SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật 12 Thường Niên Năm B
Bài Ðọc I: G 38, 1. 8-11
"Sóng cồn của ngươi phải dừng lại đây".
Trích sách Gióp.
Bấy giờ từ cơn gió lốc, Chúa đáp lời Gióp rằng: "Khi nước chảy mạnh vỡ bờ như sinh ra bởi lòng mẹ, ai đã lấy cửa mà ngăn lại, lúc Ta lấy mây làm áo che nó, và lấy u tối che phủ nó như khăn bọc con trẻ? Ta đã vạch biên giới chung quanh nó, đã đặt khung cửa và then chốt mà phán rằng: "Ngươi chảy đến đây mà thôi, không được chảy xa nữa và vỗ sóng ba đào cũng phải dừng tại đây".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 106, 23-24. 25-26. 28-29. 30-31
Ðáp: Hãy tán tạ Chúa, bởi đức từ bi Người còn muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Những người xuống tàu vượt biển ra khơi, làm nghề thương mại trên nơi nước cả, họ đã nhìn thấy những kỳ công của Chúa, và những việc huyền diệu của Người ở chỗ thâm uyên. - Ðáp.
2) Chúa lên tiếng, và Người đã khiến phong ba nổi dậy, Người đã khiến cho sóng biển dâng cao. Những người đó lên tới trời xanh, xuống lòng biển thẳm, tâm hồn họ bủn rủn trong cảnh gian nguy. - Ðáp.
3) Họ đã kêu cầu Chúa trong cơn khốn khó, và Người đã giải thoát họ khỏi chỗ lo âu. Người biến đổi phong ba thành gió thổi hiu hiu, và bao làn sóng biển đều im lặng. - Ðáp.
4) Họ mừng vui vì thấy sóng biển yên, và Chúa đã đưa họ cập bến ước mong. Những người đó hãy cảm ơn Chúa vì lòng nhân hậu, và những điều kỳ diệu của Người đối với con người ta! - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Cr 5, 14-17
"Ðây mọi cái mới đã được tạo dựng".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, lòng mến của Ðức Kitô thúc bách chúng ta; chúng ta xác tín điều này là một người đã chết vì mọi người, vậy mọi người đều đã chết. Và Ðức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, thì không còn sống cho chính mình nữa, mà là sống cho Ðấng đã chết và sống lại vì họ.
Vì thế, từ nay chúng ta không còn biết ai theo xác thịt nữa. Mặc dù nếu chúng ta đã biết Ðức Kitô theo xác thịt, thì giờ đây chúng ta không còn biết như thế nữa. Vậy nếu ai đã trở nên một tạo vật mới trong Ðức Kitô, thì những gì cũ đã qua rồi, vì đây mọi sự đều được trở nên mới.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4, 35-40
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người. Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
Ðó là lời Chúa.
Phải công nhận là các tông đồ yếu đức tin thật đó. Bởi vì, theo lập
luận và nhận định tự nhiên thì chẳng có ai ngủ say đến độ sóng gió
bão bùng ào ào khiến con thuyền chập chùng nhào lên lộn xuống như
vậy, khiến các môn đệ hò hét om sòm như thế mà Chúa Giêsu vẫn cứ ngủ
như chết chẳng hay biết gì, thì có thể là Người chỉ giả vờ ngủ? Bằng
không Người bị bệnh ngủ, hay Người là một con người ngủ vô địch thế
giới, không ai lại có thể ngủ như Người.
Nếu Chúa Giêsu muốn thử thách các môn đệ, thì các môn đệ lúc ấy, nếu
tinh ý biết rằng Ngưòi giả vờ ngủ say như chết, cũng thách đố Người
ngược lại, bằng cách không đánh thức Người mà cứ để Người ngủ, thử
xem Người ngủ say đến mức nào, cho tới khi Người tự chỗi dậy khiến
bão tố lặng im, hay Người âm thầm làm cho sóng gió tự nhiên ngưng
hẳn trong khi Người vẫn cứ ngủ.
Các môn đệ, trong trường hợp này, cũng có thể, thay vì đánh thức
Người dạy thì bảo nhau ngồi quanh Người, hay ôm lấy Người, thế thôi,
như thể nếu chúng con chết thì Thày cũng không sống được, bằng không
thì chính Thày là phao cứu sống của chúng con.
1) Những người xuống tàu vượt biển ra khơi, làm nghề thương mại trên nơi nước cả, họ đã nhìn thấy những kỳ công của Chúa, và những việc huyền diệu của Người ở chỗ thâm uyên.
2) Chúa lên tiếng, và Người đã khiến phong ba nổi dậy, Người đã khiến cho sóng biển dâng cao. Những người đó lên tới trời xanh, xuống lòng biển thẳm, tâm hồn họ bủn rủn trong cảnh gian nguy.
3) Họ đã kêu cầu Chúa trong cơn khốn khó, và Người đã giải thoát họ khỏi chỗ lo âu. Người biến đổi phong ba thành gió thổi hiu hiu, và bao làn sóng biển đều im lặng.
4) Họ mừng vui vì thấy sóng biển yên, và Chúa đã đưa họ cập bến ước mong. Những người đó hãy cảm ơn Chúa vì lòng nhân hậu, và những điều kỳ diệu của Người đối với con người ta!
Thứ Hai 24/6
Lễ Trọng
Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
Bài Ðọc I: Gr 1, 4-10
"Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Có lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi, Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc". Và tôi đã thưa lại: "A, a, a, lạy Chúa là Thiên Chúa, con đâu có biết ăn nói, vì con còn con nít".
Nhưng Chúa phán cùng tôi rằng: "Ngươi đừng nói: "Con là con nít", vì ngươi sẽ đi đến với những kẻ Ta sẽ sai ngươi đi, ngươi sẽ nói mọi điều Ta sẽ truyền dạy ngươi nói. Ngươi đừng sợ họ, vì Ta sẽ ở với ngươi để bảo vệ ngươi". Chúa phán như thế.
Và Chúa giơ tay sờ miệng tôi mà nói với tôi rằng: "Ðây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Ðây hôm nay Ta ban quyền cho ngươi trên các dân tộc và trên các vương quốc, để ngươi lật đổ và đập phá, phân tán và tiêu diệt, xây dựng và vun trồng".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 70, 1-2. 3-4a. 5-6ab. 15 và 17
Ðáp: Từ trong thai mẫu, Chúa là Ðấng bảo vệ con (c. 6b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời. Theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con; xin ghé tai về bên con và giải cứu. - Ðáp.
2) Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến luỹ vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Ðá tảng, là chiến luỹ của con. Lạy Chúa con, xin cứu con khỏi tay đứa ác. - Ðáp.
3) Bởi Ngài là Ðấng con mong đợi, thân lạy Chúa; lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con từ hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu con, Chúa là Ðấng bảo vệ con; con đã luôn luôn trông cậy vào Chúa. - Ðáp.
4) Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ, thực con không sao mà kể cho cùng. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể những sự lạ của Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Pr 1, 8-12
"Chính ơn cứu rỗi này là đối tượng các tiên tri đã nghiên cứu và tìm hiểu".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em yêu mến Chúa Giêsu Kitô, dù không thấy Người, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh em cũng không thấy Người, bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh quang khôn tả, vì chắc rằng anh em đạt tới cứu cánh của đức tin là phần rỗi linh hồn.
Chính ơn cứu rỗi này là đối tượng các tiên tri đã nghiên cứu và tìm hiểu, khi các ngài tiên báo về ân sủng dành cho anh em: các ngài đã tìm xem coi trong thời gian nào, hoặc hoàn cảnh nào Thần Trí của Ðức Kitô chỉ cho các ngài biết phải tiên báo những khổ nạn và những vinh quang kế tiếp dành cho Ðức Kitô. Các ngài được mạc khải cho biết rằng các ngài không phải phục vụ chính mình, mà là cho anh em, trong những gì đã được loan truyền cho anh em hiện nay, do những kẻ rao giảng Tin Mừng với sự trợ giúp của Thánh Thần từ trời được sai xuống, Ðấng mà các thiên thần cũng ước ao nghiêng mình chiêm bái.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 1, 7; Lc 1, 17
Alleluia, alleluia! - Ông đến để chứng minh về sự sáng; để chuẩn bị cho Chúa một dân tộc hoàn hảo. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 5-17
"Vợ ngươi sẽ sinh hạ cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên con trẻ là Gioan".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Dacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabéth. Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì. Nhưng họ lại không con, vì Elisabéth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già.
Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương, đang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương. Bấy giờ thiên thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án. Giacaria thấy vậy thì hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông.
Nhưng thiên thần nói với ông rằng: "Dacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth vợ ngươi sẽ sinh hạ cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên con trẻ là Gioan. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc con trẻ sinh ra. Vì trẻ này sẽ nên cao trọng trước mặt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men; sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ này sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Êlia, để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngỗ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị sẵn sàng".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Chúa Giêsu đã khen tặng Vị Tiền Hô được sai đến trước Người là Đấng cao trọng hơn ông để dọn đường cho Người là Đấng đến sau ông:
"Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: 'Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả, nhưng người nhỏ nhất trong nước trời lại cao trọng hơn ông. Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được. Tất cả các tiên tri và lề luật đã tuyên sấm cho đến Gioan và nếu các ngươi muốn hiểu, thì chính Gioan là Elia, kẻ phải đến. Ai có tai, thì hãy nghe!'" (Mathêu 11:11-15).
Trước hết, Chúa Giêsu đã minh định Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là con người cao cả nhất loài người, không một ai cao trọng hơn ngài, thậm chí có thể nói bao gồm cả Mẹ Maria. Phải chăng chính vì thế mà trong tất cả các thánh (ngoài trừ Mẹ Maria), chỉ có một mình Thánh Gioan Tẩy Giả mới được Giáo Hội mừng lễ sinh nhật trần gian của ngài, 24/6 (trước Lễ Giáng sinh 6 tháng), (lễ sinh nhật nước trời tưởng nhớ cái chết mất đầu của ngài 29/8) mà là mừng ở bậc Lễ Trọng (solemnity), hơn cả lễ sinh nhật Mẹ Maria ngày 8/9, chỉ ở bậc lễ kính (feast)?
Dầu sao nhân vật Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này, về cấp độ ân sủng, ngài không thể nào "Đầy Ơn Phúc" (Luca 1:28) như Mẹ Maria, và phải chăng đó là lý do Chúa Giêsu đã ám chỉ về Mẹ Maria ngay sau khi khen tặng vị tiền hô của Người: "người nhỏ nhất trong nước trời lại cao trọng hơn ông"?
Đúng thế, nếu càng khiêm hạ nhỏ bé thì càng lớn lao cao trọng trên nước trời thì ai bé nhỏ bằng Mẹ Maria nên nhờ đó Mẹ Maria mới càng lớn lao cao trọng nhất trên Nước Trời, nghĩa là vì Mẹ càng nhỏ, càng trở thành hư không, thành zero, Mẹ mới càng đầy Thiên Chúa là sự hữu, là tất cả, mới càng giống Chúa Kitô, đến độ phản ảnh Người là mặt trời công chính, như Mẹ được Thánh ký Gioan thị kiến thấy và mô tả trong Sách Khải Huyền của ngài như "mặc mặt trời" (12:1), hay như Diễm Tình Ca cho biết là "rực rỡ như mặt trời" (6:10). Trong khi đó Thánh Gioan Tẩy Giả chỉ là cái đèn soi mà thôi (xem Gioan 1:6-8;5:35).
Sở dĩ Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này là một con người cao cả nhất loài người, tất nhiên không phải về lãnh vực ân sủng, như trên đã cảm nhận và phân tích, cho dù ngài có được cho rằng khỏi nguyên tội khi còn là thai nhi 6 tháng trong lòng thai mẫu, vào chính lúc ngài nhẩy mừng khi nghe thấy lời Mẹ Maria chào mẹ của ngài (xem Luca 1:44), mà là về vai trò của ngài, một vai trò không ai trên trần gian này có thể hơn được ngài. Giống như trường hợp các vị linh mục, cho dù không đầy ân phúc như Mẹ Maria trong cấp trật ân sủng, nhưng vẫn hơn Mẹ trong vai trò linh mục của các vị, bởi các vị được đồng hóa với Chúa Kitô và là Chúa Kitô (Alter Christus) khi các vị thi hành thừa tác vụ thánh.
Sứ vụ cao trọng vô tiền khoáng hậu của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này là ở chỗ ngài là vị trung gian giữa Cựu Ước và Tân Ước. Thật vậy, nếu nền tảng của Nhà Thiên Chúa được xây trên "nền tảng các tông đồ và tiên tri" (Êphêsô 2:20), thì Thánh Gioan Tẩy Giả chẳng những là vị tiên tri của các vị tiên tri, "tiên tri của Đấng Tối Cao" (Luca 1:46) được tiên báo bởi chính một vị tiên tri trong Cựu Ước (xem Isaia 40:3), mà còn là "chàng phù rể" (Gioan 3:29) ở sát ngay bên với Chàng Rể Kitô hơn hết mọi người, đã nhận biết Chúa Kitô trước để rồi sau đó đã giới thiệu Người cho các tông đồ tiên khởi của Chúa Kitô (xem Gioan 1:35-51).
Chưa hết, sứ vụ cao trọng của ngài còn lên đến tột đỉnh ở chỗ ngài đã làm phép rửa cho chính Đấng Thiên Sai Cứu Thế, như thể ngài đã trở thành người cha thiêng liêng của Con Thiên Chúa làm người. Không một vị tiên tri nào trong Cựu Ước đã được tận mắt nhìn thấy Chúa Kitô và gặp Chúa Kitô, ngoài trừ Thánh Gioan Tẩy Giả. Và cũng không một tông đồ nào đã nhận biết Chúa Kitô như ngài, cho dù các vị đã sống với Chúa Kitô 3 năm, trong khi ngài chưa hề gặp Người mà vẫn có thể nhận ra Người để giới thiệu Người cho các vị (xem Gioan 1:33-34). Nếu các tông đồ là thành phần chứng nhân tiên khởi của Chúa Kitô trên thế giới nói chung thì Thánh Gioan Tẩy Giả là chứng nhân tiên khởi cho Chúa Kitô trước dân Do Thái cũng như trước các tông đồ của Chúa Kitô nói riêng.
Phải chăng Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng được lời Chúa qua miệng Tiên Tri Isaia (41:19) tiên báo và ám chỉ ở các câu sau đây: "Nơi hoang địa, Ta sẽ cho mọc lên cây hương nam, cây keo, cây sim và cây dầu; nơi sa mạc, Ta sẽ trồng cây tùng, cây du, cây bách, để mọi người thấy, biết, lưu tâm và hiểu rằng chính tay Chúa đã làm nên sự nghiệp đó, và Ðấng Thánh của Israel đã tạo nên cơ đồ này"? Phải chăng Thánh Gioan Tẩy Giả, với sứ vụ cao trọng đệ nhất thiên hạ của ngài chính là "cây hương nam trong hoang địa", là "cây tùng trong sa mạc"?
Việc "Lời đã hóa thành nhục thể", một mầu nhiệm vô cùng mầu nhiệm, rất khó có thể chấp nhận với tâm thức tự nhiên của con người, trái lại, còn có thể "trở thành cớ vấp phạm cho nhiều người trong Israel" (Luca 2:34), nên còn được Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan đã cẩn thận sửa soạn cho việc Người xuất hiện trước dân Do Thái của Ngài, ở chỗ sai "vị tiên tri của Đấng Tối Cao" là Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đến trước để dọn đường cho "Người tỏ mình ra" (Gioan 1:31), nhờ đó dân của Ngài mới có thể nhận biết Người mà được cứu độ.
