu chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Làm Người, một Nhân Vật Giêsu Lịch Sử đã Giáng Sinh, Mạc Khải và Vượt Qua ở đó!
Day 3 - Ngày 14 Chúa Nhật
BIỂN HỒ GALILÊ (See of Galilee) cũng được gọi là Biển Hồ Tiberia (theo Phúc Âm Thánh Gioan và Luca), cũng là Biển Hồ Kinneret theo tiếng Do Thái, hay Biển Hồ Chinnereth trong Cựu Ước, một vùng Biển Hồ ở GALILÊ thuộc Miền Bắc Israel: một biển hồ có nước ngọt sâu thứ 1 trên thế giới, cũng là vùng biển hồ có độ sâu thứ 2 (khoảng 210 mét/meters hay 689 bộ/feet dưới mực nước biển) trên thế giới, sau Biển Chết cũng ở Israel thuộc miền nam sâu (392 mét/meters hay 1288 bộ/feet).
Ở Thánh Địa này có một sự rất lạ, đó là con Sông Dược Đăng (Jordan), nơi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả làm phép rửa thống hối, bao gồm cho cả chính Chúa Giêsu Kitô (Mathêu 3:13-17; Marco 1:9-11; Luca 3:21-22), một giòng nước chính ngạch ở Israel, một giòng nước về địa dư đã thực sự trở thành một lằn mức biên giới ở phía đông của Đất Hứa, nơi dân Do Thái, sau 40 năm vượt qua sa mạc, cũng đã phải vượt qua mới có thể chính thức vào được mảnh đất Thiên Chúa đã hứa với tổ phụ Abraham của họ (xem Sách Gio-Duệ toàn đoạn 3, một giòng nước dọc suốt 3 miền Giuđêa, Samaria và Galiêa của mảnh đất này, nối liền Biển Hồ Galilêa/Tiberia nước ngọt ở miền bắc và Biển Chết nước mặn ở miền nam.
Sự lạ về con Sông Dược Đăng này, một giòng nước nối liền Biển Hồ Tiberia ở Miền Bắc Galilêa nước ngọt với Biển Chết nước mặn ở Miền Nam Giuđêa, phải chăng ám chỉ giao ước Thiên Chúa đã tự hứa với tổ phụ Abraham về một dân tộc Israel là miêu duệ của ông, từ đứa con theo lời hứa của Thiên Chúa lại là chính đứa con ông đã phải lãnh nhận bằng tất cả đức tin tuân phục của mình, để nhờ đó nơi miêu duệ của ông tất cả mọi dân tộc khác trên thế giới mới được chúc phúc (xem Khởi Nguyên 22:15-18).
Như thế, có thể nói rằng Biển Chết nước mặn ở Miền Nam Giuđêa ám chỉ dân Do Thái, một miền nam toàn tòng Do Thái sinh sống, nơi có Đền Thánh và Thành Thánh Giêrusalem, giáo đô của Do Thái giáo, và cũng là miền đất thuộc Vương Quốc của Vua Đavít, vương phụ của Chúa Giêsu Kitô (xem Luca 1:32-33), và Biển Hồ Tibêria nước ngọt ở Miền Bắc Galiêa ám chỉ dân ngoại, vùng đất dân Do Thái sống lẫn lộn với đông đảo dân ngoại, xa vời với giáo đô Do Thái giáo, vùng đất thậm chí đã được gọi là "Galilêa của dân ngoại, một dân sống trong tăm tối" (Mathêu 4:15-16).
Nếu Chúa Kitô là "ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), khi bắt đầu sứ vụ thiên sai của mình, đã chọn Miền Bắc Galiêa tăm tối này để tỏ mình ra, như "ánh sáng chiếu trong tăm tối" (Gioan 1:5; Mathêu 4:16), và cuộc hành trình thiên sai của Người, theo bộ Phúc Âm Nhất Lãm, từ ngoại biên Galiêa xuống trọng tâm Giuđêa và kết thúc ở Giêrusalem là tâm điểm Do Thái giáo, thì phái đoàn hành hương TĐCTT cũng bắt đầu Hành Trình Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua của mình, từ Galiêa (từ Thứ Bảy 13/4 đến Thứ Hai 15/4) về Giêrusalem (từ Thứ Bảy 15/5 đến Thứ Hai 22/4), có thể nói Hành Trình Thánh Địa của Nhóm TĐCTT muốn tái diễn một phần nào Hành Trình Giêrusalem của Chúa Giêsu Kitô vậy...
14 Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.15 Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng."
35 Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.36 Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm.37 Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy! "38 Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó."39 Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.
14 Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận.15 Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh.
40 Trong dân chúng, có những người nghe các lời ấy thì nói: "Ông này thật là vị ngôn sứ."41 Kẻ khác rằng: "Ông này là Đấng Ki-tô." Nhưng có kẻ lại nói: "Đấng Ki-tô mà lại xuất thân từ Ga-li-lê sao?42 Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao? "43 Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ.44 Một số trong bọn họ muốn bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt. 45 Các vệ binh trở về với các thượng tế và người Pha-ri-sêu. Họ liền hỏi chúng: "Tại sao các anh không điệu ông ấy về đây? "46 Các vệ binh trả lời: "Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy! "47 Người Pha-ri-sêu liền nói với chúng: "Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê hoặc rồi sao?48 Trong hàng thủ lãnh hay trong giới Pha-ri-sêu, đã có một ai tin vào tên ấy đâu?49 Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa! "50 Trong nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Ni-cô-đê-mô, trước đây đã đến gặp Đức Giê-su; ông nói với họ:51 "Lề Luật của chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không? "52 Họ đáp: "Cả ông nữa, ông cũng là người Ga-li-lê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Ga-li-lê cả."53 Sau đó, ai nấy trở về nhà mình.
50 Khi ấy có một người tên là Giô-xếp, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương thiện, công chính.51 Ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng. Ông là người thành A-ri-ma-thê, một thành của người Do-thái, và cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa.52 Ông đến gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su.53 Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ.54 Hôm ấy là áp lễ, và ngày sa-bát bắt đầu ló rạng. 55 Cùng đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào. 56 Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền.
16 Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá.17 Người bảo họ: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá."18 Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
1 Một hôm, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa.2 Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới.3 Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông. 4 Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá."5 Ông Si-môn đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới."6 Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới.7 Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
1 Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ. Một đám người rất đông tụ họp chung quanh Người, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi dưới biển, còn toàn thể đám đông thì ở trên bờ.2 Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều. Trong lúc giảng dạy, Người nói với họ: 3 "Các người nghe đây! Người gieo giống đi ra gieo giống.
35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Chúng ta sang bờ bên kia đi! "36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người.37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ.
23 Đức Giê-su xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người.24 Bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ.25 Các ông lại gần đánh thức Người và nói: "Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất! "26 Đức Giê-su nói: "Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin! " Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ. 27 Người ta ngạc nhiên và nói: "Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? "
1 Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a.2 Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm.3 Đức Giê-su lên núi và ngồi đó với các môn đệ.4 Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái. 5 Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây? "
16 Chiều đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ,17 rồi xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giê-su chưa đến với các ông.18 Biển động, vì gió thổi mạnh.19 Khi đã chèo được chừng năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Đức Giê-su đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ.20 Nhưng Người bảo các ông: "Thầy đây mà, đừng sợ! "21 Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.
1 Sau đó, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này.2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau.3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
THÀNH CAPHANAUM, trung tâm mục vụ của Chúa Giêsu ở Galilea
Carphanaum là một thành thị bắt đầu có từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, cho tới thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên. Nó nằm trên bờ Biển Hồ Galilea, với dân cư trên dưới 1500 người. Di tích còn lại của thành thị này từ hồi Chúa Giêsu nằm ở phía bắc của Biển Hồ Galilea.
Thành Carphanaum này đã được Chúa Giêsu chọn làm tâm điểm cho thừa tác vụ thiên sai của Người ở Galilea, miền bắc Nước Do Thái, một miền bắc không thuần Do Thái như miền nam Giudea, mà là sống chung đụng với dân ngoại rất nhiều, nên dân Chúa ở miền này có thể bị lai căng về đạo giáo, đến độ, Galilea nói chung đã trở thành miền đất của dân ngoại, miền đất tăm tối, cần được ánh sáng chiếu soi ưu tiên hơn ở miền nam Giudea, như Thánh ký Mathêu đã ám chỉ về việc Chúa Giêsu Kitô bắt đầu công khai tỏ mình ra như sau:
12 Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê.13 Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li,14 để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a nói:15 Này đất Dơ-vu-lun, và đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan, hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại!16 Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. 17 Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần."
Theo Phúc Âm Thánh Mathêu, nếu Chúa Kitô bắt đầu xuất hiện ở Galilea thì Người cũng kết thúc cuộc đời trần thế của mình nói chung và sứ vụ thiên sai của Người nói riêng cũng ở Galilea:
16 Mười
một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông
đến.17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông
lại hoài nghi.18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông:
"Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.19 Vậy
anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,20 dạy bảo họ
tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày
cho đến tận thế."
Thành Carphanaum từ biển hồ nhìn vào và từ trên không trung nhìn xuống
11 Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.12 Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Ca-phác-na-um và ở lại đó ít ngày.
21 Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy.22 Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. 23 Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên24 rằng: "Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa! "25 Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này! "26 Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta.27 Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh! "28 Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.
29 Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo.30 Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà.31 Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
32 Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người.33 Cả thành xúm lại trước cửa.34 Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.
5 Khi Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin:6 "Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm."7Người nói: "Chính tôi sẽ đến chữa nó."
1 Sau khi đã nói hết những lời ấy cho dân chúng nghe, Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um.2 Một viên đại đội trưởng kia có người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm.3 Khi nghe đồn về Đức Giê-su, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông. 4 Họ đến gặp Đức Giê-su và khẩn khoản nài xin Người rằng: "Thưa Ngài, ông ấy đáng được Ngài làm ơn cho.5 Vì ông quý mến dân ta. Vả lại chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta."
Hội Đường được xây bởi đại đội trưởng Roma và ngôi nhà của chàng Simon Phêrô
1 Vài ngày sau, Đức Giê-su trở lại thành Ca-phác-na-um. Hay tin Người ở nhà,2 dân chúng tụ tập lại, đông đến nỗi trong nhà ngoài sân chứa không hết. Người giảng lời cho họ.3 Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giê-su một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng.4 Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống.5
1 Đức Giê-su xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình.2 Người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: "Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi! "
9 Bỏ nơi ấy, Đức Giê-su đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi! " Ông đứng dậy đi theo Người.
16 Chiều đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ,17 rồi xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giê-su chưa đến với các ông.18 Biển động, vì gió thổi mạnh.19 Khi đã chèo được chừng năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Đức Giê-su đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ.20 Nhưng Người bảo các ông: "Thầy đây mà, đừng sợ! "21 Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.
22 Hôm sau, đám đông dân chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy rằng ở đó chỉ có một chiếc thuyền và Đức Giê-su lại không cùng xuống thuyền đó với các môn đệ, nhưng chỉ có các ông đi mà thôi.23 Tuy nhiên, có những thuyền khác từ Ti-bê-ri-a đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn.24 Vậy khi dân chúng thấy Đức Giê-su cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Người.25 Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy? "26 Đức Giê-su đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.27 Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận."
20 Bấy giờ Người bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối: 21 "Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối.22 Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xi-đôn còn được xử khoan hồng hơn các ngươi.23 Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi ngươi mà được làm tại Xơ-đôm, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay.24 Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, đất Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn các ngươi."
Thành Tiberia (nam), gần Thành Carphanaum (bắc), cả hai đều ở bên Biển Hồ Tiberia hay Biển Hồ Galilea
(trong tấm hình trên đây chúng ta thấy cả hình ảnh Khách Sạn Leonardo Club Hotel ở Tiberia là nơi trú ngụ 2 đêm của phái đoàn hành hương TĐCTT)
Tàn tích của một Hội Đường từ thế kỷ thứ 2 (the ruins of the Second Centery Synagogue)
Tabgha
Tabgha nằm ở phía Tây Bắc Biển Hồ Galilea, địa điểm được cho rằng đã xẩy ra Phép Lạ Hóa Bánh ra nhiều do Chúa Giêsu thực hiện lần thứ nhất với 5 chiếc bánh và 2 con cá:
1 Sau đó,
Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a.2 Có
đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người
đã làm cho những kẻ đau ốm.3 Đức Giê-su lên núi và ngồi
đó với các môn đệ.4 Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại
lễ của người Do-thái.
5 Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng
đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây? "
13 Nghe
tin ấy, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng
biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người.14 Ra
khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng
thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ.
15 Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: "Nơi
đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các
làng mạc mua lấy thức ăn."16 Đức Giê-su bảo: "Họ không
cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn."
NUÍ BÁT PHÚC (the Mount of Beatitudes), nơi Chúa Giêsu giảng dạy các mối phúc đức trọn lành cho các tông đồ.
1 Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên.2 Người mở miệng dạy họ rằng: 3 "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
12 Trong những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa.13 Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ.14 Đó là ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô,15Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích,16 Giu-đa con ông Gia-cô-bê, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, người đã trở thành kẻ phản bội.
