THƯ PHÒNG LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

của Nhóm Tông Đồ Chúa Tình Thương

 

 

Năm Thánh Gia Huynh Đệ 2021

 

Chia Sẻ Trực Tuyến Chủ Đề "Fatima - Thánh Mẫu Thương Xót"

 

4- Fatima - Sứ Vụ Thương Xót

 

 

  TĐCTT-HSTTM Đaminh Maria cao tấn tĩnh, BVL 

Chia sẻ trực tuyến Thứ Năm ngày 19/8/2021

https://youtu.be/YkEAIS7Wk-4

 

Lời Chúa

Phúc Âm Thánh Luca 13:22-30

22 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy.23 Có kẻ hỏi Người: "Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không? " Người bảo họ:24 "Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.

25 "Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: "Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào! , thì ông sẽ bảo anh em: "Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!26 Bấy giờ anh em mới nói: "Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.27 Nhưng ông sẽ đáp lại: "Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!

28 "Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài.29 Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.30 "Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót."  


"Sứ Vụ Thương Xót" nơi công ơn cứu độ của Thiên Chúa

Vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay là vấn đề phần rỗi, như câu hỏi của một ai đó bất ngờ đặt ra cho Chúa Giêsu khi Người đang "trên đường lên Giêrusalem... ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy": "Thưa Ngài, những người được cứu rỗi thì ít có phải không?" Căn cứ vào câu nghi vấn có tính cách khẳng định này, chúng ta có thể suy đoán được kẻ chất vấn này thuộc thành phần nào. Phải chăng con người ấy là thuộc biệt phái và luật sĩ, thành phần vẫn tự cho mình là công chính hơn ai hết, do họ thông luật, giữ luật và dạy luật. Mà nếu công chính là do việc thông luật và giữ luật để nên công chính thì chẳng có bao nhiêu. Ngoài họ ra, thì hầu như dân chúng bình dân chẳng biết gì về luật lệ cho lắm nên giữ luật cũng lơ mơ, đều có thể bị hư đi, không được cứu rỗi, nhất là thành phần thu thuế tham lam nam nhân và thành phần đĩ điếm xác thịt nữ giới, chưa kể đến các thứ dân ngoại nhơ nhớp vốn bị họ khinh dể và xa lánh như đồ cùi hủi ghê tởm đáng bị loại trừ khỏi xã hội loài người, như chính tông đồ Gioan đã từng xin Thày cho ngài khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi một làng Samaria ngoại lai không muốn tiếp đón Người (xem Luca 9:54).
Chúa Giêsu không hề chấp nhận chủ trương ấy của họ, như một người có thể nào đó trong họ đã chất vấn Người. Tuy trong câu trả lời của mình, Chúa Giêsu không trực tiếp và minh nhiên "yes" hay "no" về vấn đề phần rỗi nhiều hay ít, nhưng Người đã kín đáo và gián tiếp trả lời cho con người này cũng cho thấy suy đoán trên đây liên quan đến thành phần biệt phái và luật sĩ là khả tín. Ở chỗ, Người đã thách thức kẻ chất vấn Người về cách thức để được cứu độ, một cách thức còn khó hơn là việc thông luật và giữ luật