Thật vậy, vai trò của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả thật là quan trọng và cần thiết, ở chỗ, theo ý định thần linh cứu độ của Thiên Chúa, ngài cần phải được sai đến trước để dọn đường cho Người là Đấng đến sau, nên chính bản thân của vị tiền hô này cũng đã được thụ thai cách lạ trước Người 6 tháng (xem Luca 1:36), và là vị "còn hơn một tiên tri nữa", như Chúa Kitô đã minh định ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, bởi vì ngài còn là "sứ thần" của Thiên Chúa, một vai trò tương đương với vai trò của sứ thần Gabiên từ trời xuống truyền tin cho thân phụ của ngài (xem Luca 1:19), hay cho thân mẫu của Chúa Giêsu (xem Luca 1:26), vị sứ thần đã được Trời Cao sai đến với dân Do Thái nên đã được chính Thánh Kinh Cựu Ước của dân này tiên báo, như Chúa Giêsu đã trích lại trong lời Người nói về vị tiền hô của mình: "Này đây Ta sai sứ thần Ta đi trước con, và sẽ dọn đường cho con", và là vị được Chúa Kitô đã hết lời khen tặng, khen tặng hết lời: "Ta nói cho các ngươi biết, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan, nhưng người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông" (Mathêu 11:11).
Thứ Hai
(PVLC cho Thứ Hai hôm nay vẫn tiếp tục nếu không bị Lễ Trọng của Thánh Gioan Tẩy Giả trùng vào hôm nay như năm 2024)
Bài Ðọc I: (Năm II) 2 V 17, 5-8. 13-15a. 18
"Chúa xua đuổi Israel khỏi mặt Chúa và chỉ còn lại chi họ Giuđa".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Salmanassar, vua dân Assyria, xâm chiếm khắp miền và bao vây Samaria trong ba năm. Năm thứ chín đời vua Hôsê, vua Assyria chiếm được Samaria, và đem dân Israel sang Assyria, định cư họ ở Hala và ở Habor, gần sông Gozan, và trong các thành thuộc nước Mêđia.
Xảy ra như thế, vì con cái Israel phạm đến Chúa là Thiên Chúa họ, Ðấng đã đưa họ ra khỏi Ai-cập, khỏi quyền lực Pharaon, vua nước Ai-cập. Họ đã thờ các thần ngoại bang; họ noi theo các tập tục của dân ngoại mà Chúa đã xua đuổi trước bước tiến của con cái Israel, và họ đã theo các nghi lễ mà vua Israel đã quy định.
Chúa đã dùng các tiên tri, các vị tiên kiến mà khuyến cáo Israel và Giuđa rằng: "Các ngươi hãy cải tà quy chính, hãy tuân giữ các điều răn và nghi lễ, theo đúng lề luật Ta đã dùng các tiên tri tôi tớ Ta mà truyền cho cha ông các ngươi, và chuyển lại cho các ngươi". Nhưng họ không muốn nghe. Họ cứ cứng đầu cứng cổ như cha ông họ, không muốn vâng phục Chúa là Thiên Chúa. Họ chối bỏ các huấn lệnh của Chúa và lời giao ước Người đã ký kết với cha ông họ, và cả những mệnh lệnh rõ ràng Người đã truyền, nên Chúa nổi giận dân Israel, và xua đuổi họ khỏi mặt Chúa. Chỉ còn lại chi họ Giuđa mà thôi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 59, 3. 4-5. 12-13
Ðáp: Lạy Chúa, xin Chúa ra tay hữu phù trợ và nhậm lời chúng con (c. 7b).
Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, Ngài đã hất hủi chúng con, Ngài đã làm cho hàng ngũ chúng con tan rã, Ngài đã thịnh nộ, nhưng xin cho chúng con được phục hồi! - Ðáp.
2) Ngài đã rung động đất nước và xâu xé, xin hàn lại chỗ đổ vỡ, vì nó đang xiêu té. Chúa để dân Ngài gặp những thử thách cam go, Ngài cho chúng con uống thứ rượu say mê choáng váng. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, há không phải Ngài đã hất hủi chúng con ư? Ôi Thiên Chúa, Ngài đã không xuất trận cùng quân đội chúng con. Xin Chúa giúp đỡ chúng con chống lại quân thù, vì sự hỗ trợ của người trần là vộ hiệu quả. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7, 1-5
"Hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy. Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: "Ðể tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh", và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Ðồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Sự sống mù quáng
Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh vẫn tiếp tục sang Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, như trong phần phụng vụ Lời Chúa cho ngày Thứ Hai Tuần XII Thường Niên hôm nay cho thấy.
"Sự sống" đây là sự sống công chính, như giáo huấn Chúa Kitô dạy cho các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay (Mathêu 7:1-5), một bài phúc âm tiếp tục về Bài Giảng Trên Núi của Người cho các môn đệ của Người liên quan đến các Phúc Đức Trọn Lành mà các vị cần phải cảm nghiệm và theo đuổi mới xứng đáng làm môn đệ của Người và nhờ đó mới có thể làm chứng nhân cho Người.
Vấn đề được đặt ra ở đây là, với cương vị lãnh đạo sau này của mình trong Giáo Hội, các vị không thể nào không đoán xét để bảo vệ Giáo Hội cũng như để phân xử công minh, thế mà ở đây, Chúa Giêsu lại dạy các vị rằng: "Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét".
Tuy nhiên, lời khuyên của Chúa Giêsu ở đây không áp dụng vào việc quản trị Giáo Hội của các vị mà chỉ nhắm đến đời sống đức ái trọn hảo của bản thân các vị thôi. Đó là lý do Chúa Giêsu đã đề cập đến luật nhân quả, gieo gió gặt bão: "Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy".
Trên thế gian này đã xẩy ra đầy giẫy những chứng cớ về định luật "ác giả ác báo" này. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng ở đây là phạm nhân có nhận ra lỗi lầm cũ của mình để mà ăn năn thống hối và cải thiện đời sống hay chăng mới là những gì đáng quan tâm. Trong đường tu đức cũng thế, Thiên Chúa hay để cho những tâm hồn sốt sắng đạo đức mà lại hay khinh thường những người khô khan hơn mình, xa tránh những người tội lỗi xấu xa ở chung quanh mình, bị sa ngã phạm tội, cho dù cố gắng, nhờ đó họ biết cảm thương những người họ vốn khinh bỉ và xa tránh.
Một khi chúng ta xét đoán xấu cho người khác, chấp nhất người khác và chê trách người khác về những gì tiêu cực của họ, hay những gì vô tội nơi họ (tính tình hay tâm tưởng hoặc lối sống v.v.) nhưng chướng tai gai mắt chúng ta, chúng ta như thể ở trong trạng thái mù lòa không biết mình, đúng như lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người, khi Người đi từ chất vấn đến trách móc thành phần này trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: 'Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh', và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Đồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi".
"Cái đà" trong mắt của chúng ta đây là gì, nếu không phải là thành kiến, là ác cảm, là nghi kỵ... những gì khiến chúng ta không thể nào nghĩ tốt cho người khác, nhất là thành phần đối phương của mình, trái lại, chỉ toàn nghĩ xấu cho họ và luôn luôn nghĩ xấu về họ, thậm chí còn tự chế ra những gì họ không có theo óc tự suy diễn của mình để hận thù oán ghét họ, lên án họ, nói hành nói xấu họ, ném đá họ...
Đối với tha nhân, con người không được mù quáng đoán xét nhau, vì họ chẳng những không biết được thâm tâm của nhau, mà nhất là không có quyền đoán xét nhau nữa. Thế nhưng, đối với Thiên Chúa, Đấng vô cùng khôn ngoan và nhân hậu, con người cần phải tỏ ra mù quáng hơn ai hết và hơn bao giờ hết, ở chỗ hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Ngài ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự.