17 Đức Giê-su đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn18 đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. Những kẻ bị các thần ô uế quấy nhiễu cũng được chữa lành.19 Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người.
20 Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: "Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em"...
Nhà Thờ chính ở Cana (Cana Mass will be in the Main Church), nơi phái đoàn hành hương TĐCTT dâng Thánh Lễ Chúa Nhật ngày 14/4/2019.
Ngôi Nhà Thờ chính ở Cana này được gọi là Nhà Thờ Hôn Phối Ở Cana (the Wedding Church at Cana), hay đơn giản hơn là Nhà Thờ Hôn Phối (the Wedding Church),
hoặc còn có thể gọi là Nhà Thờ Hôn Phối Phanxicô, danh xưng ám chỉ Dòng Phanxicô là dòng xây Nhà Thờ này ở trung tâm tỉnh lỵ Kafr Kanna (Cana).
Ở chính vị thế của Nhà Thờ Hôn Phối Cana này
trước đây là một Hội Đường Do Thái có từ thế kỷ thứ 4 và thứ 5, và có cả các ngôi mộ dưới thời Đề Quốc Byzanntine trong thế kỷ 5 và thế kỷ 6.
Day 4 - Ngày 15 Thứ Hai
CANA, nơi Chúa Giêsu làm một dấu lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon hơn trước để các môn đệ tiên khởi tin vào Người
1 Ngày thứ
ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê.
Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su.2 Đức Giê-su và
các môn đệ cũng được mời tham dự.3 Khi thấy thiếu rượu,
thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: "Họ hết rượu rồi."4 Đức
Giê-su đáp: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến."5 Thân
mẫu Người nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo." 6 Ở
đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi
chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước.7 Đức
Giê-su bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi! " Và họ đổ đầy tới miệng.8 Rồi
Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc." Họ liền đem
cho ông.9 Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành
rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới
gọi tân lang lại10 và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon
trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu
ngon mãi cho đến bây giờ."11 Đức Giê-su đã làm dấu lạ
đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ
vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.12 Sau
đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Ca-phác-na-um và ở lại
đó ít ngày.
NÚI TABOR (the Mount Tabor), nơi Chúa Giêsu biến hình trước 3 môn đệ thân tín
1 Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.3 Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.4 Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a."5 Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! "6 Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.7 Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: "Chỗi dậy đi, đừng sợ! "8 Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi.
NAZARET, nơi Truyền Tin Lời Nhập Thể và cũng là quê quán của Vị Thiên Chúa Làm Người Giêsu Kitô
Nazarét ngày nay không còn phải là một thôn làng hẻo lánh của cô trinh nữ Maria ngày xưa nữa, mà là một thủ đô và là thành phố lớn nhất của Khu Vực Miền Bắc Israel, và được biệt danh là "Thủ Đô Ả Rập của Israel", vì vào năm 2017, dân số ở đây là 76,551 người, hầu hết là người Ả Rập có quốc tịch Do Thái, trong đó có 69% là tín đồ Hồi giáo và 30.9% là Kitô hữu.
Tấm hình Nazarét này được cho là ở vào thời điểm của Trinh Nữ Maria
26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét,27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.
39 Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê.40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
51 Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.52 Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.
16 Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh.17 Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng:18 Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức,19 công bố một năm hồng ân của Chúa.
9 Hồi ấy, Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan.
43 Hôm sau, Đức Giê-su quyết định đi tới miền Ga-li-lê. Người gặp ông Phi-líp-phê và nói: "Anh hãy theo tôi."44 Ông Phi-líp-phê là người Bết-xai-đa, cùng quê với các ông An-rê và Phê-rô. 45 Ông Phi-líp-phê gặp ông Na-tha-na-en và nói: "Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giê-su, con ông Giu-se, người Na-da-rét."46Ông Na-tha-na-en liền bảo: "Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được? " Ông Phi-líp-phê trả lời: "Cứ đến mà xem! "
53 Khi Đức Giê-su kể các dụ ngôn ấy xong, Người đi khỏi nơi đó.54 Người về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: "Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế?55 Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao?56 Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế? "57 Và họ vấp ngã vì Người. Nhưng Đức Giê-su bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi."58 Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.
19 Ông Phi-la-tô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: "Giê-su Na-da-rét, Vua dân Do-thái."20Trong dân Do-thái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng: Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp.21 Các thượng tế của người Do-thái nói với ông Phi-la-tô: "Xin ngài đừng viết: "Vua dân Do-thái", nhưng viết: "Tên này đã nói: Ta là Vua dân Do-thái"."22 Ông Phi-la-tô trả lời: "Ta viết sao, cứ để vậy! "
Nazarét tân thời đã trở thành thủ đô Miền Bắc Israel
Thánh Đường Truyền Tin (The Church of the Annunciation), nơi phái đoàn hành hương TĐCTT dâng Lễ riêng (private mass) vào lúc 9 giờ sáng Thứ Hai 15/4/2019
Ngôi Thánh Đường này được kiến thiết tại chính vị trí, theo truyền thống, xẩy ra biến cố Truyền Tin Lời Nhập Thể cho Trinh Nữ Maria thôn Nazarét. Ngôi NHà Thờ này có 2 tầng, được xây dựng vào năm 1969, trên vị trí của một ngôi nhà thờ có từ thời Đế Quốc Byzantine và thời Thánh Chiến. Ở tầng dưới có hang Truyền Tin (the Grotto of the Annunciation), nơi được cho là ngôi nhà nguyên thủy của bé Maria vào thời thơ ấu. Nhà Thờ này đã trở thành Tiểu Đền Thờ (a minor basilica), nơi thu hút chẳng những tín hữu Công giáo mà còn cả Kitô hữu Anh giáo và Chính Thống Đông Phương nữa.
Thành Meggido ở Đồng Bằng Esdraelon, một thành xẩy ra nhiều cuộc chiến tranh nhất trong lịch sử thế giới; ngày nay được LHQ công nhận là một trong những di sản của thế giới. Meggido chính là ARMAGEDDON, một địa danh được nhắc đến trong Sách Khải Huyền (16:12-16), nơi xẩy ra trận chiến quyết liệt cuối cùng trước tận thế.
12 Vị thứ sáu trút chén của mình xuống sông cả Êu-phơ-rát. Nước sông ấy liền khô cạn, để dọn đường cho các vua từ phương Đông tới.13 Bấy giờ từ miệng Con Mãng Xà, từ miệng Con Thú và từ miệng ngôn sứ giả, tôi thấy ba thần ô uế nhảy ra như những con ếch.14 Chúng quả là những thần khí của ma quỷ, chúng làm những dấu lạ và đi đến với vua chúa trên khắp cả thiên hạ, nhằm tập hợp họ lại để giao chiến trong Ngày lớn lao của Thiên Chúa Toàn Năng. -15 "Đây, Ta đến như kẻ trộm. Phúc thay kẻ canh thức và giữ áo mình, kẻo phải đi đứng trần truồng và bị người ta nhìn thấy sự loã lồ của mình! " -16 Chúng quy tụ họ tại một nơi, tiếng Híp-ri gọi là Hác-mơ-ghít-đô (Armageddon)
Khách Sạn Leonardo Hotel, tọa lạc tại Saint George St 9 - 9720911 Jerusalem, Israel / 972-2-532-0000, nơi phái đoàn hành hương TĐCTT sẽ trọ 7 đêm còn lại (15-21/4/2019)
Day 5 - Ngày 16 Thứ Ba
Nhà Thờ Mồ Thánh cũng được Kitô hữu Chính Thống giáo gọi là Nhà Thờ Phục Sinh (the Church of the Resurrection),
một nhà thờ trong khu vực của Kitô giáo của Cổ Thành Giêrusalem.
Ngôi Nhà Thờ Mồ Thánh này có 2 vị trí thánh:
1- vị trí Chúa Giêsu bị đóng đanh được biết đến là Canvê hay Núi Sọ, và
2- Ngôi Mộ Trống là nơi Người đươc táng xác và phục sinh.
Chính ở trong Nhà Thờ Mồ Thánh này có 4 chặng Đàng Thánh Giá cuối cùng.
NÚI CÂY DẦU (the Mount of Olives), nơi có thể ngắm nhìn toàn cảnh Thành Giêrusalem.
39 Rồi Người đi ra núi Ô-liu như đã quen. Các môn đệ cũng theo Người.40 Đến nơi, Người bảo các ông: "Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ." 41 Rồi Người đi xa các ông một quãng, chừng bằng ném một hòn đá, và quỳ gối cầu nguyện rằng:42 "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha."43 Bấy giờ có thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người.44 Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất. 45 Cầu nguyện xong, Người đứng lên, đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ vì buồn phiền,46 Người liền nói với các ông: "Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ."
Nguyện Đường Thăng Thiên (the Chapel of the Ascension)
Nguyện Đường Thăng Thiên này là một đền thánh ở trên Núi Cây Dầu,
và vị trí của Nguyện Đường này được tin tưởng là nơi Chúa Kitô Thăng Thiên,
trong đó còn có cả một phiến đá được cho rằng đã in dấu chân của Người.
Nhà Thờ Kinh Lạy Cha (the Church of Pater Noster)
Nhà Thờ Kinh Lạy Cha này ở trên Núi Cây Dầu. Nó là một phần của đan viện Carmêlô.
VƯỜN NHIỆT (The Garden of Gethsemane), nơi Chúa Giêsu Kitô bắt đầu cuộc khổ nạn và tử giá của Người vào Đêm Thứ Năm Tuần Thánh
36 Bấy giờ Đức Giê-su đi cùng với các ông đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Người nói với các môn đệ: "Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện."37 Rồi Người đưa ông Phê-rô và hai người con ông Dê-bê-đê đi theo. Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến.38 Bấy giờ Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy."39 Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha."40 Rồi Người đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ, liền nói với ông Phê-rô: "Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao?41 Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn."42 Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai và nói: "Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha."43 Rồi Người lại đến, thấy các môn đệ vẫn đang ngủ, vì mắt họ nặng trĩu.44 Người để mặc các ông mà đi cầu nguyện lần thứ ba, nói lại cũng một lời đó.45 Bấy giờ Người đến chỗ các môn đệ và nói với các ông: "Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi.46 Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới! "
THUNG LŨNG KIDRON
13 Người đưa tin đến nói với vua Đa-vít: "Lòng người Ít-ra-en đã theo Áp-sa-lôm."14 Vua Đa-vít bảo toàn thể triều thần ở với vua tại Giê-ru-sa-lem: "Đứng lên! Chúng ta chạy trốn đi, vì chúng ta sẽ không thoát được Áp-sa-lôm. Đi cho mau, kẻo chẳng mấy chốc nó đuổi kịp chúng ta, giáng tai hoạ xuống chúng ta và dùng lưỡi gươm giết dân thành."15 Triều thần thưa với vua: "Đức vua là chúa thượng chọn cái gì, các tôi tớ ngài đây xin sẵn sàng! "16 Vua đi ra và cả nhà theo chân, nhưng vua để lại mười người tỳ thiếp để giữ nhà.17 Vua đi ra và toàn dân theo chân, họ dừng lại ở ngôi nhà cuối cùng.18 Toàn thể triều thần đi qua, sát bên cạnh vua, tất cả quân Cơ-rê-thi, tất cả quân Pơ-lê-thi và tất cả quân Gát -tức là sáu trăm người đã theo chân vua từ Gát đến- đi qua trước mặt vua.19 Vua nói với ông Ít-tai, người Gát: "Tại sao cả ngươi nữa cũng đi với chúng ta? Hãy trở về và ở với nhà vua, bởi vì ngươi là người nước ngoài, ngươi còn bỏ quê hương mà sống lưu vong.20 Ngươi mới đến hôm qua, mà hôm nay ta lại bắt ngươi phải đi lang thang với chúng ta, trong khi ta đi mà chẳng biết đi đâu! Hãy trở về và đưa các anh em ngươi trở về cùng với ngươi. Xin ĐỨC CHÚA lấy tình thương và lòng thành tín mà đối xử với ngươi."21 Ông Ít-tai trả lời vua rằng: "Có ĐỨC CHÚA hằng sống và có đức vua là chúa thượng tôi đang sống, tôi thề: đức vua là chúa thượng tôi ở đâu, thì dù sống dù chết, tôi tớ ngài cũng ở đó! "22 Vua Đa-vít bảo ông Ít-tai: "Hãy đi qua! " Ông Ít-tai, người Gát, đã đi qua cùng với tất cả những người của ông và mọi trẻ con theo ông.23 Cả xứ khóc to tiếng và toàn dân đi qua. Vua đi qua thung lũng Kít-rôn, và toàn dân đi qua phía trước con đường vào sa mạc.