nữa, đó là việc "hãy cố mà vào qua cửa hẹp", một "cửa hẹp" mà "có nhiều người sẽ tìm cách vào mà bất khả". Phải chăng thành phần "tìm cách vào mà bất khả" đây là nhóm biệt phái và luật sĩ, ở chỗ họ thông luật và giữ luật, nhưng vẫn bị loại: "bị đuổi ra ngoài", trong khi đó, ngược lại, những kẻ xấu xa mà họ vẫn khinh bỉ như dân ngoại là "thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa". Vì điều kiện để vào "dự tiệc Nước Thiên Chúa" là "qua cửa hẹp", tức là phải "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3) mới có thể lọt vào "cửa hẹp", chứ to con lớn tướng cao ngạo như biệt phái dù có cố lách vào cũng "bất khả"!
Như thế, Chúa Giêsu đã mặc nhiên khẳng định rằng rất nhiều người được cứu rỗi, chứ không ít như thành phần tự công chính hóa tưởng bở. Nếu tổ phụ Abraham là cha của các kẻ tin, mà con cháu ông không phải chỉ là dân Do Thái, xuất phát từ Isaac là đứa con được sinh ra bởi lời hứa chứ không phải bởi xác thịt, nhưng bao gồm toàn thể nhân loại, như chính Thiên Chúa, Đấng đã hứa cứu chuộc cả loài người ngày sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15), đến độ thành phần được cứu độ hằng hà không thể đến nổi "như sao trời cát biển", như Ngài đã hứa với tổ phụ Abraham (xem Khởi Nguyên 15:5), nhất là sau khi ông sát tế Isaac là người con trai duy nhất của ông (Khởi Nguyên 22:17-18). Thế nhưng, thực tế cho thấy, con người càng văn minh vật chất và càng văn hóa nhân bản lại càng trở nên vô thần duy vật, cáng hiện sinh hưởng thụ, càng vị kỷ lạnh lùng, càng hận thù ghen ghét và xác thịt v.v. làm sao lại không ứng nghiệm câu chất vấn khẳng định ở đầu bài Phúc Âm trên đây: "Có ít kẻ được cứu rỗi phải không?" Nếu không thì Vị Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng sẽ phải làm sao để thành phần được cứu độ hằng hà sa số như thế?
Đúng vậy, Thiên Chúa là Đấng vô cùng khôn ngoan và toàn năng làm sao có thể lại thua ma quỉ được chứ, cho dù hắn quỉ quyệt đến đâu chăng nữa. Chẳng lẽ là Đấng vô cùng khôn ngoan và toàn năng, Ngài lại để cho ma quỉ là ngư ông đắc lợi hay sao, trong khi Ngài lại phải hết sức "công phu" đến tận cùng, cho dù Ngài không cần phải làm những gì bất xứng với bản tính vô cùng cao cả đáng tôn thờ của Ngài, như Ngài đã thực hiện nơi Con Một của Ngài, đến độ "không dung tha cho Con Một của mình, trái lại, đã trao nộp Người" (Roma 8:32) để cứu chuộc một loài người tạo vật chúng ta vô cùng hèn hạ chẳng là gì trước nhan Ngài, lại còn tội lỗi xấu xa bất xứng với Ngài, đáng trừng phạt hơn là cứu độ, nghĩa là Ngài bất chấp công ơn cứu độ vô cùng cao quí của Con Mình, để cho công ơn cứu chuộc của Con Ngài trở thành vô ích với đa số hay hầu hết các linh hồn hư đi, không thể tự cứu được mình, tức để cho ma quỉ hoan hưởng các linh hồn bất tử là hoa trái ơn cứu độ của Ngài, nơi Người Con đã hóa thân làm người và đã vượt qua của Ngài hay sao? Đến đây chúng ta mới thấy được ý nghĩa và tính cách cứu độ ở Bí Mật Fatima phần 3!