Một trong những điều Chúa Giêsu dạy các tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm nay là "các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy", thực sự đã ứng nghiệm hơn bao giờ hết và hơn ai hết nơi trường hợp của thành phần dân được Ngài tuyển chọn để tỏ mình ra cho họ, xuyên suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, ngoài Ngài ra không còn một Chúa tể nào khác, và chỉ có mình Ngài mới đáng họ tin tưởng và tôn thờ thôi. Thế nhưng, Ngài càng tỏ mình ra họ lại càng bất xứng với Ngài, họ vẫn cứ tiếp tục ương bướng chối bỏ Ngài mà gian dâm ngoại tình với các tà thần của dân ngoại hay như dân ngoại hoặc với chính các thứ ngẫu tượng họ tạo ra. Và đó là lý do họ đong đấu nào cho Thiên Chúa của họ thì họ cũng bị Ngài đong lại cho chính đấu ấy, đúng hơn họ phải hứng chịu hậu quả của chính đấu họ đối xử với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ.
Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Các Vua quyển thứ hai, đã chứng thực việc trao đổi đấu cho nhau rất tương xứng và công bằng giữa thành phần dân được ưu tuyển với Thiên Chúa của họ, trước hết là thành phần dân thuộc vương quốc Israel ở Miền Bắc (sau thời Vua Solomon, nước Do Thái được chia thành đôi, vương quốc Giuđa chỉ còn 2 chi tộc Giuđa và Lêvi ở miền nam) - biến cố lịch sử họ bị dân Assyria xâm chiếm và đầy ải vô cùng khốn nạn gây ra bởi chính tội bỏ Chúa của họ như sau:
"Trong những ngày ấy, Salmanassar, vua dân Assyria, xâm chiếm khắp miền và bao vây Samaria trong ba năm. Năm thứ chín đời vua Hôsê, vua Assyria chiếm được Samaria, và đem dân Israel sang Assyria, định cư họ ở Hala và ở Habor, gần sông Gozan, và trong các thành thuộc nước Mêđia. Xảy ra như thế, vì con cái Israel phạm đến Chúa là Thiên Chúa họ, Ðấng đã đưa họ ra khỏi Ai-cập, khỏi quyền lực Pharaon, vua nước Ai-cập. Họ đã thờ các thần ngoại bang; họ noi theo các tập tục của dân ngoại mà Chúa đã xua đuổi trước bước tiến của con cái Israel, và họ đã theo các nghi lễ mà vua Israel đã quy định.
Thậm chí trước khi vì bất đắc dĩ Thiên Chúa đã nhẫn nại nhịn nhục sử dụng đến các ngôn sứ của Ngài sai đến cảnh giác họ và kêu gọi họ trở về với Ngài nhưng hoàn toàn vô hiệu trước tình trạng lòng chai dạ đó thật là mù quáng ngông cuồng của họ:
"Chúa đã dùng các tiên tri, các vị tiên kiến mà khuyến cáo Israel và Giuđa rằng: "Các ngươi hãy cải tà quy chính, hãy tuân giữ các điều răn và nghi lễ, theo đúng lề luật Ta đã dùng các tiên tri tôi tớ Ta mà truyền cho cha ông các ngươi, và chuyển lại cho các ngươi". Nhưng họ không muốn nghe. Họ cứ cứng đầu cứng cổ như cha ông họ, không muốn vâng phục Chúa là Thiên Chúa. Họ chối bỏ các huấn lệnh của Chúa và lời giao ước Người đã ký kết với cha ông họ, và cả những mệnh lệnh rõ ràng Người đã truyền, nên Chúa nổi giận dân Israel, và xua đuổi họ khỏi mặt Chúa. Chỉ còn lại chi họ Giuđa mà thôi".
Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu đâu có vui thích gì khi thấy con cái của mình phải khổ đau chết chóc, thế nhưng Ngài chỉ còn cách "của độc giải độc" và "gậy ông đập lưng ông" mà thôi, theo đường lối loài người. Chẳng những đối với thành phần dân ưu tuyển của Ngài, mà còn với những tâm hồn nào bất chấp lương tâm và các ơn soi động của Ngài, đều đi đến ngõ cụt "no way out", nơi một là họ thà tự tử chết, thà hư đi đời đời chứ nhất định không chịu quay đầu trở lại, hai là hoàn toàn tuyệt vọng không còn tin tưởng gì nữa, và ba là họ tỉnh giấc với những tâm tình giác ngộ như Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Ôi Thiên Chúa, Ngài đã hất hủi chúng con, Ngài đã làm cho hàng ngũ chúng con tan rã, Ngài đã thịnh nộ, nhưng xin cho chúng con được phục hồi!
2) Ngài đã rung động đất nước và xâu xé, xin hàn lại chỗ đổ vỡ, vì nó đang xiêu té. Chúa để dân Ngài gặp những thử thách cam go, Ngài cho chúng con uống thứ rượu say mê choáng váng.
3) Ôi Thiên Chúa, há không phải Ngài đã hất hủi chúng con ư? Ôi Thiên Chúa, Ngài đã không xuất trận cùng quân đội chúng con. Xin Chúa giúp đỡ chúng con chống lại quân thù, vì sự hỗ trợ của người trần là vộ hiệu quả.
Thứ Ba
Bài Ðọc I: (Năm II) 2 V 19, 9b-11. 14-21. 31-35a. 36
"Ta sẽ che chở và cứu thành này vì danh Ta cùng vì Ðavít".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong các ngày ấy, Sennakêrib, vua dân Assyria, đã phái các sứ giả đến với vua Êdêkia và dặn rằng: "Các ngươi hãy nói với Êdêkia, vua Giuđa như thế này: "Chớ để Thiên Chúa, mà vua tin cậy, mê hoặc vua nghĩ rằng: Thành Giêrusalem sẽ không bị lọt vào tay vua dân Assyria. Vì chưng chính đức vua đã nghe biết những gì các vua Assyria đã làm khắp mọi nơi, đã tàn phá các nơi đó thế nào. Có lẽ nào một mình vua sẽ thoát khỏi?". Vua Êdêkia đã nhận và đọc thư do các sứ giả trao cho, vua lên đền thờ Chúa, trải bức thư đó ra trước mặt Chúa, và cầu nguyện cùng Chúa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, Ðấng ngự trên các Vệ Binh thần, chỉ một mình Chúa là Thiên Chúa các vua trên mặt đất, Chúa đã dựng nên trời đất, xin lắng tai nghe; lạy Chúa, xin mở mắt nhìn xem. Chúa hãy nghe các lời vua Sennakêrib đã gửi đến, để lăng mạ Chúa hằng sống của chúng con. Lạy Chúa, quả thật các vua dân Assyria đã huỷ diệt các dân và đất đai chúng, đã vất các tượng thần của chúng vào lửa: vì các tượng thần đó không phải là Chúa, song là sản phẩm bằng gỗ đá do tay người phàm làm ra, nên bị họ huỷ diệt. Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cứu chúng con khỏi tay vua Sennakêrib, để mọi vương quốc hoàn cầu biết rằng: chỉ có mình Chúa là Thiên Chúa".
Vậy Isaia con trai Amos sai người đến tâu vua Êdêkia rằng: "Ðây là những điều Chúa là Thiên Chúa Israel phán: Ta đã nghe các điều ngươi cầu xin Ta về Sennakêrib, vua dân Assyria. Ðây là lời Thiên Chúa phán về vua ấy: Trinh nữ Sion khinh chê và cười ngạo ngươi; thiếu nữ Giêrusalem chế diễu sau lưng ngươi. Từ Giêrusalem sẽ còn lại một số người, và từ núi Sion sẽ có một số người được cứu thoát: Ðó là điều mà lòng nhiệt thành của Chúa các đạo binh sẽ thực hiện. Bởi thế, Chúa phán những điều này về vua dân Assyria: Vua sẽ không vào được thành này, sẽ chẳng bắn được một mũi tên nào vào thành, chẳng dùng thuẫn mà vây hãm thành, chẳng đắp lũy quanh thành: vua tới lối nào thì sẽ về lối ấy, và sẽ không vào được thành này, đó là lời sấm của Chúa. Ta sẽ che chở và cứu thành này, vì danh Ta cùng vì Ðavít tôi tớ Ta".