4 Vua truyền cho thượng tế Khin-ki-gia-hu, cho các tư tế bậc hai và các tư tế canh ngưỡng cửa, phải đem ra khỏi đền thờ ĐỨC CHÚA mọi đồ vật đã làm để kính thần Ba-an, thần A-sê-ra và toàn thể thiên binh. Vua thiêu huỷ các đồ vật đó ở ngoài Giê-ru-sa-lem, trong các cánh đồng Kít-rôn, rồi đem tro về Bết Ên.5 Vua dẹp bỏ hàng tư tế bất hợp pháp mà các vua Giu-đa đã lập; chúng đã đốt hương trên các tế đàn ở nơi cao, trong các thành của Giu-đa và vùng ngoại ô Giê-ru-sa-lem; vua cũng đã dẹp bỏ những kẻ đốt hương kính thần Ba-an, kính mặt trời, mặt trăng, các chòm sao và toàn thể thiên binh.6 Vua đưa cột thờ ra khỏi Nhà ĐỨC CHÚA, khỏi Giê-ru-sa-lem, đưa đến thung lũng Kít-rôn; vua thiêu huỷ cột thờ đó trong thung lũng Kít-rôn, biến thành tro, rồi vứt tro ấy vào mồ tập thể.7 Vua phá huỷ những nơi chứa trai điếm trong Nhà ĐỨC CHÚA, nơi phụ nữ dệt khăn áo cho thần A-sê-ra.
38 Này sẽ tới những ngày - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - thành đô sẽ được xây dựng lại để kính ĐỨC CHÚA, từ tháp Kha-nan-ên đến Cổng Góc.39 Dây đo vẫn giăng thẳng cho tới đồi Ga-rếp, rồi quẹo về phía Gô-a.40 Tất cả thung lũng chôn tử thi và đổ tro thiêu xác, tất cả vùng đất cho đến suối Kít-rôn, mãi tới góc Cửa Ngựa ở phía Đông, đều là của thánh thuộc về ĐỨC CHÚA. Đến muôn đời thành sẽ không bị nhổ đi và không bị phá đổ.
1 Sau khi nói những lời đó, Đức Giê-su đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kít-rôn. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với các môn đệ đi vào.2 Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ.
Nhà Thờ Chư Quốc (the Church of All Nations)
Nhà Thờ này ở trên nền của 2 nhà thờ trước đó, được xây từ năm 1922 và được cung hiến vào tháng 6/1924.
BÊLEM (Luca 2:1-20), nơi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14), "được bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ" (Luca 2:12)
Bêlem là quê quán của Vua Đavít, nơi đã được Rehoboam là miêu duệ của vua xây dựng nên một trong những thành trì ở Giuđêa, nơi sau này trở thành sinh quán của Chúa Giêsu Kitô. Bêlem ở về phía nam Thành Giêrusalem, cách khoảng 10 cây số hay 6.2 dặm đường, với dân số khoảng 25 ngàn, đa số là tín đồ Hồi giáo.
1Samuel 16: Xức dầu Ðavit
1 Yavê phán với Samuel: "Ðến bao giờ nữa ngươi còn than khóc Saul, trong khi Ta đã phế bỏ nó, khiến nó hết được làm vua trên Israel? Hãy đổ đầy sừng dầu của ngươi mà đi. Ta muốn sai ngươi đến với Ysai, người Bêlem, vì Ta đã kén lấy một người con của nó làm vua". 2 Samuel thưa: "Ði thế nào? Saul nghe biết được, nó giết tôi mất!" Nhưng Yavê nói: "Ngươi sẽ dắt nơi tay một con bê cái và nói: Tôi đến để tế lễ kính Yavê. 3 Ngươi sẽ mời Ysai dự lễ tế, còn Ta, Ta sẽ cho ngươi biết ngươi phải làm gì, ngươi sẽ xức dầu cho Ta kẻ Ta sẽ nói cho ngươi hay". 4 Samuel đã thi hành điều Yavê phán dạy, ông đến Bêlem, và các kỳ mục trong thành đã run sợ mà ra đón ông. Họ nói: "Ngài đến, phải chăng là bình an?" 5 Ông nói: "Bình an! Tôi đến để tế lễ cho Yavê, các ngươi hãy thánh tẩy mình đi và các ngươi sẽ đến dự lễ với tôi". Ông đã thánh tẩy Ysai và con cái; ông đã mời họ dự lễ tế.
1 Về tới Giê-ru-sa-lem, vua Rơ-kháp-am tập họp nhà Giu-đa và chi tộc Ben-gia-min, được một trăm tám mươi ngàn quân tinh nhuệ để giao chiến với Ít-ra-en và thu hồi vương quốc về cho Rơ-kháp-am.2 Nhưng có lời ĐỨC CHÚA phán với ông Sơ-ma-gia-hu, người của Thiên Chúa rằng:3 "Hãy nói với Rơ-kháp-am con của Sa-lô-môn vua Giu-đa, với toàn thể Ít-ra-en tại Giu-đa và tại Ben-gia-min rằng:4 "ĐỨC CHÚA phán thế này: Các ngươi không được lên giao chiến chống anh em các ngươi; ai nấy cứ về nhà mình, vì mọi chuyện là do Ta." Họ nghe lời ĐỨC CHÚA, và quay về, không đi đánh vua Gia-róp-am nữa. 5 Vua Rơ-kháp-am ngự tại Giê-ru-sa-lem và xây dựng một số thành trì kiên cố tại Giu-đa.6 Các thành đó là: Bê-lem, Ê-tham, Tơ-cô-a,7 Bết Xua, Xô-khô, A-đu-lam,8 Gát, Ma-rê-sa, Díp,9 A-đô-ra-gim, La-khít, A-dê-ca,10 Xo-rơ-a, Ai-gia-lôn, và Khép-rôn. Các thành ở Giu-đa và Ben-gia-min này đều là những thành trì vững chắc.11 Vua củng cố các thành trì ấy, đặt trấn thủ, lập kho dự trữ lương thực, dầu và rượu.12 Thành nào cũng có nhiều khiên thuẫn, giáo mác, và lực lượng được tăng cường tối đa. Thế là Giu-đa và Ben-gia min hoàn toàn thần phục vua.
1 Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en. Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa.
1 Thời ấy,
hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.2 Đây
là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ
Xy-ri.3 Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi.4 Bởi
thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên
thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng
tộc vua Đa-vít.5 Ông lên đó khai tên cùng với người đã
thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai.6 Khi
hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.7 Bà
sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà
không tìm được chỗ trong nhà trọ.
15 Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về
trời, những người này bảo nhau: "Nào chúng ta sang
Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết."16 Họ
liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt
nằm trong máng cỏ.17 Thấy thế, họ liền kể lại điều đã
được nói với họ về Hài Nhi này.18 Nghe các người chăn
chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.19 Còn bà Ma-ri-a
thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.20 Rồi
các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều
họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
MỘ BÀ RACHEL (Rachel's Tomb), người vợ được tổ phụ Giacóp yêu dấu, mẹ của Giuse và Benjamin, 2 đứa con út trong 12 anh em của tổ phụ Giacóp
16 Cả đoàn rời Bết Ên lên đường. Khi họ còn cách Ép-ra-tha một quãng đường, thì bà Ra-khen đến ngày sinh, nhưng lại gặp khó khăn.17 Trong lúc bà khó sinh, cô đỡ nói với bà: "Bà đừng sợ, bà lại được một con trai nữa! "18 Khi bà thở hắt ra, vì đang hấp hối, thì đặt tên cho con là Ben Ô-ni, nhưng cha nó lại đặt tên là Ben-gia-min.19 Bà Ra-khen qua đời và được chôn trên con đường đi Ép-ra-tha, tức là Bê-lem.20 Ông Gia-cóp dựng một bia đá trên mộ bà, đó là bia mộ bà Ra-khen, vẫn còn cho đến ngày nay.
Nhà Thờ Giáng Sinh. (the Church of the Nativity)
Nhà Thờ Giáng Sinh, cũng là Đền Thờ Giáng Sinh (Basilica of the Nativity) là một đền thờ ở Bêlem thuộc vùng Tây Ngạn (the West Bank). Hang Giáng Sinh là địa điểm xưa nhất được liên tục sử dụng như là một nơi thờ phượng của Kitô giáo và đền thờ này là nhà thờ chính cổ kính nhất Thánh Địa.
Ngôi nhà thờ này nguyên thủy được truyền xây dựng vào năm 327 bởi đại đế Constantine và bà Helena là mẹ của ông, và được hoàn tất vào thời điểm giữa năm 333-339. Nó được tiêu hủy bởi lửa trong các cuộc nổi loạn của người Samaritano hồi thế kỷ thứ 6, nhưng hoàng đến Byzantine là Justinian đã tái thiết ngôi tân đền thờ vào năm 565.
Từ đó, đền thờ này được thêm thắt và nới rộng, và ngày nay rộng khoảng 12 mét vuông, bao gồm cả 3 đan viện khác nhau, một của Chính Thống giáo Hy Lạp, 1 của Giáo Hội Armenia và 1 của Công giáo Roma.
Ngôi sao bạc (the silver star) là cái đánh dấu vị trí Chúa Kitô giáng sinh đã bị đánh cắp vào năm 1847. Nhà Thờ Giáng Sinh này được Liên Hiệp Quốc (UNESCO) liệt kê di sản thế giới đầu tiên.
CÁNH ĐỒNG BÊLEM hay Cánh Đồng Mục Tử (Shepherd's Field)
8 Trong
vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng
và thức đêm canh giữ đàn vật.9 Bỗng sứ thần Chúa đứng
bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi
hùng.10 Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi
báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân:11 Hôm
nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng
Ki-tô Đức Chúa.12 Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người:
anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ."13 Bỗng
có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:
14 "Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương."
Day 6 - Ngày 17 Thứ Tư
Nhà Thờ Betania
(Bethany Main Church), nơi
Nhà Thờ Thánh Lazaro được xây cất rất gần với vị trí ngôi mộ của Lazarô và nhà của 3 chị em Matta, Maria và Lazaro.
Nhà Thờ được phác họa bởi một kiến trúc sư người Ý là Antonio Bartuzzi, và vào năm 1952-1953 được dâng hiến cho Thánh Lazarô.
LÀNG BÊTANIA, nơi có ngôi mộ của Lazarô, người anh em của chị em Matta và Maria
1 Có một
người bị đau nặng, tên là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a,
làng của hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a.2 Cô Ma-ri-a là
người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh La-da-rô,
người bị đau nặng, là em của cô.3 Hai cô cho người đến
nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng."4 Nghe
vậy, Đức Giê-su bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ
vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh."
5 Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô
Ma-ri-a và anh La-da-rô.
38 Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà.39 Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy.40 Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay! "41 Chúa đáp: "Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!42 Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi."
1 Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a, nơi anh La-da-rô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết.2 Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giê-su; cô Mác-ta lo hầu bàn, còn anh La-da-rô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người.3 Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm.
50 Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông.51 Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời.52 Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ,53 và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
1 Khi Đức Giê-su và các môn đệ đến gần thành Giê-ru-sa-lem, gần làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ2 và bảo: "Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây.3 Nếu có ai bảo: "Tại sao các anh làm như vậy? ", thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay."
12 Hôm sau, khi thầy trò rời khỏi Bê-ta-ni-a, thì Đức Giê-su cảm thấy đói.13 Trông thấy ở đàng xa có một cây vả tốt lá, Người đến xem có tìm được trái nào không. Nhưng khi lại gần, Người không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi, vì không phải là mùa vả.14 Người lên tiếng bảo cây vả: "Muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa! " Các môn đệ đã nghe Người nói thế.
THÀNH GIÊRICÔ, nơi được cho là một thành cổ nhất thế giới.
13 Vậy, khi ở gần Giê-ri-khô, ông Giô-suê ngước mắt nhìn, thì này có người đứng đối diện với ông, tay cầm gươm trần. Ông Giô-suê đến gần người ấy và nói: "Ông về phe chúng tôi hay về phe địch? "14 Người ấy nói: "Không, ta là tướng chỉ huy đạo binh của ĐỨC CHÚA, bây giờ ta đến. .." Ông Giô-suê sấp mặt xuống đất, sụp lạy và nói: "Ngài muốn dạy tôi tớ ngài điều gì? "15 Vị tướng chỉ huy đạo binh của ĐỨC CHÚA nói với ông Giô-suê: "Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh! " Và ông Giô-suê đã làm như vậy.
1 Giê-ri-khô đóng kín cổng thành, phòng thủ chống lại con cái Ít-ra-en: nội bất xuất, ngoại bất nhập.2 ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê: "Xem đây! Ta nộp vào tay ngươi thành Giê-ri-khô, vua và các dũng sĩ của thành ấy.3 Các ngươi, tất cả những người tham chiến, các ngươi sẽ đi vòng quanh thành, đi chung quanh thành một lần; (các) ngươi sẽ làm như vậy sáu ngày.4 Bảy tư tế sẽ cầm bảy cái tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia. Ngày thứ bảy, các ngươi sẽ đi vòng quanh thành bảy lần, và các tư tế sẽ thổi tù và.5 Khi tù và bằng sừng cừu rú lên, khi các ngươi nghe tiếng tù và, thì toàn dân lớn tiếng hò reo xung trận. Bấy giờ tường thành sẽ sụp đổ tại chỗ; dân chúng ai nấy cứ thẳng trước mặt mình mà tiến lên."