"Sứ Vụ Thương Xót" nơi lời kêu gọi của Mẹ Fatima 

Thật thế, "ở đâu tội lỗi gia tăng", như ở vào thời đại chúng ta đây, thì "ở đấy càng chứa chan ân sủng" (Roma 5:20), nghĩa là càng tạo nên cơ hội cho Lòng Thương Xót Chúa vô biên bất tận được rạng ngời hơn bao giờ hết. Bởi thế Đức Thánh Cha Phanxicô, trong lần gặp gỡ hàng giáo sĩ Roma vào đầu Mùa Chay hằng năm ngày 6/3/2014, mới khẳng định "đây là thời điểm thương xót" và "thời điểm thương xót" này, cũng theo ngài, được bắt đầu từ thời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị giáo hoàng đã bị ám sát chết hụt ở Quảng Trường Thánh Phêrô ngày 13/5/1981 trong trang phục mầu trắng, đúng như hình ảnh "vị giám mục mặc áo trắng" trong thị kiến Bí Mật Fatima phần thứ 3. Cùng bị sát hại với "vị giám mục mắc áo trắng" này là đoàn người Kitô hữu bao gồm cả hàng giáo phẩm, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, nhưng máu của họ được thu góp lại bởi hai vị thiên thần đứng 2 bên cánh cây Thánh Giá vĩ đai trên đỉnh ngọn núi dốc đứng vẩy lên những linh hồn tìm về với Thiên Chúa, có nghĩa là máu tử đạo của đạo binh thương xót ấy, đã được nên một với máu cứu độ của Chúa Kitô, có sức cứu độ con người thời đại cần đến lòng thương xót Chúa hơn!
Đó là lý do, lý do cứu lấy "các linh hồn cần đến lòng thương xót Chúa hơn" như thế mà sau khi cho 3 thiếu nhi Fatima thụ khải thị kiến thấy Bí Mật Fatima phần thứ ba xong, Đức Mẹ liền kêu gọi 3 em rằng: "Khio các con cầu Kinh mân Côi, thì sau mỗi một mầu nhiệm, các con hãy nguyện rằng: 'Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là các linh hồn cần đến lòng thương xót Chúa hơn", một lời nguyện chất chứa 2 thị kiến của Bí Mật Fatima, đó là thị kiến hỏa ngục ở phần đầu, liên quan đến các linh hồn bị hư đi, mất ơn cứu độ, và thị kiến tử đạo cứu vãn ơn cứu độ ở phần cuối, và cũng là lời nguyện xin Chúa Kitô thương cứu lấy các linh hồn, "nhất là các linh hồn cần đến lòng thương xót Chúa hơn", chẳng hạn như thành phần được tiêu biểu nơi toán lính bất ngờ xuất hiện sát hại đoàn Kitô hữu đang quì cầu nguyện dưới chân cây Thánh Giá. 
Chưa hết, cũng liên quan đến việc cứu vớt ơn cứu độ nơi các linh hồn tội nhân không thể tự cứu mình, vì càng sa lầy tội lỗi càng khó trở về với Chúa, vào lần hiện ra thứ tư ngày 19/8/1917, (chứ không phải 13/8 như thường, bởi chính ngày 13 các em bị chính quyền địa phương đánh lừa mang lên trụ sở của họ để hạch hỏi và dọa nát bắt các em nói cho họ biết về Bí Mật Fatima phần thứ 3), Đức Mẹ đã nhắn nhủ các em và kêu gọi các em rằng: "Các con hãy cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều và hy sinh cho các tội nhân, vì nhiều linh hồn bị sa hỏa ngục, bởi không có ai chịu hy sinh cầu nguyện cho họ". 
Trong câu nói này của Mẹ Maria, có 2 vấn đề cần phải được sáng tỏ: con số hư đi và trách nhiệm cứu độ. Trước hết là chi tiết "nhiều linh hồn bị sa hỏa ngục", chữ "nhiều" ở đây không phải là "nhiều linh hồn bị sa hỏa ngục" hơn các linh hồn được lên thiên đàng, nghĩa là ít rỗi nhiều hư theo chủ trương của câu chấn vấn khẳng định trong bài Phúc Âm. "Nhiều linh hồn bị sa hỏa ngục" đây ám chỉ đến tấm lòng từ mẫu xót thương là Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria cảm thấy hết sức đớn đau nhức nhối dù chỉ một linh hồn bị sa hỏa ngục, trong khi đó linh hồn q=bất tử quí báu ấy đã được cứu chuộc bởi công ơn vô giá của Chúa Kitô.
Sau nữa là vấn đề trách nhiệm cứu độ: Vẫn biết là ai hư đi là do chính bản thân họ, chứ không phải bởi ai khác. Tuy nhiên, họ vẫn có thể cứu được nếu có ai chịu hy sinh cầu nguyện cho họ, có nghĩa là chịu thay đền thay cho họ, như chính Chúa Giêsu Kitô đã chịu thay đền thay cho loài người tội lỗi khốn nạn không thể tự cứu mình. Bởi thế, thành phần Kitô hữu, thành phần chẳng những được hoan hưởng ơn cứu độ của Chúa Kitô khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy tái sinh, mà còn có trách nhiệm cứu độ với Chúa Kitô như Mẹ Maria và Tông đồ Gioan và Chị Mai-đệ-Liên nữa, bằng chứng từ của họ cho những ai chưa nhận biết Chúa Kitô, và bằng việc 'hy sinh cầu nguyện" của họ cho các tội nhân.

"Sứ Vụ Thương Xót" nơi 3 thiếu nhi Fatima thụ khải

Chính trong biến cố Thánh Mẫu Fatima năm 1917, việc đầu tiên Mẹ làm vào ngay lần hiện ra thứ nhất 13/5/1917, khi Mẹ chưa xưng mình là ai và công khai tuyên bố chủ ý Mẹ hiện ra để làm gì, thì Mẹ đã triệu tập ngay một đạo binh dàn trận với 3 em thiếu nhi Fatima thụ khải, bằng lời kêu gọi 3 em "dâng mình cho Thiên Chúa để chấp nhận tất cả mọi đau khổ Ngài gửi đến mà đền tạ những tội Ngài đã bị xúc phạm và cầu cho tội nhân biết ăn năn hoán cải". Đúng vậy, đó là Sứ Vụ Thương Xót của cả 3 em, đền tạ Chúa và cứu các tội nhân. Sau khi cả 3 em đồng thanh mau mắn can đảm thưa cùng Mẹ: "Vâng chúng con sẵn sàng", các em đã quả thực hiện thực hóa sứ vụ thương xót của mình.