Chính đêm ấy, thiên thần Chúa đến giết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Assyria. Sennakêrib, vua dân Assyria, trở về và ở lại thành Ninivê.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 47, 2-3a. 3b-4. 10-11
Ðáp: Thiên Chúa kiên thủ thành của Người tới muôn đời (c. 9d).
Xướng: 1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Ngài là ngọn đồi duyên dáng, là niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu. - Ðáp.
2) Núi Sion là cùng kiệt Phương Bắc, là thành trì của Ðức Ðại Ðế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Người, tự chứng tỏ Người là an toàn chiến luỹ. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, chúng con tưởng nhớ lại lòng thương của Chúa, ngay trong nơi đền thánh của Ngài. Ôi Thiên Chúa, cũng như thánh danh Ngài, lời khen ngợi Ngài sẽ vang cùng cõi đất. Tay hữu Ngài đầy đức công minh. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7, 6. 12-14
"Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ðừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con.
"Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Ðấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy.
"Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".
Ðó là lời Chúa.
Con đường sự sống
Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XII Thường Niên hôm nay vẫn tiếp tục Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu được Thánh ký Mathêu (7:6,12-14) ghi lại 3 nguyên tắc sống khôn ngoan sau đây:
Nguyên tắc thứ nhất: "Đừng lấy của thánh mà đem cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt loài heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con".
Tại sao vậy? Tại vì chó hay heo là loài thú vật chẳng biết giá trị của những gì loài người vốn trân quí. Bởi thế, "lấy của thánh mà đem cho chó, và vất ngọc trai trước mặt loài heo" là một hành động hoàn toàn ngu xuẩn, phí của và vô ích, thậm chí còn nguy hiểm đến bản thân nữa là đàng khác, ở chỗ chúng cứ tưởng là chúng bị tấn công bằng các viên ngọc trai chẳng khác gì những cục đá vậy, nên chúng có thể "quay lại cắn xé các con".
Ở đây, nếu chú ý chúng ta thấy được hai con thú tiêu biểu được Chúa Giêsu sử dụng trong bài Phúc Âm, đó là con chó và con heo: "chó" có vẻ tinh khôn hơn nên liên quan đến "của thánh" linh thiêng và đến động từ "cho" có vẻ trân trọng chứ không phải là động từ "quẳng" có vẻ khinh bỉ; còn "heo" có vẻ xác thịt hơn nên liên quan đến "ngọc trai" là những gì thuần vật chất và đến động từ "quẳng".
Nhưng dù tinh khôn như "chó" cũng chẳng biết "của thánh" là gì, cũng chẳng nhờ đó mà được linh thiêng hơn, và cho dù xác thịt như "heo" cũng chẳng cần trang điểm bằng "ngọc trai" cho đẹp hơn và hãnh diện hơn. Phải chăng ở đây Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng giáo huấn của Người là những gì "thánh hảo" vô giá và quí báu hơn cả vàng bạc và "ngọc trai", được ban cho các vị để các vị mặc lấy và trang sức cho xứng với vai trò là môn đệ của Người?
Có thể áp dụng lời khuyên này của Chúa Giêsu về của thánh và loài thú bất xứng với của thánh vào những hành động tục hóa của chúng ta. Chẳng hạn chúng ta lên rước lễ chỉ vì cho người ta khen mình là đạo đức. Nghĩa là chúng ta biến Thánh Thể là một Bí Tích Cực Thánh thành phương tiện cho thỏa mãn đam mê nhục dục đê hèn như loài thú của chúng ta, lấy Thánh Thể làm tòa cho chúng ta lên ngôi vinh hiển....
Nguyên tắc thứ hai: "Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Đấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy".
Nguyên tắc thứ hai này là nguyên tắc "tri kỷ tri bỉ - biết mình biết người", có vẻ tích cực hơn nguyên tắc của Khổng giáo: "đừng làm cho người khác những gì mình không muốn họ làm cho mình".
Nguyên tắc thứ hai này thường được gọi là luật vàng - golden rule, vì nó chất chứa trong tất cả "lề luật và các tiên tri dạy", vì nó phản ảnh giới luật bác ái "yêu người như thể thương thân - ái nhân như kỷ": yêu nhau như bản thân mình.
Nguyên tắc này thật sự là "của thánh", là viên "ngọc trai" quí báu đối với những ai kính sợ Chúa, nhưng lại là những gì quái gở đối với những kẻ gian ác bất chấp thủ đoạn trong mưu đồ thỏa mãn ý riêng và đam mê nhục dục của họ, dù giá phải trả cho những gì họ muốn chiếm đoạt chính là tha nhân.
Nguyên tắc thứ ba: "Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".
Đúng thế, muốn sống nguyên tắc thứ hai là yêu nhau như chính bản thân mình, con người cần phải bỏ mình đi, thậm chí cần phải coi người khác hơn mình. Như vậy thì chẳng khác nào con người cần phải "vào qua cửa hẹp", hoàn toàn đi ngược chiều với đa số phàm nhân luôn coi mình hơn tha nhân, không bao giờ chịu thua thiệt, nếu bị thua thiệt thì tìm cách triệt hạ đối phương hay lấy lại.
Trong các lời dạy của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay, có một lời đã ứng nghiệm nơi câu chuyện của Bài Đọc 1 hôm nay, đó là lời: "Ðừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con". Đúng thế, nếu "của thánh" và "ngọc trai" đây là chung thành phần dân tuyển chọn của Thiên Chúa là Chúa Tể trời đất, và riêng vị vua Edekia hoàn toàn tin tưởng vào Ngài trong một thời điểm lịch sử vô cùng nguy biến bất khả tránh cho vương quốc Giuđa của vua bấy giờ, thì có thể nói "chó" và "heo" đây là thành phần sống theo bản năng thú tính của mình, vô thần và hung ác, được tiêu biểu nơi nhân vật lịch sử "Sennakêrib, vua dân Assyria", một nhân vật đầy ngạo mạn coi trời bằng vung khi tung ra những lời đe dọa Vua Xứ Giuđa là Edekia thế này:
"Các ngươi hãy nói với Êdêkia, vua Giuđa như thế này: 'Chớ để Thiên Chúa, mà vua tin cậy, mê hoặc vua nghĩ rằng: Thành Giêrusalem sẽ không bị lọt vào tay vua dân Assyria. Vì chưng chính đức vua đã nghe biết những gì các vua Assyria đã làm khắp mọi nơi, đã tàn phá các nơi đó thế nào. Chẳng lẽ nào chỉ có một mình vua sẽ thoát khỏi hay sao?".
Biết sức mình bất khả thoát khỏi quyền lực hung tán của nhân vật đầy bản lãnh đệ nhất thiên hạ bấy giờ, Vua Edekia chỉ còn biết chạy đến với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình, hoàn toàn tin tưởng vào Ngài là Đấng duy nhất có thể cứu vương quốc của vua khỏi bị xâm chiếm và đầy ải như vương quốc Israel trong Bài Đọc 1 hôm qua, trái lại, qua vương quốc của mình, Thiên Chúa còn có thể tỏ mình ra cho cả dân Assyria biết Ngài là ai nữa:
"Vua Êdêkia đã nhận và đọc thư do các sứ giả trao cho, vua lên đền thờ Chúa, trải bức thư đó ra trước mặt Chúa, và cầu nguyện cùng Chúa rằng: 'Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, Ðấng ngự trên các Vệ Binh thần, chỉ một mình Chúa là Thiên Chúa các vua trên mặt đất, Chúa đã dựng nên trời đất, xin lắng tai nghe; lạy Chúa, xin mở mắt nhìn xem. Chúa hãy nghe các lời vua Sennakêrib đã gửi đến, để lăng mạ Chúa hằng sống của chúng con. Lạy Chúa, quả thật các vua dân Assyria đã huỷ diệt các dân và đất đai chúng, đã vất các tượng thần của chúng vào lửa: vì các tượng thần đó không phải là Chúa, song là sản phẩm bằng gỗ đá do tay người phàm làm ra, nên bị họ huỷ diệt. Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cứu chúng con khỏi tay vua Sennakêrib, để mọi vương quốc hoàn cầu biết rằng: chỉ có mình Chúa là Thiên Chúa'".