22 Ông
Giô-suê nói với hai người đã đi do thám trong xứ: "Hãy vào nhà người kỹ nữ, và
đem người đàn bà ấy cũng như mọi người thân thuộc của cô ra khỏi đó, theo như
anh em đã thề hứa với cô."23 Vậy các người thanh niên do
thám vào nhà cô Ra-kháp, và đem cô ra khỏi đó cùng với cha mẹ, anh em cô và mọi
người thân thuộc của cô; họ đem tất cả thị tộc của cô ra khỏi đó, và cho họ ở
bên ngoài trại Ít-ra-en. 24 Rồi họ phóng hoả đốt thành
cũng như tất cả những gì trong đó; ngoại trừ vàng bạc và những đồ đồng, đồ sắt,
thì người ta nộp vào kho tàng nhà ĐỨC CHÚA.25 Nhưng cô
kỹ nữ Ra-kháp cùng với gia đình cha cô và mọi người thân thuộc của cô, thì ông
Giô-suê để cho sống. Cô ở giữa dân Ít-ra-en cho đến ngày nay, vì cô đã giấu sứ
giả ông Giô-suê sai đi do thám Giê-ri-khô.
26 Thuở ấy, ông Giô-suê bắt phải thề rằng: "Trước nhan
ĐỨC CHÚA, khốn cho kẻ đứng lên tái thiết thành
Giê-ri-khô này! Kẻ nào đào móng dựng nền, thì con đầu lòng của nó phải
chết; kẻ nào dựng cổng xây tường, thì con út của nó phải mạng vong! "
29 Khi Đức Giê-su và môn đệ ra khỏi thành Giê-ri-khô, dân chúng lũ lượt đi theo Người.30 Và kìa có hai người mù ngồi ở vệ đường, vừa nghe Đức Giê-su đi ngang qua đó, liền kêu lên rằng: "Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương chúng tôi! "31 Đám đông quát nạt, bảo họ im đi, nhưng họ càng kêu lớn hơn nữa: "Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương chúng tôi! "32 Đức Giê-su dừng lại, gọi họ đến và nói: "Các anh muốn tôi làm gì cho các anh? "33 Họ thưa: "Lạy Ngài, xin cho mắt chúng tôi được mở ra! "34 Đức Giê-su chạnh lòng thương, sờ vào mắt họ; tức khắc, họ nhìn thấy được và đi theo Người.
29 Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi? "30 Đức Giê-su đáp: "Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết.31 Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi.32 Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi.33Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương.34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc.35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác."36 Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? "37 Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy." Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."
1 Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy.2 Ở đó có một người tên là Da-kêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có.3 Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn.4 Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó.5 Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: "Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông! "6 Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.7 Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ! "8 Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn."9 Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham.10 Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất."
SUỐI NƯỚC ELISHA (Elisha's Spring)
"Người trong thành nói với ông Ê-li-sa: 'Như ngài thấy đó, địa thế của thành thì tốt, nhưng nước thì độc và xứ sở bị nạn vô sinh'. Ông Ê-li-sa bảo: 'Lấy cho tôi một cái tô mới và bỏ muối vào đó'. Họ đi lấy cho ông. Ông đi ra suối nước, đổ muối xuống và nói: 'ĐỨC CHÚA phán thế này: Ta làm cho nước hoá lành, và nước này sẽ không còn gây chết chóc và nạn vô sinh nữa'. Và nước hoá lành cho đến ngày nay, theo lời ông Ê-li-sa đã nói" (2Chư Vương 2:19-22)
NUÍ CÁM DỖ.
1 Bấy giờ
Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ.2 Người
ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói.3 Bấy
giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho
những hòn đá này hoá bánh đi! "4 Nhưng Người đáp: "Đã có
lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng
Thiên Chúa phán ra."
5 Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người
trên nóc đền thờ,6 rồi nói với Người: "Nếu ông là Con
Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền
cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân
vào đá."
7 Đức Giê-su đáp: "Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi
chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi."
8 Quỷ lại đem Người lên một
ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh
hoa lợi lộc của các nước ấy,9 và bảo rằng: "Tôi sẽ cho
ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi."10 Đức
Giê-su liền nói: "Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy
Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi."
11 Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến
đến hầu hạ Người.
Biển Chết (the Dead Sea) có độ sâu 1288 bộ/feet hay 393 mét/meters dưới mực nước biển, địa điểm của 2 thành Sodoma và Gomorra đã bị Thiên Chúa trừng phạt bằng lửa ngày xưa (Khởi Nguyên 18:20; 19:1-29).
Biển Chết có độ mặn tới nỗi không một sinh vật nào có thể tồn tại, và bất cứ ai không biết bơi vẫn có thể tự bơm như ai, thậm chí có thể nằm ngửa ra đọc báo thoải mái như nằm trên giường, và họ có muốn bị chết chìm cũng không được.
Tính chất mặn muối ở Biển Chết, vì chính là nơi của 2 thành Sodoma và Gomorra ngày xưa bị hủy diệt mà tính chất muối quá mặn ở Biển Chết này có thể là chứng cớ về trường hợp vợ ông Lót, trong khi chạy ra khỏi thành để thoát nạn với chung gia đình, bởi quay trở lại thành của mình đã bị trở thành tượng muối (Khởi Nguyên 19:26)?!
Hang Động Qumran (Caves of Qumran), nơi một số bản ghi chép Thánh Kinh đã được khám phá ra ở ngay Vùng Biển Chết (Dead Sea Scrolls)
NÚI NEBO (Mount Nebo), nơi Moisen đã được Thiên Chúa cho đứng ngắm nhìn toàn thể Đất Hứa, nhưng đích thân của ông lại không được vào và phải chôn thây ở núi này, ám chỉ vị cứu tinh dân Do Thái Moisen này, tiền thân của Đấng Cứu Thế (Đệ Nhị Luật 18:15), cả sống lẫn chết, đều trổi vượt, đều ở trên núi cao: lên núi nhận 2 bia đá lề luật và chết chôn trên núi.
1 Từ đồng
bằng Mô-áp, ông Mô-sê lên núi Nơ-vô, tới
Pít-ga, đối diện với Giê-ri-khô, và ĐỨC CHÚA
cho ông xem thấy tất cả miền đất: miền Ga-la-át cho đến Đan,2 tất
cả Náp-ta-li, miền đất Ép-ra-im và Mơ-na-se, tất cả miền đất Giu-đa cho đến Biển
Tây,3 miền Ne-ghép, vùng sông Gio-đan, thung lũng
Giê-ri-khô là thành Chà Là, cho đến Xô-a.4ĐỨC CHÚA phán với ông: "Đây
là miền đất Ta đã thề hứa với Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, khi nói: "Ta sẽ ban
đất ấy cho dòng dõi ngươi. Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không
được qua đó."
5 Ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, qua đời tại đó,
trong đất Mô-áp, theo lệnh ĐỨC CHÚA.6 Ông được mai táng
trong thung lũng, ở miền đất Mô-áp, đối diện với Bết Pơ-o. Cho đến ngày hôm nay,
không ai biết mộ ông ở đâu.7 Khi chết, ông Mô-sê thọ một
trăm hai mươi tuổi, mắt không mờ, khí lực không giảm.8 Con
cái Ít-ra-en khóc ông Mô-sê trong đồng bằng Mô-áp ba mươi ngày; rồi những ngày
than khóc thọ tang ông Mô-sê chấm dứt.9 Ông Giô-suê, con
ông Nun, đã được đầy thần khí khôn ngoan, vì ông Mô-sê đã đặt tay trên ông. Con
cái Ít-ra-en nghe ông và làm như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.
10 Trong Ít-ra-en, không còn xuất hiện một ngôn sứ nào
như ông Mô-sê, người mà ĐỨC CHÚA biết rõ, mặt giáp mặt.11 ĐỨC
CHÚA đã sai ông thực hiện mọi điềm thiêng dấu lạ tại nước Ai-cập, phạt Pha-ra-ô
cùng tất cả bề tôi và cả nước.12 Ông Mô-sê đã biểu dương
tất cả sức mạnh bàn tay ông và gây tất cả nỗi kinh hoàng lớn lao trước mắt toàn
thể Ít-ra-en.
1 Theo các hồ sơ lưu trữ, người ta biết rằng ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã truyền cho những người bị lưu đày phải cất giữ lửa như đã chỉ.2 Sau khi trao sách Luật cho những người bị phát lưu, ngôn sứ đã chỉ thị cho họ không được quên những mệnh lệnh của Đức Chúa và không được để cho tâm trí ra lầm lạc khi nhìn thấy các tượng bằng vàng, bằng bạc và đồ trang trí các tượng ấy.3 Ông cũng dùng những lời tương tự để khuyến khích họ đừng sao nhãng Lề Luật.4 Cũng bản văn ấy còn cho biết là vị ngôn sứ được báo mộng, đã truyền phải đưa Lều và Hòm Bia cùng đi với ông lên núi ông Mô-sê đã lên để nhìn ngắm cơ nghiệp của Thiên Chúa.5 Khi đến đó, ông Giê-rê-mi-a gặp thấy một cái nhà giống hình một cái hang; ông đưa Lều, Hòm Bia và bàn thờ dâng hương vào đấy, rồi bít cửa lại.6 Sau đó, một số người đồng hành với ông tính trở lại để ghi dấu đường, nhưng không tìm ra.7 Biết chuyện ấy, ông Giê-rê-mi-a trách mắng họ: "Nơi ấy chẳng ai được biết cho đến khi Thiên Chúa tập hợp dân lại và tỏ lòng thương xót họ.8 Bấy giờ Đức Chúa sẽ cho thấy tất cả những thứ đó: vinh quang của Đức Chúa và đám mây sẽ xuất hiện, như dưới thời ông Mô-sê, cũng như sau này dưới thời vua Sa-lô-môn, khi vua cầu cho lễ thánh hiến Đền Thờ được cử hành long trọng."
Day 7 - Ngày 18 Thứ Năm Tuần Thánh
Cổ Thành Giêrusalem (the Old City of Jerusalem)
Cổ Thành Giêrusalem là nơi linh thiêng của tam giáo độc thần là Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giao. Do Thái giáo có Núi Đền Thờ (the Temple Mount) và Bức Tường Phía Tây (Western Wall) cũng gọi là Bức Tường Khóc (Wailing Wall); Kitô giáo có Nhà Thờ Mộ Thánh (the Holy Sepulchre); và Hồi giáo có Ngôi Vòm Thạch và Đền al-Aqsa.
Trước đây Cổ Thành Giêrusalem được chia ra làm 4 phần: Hồi giáo, Kitô giáo, Armenia và Do Thái. Sau Trận Chiến 1948 giữa Ả rập và Israel, cổ thành này bị Jordan chiếm, không cho người Do Thái ở. Trong Trận Chiến 6 Ngày vào năm 1967 với trận đáng sáp lá cà ở Núi Đền Thờ, cổ thành được Israel chiếm cùng với hầu hết phía đông của thành Giêrusalem, sau đó họ sát nhập vào lãnh thổ của Do Thái.
Ngày nay người Do Thái kiểm soát toàn thể khu vực này, một khu vực được coi như thuộc về thủ đô của quốc gia họ. Tuy nhiên, theo Luật Giêrusalem (the Jerusalem Law) năm 1980 giành phía Đông cho Israel đã bị hủy bởi Quyết Nghị 478 của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, và phía đông này trở thành lãnh thổ của dân Palestine.
Thánh Thánh Giêrusalem và Đền Thánh Giêrusalem, theo bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm, đã đích điểm của Hành Trình Thiên Sai của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đi từ ngoại biên Galilêa tiến về đó để thực hiện cuộc Vượt Qua cứu độ của mình, nhưng theo Phúc Âm Thánh Gioan, một Phúc Âm trình thuật mạc khải về thần tính của "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), như "ánh sáng chiếu trong tăm tối" (Gioan 1:5), "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), thì Thành và Đền Thánh Giêrusalem chính là địa bàn tỏ mình ra chính yếu của Người.
Thật vậy, vẫn biết cả bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm và Phúc Âm Thánh Gioan đều lấy Giêrusalem làm tâm điểm cho sứ vụ thiên sai của Chúa Giêsu Kitô. Nhưng Hành Trình Giêrusalem của Chúa Giêsu theo bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm lại trở thành một Hành Trình Zic Zac theo Phúc Âm Thánh Gioan, một Hành Trình Zic Zac được diễn tiến thứ tự như sau: ở Giuđêa (1:43); về Cana - Galilêa (2:1); lên Giêrusalem (2:13), ở Giuđêa (3:22); về Galiêa (4:3), qua Samaria (4:4); ở Galiêa (4:43) - Cana (4:46); lên Giêrusalem (5:1); đến Biển Hồ Galilêa ở Galilêa (6:1); lên Đền Thờ Giêrusalem (7:14), đến Sông Jordan ở Giuđêa (10:40), về Bêtania gần Giêrusalem (11:1, 12:1), lánh mặt miền hoang địa Ephreim ở Giuđêa (11:54), lên Giêrusalem (12:12) - lần lên Giêrusalem này Phúc Âm Thánh Gioan và bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm trùng hợp với nhau ở biến cố dân chúng hân hoan kéo nhau nghênh đón Chúa Kitô vào thành Giêrusalem; hiện ra tại Biển Hồ Tibêria ở Galiêa (21:1).