Thật thế, chị Lucia đã thuật lại những gì 3 em đã cùng nhau hăng say và thiết tha sống Sứ Vụ Thương Xót này của các em trong Hồi Ký Thứ Nhất của chị như sau.      

“Vào một ngày nắng gắt, sau khi cho đi bữa ăn trưa của mình, theo quyết định chung với nhau từ trước, hễ thấy các trẻ nghèo thì cho họ đồ ăn trưa của mình, 3 trẻ cảm thấy khát, song không còn một giọt nước để uống. Đầu tiên các em dâng hy sinh khát nước vì Chúa cho các tội nhân như thường lệ. Sau đó, không chịu khát được nữa, với sự đồng ý của Phanxicô và Giaxinta, Lucia đã ghé vô một nhà ở gần đó để xin nước uống. Thế nhưng, số nước xin được lại bị đổ xuống khe đá cho chiên uống, vì cả ba ai cũng nhất định hy sinh chịu khát để cầu cho các tội nhân. Sau cùng, cơn khát làm cho Giaxinta khó chịu đến nỗi em đã nói với Lucia bảo các tiếng dế và ếch nhái đang kêu im đi vì chúng làm ‘em nhức đầu khủng khiếp’. Nhưng, sau khi nghe Phanxicô nhắc: ‘Em không muốn chịu đựng cho các tội nhân à?’, Giaxinta liền lấy hai bàn tay ôm đầu, mà nói: ‘Có chứ. Thôi để chúng kêu đi!’.”

Căn cứ vào các việc và các cách hy sinh của các em, mà, theo như Đức Mẹ đã cho các em biết vào lần hiện ra thứ 5, 13/9/1917, là “Thiên Chúa hài lòng với những hy sinh của các con”, thì “những hy sinh” đã làm đẹp lòng Thiên Chúa của các em có thể phân tách và tóm lược như sau:

Hy sinh là quên mình. Lúc mới bắt đầu tập hy sinh, các em đã đồng ý với nhau là đem đồ ăn trưa của mình cho đàn vật ăn, hay cho các trẻ nghèo mà các em gặp được ăn. 

Hy sinh là hãm mình. Các em thắt một đoạn giây thừng ở chung quanh bụng cho thân xác của các em luôn luôn cảm thấy khó chịu và đau đớn, trừ ban đêm như Đức Mẹ dặn.

Hy sinh là cầm mình. Biết anh Phanxicô đang bị bệnh, theo tình anh em tự nhiên, Giaxinta rất muốn sang thăm anh của mình, song em đã cầm mình lại và không làm như thế: “Mẹ em đi khỏi rồi, em muốn sang thăm anh Phanxicô nhiều lần, song em đã không đi” (Hồi Ký Lucia 1). 

Hy sinh là ép mình. Giaxinta đã tâm sự với Lucia: “Đêm qua, em đau đớn quá sức, và vì em muốn dâng hy sinh cho Chúa, em đã không trở mình trên giường, làm cả đêm em không ngủ được” (Hồi Ký Lucia 2).

Hy sinh là ẩn mình. Trong thời gian cả Phanxicô và Giaxinta bị bệnh, Giaxinta thường được Lucia vào phòng thăm trước Phanxicô, Gianxinta hay nói với Lucia là “Thôi chị sang thăm anh Phanxicô đi. Em sẽ hy sinh ở đây một mình”. 

Hy sinh là dấn mình. Các em vốn không thích, trái lại, còn cảm thấy bị làm phiền và khổ tâm khi người ta cứ tuốn đến hạch hỏi các em về việc Đức Mẹ hiện ra với các em, nhưng, trong khi, theo tính tự nhiên, Lucia và Giaxinta chạy trốn mỗi khi thấy bóng người ta, thì Phanxicô đã đứng lại để tiếp họ. 

Hy sinh là bỏ mình. Vốn không thích uống sữa một tí nào cả, thế mà, sau lần từ chối ly sữa mẹ em đưa cho em uống khi em bị bệnh, sau đó, được Lucia nhắc cho, Gianxinta đã ngoan ngoãn uống nó mỗi khi Mẹ của em đưa cho em uống. 