Quả thực, Thiên Chúa đã áp dụng nguyên tắc được chính Con của Ngài dạy trong Bài Phúc Âm hôm nay là "Ðừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con" - "cắn xé các con" ở chỗ nếu Ngài để cho vua Assyria ngạo mạn chiếm Xứ Giuđa thì hắn lại càng ngạo mạn hơn nữa, coi như hắn là chúa tể, không có chúa nào khác ngoài hắn, và vì thế lại càng nhục cho Chúa. Do đó, Ngài đã ra tay bảo tồn "của thánh" là dân của Ngài và "ngọc trai" là lòng tin tưởng của Vua Xứ Giuđa, bằng cách: "Chính đêm ấy, thiên thần Chúa đến giết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Assyria. Sennakêrib, vua dân Assyria, trở về và ở lại thành Ninivê", đúng như Ngài đã báo cho Vua Xứ Giuđa qua miệng tiên tri Amos: "Vua dân Assyria sẽ không vào được thành này, sẽ chẳng bắn được một mũi tên nào vào thành, chẳng dùng thuẫn mà vây hãm thành, chẳng đắp lũy quanh thành: vua tới lối nào thì sẽ về lối ấy, và sẽ không vào được thành này, đó là lời sấm của Chúa. Ta sẽ che chở và cứu thành này, vì danh Ta (vốn là "của thánh" - theo suy diễn của người viết) cùng vì Ðavít tôi tớ Ta (quí như "ngọc trai" - theo suy diễn của người viết)".
Bài Đáp Ca hôm nay là tâm tình nhận biết đầy tin tưởng và ngợi khen cảm tạ của Thánh Vịnh gia, hoàn toàn phản ảnh tâm tình của những ai tin vào Chúa như Vua Xứ Giuđa trong Bài Đọc 1 hôm nay nói riêng, cũng như của chung dân chúng mỗi khi họ chứng kiến thấy bàn tay toàn năng của Chúa luôn ở với họ, cho dù họ bất trung với Ngài song biết ăn năn thống hối trở về với Ngài:
1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Ngài là ngọn đồi duyên dáng, là niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu.
2) Núi Sion là cùng kiệt Phương Bắc, là thành trì của Ðức Ðại Ðế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Người, tự chứng tỏ Người là an toàn chiến luỹ.
3) Ôi Thiên Chúa, chúng con tưởng nhớ lại lòng thương của Chúa, ngay trong nơi đền thánh của Ngài. Ôi Thiên Chúa, cũng như thánh danh Ngài, lời khen ngợi Ngài sẽ vang cùng cõi đất. Tay hữu Ngài đầy đức công minh.
Thứ Tư
Bài Ðọc I: (Năm II) 2 V 22, 8-13; 23, 1-3
"Vua đọc cho mọi người nghe lời sách giao ước đã tìm thấy trong Nhà Chúa, ký kết giao ước trước mặt Chúa".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, thượng tế Helcia nói với thư ký Saphan rằng: "Tôi tìm thấy sách luật trong Nhà Chúa". Helcia trao sách cho Saphan đọc. Rồi thư ký Saphan đến cùng vua, và thuật lại cho vua rằng: Tôi tớ vua đã thu lượm số bạc dâng cúng trong nhà Chúa, và trao cho đốc công nơi Ðền thờ Chúa, để phát lương cho thợ. Thư ký Saphan cũng thuật cho vua rằng: "Tư tế Helcia đã trao cho tôi cuốn sách". Thư ký Saphan đã đọc sách đó trước mặt vua. Khi nghe lời sách luật Chúa, vua liền xé áo mình, rồi truyền cho tư tế Helcia và Ahica con Saphan, Acôbor con Mica, và thư ký Saphan cùng Asaia người hầu cận vua rằng: "Các ngươi hãy đi hỏi ý Chúa cho trẫm, cho toàn dân và cho nhà Giuđa, về các lời sách vừa tìm thấy. Cơn thịnh nộ của Chúa đối với chúng ta nặng nề lắm, vì cha ông chúng ta không tuân giữ các lời trong sách này". Họ thuật lại cho vua các lời của Chúa.
Bấy giờ vua sai đi triệu tập các trưởng lão Giuđa và Giêrusalem đến cùng vua. Vua lên Ðền thờ Chúa với những người thuộc chi tộc Giuđa, toàn thể dân cư Giêrusalem, các tư tế, các tiên tri và toàn dân lớn bé, ông đọc cho mọi người nghe lời sách giao ước đã tìm thấy trong Nhà Chúa. Vua đứng trên bệ, ký kết giao ước trước mặt Chúa, để ai nấy đi theo Chúa, cùng hết lòng hết sức tuân giữ các huấn lệnh, các lề luật và nghi lễ của Chúa. Họ làm sống lại các lời giao ước đã ghi chép trong sách này: cả dân đều chấp nhận bản giao ước.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 33. 34. 35. 36. 37. 40
Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy bảo con đường lối thánh chỉ Ngài (c. 33a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin dạy bảo con đường lối thánh chỉ Ngài, để con tuân giữ cho bằng triệt để. - Ðáp.
2) Xin dạy con để con vâng theo luật pháp Ngài, và để con hết lòng tuân giữ luật đó. - Ðáp.
3) Xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ chị Ngài, vì chính trong đường lối này con sung sướng. - Ðáp.
4) Xin nghiêng lòng con theo lời Ngài nghiêm huấn, và chớ để con sa ngã vào chỗ lợi danh. - Ðáp.
5) Xin cho con ngoảnh mặt, khỏi thấy cảnh phù vân; xin cho con được sống noi theo đường lối Chúa. - Ðáp.
6) Này đây, con khao khát huấn lệnh của Ngài, theo lượng công minh Ngài, xin cho con được sống. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7, 15-20
"Hãy xem quả thì các con sẽ biết chúng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé. Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng".
Ðó là lời Chúa.
Chân dung của những "con sói... cắn xé"
Suy Niệm
Căn cứ vào lời Chúa khẳng định trên đây thì thành phần "tiên tri giả", được Người nhắc đến ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay, cho dù "mặc lốt chiên", "nhưng bên trong là sói dữ" nên không thể sinh hoa trái tốt lành: "cây xấu không thể sinh trái tốt", trái lại, "cây xấu thì sinh trái xấu" là thứ hoa trái "cắn xé", sát hại, chia rẽ, phá hoại, tiêu diệt, hung tàn, bạo loạn v.v. những thứ hoa trái hiểm độc không thể nào tồn tại như hoa trái của sự sống, những thứ hoa trái cuối cùng "sẽ bị chặt đi và ném vào lửa" xứng với số phận bóng tối không thể nào át được ánh sáng, mà còn bị ánh sáng xua tan nữa.
1) Lạy Chúa, xin dạy bảo con đường lối thánh chỉ Ngài, để con tuân giữ cho bằng triệt để.
2) Xin dạy con để con vâng theo luật pháp Ngài, và để con hết lòng tuân giữ luật đó.
3) Xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ chị Ngài, vì chính trong đường lối này con sung sướng.
4) Xin nghiêng lòng con theo lời Ngài nghiêm huấn, và chớ để con sa ngã vào chỗ lợi danh.
5) Xin cho con ngoảnh mặt, khỏi thấy cảnh phù vân; xin cho con được sống noi theo đường lối Chúa.
6) Này đây, con khao khát huấn lệnh của Ngài, theo lượng công minh Ngài, xin cho con được sống.
Thứ Năm
Bài Ðọc I: (Năm II) 2 V 24, 8-17
"Vua Babylon dẫn về Babylon Gioakim, và tất cả những binh sĩ thiện chiến làm tù binh".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Khi lên ngôi, vua Gioakim mới mười tám tuổi, và trị vì ở Giêrusalem ba tháng. Tên mẹ vua là Naestha, ái nữ của Elna-than, quê ở Giêrusalem. Vua làm điều mất lòng Chúa cũng như cha vua đã làm xưa.