Nếu trong bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm, Người đã tỏ mình ra: 1- cho dân Do Thái chung sống với đông đảo dân ngoại; 2- bằng các giáo huấn khôn ngoan cùng với các phép lạ quyền năng; 3- ở Galiêa, miền đất "dân chúng đang sống trong tối tăm" (Mathêu 4:16), đặc biệt là ở Capharnaum, "thành của Người" (Mathêu Marco 6:1), thì ở Phúc Âm Thánh Gioan, Người đã tỏ mình ra: 1- cho dân Do Thái chính thống Do Thái giáo, bao gồm cả thành phần đầu mục lãnh đạo Do Thái giáo; 2- bằng chính những lời tự chứng của Người, kèm theo các "dấu lạ / signs"; 3- ở Giuđêa là miền đất chính thống Do Thái giáo, miền đất xuất hiện các vị tiên tri, nhất là ở Thành Thánh Giêrusalem là giáo đô của Do Thái giáo, đến độ Người đã tự đồng hóa thân xác của mình với chính Đền Thờ Giêrusalem (xem Gioan 2:19-21).
Theo Phúc Âm Thánh Gioan, Người thường trực ở Giuđêa hơn là ở Galilêa, nhất là ở Giêrusalem, vào các ngày lễ của dân Do Thái, để nhờ đó Người tỏ mình ra khi dân chúng đông đảo qui tụ về "Nhà Cha" của Người (Gioan 2:16; Luca 2:49). Không kể lần đầu tiên, vào năm 12 tuổi, cùng với cha mẹ Người đã lên Giêrusalem để mừng Lễ Vượt Qua, nhờ đó Người đã tỏ mình ra cho thành phần trí thức Do Thái giáo (xem Luca 2:41-42,45-47), Người đã từ từ tỏ mình vào các dịp lễ sau đây:
1- "Lễ Vượt Qua của người Do Thái": bằng việc thanh tẩy Đền Thờ (2:13-17);
2- "Một ngày lễ nghỉ của người Do Thái" (5:1): bằng chứng tự Người làm việc (nhất là cố ý vào chính ngày hưu lễ) đúng như Cha Người hằng làm việc luôn (5:17), việc thánh hóa;
3- "Lễ Lều của người Do Thái" (7:2): bằng chứng tự Người biết Người từ Cha mà đến (7:28-29);
4- "Lễ cung hiến Đền Thờ ở Giêrusalem" (10:22): bằng chứng tự Người và Cha là một (10:30).
Theo Phúc Âm Thánh Luca, Giêrusalem còn là nơi Chúa Giêsu đã căn dặn các tông đồ phải "ở lại thành này cho đến khi các con được mặc lấy quyền lực từ trên cao" (xem Luca 24:49; Tông Vụ 1:8), nhờ đó, "các con phải là những chứng nhân của Thày, ở Giêrusalem, khắp Giuđêa và Samaria, cho tới tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8)
Ngoài ra, trừ một số "dấu lạ" được Chúa Kitô thực hiện ở Galilêa, như 2 dấu lạ đầu tiên ở Cana (2:1-11; 4:46-54), dấu lạ hóa bánh ra nhiều lần 1 ở Biển Hồ Galilêa (6:1-15) và dấu lạ mẻ cá lạ lùng ở Biển Hồ Tiberia (21:1-14), Người còn kèm theo với các chứng tự (lời chứng) tỏ mình ra của mình bằng một số "dấu lạ / signs" ra nữa, đa số ở Giuđea và ở ngay Thành Thánh Giêrusalem, hay nói đúng hơn, những dấu lạ quan trọng nhất, liên quan đến thần tính của mình, Người đều làm ở Giuđêa và Giêrusalem, điển hình nhất là những dấu lạ sau đây:
1- Dấu lạ chữa lành cho một người đau liệt 38 năm ở Hồ Betsaiđa Thành Giêrusalem (Gioan 5:1-15), để tỏ ra Người đến từ Cha và như Cha, Đấng "hằng làm việc luôn" (Gioan 5:17);
2- Dấu lạ động lòng những kẻ muốn ném đá phụ nữ ngoại tình ở Đền Thờ Giêrusalem (Gioan 8:1-11), để tỏ ra Người có quyền xét xử (Gioan 5:27) và tái sinh tội nhân (Gioan 5:28);
3- Dấu lạ phục quang người mù từ lúc mới sinh ở Thành Giêrusalem (Gioan 9:1-41), để tỏ ra Người là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9);
4- Dấu lạ hồi sinh cho một thây ma chết thối đã 4 ngày ở Betania gần Giêrusalem (Gioan 11:1-44), để tỏ ra Người chính "là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25).
Nhà Thờ Bà Thánh Anna (Saint Anne's Church)
Nhà Thờ Thánh Anna, theo kiểu kiến trúc thời Trung Cổ,
tọa lạc ở chặng đầu của Đường Thánh Giá, gần Cổng Sư Tử của Thành Giêrusalem
HỒ BETSAIĐA (the Pool of Bethesida), nơi Chúa Giêsu đã chữa lành cho một người bất toại 38 năm (xem Gioan 5:1-15).
1 Sau đó, nhân dịp lễ của người Do-thái, Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem.2 Tại Giê-ru-sa-lem, gần Cửa Chiên, có một hồ nước, tiếng Híp-ri gọi là Bết-da-tha. Hồ này có năm hành lang.3 Nhiều người đau ốm, đui mù, què quặt, bất toại nằm la liệt ở đó, (chờ cho nước động,4 vì thỉnh thoảng có thiên thần Chúa xuống hồ khuấy nước lên; khi nước khuấy lên, ai xuống trước, thì dù mắc bệnh gì đi nữa, cũng được khỏi).5 Ở đó, có một người đau ốm đã ba mươi tám năm.6 Đức Giê-su thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói: "Anh có muốn khỏi bệnh không? "7 Bệnh nhân đáp: "Thưa Ngài, khi nước khuấy lên, không có người đem tôi xuống hồ. Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống trước mất rồi! "8 Đức Giê-su bảo: "Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi! "9 Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi được. Hôm đó lại là ngày sa-bát. 10 Người Do-thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: "Hôm nay là ngày sa-bát, anh không được phép vác chõng! "11 Nhưng anh đáp: "Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi: "Anh hãy vác chõng mà đi! "12 Họ hỏi anh: "Ai là người đã bảo anh: "Vác chõng mà đi"? "13 Nhưng người đã được khỏi bệnh không biết là ai. Quả thế, Đức Giê-su đã lánh đi, vì có đám đông ở đấy.14 Sau đó, Đức Giê-su gặp người ấy trong Đền Thờ và nói: "Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước! "15Anh ta đi nói với người Do-thái: Đức Giê-su là người đã chữa anh khỏi bệnh.16 Do đó, người Do-thái chống đối Đức Giê-su, vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát.17 Nhưng Đức Giê-su đáp lại: "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc."18 Bởi vậy, người Do-thái lại càng tìm cách giết Đức Giê-su, vì không những Người phá luật sa-bát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.
KHU VỰC ĐỀN THỜ (the Temple Area)
1 Sau đó,
Đức Giê-su thường đi lại trong miền Ga-li-lê; thật vậy, Người không muốn đi lại
trong miền Giu-đê, vì người Do-thái tìm giết Người.
2 Lễ Lều của người Do-thái gần tới,3 anh
em Đức Giê-su nói với Người: "Ông bỏ đây mà sang miền Giu-đê đi, để cả môn đệ
của ông cũng được nhìn thấy những việc ông làm,4 vì
không ai muốn nổi danh mà lại hoạt động âm thầm cả. Nếu ông làm những việc ấy,
thì hãy tỏ mình ra cho thiên hạ biết."5 Thật thế, anh em
Người không tin vào Người.6 Đức Giê-su nói với họ: "Thời
của tôi chưa đến, nhưng thời của các anh lúc nào cũng thuận tiện.7 Thế
gian không thể ghét các anh, nhưng tôi thì nó ghét, vì tôi làm chứng rằng các
việc nó làm thì xấu xa.8 Các anh cứ lên dự lễ đi; còn
tôi, tôi không lên dự lễ này, vì thời của tôi chưa chín muồi."9 Nói
thế rồi, Người ở lại miền Ga-li-lê.10Tuy nhiên, khi anh em Người đã
lên dự lễ, thì chính Người cũng lên, nhưng không công khai và hầu như bí mật.11 Người
Do-thái tìm kiếm Người trong dịp lễ và nói: "Ông ấy đâu rồi? "12 Dân
chúng bàn tán nhiều về Người. Kẻ thì bảo: "Đó là một người tốt." Kẻ thì nói:
"Không, ông ta mê hoặc dân chúng."13 Nhưng không ai dám
công khai nói về Người, vì sợ người Do-thái.
14 Vào giữa kỳ lễ, Đức Giê-su lên
Đền Thờ - the temple area và giảng dạy.15 Người
Do-thái lấy làm ngạc nhiên. Họ nói: "Ông này không học hành gì, mà sao lại thông
thạo chữ nghĩa thế! "16Đức Giê-su trả lời: "Đạo lý tôi dạy không phải
là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi.17 Ai muốn làm
theo ý của Người, thì sẽ biết rằng đạo lý ấy là bởi Thiên Chúa hay do tôi tự
mình giảng dạy.18 Ai tự mình giảng dạy, thì tìm vinh
quang cho chính mình. Còn ai tìm vinh quang cho Đấng đã sai mình, thì là người
chân thật, và nơi người ấy không có gì là bất chính.19 Ông
Mô-sê đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không một ai trong các ông
tuân giữ Lề Luật!
Sao các ông lại tìm cách giết tôi? "
20 Dân chúng đáp: "Ông bị quỷ ám rồi! Có ai tìm giết ông
đâu? "21 Đức Giê-su trả lời: "Tôi chỉ làm có một việc,
mà tất cả các ông đều ngạc nhiên.22 Ông Mô-sê đã truyền
cho các ông làm phép cắt bì (thực ra, phép ấy đã có từ thời các tổ phụ, chứ
không phải từ thời ông Mô-sê), và các ông làm phép cắt bì cả trong ngày sa-bát.23 Vậy
nếu người ta làm phép cắt bì cả trong ngày sa-bát để khỏi lỗi Luật Mô-sê, thì
sao các ông lại nổi giận với tôi, vì tôi đã chữa lành toàn thân một người trong
ngày sa-bát?24 Các ông đừng xét đoán theo bề ngoài nữa,
nhưng hãy xét đoán cho công minh."
25 Bấy giờ có những người ở Giê-ru-sa-lem nói: "Ông này không phải là người họ đang tìm giết đó sao?26 Kìa, ông ta ăn nói công khai mà họ chẳng bảo gì cả. Phải chăng các nhà hữu trách đã thực sự nhìn nhận ông là Đấng Ki-tô?27 Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Ki-tô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả."28 Lúc giảng dạy trong Đền Thờ - the temple area, Đức Giê-su nói lớn tiếng rằng: "Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư? Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật. Các ông, các ông không biết Người.29 Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến, và chính Người đã sai tôi." 30 Bấy giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến.
2 Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ - the temple area. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ.3 Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa,4 rồi nói với Người: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình.5 Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? "
22 Khi ấy, ở Giê-ru-sa-lem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông.23 Đức Giê-su đi đi lại lại trong Đền Thờ - the temple area, tại hành lang Sa-lô-môn.24 Người Do-thái vây quanh Đức Giê-su và nói: "Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết."25 Đức Giê-su đáp: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi.26 Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi.27 Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.29 Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.30 Tôi và Chúa Cha là một."
Ngôi Vòm Thạch Cầu (Dome of the Rock) & Đền Thờ El Aqsa (the El Aqsa Mosque)
Al-Aqsa là "Đền Thờ Viễn Cực / the Farthiest Mosque", và là Đền thờ linh thiêng thứ ba của Hồi giáo,
và Ngôi Vòm Thạch Cầu là một địa điểm nổi tiếng nhất của Hồi giáo
Bức Tường Than Khóc (Wailing Wall)
Bức Tường Than Khóc này là bức tường đá vôi cũ ở Cổ Thành Giêrusalem. Nó là một khoảnh nhỏ tương đối so với bức tường cũ còn tồn tại nhưng dài hơn rất nhiều, và cả hai tạo nên "Bức Tường Phía Tây - the Western Wall". Nguyên thủy thì bức tường phía tây này được xây như là một phần nối dài của Ngôi Đền Thờ Thứ Hai thời Hêrôđê Đại Vương...
Bức Tường Phía Tây này, theo nghĩa hẹp, là nơi được người Do Thái đến để cầu nguyện để tưởng nhớ đến thời Lịch Sử Cứu Độ của mình; bởi thế nên nó cũng được gọi là Bức Tường Than Khóc (the Wailing Wall), vì có những người Do Thái quả thật đã than khóc tiếc thương nhớ đến Lịch Sử Cứu Độ của mình, đến Ngôi Đền Thờ là nơi Thiên Chúa ngự đã bị tàn phá.
Cho dù ngày nay thành ngữ "Bức Tường Than Khóc" chỉ giành riêng cho Kitô hữu này không còn thích hợp nữa, nhưng vấn đề vẫn còn đó, ở chỗ, không biết người Do Thái chỉ than khóc Thành Thánh và Đền Thánh Giêrusalem hay than khóc tội lỗi mình là chính nguyên nhân khiến giáo đô và đền thờ này bị dân ngoại tàn phá, đúng như lời tiên báo mang tính cách khiển trách và cảnh báo của Chúa Kitô (xem Luca 19:41-48).