Hy sinh là liều mình. Thay vì hy sinh chịu khát, có một lần, Giaxinta đã uống cho đỡ khát, song nước mà Giaxinta uống cho đỡ khát đó không phải là nước ngon lành gì, mà là nước ao hồ bẩn thỉu, nước mà dân chúng vẫn giặt quần áo và thú vật vừa uống vừa lội trong đó. 

Hy sinh để đền bù cho tha nhân. Dù đang bị bệnh, Giaxinta cũng cứ đi lễ ngày thường để bù lại việc bỏ lễ Chúa Nhật của các tội nhân, hay cũng vì bị bệnh, Giaxinta cần ăn uống nhiều hơn, song em đã nhịn ăn để bù lại tội tham ăn của các tội nhân.

Hy sinh trong tất cả mọi sự. “Giaxinta quan tâm đến vấn đề hy sinh cầu cho tội nhân ăn năn hối cải đến nỗi em không chịu bỏ qua một dịp hy sinh nào” (Hồi Ký Lucia 1).

Tóm lại, nguyên tắc và đường lối hy sinh của 3 Thiếu Nhi Fatima gương mẫu tiên khởi này đã thực hiện đúng y như lời Thiên Thần dạy các em vào lần hiện ra thứ hai năm 1916, khi các em hỏi Thiên Thần rằng: “Chúng con phải hy sinh như thế nào?”, đó là “làm mọi sự có thể để hy sinh”.

Ba Thiếu Nhi Fatima tiên khởi chẳng những tìm hy sinh theo hoàn cảnh riêng có thể của mình, còn cùng nhau hy sinh, (như trường hợp điển hình được đề cập đến đầu tiên), nhắc nhau hy sinh và nhất là nhắc nhau hy sinh vì yêu Chúa nữa. 

Cùng nhau hy sinh: Mặc dầu vốn thích hát những bài hát dân ca lành mạnh, nhưng, dù được người ta mến và yêu cầu hát, các em đã không hát nữa, theo đề nghị của Phanxicô: “Chúng ta đừng hát bài hát đó nữa. Chúa chúng ta chắc chắn không muốn chúng ta hát những điều như thế này” (Hồi Ký Lucia 3). 

Nhắc nhau hy sinh: “Một ngày kia, khi con đến, Giaxinta hỏi con: ‘Chị có nhiều hy sinh hôm nay không? Em có nhiều lắm.’” (Hồi Ký Lucia 1). 

Nhắc nhau hy sinh vì yêu Chúa: “Kể từ ngày Đức Mẹ dạy chúng con dâng hy sinh của chúng con cho Chúa Giêsu, thì bất cứ lúc nào chúng con chịu đựng, hay đồng ý hy sinh, Giaxinta đều hỏi: ‘Chị có nói với Chúa Giêsu là Chị làm vì yêu Chúa không?’ Nếu con nói chưa, em liền nói: ‘Vậy em sẽ thưa với Người’, rồi em chắp ta lại, mắt ngước lên trời: ‘Ôi Chúa Giêsu, con làm vì yêu Chúa và cho các tội nhân ăn năn hối cải’”.

"Sứ Vụ Thương Xót" nơi thiếu nhi Fatima Giaxinta  

Vẫn biết lời hiệu triệu “dàn trận” của Mẹ Maria vào lần hiện ra thứ nhất 13/5/1917 là Sứ Vụ Thương Xót chung của ba em Thiếu Nhi Fatima - s v ch5u thay đền thay bằng việc hy sinh cầu nguyện: ở chỗ chịu khổ để đền tạ Chúa và cứu các tội nhân. Tuy nhiên, nếu thiếu nhi Lucia chuyên về Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên  Tội Mẹ Maria, như chúng ta đã chia sẻ ở 2 đề tài "Fatima - Trái Tim Thương Xót" - đề tài 2, và "Fatima - Bí Mật Thương Xót" - đề tài 3, và thiếu nhi Phanxicô nổi bật nhất về việc đền tạ "Giêsu ẩn thân" là Chúa Giêsu Thánh Thể của em, như chúng ta đã chia sẻ ở đề tài 1 về "Fatima - Ơn Gọi Thương Xót", thì thiếu nhi Giaxinta lại chuyên môn "hy sinh cầu nguyện" cứu tội nhân, như chị Lucia thuật lại trong Hồi Ký Thứ Nhất và Thứ Ba của chị sau đây. 