Khi ấy binh sĩ của Nabucôđônôsôr, vua Babylon, tiến đến vây Giêrusalem. Nabucôđônôsôr, vua Babylon, thân chinh điều khiển binh sĩ đến tận nơi để tấn công thành. Khi ấy Gioakim, vua Giuđa, đầu hàng vua Babylon, cùng với mẹ, binh sĩ, quan tước và các thái giám. Vua Babylon bắt họ làm tù binh, khi ấy là năm thứ tám triều vua Babylon. Vua này mang về tất cả kho tàng của đền thờ Chúa, và đền vua, ông đập vỡ tất cả các bình vàng mà Salomon, vua Israel, đã đúc cho cung thánh của Chúa, như thế ứng nghiệm lời Chúa đã phán. Vua đã đem toàn thể Giêrusalem đi đày, gồm các sĩ quan, mười ngàn binh lính cường tráng, các thứ thợ thủ công, thợ rèn, không sót lại gì cả, ngoại trừ đám dân nghèo. Vua cũng dẫn về Babylon làm tù binh vua Gioakim và thái hậu, các hoàng hậu, các thái giám, những bậc vị vọng, bảy ngàn trai tráng, một ngàn thợ làm nghề thủ công, thợ rèn, tất cả những binh sĩ thiện chiến. Vua Babylon dẫn họ sang Babylon làm tù binh. Vua đặt hoàng thúc Matthania làm vua thay Gioakim, và đổi tên ông là Seđecia.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 78, 1-2. 3-5. 8. 9
Ðáp: Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con vì vinh quang danh Chúa (c. 9bc).
Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, ngoại bang đã xông vào gia nghiệp Chúa, họ làm ô uế thánh điện của Ngài, họ biến Giêrusalem thành nơi đổ nát! Họ ném tử thi thần dân Chúa làm mồi nuôi chim trời, và huyết nhục tín đồ Ngài cho muông thú đồng hoang. - Ðáp.
2) Họ đổ máu chư vị đó dường như nước lã quanh Giêrusalem mà không có kẻ chôn vùi. Chúng con bị bêu ra cho láng giềng phỉ nhổ, cho lân bang chế diễu nhạo cười! Tới ngày nào, lạy Chúa, Chúa còn giận mãi? Và lòng ghen hận Chúa còn như lửa nấu nung? - Ðáp.
3) Xin đừng nhớ lỗi tiền nhân để trị chúng con; xin kíp mở lòng từ bi đón nhận chúng con, vì chúng con lầm than quá đỗi! - Ðáp.
4) Ôi Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng con, xin phù trợ chúng con vì vinh quang danh Chúa; xin giải thoát và tha tội chúng con vì danh Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia, alleluia! - Ngôi lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7, 21-29
"Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy Chúa", là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: "Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta".
"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".
Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Ðấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ.
Ðó là lời Chúa.
Nền đá sự sống
Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XII Thường Niên hôm nay là bài phúc âm (Mathêu 7:21-29) kết thúc Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu. Qua bài phúc âm kết thúc Bài Giảng Trên Núi này, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ của Người rằng:
1- Chỉ có ý Chúa được thể hiện qua việc con người tin tưởng chấp nhận, đáp ứng và tuân hành mới mang lại ơn cứu độ cho họ: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa', là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời". Nghĩa là chỉ có những ai sống kết hợp ý mình với ý Chúa, chứ không phải thành phần theo ý riêng, dù là làm việc Chúa vẫn theo ý riêng, hay sống bôi bác giả hình bề ngoài, sống không thật, không bằng tất cả tấm lòng của mình.
2- Chứ không phải là những việc làm gì khác, cho dù là việc thu hút thế gian nhất, như nói tiên tri có vẻ thông biết mọi sự, hay trừ quỉ hoặc làm phép lạ với đầy quyền năng: "Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?' Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: 'Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta'". Thành phần "nhân danh Thày" đây phải chăng là chính các tông đồ và các vị thừa kế các ngài, và dù là các đấng bậc chăng nữa, có quyền giảng dạy ("tiên tri"), quyền trừ quỉ và làm phép lạ, như được Chúa Giêsu ban cho khi Người sai các vị đi rao giảng (xem Mathêu 10:1), cũng nguy hiểm và càng nguy hiểm nếu không biết sống trọn ý Chúa nơi mình.
3- Đời sống thiêng liêng cũng chỉ vững chắc khi được căn cứ vào lời của Người, vào giáo huấn vô cùng chân thật và trọn hảo của Người, vào tất cả những gì Người đã truyền dạy mà thôi: "Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".
Ở đầu Bài Giảng Trên Núi, Thánh ký Mathêu cho biết là "thấy đoàn lũ dân chúng thì Chúa Giêsu lên núi; khi Người ngồi xuống thì các môn đệ đến cùng Người". Có nghĩa là giáo huấn về phúc đức trọn lành của Người trực tiếp ngỏ cùng thành phần được Người kêu gọi theo Người, nhờ đó họ có thể trở thành "muối đất", thành "ánh sáng thế gian".
Thế nhưng, kết thúc Bài Giảng Trên Núi này, Thánh ký Mathêu lại cho thấy là chính dân chúng cũng được nghe "ké" giáo huấn phúc đức trọn lành này của Chúa Giêsu nữa, hay cũng có thể tiếng của Người nói với các môn đệ càng lúc càng vang to hơn khi Người thấy dân chúng tiếp tục kéo đến gần ngay chỗ qui tụ của Người và các môn đệ bấy giờ: "Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ".
Qua lời diễn tả ngay sau Bài Giảng Trên Núi này của Thánh ký Mathêu, chúng ta thấy 2 điều: 1- về phía dân chúng, cho dù ở tầm mức bình dân, không thông thái như thành phần luật sĩ và biệt phái, cũng có thể cảm nhận được giáo huấn cao siêu của Chúa Giêsu; 2- về phía Chúa Giêsu, giáo huấn phúc đức trọn lành của Người tuy cao siêu "chật hẹp" nhưng hoàn toàn hợp với lòng người, hợp với nhân bản, và nếu được mang ra áp dụng thực hành con người sẽ được biến đổi và thăng hóa theo đúng ơn gọi cùng thân phận làm người của họ.
Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy những gì xây trên cát tự nhiên trần gian hơn là xây trên đá đức tin chân thật sẽ bị sụp đổ khi gặp gian nan thử thách. Điển hình là trường hợp của vị vua trẻ Xứ Giuđa là Gioakim, "khi lên ngôi vua mới 18 tuổi và trị vì ở Giêrusalem ba tháng", nhưng "vua làm điều mất lòng Chúa cũng như cha vua đã làm xưa", mà "khi binh sĩ của Nabucôđônôsôr, vua Babylon, tiến đến vây Giêrusalem. Nabucôđônôsôr, vua Babylon, thân chinh điều khiển binh sĩ đến tận nơi để tấn công thành", thì "Gioakim, vua Giuđa, đầu hàng vua Babylon, cùng với mẹ, binh sĩ, quan tước và các thái giám".
Để rồi hậu quả vô cùng tai hại là "Vua (Babylon) đã đem toàn thể Giêrusalem đi đày, gồm các sĩ quan, mười ngàn binh lính cường tráng, các thứ thợ thủ công, thợ rèn, không sót lại gì cả, ngoại trừ đám dân nghèo. Vua cũng dẫn về Babylon làm tù binh vua Gioakim và thái hậu, các hoàng hậu, các thái giám, những bậc vị vọng, bảy ngàn trai tráng, một ngàn thợ làm nghề thủ công, thợ rèn, tất cả những binh sĩ thiện chiến. Vua Babylon dẫn họ sang Babylon làm tù binh".