Ngoài ra, còn một vấn đề nữa liên quan mật thiết đến "Bức Tường Than Khóc" đó là nếu dân Do Thái thật sự than khóc vì tội lỗi của mình hơn Thành Thánh và Đền Thánh Giêrusalem bị tàn phá, đúng như lời Chúa Giêsu khuyên đám phụ nữ Giêrusalem khóc thương Người vác thập tự giá lên Núi Sọ bấy giờ (xem Luca 23:21-31), thì mới thực sự họ đang mong đợi Đấng Thiên Sai, sau khi họ đã hoàn toàn phủ nhận và sát hại nhân vật Giêsu Nazarét Lịch Sử vào thời Thượng Tế Caipha bằng tay Tổng Trấn Philato.
Bằng không, chẳng biết họ có còn trông đợi một Đấng Thiên Sai nào nữa hay chăng, bởi hiện nay, họ không bị bất cứ một quyền lực nào trên thế giới nói chung mạnh hơn họ và đô hộ họ, đến độ họ cần phải có một đấng thiên sai, như Moisen, hay Samson v.v., đến để giải thoát họ; trái lại, cho dù bé nhỏ nhất như Đavít giữa Khối Ả Rập Hồi Giáo cả 22 nước bao quanh ở cả Trung Đông lẫn Bắc Phi, (Algeria, Bahrain, the Comoros Islands, Djibouti, Egypt, Iraq, Jordan, Kuwait, Lebanon, Libya, Morocco, Mauritania, Oman, Palestine, Qatar, Saudi Arabia, Somalia, Sudan, Syria, Tunisia, the United Arab Emirates, and Yemen), khổng lồ dữ dội như Goliát, nhưng vẫn không thể bắt nạt họ, trái lại, còn gờm họ (nhất là từ Trận Chiến 6 ngày Năm 1967), nên họ vẫn tồn tại từ khi tái lập quốc 1948 tới nay?
Nhà Thờ Thánh Phêrô Gà Gáy (the Church of Saint Peter in Gallicantu).
Ngôi nhà thờ này được xây trên vị trí của Dinh Thượng Tế Caipha, nơi TĐ Phêrô đã chối Thày 3 lần.
THUNG LŨNG GEHENNA (the Valley of Gehenna)
Gehenna là một thung lũng nhỏ ở Giêrusalem, theo Thánh Kinh Do Thái thì Gehenna nguyên thủy là nơi ("Thung Lũng Ben-hinnom") một số vua Giuđa hiến tế con cái của mình bằng lửa. Vì thế nên nó đã bị nguyền rủa (Giêrêmia 7:31, 19:2-6). Nó gặp và chập vào Thung Lũng Kidron là thung lũng chính bọc Cổ Thành Giêrusalem gần góc đông nam của cổ thành này. Theo văn chương chính thống của Do Thái giáo thì Gehenna là số phận của thành phần gian ác, ám chỉ hỏa ngục.
Trong Tân Ước, theo bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm, Chúa Giêsu sử dụng (11 lần) chữ Gehenna ám chỉ những gì nghịch lại với sự sống trong Vương Quốc của Thiên Chúa (xem Marco 9:43-48), và ám chỉ cả nơi "cả hồn lẫn xác" bị ném vào đó (xem Mathêu 10:28), "vào lửa chẳng hề tắt" (Marco 9:43).
30 Thật, con cái Giu-đa đã làm sự dữ chướng mắt Ta - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Chúng đã làm ô uế Đền Thờ là nơi danh Ta được kêu khấn, vì đã đặt vào đó những tượng thần Ghê Tởm.31 Rồi chúng xây các nơi cao ở Tô-phét trong thung lũng Ben Hin-nôm để hoả thiêu con trai con gái chúng. Đó là điều Ta đã không truyền dạy, cũng chẳng bao giờ nghĩ tới.32 Cho nên sẽ đến những ngày - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - người ta không còn gọi là Tô-phét hay thung lũng Ben Hin-nôm nữa, nhưng là thung lũng Giết Chóc. Người ta sẽ chôn cất ở Tô-phét vì thiếu chỗ;33 tử thi của dân này sẽ thành mồi cho muông chim cầm thú mà không ai xua đuổi.34 Ta sẽ làm cho các thành thị Giu-đa và các phố phường Giê-ru-sa-lem im bặt tiếng hò reo tưng bừng rộn rã, tiếng hát của cô dâu chú rể, vì cả xứ sẽ trở nên chốn hoang tàn đổ nát.
1 ĐỨC CHÚA phán thế này: Hãy đi mua một cái bình sành của thợ gốm. Cùng với một số kỳ mục trong dân và một số trong hàng tư tế,2 hãy đi ra phía thung lũng Ben Hin-nôm, lối vào cửa Gốm, tại đó ngươi sẽ công bố những điều Ta sẽ phán với ngươi.3 Ngươi sẽ nói: Hỡi các vua Giu-đa, hỡi dân cư Giê-ru-sa-lem, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA. ĐỨC CHÚA các đạo binh, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau: Này Ta sắp giáng tai hoạ xuống nơi đây, khiến cho bất cứ ai nghe nói cũng phải ù cả hai tai:4 bởi vì chúng đã lìa bỏ Ta, đã biến nơi này thành nơi xa lạ. Tại chính nơi này, chúng còn dâng hương kính các thần khác, những thần chính chúng, cũng như cha ông chúng và các vua Giu-đa đã không hề biết đến; chúng đã làm cho nơi này ngập máu người vô tội.5 Chúng đã xây những nơi cao kính Ba-an để hoả thiêu con cái chúng làm lễ toàn thiêu dâng Ba-an; đó là điều Ta đã không truyền, không phán dạy cũng không nghĩ đến.6 Vì thế, sẽ đến ngày - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - người ta không còn gọi nơi này là "Tô-phét", là "thung lũng Ben Hin-nôm" nữa, nhưng là "thung lũng Tàn Sát."7 Tại nơi này, Ta sẽ đập tan ý định của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Ta sẽ làm cho chúng ngã gục vì gươm trước mặt quân thù, do tay những kẻ tìm hại mạng sống chúng. Ta sẽ để cho xác của chúng làm mồi cho chim trời và thú vật dưới đất.8 Ta sẽ khiến cho thành này nên đồ kinh tởm, nên đề tài trào phúng; ai đi qua cũng lắc đầu kinh ngạc, cười chê về mọi thương tích của nó.9 Ta sẽ khiến chúng ăn thịt con trai, con gái mình: khi bị vây hãm, bị quân thù cùng những kẻ tìm hại mạng sống siết chặt trong cảnh ngặt nghèo, chúng sẽ ăn thịt lẫn nhau.
21 "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà.22 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt - whoever shall say, 'You fool,' shall be guilty enough to go into Gehenna"
27 "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình.28 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.29 Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục - it is better for you that one of the parts of your body perish, than for your whole body to be thrown into Gehenna.30 Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục - better for you that one of the parts of your body perish, than for your whole body to go into Gehenna".
26 "Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết.27 Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng. 28 "Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục - rather fear Him who is able to destroy both soul [Greek: ψυχή] and body in Gehenna"
7 Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã. Tất nhiên phải có những cớ gây sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã. 8 "Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời.9 Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục - it is better for you to enter life with one eye, than with two eyes to be thrown into the Gehenna"
15 "Khốn
cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rảo khắp
biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các
người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người - Woe to you, scribes
and Pharisees,
hypocrites, because you... make one proselyte...twice
as much a child of Gehenna as yourselves".
Mathêu 23: Tội ác và hình phạt (Lc 11: 49 -51 )
33 "Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục? - You serpents, you brood of vipers, how shall you to escape the sentence of Gehenna?"
3 Nếu ta tra hàm thiếc vào miệng ngựa để bắt chúng vâng lời, thì ta điều khiển được toàn thân chúng.4 Anh em cũng hãy nhìn xem tàu bè: dù nó có to lớn, và có bị cuồng phong đẩy mạnh thế nào đi nữa, thì cũng chỉ cần một bánh lái rất nhỏ để điều khiển theo ý của người lái.5 Cái lưỡi cũng vậy: nó là một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to lớn. Cứ xem tia lửa nhỏ bé dường nào, mà làm bốc cháy đám rừng to lớn biết bao!6 Cái lưỡi cũng là một ngọn lửa, là cả một thế giới của sự ác. Cái lưỡi có một vị trí giữa các bộ phận của thân thể chúng ta, nó làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy - And the tongue is a fire,...and sets on fire the course of our life, and is set on fire by Gehenna
HỒ SILOÊ (the Pool of Siloam)
Hồ Siloe này là một cái hồ ở triền phía nam của Thành Đavít, tức ở địa điểm nguyên thủy của Thành Giêrusalem, bên ngoài cổ thành về phía đông nam. Hồ này lấy nước từ Suối Gihon (the Gihon Spring) nhờ 2 cống nước.
1 Đi ngang qua, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh.2 Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? "3 Đức Giê-su trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.4 Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được.5 Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian." 6 Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù,7 rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa" (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. 8 Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao? "9 Có người nói: "Chính hắn đó! " Kẻ khác lại rằng: "Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi! " Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây! "10 Người ta liền hỏi anh: "Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế? "11 Anh ta trả lời: "Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: "Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy."12 Họ lại hỏi anh: "Ông ấy ở đâu? " Anh ta đáp: "Tôi không biết."
NÚI SION (Mount Zion)
Núi Sion là một ngọn đồi ở Giêrusalem, bên ngoài các bức tường của Cổ Thành. Chữ Núi Sion đã được sử dụng trong Thánh Kinh Do Thái, trước tiên cho Thành Vua Đavít (2 Samuel 5:7, 1 Chronicles 11:5; 1 Kings 8:1, 2 Chronicles 5:2) , sau đó mới đổi thành Núi Đền Thờ (the Temple Mount), hiện nay nó được sử dụng như là danh xưng của Ngọn Đồi Phía Tây Thành Giêrusalem. Theo nghĩa rộng thì chữ này có thể hiểu về toàn Mảnh Đất Do Thái.
6 Vua và người của vua tiến về Giê-ru-sa-lem đánh người Giơ-vút là dân bản xứ. Chúng nói với vua Đa-vít: "Ông sẽ không vào đây được, vì người mù người què sẽ đẩy lui ông." Nghĩa là: "Ông Đa-vít sẽ không vào đây được."7 Vua Đa-vít đã chiếm được đồn luỹ Xi-on, đó là Thành vua Đa-vít.8 Ngày hôm đó, vua Đa-vít nói: "Mọi kẻ muốn đánh người Giơ-vút, thì hãy qua đường hầm mà tấn công người mù người què, những kẻ mà lòng vua Đa-vít ghét." Vì thế có câu: "Người mù người què sẽ không được vào Đền."9Vua Đa-vít đóng tại đồn luỹ và gọi đó là Thành vua Đa-vít. Rồi vua Đa-vít xây chung quanh, từ nền Mi-lô vào phía trong.10 Vua Đa-vít ngày càng mạnh thế, và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa các đạo binh, ở với vua.
4 Vua Đa-vít cùng toàn thể Ít-ra-en tiến về Giê-ru-sa-lem - tức là Giơ-vút; dân bản xứ ở đây là người Giơ-vút.5 Dân cư Giơ-vút nói với vua Đa-vít: "Ông sẽ không vào đây được." Nhưng vua Đa-vít đã chiếm được đồn luỹ Xi-on, đó là Thành vua Đa-vít.6 Vua Đa-vít đã nói: "Bất cứ ai là người đầu tiên giết được người Giơ-vút, người ấy sẽ được làm thủ lãnh, làm nguyên soái." Ông Giô-áp con bà Xơ-ru-gia là người đầu tiên đã lên được, nên ông đã trở thành thủ lãnh.7 Vua Đa-vít đóng tại đồn luỹ đó, nên người ta gọi là Thành vua Đa-vít.8 Rồi vua xây cất bốn mặt thành, từ công trình Mi-lô cho tới hoàng cung, còn ông Giô-áp thì tu bổ phần còn lại.9 Vua Đa-vít ngày càng thêm mạnh thế, vì ĐỨC CHÚA các đạo binh ở với vua.