“Hôm ấy chúng con đang chơi ở chỗ giếng nước con đã đề cập tới. Gần đó, có một cây nho của mẹ Giaxinta. Bà đã cắt một ít chùm để mang lại cho chúng con ăn. Nhưng Giaxinta không bao giờ quên các tội nhân cả. Em nói: 

- Chúng ta sẽ không ăn những chùm nho này. Chúng ta hãy dâng hy sinh này để cầu nguyện cho các tội nhân. 

Rồi em cầm những trái nho chạy đi cho những trẻ em khác đang chơi trên đường đi. Em trở về mặt mày hớn hở, vì em đã thấy các trẻ em nghèo của chúng con để trao cho họ những trái nho. 

Lần khác, bà dì của con gọi chúng con lại để ăn những trái vả bà mang về nhà, và thật sự là những trái ấy ai ăn cũng cảm thấy ngon miệng. Giaxinta hớn hở ngồi xuống bên giỏ trái cây cùng với chúng con rồi cầm trái vả đầu tiên lên. Em gần ăn trái vả này thì sực nhớ lại đã nói: 

- Đúng rồi! Hôm nay chúng ta chưa làm được một hy sinh nào cho các tội nhân hết! Chúng ta phải dâng hy sinh này. 

Em bỏ trái vả lại giỏ trái cây để thực hiện việc hy sinh; cả chúng tôi cũng bỏ những trái vả vào giỏ để cầu nguyện cho các tội nhân ăn năn cải thiện đời sống. Giaxinta đã thực hiện nhiều hy sinh như thế rất là thường, nhưng con xin thôi không kể đến nữa kẻo con sẽ không bao giờ ngừng được. 

Đó là cách Giaxinta đã sống hằng ngày của mình cho đến khi Chúa gửi đến cho em chứng bệnh cúm làm em phải nằm yên ở trên giường, cả anh Phanxicô của em cũng bị nữa. Tối hôm trước khi ngã bệnh, em đã nói rằng: 

- Em cảm thấy nhức đầu quá đi và rất là khát nước! Thế nhưng em sẽ không uống nước, vì em muốn chịu khổ cho các tội nhân.    

Tuy nhiên, Giaxinta đã khá hơn một chút. Em thậm chí đã có thể chỗi dậy và nhờ đó có thể bỏ cả ngày ra ngồi bên giường của Phanxicô. Một lần kia em nhắn con tới gặp em lập tức. Con chạy ngay lại. Em đã nói với con rằng: 

- Đức Bà đã đến gặp em. Người bảo cho chúng ta biết rằng chẳng còn bao lâu nữa Người sẽ đến đem anh Phanxicô về trời, và Người hỏi em rằng em có còn muốn hoán cải các tội nhân hay chăng. Em đã nói rằng có. Người bảo em là em sẽ phải đi đến nhà thương, ở đó em sẽ chịu nhiều đau khổ; và em phải chịu khổ để hoàn cải các tội nhân, hầu đền tạ tội lỗi đã phạm đến Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria và vì yêu Chúa Giêsu. Em hỏi Người là chị có đi với em không. Người nói là không, và đó là những gì em cảm thấy khó nhất. Người nói rằng mẹ em sẽ đưa em đi, rồi em sẽ phải ở lại đó một mình!

Nói xong em ngẫm nghĩ một chút rồi thêm: 

- Giá chị có thể ở với em nhỉ! Chỗ khó nhất đó là đi không có chị…. Thế nhưng không sao! Em sẽ chịu vì yêu Chúa, để đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, để cầu cho các tội nhân cũng như cho Đức Thánh Cha. 

Vào lúc người anh của em về trời, em đã tỏ cho anh những lời nhắn gửi này:

- Anh hãy dâng lên Chúa và Mẹ tất cả tình yêu của em nhé, và thưa với các Ngài rằng em sẽ chịu khổ bao lâu các Ngài muốn, để cầu cho các tội nhân ăn năn hối cải cũng như để đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.    

Giaxinta đã hết sức đau khổ trước cái chết của Phanxicô. Em cảm thấy vô cùng thấm thía trong lòng một thời gian dài, đến nỗi nếu có ai hỏi em đang nghĩ gì thì em đáp: ‘Nghĩ về Phanxicô. Tôi hy sinh tất cả để mong gặp lại anh!’ Rồi em rướm nước mắt.

Ngày kia con nói với em rằng: 

- Giờ đây chẳng còn bao lâu nữa em sẽ về trời. Thế còn chị thì sao đây!

- Tội nghiệp cho chị! Chị đừng có khóc! Em sẽ cầu thật nhiều cho chị khi em lên đó. Phần chị, đó là cách Đức Mẹ muốn chị phải sống. Nếu Người muốn điều ấy cho em, em sẽ hân hoan ở lại để chịu đau khổ hơn nữa cho các tội nhân.    

Ngày Giaxinta phải đi nhà thương đã đến. Ở đó em thật sự đã phải chịu đựng rất nhiều. Khi mẹ em đến thăm em, bà hỏi em có cần gì chăng. Em nói rằng em muốn gặp con. Đây không phải là một điều dễ dàng đối với dì của con, song dì cũng đem con đi ngay khi có dịp. Vừa thấy con, em đã hớn hở ôm chầm lấy con, và nói với mẹ của em hãy đi mua đồ và để con lại với em. Con hỏi thăm em có khổ đau nhiều lắm chăng. Em đáp:   

- Có chứ. Thế nhưng em dâng tất cả mọi sự để cầu cho các tội nhân cũng như để đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.    

Thế rồi, đầy nhiệt tình, em đã nói về Chúa và Đức Mẹ như sau:   

- Ôi em yêu thích được chịu khổ vì yêu các Ngài biết bao, chỉ để làm cho các Ngài hài lòng mà thôi! Các Ngài rất yêu thương những ai chịu khổ cho các tội nhân ăn năn cải thiện đời sống.

Em được trở về nhà với cha mẹ em trong một thời gian. Em có một vết thương lớn ở ngực cần phải được chữa trị hằng ngày, nhưng em đã chịu đựng không hề phàn nàn hay tỏ ra một dấu hiệu khó chịu nào. Điều làm em khó chịu nhất là những cuộc viếng thăm thường xuyên và những câu hỏi của nhiều người đến thăm em, những người em không thể nào tránh né được nữa.   

- Em cũng dâng cả những hy sinh này nữa để cầu nguyện cho các tôi nhân ơn ăn năn hối cải.

Có lần dì của con xin con một điều “Cháu hỏi xem Giaxinta nghĩ gì khi nó lấy tay ôm mặt bất động một lúc lâu. Dì đã hỏi nó nhưng nó chỉ mỉm cười không nói năng gì”. Con đã hỏi Giaxinta. Em trả lời con như sau:

- Em nghĩ đến Chúa, đến Đức Mẹ, đến các tội nhân, và đến… (em đề cập tới một số điều của Bí Mật). Em thích suy nghĩ.    

Một lần nữa, Đức Trinh Nữ lại chiếu cố đến thăm Giaxinta, để nói với em về những thánh giá mới cùng những hy sinh mới đang chờ đợi em. Em đã cho con biết những điều ấy mà rằng:   

- Đức Mẹ bảo em rằng em sẽ đi Lisbon tới một bệnh viện khác; rằng em sẽ không thấy chị nữa, cũng chẳng được thấy cha mẹ em nữa, và sau khi đã chịu nhiều đau khổ, em sẽ chết cô đơn một mình. Thế nhưng Người nói rằng em không cần gì phải sợ hãi, vì chính Người đến đem em về trời.    

Em đã ôm ghì lấy con mà khóc: 

- Em sẽ không bao giờ được thấy chị nữa! Chị sẽ không đến đó thăm em. Ôi xin chị cầu nguyện nhiều cho em, vì em sẽ bị chết cô đơn một mình!

Giaxinta đã chịu đựng kinh khủng cho tới ngày em lên đường đi Lisbon. Em cứ gắn liền lấy con mà khóc nấc lên:

- Em sẽ không bao giờ được thấy chị nữa! Không bao giờ được thấy mẹ em nữa, các anh của em nữa, cha của em nữa! Em sẽ không bao giờ được thấy mọi người nữa! Thế rồi em sẽ chết lủi thủi một thân một mình.    

Một hôm con khuyên em:   

- Em đừng nghĩ đến nó nữa.    

Em trả lời:   

- Hãy để em nghĩ đến nó, vì càng nghĩ em càng khổ, song em muốn chịu khổ vì yêu Chúa và cho các tội nhân. Dù vậy, em cũng không sao! Đức Mẹ sẽ đến đó để đưa em về trời.   