1 Bấy giờ vua Sa-lô-môn triệu tập bên mình, tại Giê-ru-sa-lem, các kỳ mục Ít-ra-en, gồm tất cả các người đứng đầu các chi tộc cùng các trưởng tộc con cái Ít-ra-en, để đưa Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA lên, từ Thành vua Đa-vít tức là Xi-on.2 Mọi người Ít-ra-en tập hợp lại bên vua Sa-lô-môn trong tháng Ê-ta-nim tức là tháng thứ bảy để mừng Lễ.3 Tất cả các kỳ mục Ít-ra-en đều tới; các tư tế thì khiêng Hòm Bia,4 và đưa Hòm Bia của ĐỨC CHÚA cũng như Lều Hội Ngộ và tất cả các vật dụng thánh trong Lều lên. Các tư tế và các thầy Lê-vi đưa những thứ ấy lên.5 Vua Sa-lô-môn và toàn thể cộng đồng Ít-ra-en tụ họp lại bên cạnh vua trước Hòm Bia, sát tế chiên bò nhiều vô kể, không sao đếm nổi.6 Các tư tế đưa Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA vào nơi đã dành sẵn trong cung Đơ-via của Đền Thờ, tức là Nơi Cực Thánh, dưới cánh các Kê-ru-bim.7Quả vậy, các Kê-ru-bim xoè cánh ra bên trên Hòm Bia, che phía trên Hòm Bia và các đòn khiêng.8 Các đòn này dài đến nỗi từ Cung Thánh, trước Nơi Cực Thánh, có thể nhìn thấy các đầu đòn, nhưng từ bên ngoài thì không thấy được. Các đòn này vẫn còn đó cho tới ngày nay.9 Trong Hòm Bia không có gì ngoài hai Bia đá ông Mô-sê đã đặt vào đó, trên núi Khô-rếp, khi ĐỨC CHÚA lập Giao Ước với con cái Ít-ra-en vào thời họ ra khỏi đất Ai-cập.
2 Bấy giờ vua Sa-lô-môn triệu tập về Giê-ru-sa-lem các kỳ mục Ít-ra-en, tất cả các người đứng đầu các chi tộc cùng các trưởng tộc con cái Ít-ra-en để đưa Hòm Bia Giao Ứớc của ĐỨC CHÚA lên từ Thành vua Đa-vít tức là Xi-on.3 Mọi người Ít-ra-en tập hợp lại bên nhà vua để mừng lễ. Đó là tháng thứ bảy.4 Tất cả các kỳ mục Ít-ra-en đều tới; các thầy Lê-vi thì khiêng Hòm Bia,5 và đưa Hòm Bia cũng như Lều Hội Ngộ và tất cả các vật dụng thánh trong Lều lên. Các tư tế và các thầy Lê-vi đưa những thứ ấy lên.
CĂN THƯỢNG LẦU (Upper Room) hay PHÒNG TIỆC LY
Căn Thượng Lầu cũng chính là Nhà Tiệc Ly này, ở trong khu mộ của Vua Đavít, phải được kể là ngôi nhà thờ đầu tiên của thế giới Kitô giáo, nơi chính Chúa Kitô là Thượng Tế Cử Hành Thánh Thể là chính bản thân của Người, một bản thân sẽ "thánh hiến mình vì họ để họ được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19) nơi cuộc Vượt Qua của Người vào ngày hôm sau.
Căn Thượng Lầu này chẳng những đã được Chúa Giêsu sử dụng để cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ của Người lần cuối cùng ở Giêrusalem, và theo truyền thống Kitô giáo, còn là nơi Chúa hiện ra với các vị 2 lần sau khi sống lại, "vào tối ngày thứ nhất trong tuần" (Gioan 20:19) và vào "tám ngày sau" (Gioan 20:26), đồng thời cũng là nơi tạm trú của tông đồ đoàn sau khi Chúa Kitô Thăng Thiên cho tới khi Thánh Thần Hiện Xuống vào Lễ Ngũ Tuần (Tông Vụ 2:1-4).
7 Đã đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua.8 Đức Giê-su sai ông Phê-rô với ông Gio-an đi và dặn: "Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua."9 Hai ông hỏi: "Thầy muốn chúng con dọn ở đâu? "10 Người bảo họ: "Này, khi vào thành, các anh sẽ gặp một người mang vò nước. Cứ đi theo người đó, người đó vào nhà nào,11 thì các anh vào thưa với chủ nhà: "Thầy nhắn ông: Căn phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?12 Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một căn phòng rộng rãi trên lầu, đã được trang bị: các anh hãy dọn ở đó."13 Các ông ra đi, thấy mọi sự y như Người đã nói, và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
VƯỜN NHIỆT (the Garden of Gethsemane), nơi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc khổ nạn của Người khi Người buồn đến nỗi chết được (xem Mathêu 26:38), đến đổ mồ hôi máu nhỏ xuống đất (xem Luca 22:44).
36 Bấy giờ Đức Giê-su đi cùng với các ông đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Người nói với các môn đệ: "Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện."37 Rồi Người đưa ông Phê-rô và hai người con ông Dê-bê-đê đi theo. Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến.38 Bấy giờ Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy."39 Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha."40 Rồi Người đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ, liền nói với ông Phê-rô: "Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao?41 Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn."42 Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai và nói: "Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha."43 Rồi Người lại đến, thấy các môn đệ vẫn đang ngủ, vì mắt họ nặng trĩu.44 Người để mặc các ông mà đi cầu nguyện lần thứ ba, nói lại cũng một lời đó.45 Bấy giờ Người đến chỗ các môn đệ và nói với các ông: "Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi.46 Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới! "
Day 8 - Ngày 19 Thứ Sáu Tuần Thánh
DINH THƯỢNG TẾ CAIPHA (the High Priest Caiaphas' Palace)
57 Họ bắt Đức Giê-su, rồi điệu đến thượng tế Cai-pha. Các kinh sư và kỳ mục đã tề tựu sẵn đó.58 Ông Phê-rô theo Người xa xa, đến tận dinh thượng tế. Ông vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao. 59 Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình.60 Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra làm chứng gian. Sau cùng, có hai người bước ra,61 khai rằng: "Tên này đã nói: tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại."62 Bấy giờ vị thượng tế đứng lên hỏi Đức Giê-su: "Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó? "63 Nhưng Đức Giê-su vẫn làm thinh. Vị thượng tế nói với Người: "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không? "64 Đức Giê-su trả lời: "Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến."65 Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: "Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa,66 quý vị nghĩ sao? " Họ liền đáp: "Hắn đáng chết! " 67 Rồi họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lại tát Người68 và nói: "Ông Ki-tô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó? "
DINH TỔNG TRẤN PHILATO (the Pilate's Palace)
28 Vậy, người Do-thái điệu Đức Giê-su từ nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được.29 Vì thế, tổng trấn Phi-la-tô ra ngoài gặp họ và hỏi: "Các người tố cáo ông này về tội gì? "30 Họ đáp: "Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan."31 Ông Phi-la-tô bảo họ: "Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người." Người Do-thái đáp: "Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả."32 Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào. 33 Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: "Ông có phải là vua dân Do-thái không? "34 Đức Giê-su đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi? "35 Ông Phi-la-tô trả lời: "Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì? "36 Đức Giê-su trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này."37 Ông Phi-la-tô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao? " Đức Giê-su đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi."38 Ông Phi-la-tô nói với Người: "Sự thật là gì? " 39 Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do-thái cho các người không? "40Họ lại la lên rằng: "Đừng tha nó, nhưng xin tha Ba-ra-ba! " Mà Ba-ra-ba là một tên cướp.
PHÁP ĐÌNH ROMA (Roman Praetorium), ở bên dưới Tu Viện của Hội Dòng Các Sơ Zion
12 Từ đó, ông Phi-la-tô tìm cách tha Người. Nhưng dân Do-thái kêu lên rằng: "Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xê-da. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Xê-da."13 Khi nghe thấy thế, ông Phi-la-tô truyền dẫn Đức Giê-su ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Híp-ri là Gáp-ba-tha.14 Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa. Ông Phi-la-tô nói với người Do-thái: "Đây là vua các người! "15 Họ liền hô lớn: "Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá! " Ông Phi-la-tô nói với họ: "Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao? " Các thượng tế đáp: "Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xê-da."16 Bấy giờ ông Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá.
11 Đức Giê-su bị điệu ra trước mặt tổng trấn; tổng trấn hỏi Người: "Ông là vua dân Do-thái sao? " Đức Giê-su trả lời: "Chính ngài nói đó."12 Nhưng khi các thượng tế và kỳ mục tố Người, thì Người không trả lời một tiếng.13 Bấy giờ ông Phi-la-tô hỏi Người: "Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại ông đó sao? "14 Nhưng Đức Giê-su không trả lời ông về một điều nào, khiến tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên. 15 Vào mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho dân chúng một người tù, tuỳ ý họ muốn.16 Mà khi ấy có một người tù khét tiếng, tên là Ba-ra-ba.17 Vậy khi đám đông đã tụ họp lại, thì tổng trấn Phi-la-tô nói với họ: "Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các ngươi đây? Ba-ra-ba hay Giê-su, cũng gọi là Ki-tô? "18 Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Người. 19 Lúc tổng trấn đang ngồi xử án, thì bà vợ sai người đến nói với ông: "Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy mình phải khổ nhiều vì ông ấy."
13 Bấy giờ ông Phi-la-tô triệu tập các thượng tế, thủ lãnh và dân chúng lại14 mà nói: "Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi tố cáo.15 Cả vua Hê-rô-đê cũng vậy, bởi lẽ nhà vua đã cho giải ông ấy lại cho chúng ta. Và các ngươi thấy đó, ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả.16 Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra."17 Vào mỗi dịp lễ lớn, ông Phi-la-tô phải phóng thích cho họ một người tù.18Nhưng tất cả mọi người đều la ó: "Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi! "19 Tên này đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người. 20 Ông Phi-la-tô muốn thả Đức Giê-su, nên lại lên tiếng một lần nữa.21 Nhưng họ cứ một mực la lớn: "Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá! "22 Lần thứ ba, ông Phi-la-tô nói với họ: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra."23 Nhưng họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la càng thêm dữ dội. 24 Ông Phi-la-tô quyết định chấp thuận điều họ yêu cầu.25 Ông phóng thích người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và giết người. Còn Đức Giê-su thì ông trao nộp theo ý họ muốn.
"NÀY LÀ NGƯỜI - ECCE HOMO" (Gioan 19:5) - Vòm Cầu
1 Bấy giờ ông Phi-la-tô truyền đem Đức Giê-su đi và đánh đòn Người.2 Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ.3 Họ đến gần và nói: "Kính chào Vua dân Do-thái! ", rồi vả vào mặt Người. 4 Ông Phi-la-tô lại ra ngoài và nói với người Do-thái: "Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy."5 Vậy, Đức Giê-su bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Phi-la-tô nói với họ: "Đây là người! "6 Khi vừa thấy Đức Giê-su, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: "Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá! " Ông Phi-la-tô bảo họ: "Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy."7 Người Do-thái đáp lại: "Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa." 8 Nghe lời đó, ông Phi-la-tô càng sợ hơn nữa.9 Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giê-su: "Ông từ đâu mà đến? " Nhưng Đức Giê-su không trả lời.10 Ông Phi-la-tô mới nói với Người: "Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao? "11 Đức Giê-su đáp lại: "Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn."
CON ĐƯỜNG THẬP TỰ GIÁ (Via Dolorosa)
26 Khi điệu Đức Giê-su đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su.27 Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người.28 Đức Giê-su quay lại phía các bà mà nói: "Hỡi chị em thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu.29 Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói: "Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú mớm! "30 Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi! , và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi!31 Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao? "32 Có hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người.
NÚI SỌ (Calvary / Golgotha)
33 Khi đến nơi gọi là Gôn-gô-tha, nghĩa là Đồi Sọ,34 chúng cho Người uống rượu pha mật đắng, nhưng Người chỉ nếm một chút mà không chịu uống.35 Đóng đinh Người vào thập giá xong, chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau.36 Rồi chúng ngồi đó mà canh giữ Người. 37 Phía trên đầu Người, chúng đặt bản án xử tội viết rằng: "Người này là Giê-su, vua dân Do-thái."38 Cùng bị đóng đinh với Người, có hai tên cướp, một tên bên phải, một tên bên trái.
17 Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha;18 tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giê-su thì ở giữa.19 Ông Phi-la-tô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: "Giê-su Na-da-rét, Vua dân Do-thái."20Trong dân Do-thái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng: Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp.21 Các thượng tế của người Do-thái nói với ông Phi-la-tô: "Xin ngài đừng viết: "Vua dân Do-thái", nhưng viết: "Tên này đã nói: Ta là Vua dân Do-thái"."22 Ông Phi-la-tô trả lời: "Ta viết sao, cứ để vậy! "
MỒ THÁNH (the Holy Tomb).
38 Sau đó, ông Giô-xếp, người A-ri-ma-thê, xin ông Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức Giê-su xuống. Ông Giô-xếp này là một môn đệ theo Đức Giê-su, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do-thái. Ông Phi-la-tô chấp thuận. Vậy, ông Giô-xếp đến hạ thi hài Người xuống.39 Ông Ni-cô-đê-mô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương.40 Các ông lãnh thi hài Đức Giê-su, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái.41 Nơi Đức Giê-su bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai.42 Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giê-su ở đó.
50 Khi ấy có một người tên là Giô-xếp, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương thiện, công chính.51 Ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng. Ông là người thành A-ri-ma-thê, một thành của người Do-thái, và cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa.52 Ông đến gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su.53 Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ.54 Hôm ấy là áp lễ, và ngày sa-bát bắt đầu ló rạng. 55 Cùng đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào. 56 Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền.