Có những lúc em hôn và ôm cây thánh giá mà than lên rằng: “Ôi Chúa Giêsu ơi! Con yêu Chúa, và con muốn chịu khổ thật nhiều vì yêu Chúa”. Em rất thường hay nói rằng: “Ôi Chúa Giêsu! Giờ đây Chúa có thể hoán cải nhiều tội nhân, vì đây thật sự là một hy sinh to lớn!”
Cuối cùng ngày em phải bỏ nhà đi Lisbon đã đến (21/2/1920). Thật là một cuộc giã biệt đoạn trường. Em đã ôm chặt lấy con rất lâu mà khóc nấc lên:

“Chúng ta sẽ không bao giờ được thấy nhau nữa! Xin chị cầu nguyện nhiều cho em cho đến khi em về trời. Bấy giờ em sẽ cầu nguyện cho chị. Chị đừng bao giờ nói Bí Mật ấy cho bất cứ một ai nghe, dù họ có giết chị đi nữa. Chị hãy yêu mến Chúa Giêsu và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria thật nhiều, và hãy kiếm nhiều hy sinh cho các tội nhân”. 

Trong bài giảng phong Chân Phước cho Thiếu Nhi Giaxinta, người đã qua đời lúc gần 10 tuổi (11/3/1910-20/2/1920) tại Linh Địa Thánh Mẫu Fatima ngày 13/5/2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói về vị Á Thánh nữ trẻ nhất Giáo Hội này (ở đoạn 4) như sau: 

“Bé Giaxinta đã cảm được và nghiệm thấy nơi bản thân mình nỗi sầu thương của Đức Mẹ, bằng việc anh hùng hiến mình như một vật hy sinh cho các tội nhân. Một ngày kia, khi em và Phanxicô bị bệnh làm cho các em phải nằm giường, Đức Maria đã đến thăm các em ở nhà, như bé gái thuật lại: ‘Đức Mẹ đã tới thăm chúng con và nói rằng chẳng mấy chốc nữa Người sẽ đến mang Phanxicô về trời. Và Người hỏi con có muốn hoán cải các tội nhân hơn nữa không. Con thứa Người là có’. Rồi tới lúc Phanxicô ra đi, nhỏ gái nói với anh mình rằng: ‘Xin anh cho em gửi lời chào Chúa và Đức Mẹ nhé, và thưa cùng các Ngài rằng em đang chịu đựng mọi sự các Ngài muốn để cầu cho các tội nhân ăn năn cải thiện đời sống’. Giaxinta đã bị kích động sâu xa bởi thị kiến hỏa ngục vào lần Đức Mẹ hiện ra 13/7, đến nỗi không một việc hy sinh hãm mình hay đền tội nào là quá sức đối với em trong việc cứu lấy các tội nhân. 

“Em có thể xứng đáng cùng với Thánh Phaolô kêu lên rằng: ‘Tôi hân hoan trong những nỗi đớn đau tôi phải chịu vì anh em, và trong xác thịt của mình, tôi làm trọn những gì còn thiếu nơi những khổ nạn của Chúa Kitô phải chịu vì thân thể của Người là Giáo Hội’ (Col 1:24). Chúa Nhật vừa qua, tại Hí Trường Colosseum ở Rôma, chúng ta đã tưởng niệm rất nhiều chứng nhân đức tin thuộc thế kỷ 20, bằng cách nhớ lại những hoạn nạn họ đã phải chịu với những chứng từ sáng tỏ họ để lại cho chúng ta. Đám mây vô vàn các vị tử đạo đức tin can trường đã lưu lại cho chúng ta một di sản phải được tiếp tục bảo tồn trong thiên niên thứ ba. Ở Fatima đây, nơi đã báo trước cho thấy những lúc hoạn nạn này và đã được Đức Mẹ lên tiếng xin cầu nguyện cùng thống hối để rút ngắn chúng lại, hôm nay Tôi xin cám ơn trời cao về chứng từ mãnh liệt đã được tỏ ra qua tất cả những cuộc sống ấy. Một lần nữa, Tôi chúc tụng lòng lành Chúa đã thương cứu Tôi thoát chết sau khi bị trọng thương ngày 13/5/1981. Tôi cũng muốn nói lên lòng tri ân của Tôi đối với Chân Phước Giaxinta về những hy sinh và lời cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, vị mà Chân Phước đã thấy trước là phải chịu đau khổ rất nhiều”.