57 Chiều đến, có một người giàu sang tới. Ông này là người thành A-ri-ma-thê, tên là Giô-xếp, và cũng là môn đệ Đức Giê-su.58 Ông đến gặp ông Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. Bấy giờ tổng trấn Phi-la-tô ra lệnh trao trả thi hài cho ông.59 Khi đã nhận thi hài, ông Giô-xếp lấy tấm vải gai sạch mà liệm,60 và đặt vào ngôi mộ mới, đã đục sẵn trong núi đá, dành cho ông. Ông lăn tảng đá to lấp cửa mồ, rồi ra về.61 Còn bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a ở lại đó, quay mặt vào mồ.
62 Hôm sau, tức là khi ngày áp lễ đã qua, các thượng tế và những người Pha-ri-sêu kéo nhau đến ông Phi-la-tô,63 và nói: "Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm ấy khi còn sống có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ trỗi dậy."64 Vậy xin quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy trộm xác rồi phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Và như thế, chuyện bịp cuối cùng này sẽ còn tệ hại hơn chuyện trước."65 Ông Phi-la-tô bảo họ: "Thì có sẵn lính đó, các ngươi hãy đi mà canh giữ theo cách các ngươi biết! "66 Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ.
1 Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ.2 Thình lình, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên;3 diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết.4 Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi.5 Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: "Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh.6 Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm,7 rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay."8 Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.
1 Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn.2 Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ.3 Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả.4 Họ còn đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ.5 Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: "Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết?6 Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê,7là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại."
1 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ.2 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu." 3 Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ.4 Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước.5 Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.6 Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó,7 và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.8 Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin.9 Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.10 Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.
Day 10 - Ngày 21 Chúa Nhật
Upper Room / Căn Thượng Lầu - Nhà Tiệc Ly – nơi phái đoàn TĐCTT cử hành Đại Lễ Phục Sinh và Tuyên Hứa TĐCTT vào lúc 4 giờ chiều.
KHÓA LTXC XXXVII THỨ BẢY TUẦN THÁNH: VƯỢT QUA "TỪ SỰ CHẾT VÀO SỰ SỐNG"
Ngày 20/4 - Thứ Bảy Tuần Thánh
(Tĩnh Tâm về LTXC cả ngày ngay tại phòng họp của khách sạn Leonardo Hotel in Jerusalem)
Sáng: "Từ sự chết..." (Gioan 5:24)
9:00 - Cử hành Mầu Nhiệm Mân Côi
9:30 - Đề tài: "Hạt lúa miến rơi xuống đất mục nát đi" (Gioan 12:24) - Cha Nguyễn Đức Minh
10:00- Chia sẻ chung - cảm nghiệm thần linh về "Hành Hương Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua"
10:45- Giải lao
11:00- Chia sẻ phụ họa: "Người muốn chứng tỏ Người yêu ... cho đến cùng" (Gioan 13:1) - TĐCTT cao tấn tĩnh
Chiều: "Vào sự sống" (Gioan 5:24)
12:00- Bữa trưa
13:00- Nghỉ trưa
14:30- Chia sẻ đề tài: "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25) - Cha Nguyễn Đức Minh
15:00- Cử hành LTXC - Chuỗi Kinh Thương Xót
15:30- Giải lao
15:45- Chia sẻ phụ họa: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi" (Gioan 20:28) - TĐCTT cao tấn tĩnh
16:45- Giải lao
17:00- Chia sẻ chung - cảm nghiệm thần linh "Các con nghĩ Thày là ai?" (Mathêu 16:15)
Tối:
18:00- Bữa tối
20:00- Đi dự lễ vọng Phục Sinh
23:00- Tham dự Kinh Nửa Đêm ở Nhà Thờ Mồ Thánh đón Chúa Phục Sinh - Midnight prayers at the Holy Sepulchre church
Các Bài Phúc Âm cho 4 Đề Tài Tĩnh Tâm
"Hạt lúa miến rơi xuống đất mục nát đi"
Phúc Âm theo Thánh Gioan 12:20-26
Trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp.Họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng: "Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su." Ông Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su. Đức Giê-su trả lời: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy."
"Người muốn chứng tỏ Người yêu ... cho đến cùng"
Phúc Âm theo Thánh Gioan 13:1-21
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng. Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su. Đức Giê-su biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.Vậy, Người đến chỗ ông Si-môn Phê-rô, ông liền thưa với Người: "Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao? " Đức Giê-su trả lời: "Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu." Ông Phê-rô lại thưa: "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu! " Đức Giê-su đáp: "Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy." Ông Si-môn Phê-rô liền thưa: "Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa." Đức Giê-su bảo ông: "Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu! " Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: "Không phải tất cả anh em đều sạch."Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là "Thầy", là "Chúa", điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em! Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con. Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu. Thật, Thầy bảo thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy." Nói xong, Đức Giê-su cảm thấy tâm thần xao xuyến. Người tuyên bố: "Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy."
"Thày là sự sống lại và là sự sống"
Phúc Âm theo Thánh Gioan 11:17-27
Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số. Nhiều người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua đời. Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy." Đức Giê-su nói: "Em chị sẽ sống lại!" Cô Mác-ta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết." Đức Giê-su liền phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?". Cô Mác-ta đáp: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian."
"Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi"
Phúc Âm theo Thánh Gioan 20:19-29
Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng
kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói:
"Bình an cho anh em!" Nói
xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy
Chúa. Người
lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy
cũng sai anh em." Nói
xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh
em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm
giữ."
Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với
các ông khi Đức Giê-su đến. Các
môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi
không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không
đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." Tám ngày sau, các môn đệ Đức
Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng
kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi
Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra
mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông
Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" Đức
Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà
tin!"
Nghi thức tuyên hứa TĐCTT sống chứng nhân LTXC trong "Thời Điểm Thương Xót" vào cuối Thánh Lễ Phục Sinh lúc 4 giờ chiều tại Nhà Tiệc Ly, nơi Chúa Kitô hiện ra vào 8 ngày sau, tức vào cuối Tuần Bát Nhật Phục Sinh, thời điểm Chúa Giêsu muốn Giáo Hội thiết lập và cử hành Lễ LTXC để tôn thờ LTXC, và Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đáp ứng ý muốn của Chúa Giêsu khi ngài ngỏ ý về việc hiện thực Lễ LTXC này vào cuối lễ tôn phong hiển thánh cho Chị Faustina ngày 30/4/2000.
Tuyên Hứa TĐCTT
Lạy Thiên Chúa là Thần Linh”/ là “Cha ở trên trời”/, là tình yêu vô cùng nhân
hậu – Con tin nơi Chúa!
Con tin nơi Chúa:/ Vì dấu chỉ thời đại cho thấy,/ chính ở vào lúc thế giới càng
văn minh con người càng bạo loạn,/ hiển nhiên nhất từ đầu thế kỷ 20,/ đến độ con
người đang lo sợ tự diệt vong/ bởi chính những gì họ chế tạo ra,/ liên quan tới
luật pháp vô luân phản nhân bản/ và những thứ khí giới sát hại hằng loạt,/ thậm
chí con người đang hung hăng ra tay tự diệt,/ bằng việc ác độc phá thai và bừa
bãi hủy hoại thiên nhiên,/thì từ Balan,/ quê hương của Chị Thánh Faustina,/ sứ
giả của Lòng Thương Xót Chúa,/ Chúa đã làm bừng lên một tia sáng để dọn đường
cho lần đến cuối cùng của Chúa/ là Sứ Điệp Chúa Tình Thương. Đó
là lý do/ thế giới văn minh càng ngày càng lên đến tuyệt đỉnh ngày nay,/ cả về
khoa học và kỹ thuật/ lẫn nhân phẩm và nhân quyền,/ cũng không thể nào cứu được
mình và có hòa bình,/ nếu không nhận biết Chúa là Đấng Tối Cao,/ nếu không chịu
quay về với Lòng Thương Xót Chúa./
Con tin nơi Chúa:/ vì Chúa vô cùng nhân hậu,/ Đấng
“biết hết mọi sự”,/ biết rõ là con người,/ đang say sưa đến choáng váng với chủ
nghĩa tương đối,/ chủ nghĩa duy ngã độc tôn,/ không thể nào tự mình nhận
biết Chúa/ mà quay về với Lòng Thương Xót Chúa,/ nếu chính Chúa là Đấng Cứu
Chuộc Nhân Trần duy nhất của họ/ không tiếp tục yêu thương họ “đến cùng”,/ qua
thành phần Tông Đồ Chúa Tình Thương,/ như trường hợp của vị Giáo Hoàng đã từng
mang “vui mừng và hy vọng” đến cho thế giới tân tiến ở vào cuối thể kỷ 20,/ và
đầu thiên kỷ thứ ba Kitô Giáo,/ là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
“Giêsu ơi,/ con tin nơi Chúa”:/ xin cho con luôn cảm nhận được Lòng Thương Xót
Chúa,/ nhất là những lúc con yếu đuối sa ngã và khổ đau trong đời,/ để càng được
chìm đắm vào vực sâu vô đáy của Lòng Thương Xót Chúa,/ con càng thấy được chân
dung vô cùng nhân hậu của Chúa,/ và nhờ đó,/ con cũng mới thấy được tất cả sự
thật về bản thân con,/ và mới thật sự gặp được tất cả mọi người và mỗi người anh
chị em của con ở đó.
Giờ đây,/ nhờ Mẹ Maria con xin dâng lên Chúa trọn vẹn bản thân hèn mọn của con,/
cùng với hết mọi yếu đuối dại khờ của con,/ hết mọi khuyết điểm tội lỗi của
con,/ hết mọi thiện chí nỗ lực của con,/ hết mọi ước ao khát vọng của con./ Xin
Chúa hãy rửa con “trong Thánh Linh”/ hầu con “được thánh hóa trong chân lý;/ dù
cuộc đời con có phải lần mò “bước đi trong thung lũng tối”,/ có như Chúa “buồn
đến chết được” trong Vườn Cây Dầu đổ mồ hôi máu,/ hay có phải than lên “Chúa
Trời con ơi, Chúa Trời con ơi, sao Ngài lại nỡ bỏ rơi con” trên thập tự giá,/
con cũng hoàn toàn tuân theo Thánh Ý vô cùng khôn ngoan toàn thiện của Chúa,/
nhờ đó,/ Chúa có thể làm vọt lên từ cõi lòng con/ đã được Chúa chiếm đoạt và
biến đổi/ sự sống đời đời là Lòng Thương Xót Chúa/ “cho những người anh chị em
hèn mọn nhất” của Chúa cũng là của con.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng trong lòng,/ xin hoán cải con
trở nên như trẻ nhỏ của Lòng Thương Xót Chúa,/ để con biết nhìn hết mọi anh chị
em con/ bằng ánh mắt cõi lòng của Tình Yêu Nhân Hậu Chúa như Mẹ Maria,/ cho tất
cả được hiệp nhất nên một trong Cha và Con và Thánh Thần./ Amen.
HỌP MẶT LÊN ĐƯỜNG
Thứ Bảy Đầu Tháng ngày 6/4/2019 tại Nhà Chị TĐCTT Trần Kim Oanh
ngay trước giờ Đền Trái Tim Đức Mẹ và Cầu Hồn cho chồng Chị Kim Oanh
10:00 - 10:45 am: Nhóm Hành Hương Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua (12-22/4/2019) họp mặt trước khi lên đường
Phái đoàn TĐCTT "Hành Hương Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua" có tất cả là 37 người, bao gồm cả Vị Linh Hướng là Đức Ông Nguyễn Đức Minh
28 TĐCTT (trong
đó có 1 cặp TĐCTT và 5 chị TĐCTT đi với 5 phu quân, tất cả là 6 cặp)
1 Thân Nhân
8 thân
hữu (trong
đó có 2 cặp)
4 bay từ Canada (4 ở Rochester NY)
Nhóm tham dự chuyến hành hương ở Nam California 29 người, chỉ vắng 2 người, vì đã có một tham dự khác đến họp thay
Sau Kinh Chúa Thánh Thần, mở đầu là việc phân phối các giấy tờ cần thiết cho chuyến đi, bao gồm cả tâp sách hành hương 84 trang in mầu
Sang phần thứ 2, bé tĩnh nhắc lại ý hướng và tổng quan về chuyến hành hương này, đặc biệt là yếu tố thời điểm: "Tuần Thánh Vượt Qua"
Phần thứ hai bao gồm cả những gì được bé tĩnh soạn thảo trong tập sách hành hương, trong đó
chẳng những bao gồm chính yếu là phần Phụng Vụ ời Chúa kèm theo Thánh Ca cần cho hằng ngày,
mà còn hình ảnh về các nơi kính viếng ở Thánh Địa, chưa kể đến những gì liên quan chính thành phần tham dự hành hương.
Phần ba do nhỏ nga phụ trách liên quan đến những gì nàng biên soạn sẵn, đầy 1 tờ 2 mặt, tất cả những gì cần thiết
liên quan đến chuyến hành hương mà mỗi người cần biết, cần nhớ và cần làm
Buổi họp kéo dài đúng 1 tiếng (10-11am), sau đó 11:30 - 12:30 pm:
Thánh Lễ - Đền Tạ, cầu hồn và cầu cho chuyến Hành Hương Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua,
cuối lễ, phái đoàn hành hương lĩnh phép lành lên đường của Cha chủ tế cũng là Cha linh hướng hành hương