Biến cố bị đi đầy sang Babylon của dân thuộc Vương quốc Giuđa trong Bài Đọc 1 hôm nay, và biến cố bị đi đầy sang Ninivê của dân thuộc Vương quốc Israel trước đó, như trong Bài Đọc 1 hôm Thứ Hai tuần này cho biết, đối với dân chúng là một tai họa vô cùng khủng khiếp, còn hơn là bị ngoại bang đô hộ khi họ còn sống trong đất nước của họ. Thế nhưng, họ không thể nào kêu trách Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ được, bởi Ngài đã từng sai các vị ngôn sứ của Ngài đến với họ để cảnh tỉnh họ và cảnh báo cho họ nhưng họ vẫn không chịu lắng nghe và đáp ứng, họ ưa nặng hơn ưa nhẹ, cho tới khi họ không ngờ phải hứng chịu một hậu quả mà họ đã được báo trước nhưng vẫn bất chấp, và cho tới bấy giờ họ mới chịu thống hối ăn năn, cho dù không còn kịp nữa, nhưng vẫn chưa muộn màng đối với LTXC và quyền toàn năng cứu độ của Vị Thiên Chúa là Chúa của họ.
Bài Đáp Ca hôm nay là tất cả tâm tình than van khóc lóc cùng thống hối ăn năn của họ:
1) Ôi Thiên Chúa, ngoại bang đã xông vào gia nghiệp Chúa, họ làm ô uế thánh điện của Ngài, họ biến Giêrusalem thành nơi đổ nát! Họ ném tử thi thần dân Chúa làm mồi nuôi chim trời, và huyết nhục tín đồ Ngài cho muông thú đồng hoang.
2) Họ đổ máu chư vị đó dường như nước lã quanh Giêrusalem mà không có kẻ chôn vùi. Chúng con bị bêu ra cho láng giềng phỉ nhổ, cho lân bang chế diễu nhạo cười! Tới ngày nào, lạy Chúa, Chúa còn giận mãi? Và lòng ghen hận Chúa còn như lửa nấu nung?
3) Xin đừng nhớ lỗi tiền nhân để trị chúng con; xin kíp mở lòng từ bi đón nhận chúng con, vì chúng con lầm than quá đỗi!
4) Ôi Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng con, xin phù trợ chúng con vì vinh quang danh Chúa; xin giải thoát và tha tội chúng con vì danh Ngài.
Năm 412 thánh Cyrillô kế vị cậu Ngài là Theophilô làm giám mục Alexandria. Khi ấy Ngài đã vào khoảng trung tuần. Người ta không biết gì về cuộc sống Ngài trước đó, trừ trường hợp, Ngài có mặt trong vụ kết án thánh Gioan Kim Khẩu năm 408. Hiển nhiên là Ngài đã có thời sống như một ẩn sĩ trong sa mạc và đã được giáo dục kỹ lưỡng về văn chương Hy Lạp.
Vào thế kỷ V, các giáo phụ Alexandria đã trở thành những giám mục giàu có và uy quyền nhất trong đế quốc. Trở thành Kitô, người Ai cập vẫn còn mang những gì còn lại trong tâm tình dân tộc của mình. Các giám mục tự mô tả như là những Đấng kế vị thánh Marcô, nhưng cũng kế nhiệm các thượng tế Amen Ra và có phong cách nào đó của Pharao.
Suốt 15 năm đầu làm giám mục, thánh Cyrillô đã đập tan thế hệ cầm quyền và những nhà đổi tiền Do thái ở Alexandria. Việc thực thi đức ái của Ngài đối với người nghèo khó, bệnh hoạn cũng như lòng thương cảm sâu xa của Ngài với mọi tội nhân hối cải, luôn kèm theo một chút cứng rắn. Chắc chắn là các kẻ thù của Ngài cũng là kẻ thù của Thiên Chúa. Nhiệt tâm với các linh hồn và say mê bảo vệ đức tin Kitô giáo, Ngài sẵn sàng dùng đến mọi phương tiện trong tay như là của cải, tài khích lệ quần chúng và lực lượng các thầy dòng. Điều này giúp chúng ta hiểu được tại sao cuộc tranh luận về Kitô học mà Ngài giữ một vai trò lớn lao đã có màu sắc pha trộn chính trị lâu dài như vậy.
Năm 438, thầy dòng Nestôriô trở thành thượng phụ Constantinople. Dường như ông ta đã làm giám mục tại triều đình có tham vọng mãnh liệt, tin vào hiệu quả lớn mạnh do đời sống cầu nguyện của mình và có ý tiêu diệt mọi lạc thuyết. Đàng khác, không chắc rằng ông đã muốn trở thành lạc giáo. Vào đầu thế kỷ V, các thần học gia đều nhận rằng: Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Dầu vậy chưa có định tín về mối tương quan giữa Thiên tính và nhân tính của Người như thế nào. Thánh Cyrillo chủ trương rằng: cả hai bản tính kết hợp mật thiết với nhau, đến độ Mẹ Chúa Kitô cũng được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Nestôriô thì phân biệt rằng Mẹ Con Trẻ Giêsu chỉ được gọi là Mẹ Chúa Kitô mà thôi. Mỗi bên đều tố cáo bên kia là lạc giáo.
Thánh Cyrillo liên kết với các tu sĩ Đông phương Ngài còn được Đức giáo hoàng nâng đỡ và cử làm Vị đại diện ở Đông phương. Với mệnh lệnh này, năm 430 Ngài kết án Nestôriô là lạc giáo tại một hội nghị ở Alexandria. Mùa hè năm 431, Ngài triệu tập và chủ tọa cộng đồng chung ở Ephesô. Nestôriô không những bị kết án mà còn bị truất phế nữa. Đức trinh Nữ được tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa.
Công đồng Ephêsô được Đức giáo hoàng chuẩn nhận. Nhưng hoàng đế lại không công nhận vì thánh Cyrillo đã không đợi 43 giám mục có thiện cảm với Nestôriô tới họp. Thánh Cyrillo bị bắt ở Tiểu Á và bị giam tù trong hai tháng. Thánh phụ Antiôkia và các người dưới quyền cắt đứt hiệp thông với Ngài. Thánh nhân trốn về Ai cập và năm 433 kết hợp lại được với Antiôkia. Từ đó Ngài lại thúc đẩy hoàng đế chấp nhận các sắc lệnh của công đồng Ephêsô. Hoàng đế vẫn nghi ngờ Ngài cho đến khi Ngài qua đời vào năm 444. Thánh Cyrillo vẫn còn dấn thân vào cuộc tranh luận Kitô học này cho đến chết.
Không có nhà thần học Hy Lạp nào lớn hơn thánh Cyrillo. Ngài có khả năng tổng hợp và nhận định có thể so sánh được với thánh Augustinô. Không có thánh nhân nào bị phê bình tàn khốc như thánh nhân, nhưng ít có thánh nhân nào đã hăng hái như Ngài. Cả những người ghen ghét cũng không thể chất vấn về sự cao cả của Ngài. Bên dưới sự hăng hái của Ngài là cả một tình yêu mạnh mẽ đối với đức Kitô với niềm tin mãnh liệt vào lòng thương xót của Người. Đức giáo hoàng Celestinô xưng tụng Ngài là đấng bảo vệ Giáo hội và Đức tin”.
Thánh Cyrillô Alexandria là gương sáng cho chúng ta về lòng can đảm, dám đứng lên đấu tranh cho sự thật, bảo vệ đức tin. Xin Chúa vì công nghiệp của Thánh nhân ban cho mỗi chúng ta ơn can đảm làm chứng cho Chúa, bảo vệ đức tin vì lòng yêu mến Chúa và Giáo hội.
(tổng hợp)
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-27-6-thanh-cyrillo-alexandriatien-si-hoi-thanh-48352
https://giaophanvinhlong.net/thanh-cyrillo-alexandrino-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-444.html
Thánh Cyril sinh ở Alexandria, Ai Cập. Ngài là cháu của Ðức Theophilus,
thượng phụ của Alexandria. Sau khi học xong kinh điển và thần học, ngài
được chính bác của mình tấn phong linh mục và tháp tùng Ðức Theophilus
đến Constantinople để tham dự Thượng Hội Ðồng Oak nhằm truất phế Ðức
Gioan Kim Khẩu (sau này mới biết là bị kết tội oan).
Khi Ðức Theophilus từ trần vào năm 412, ngài lên kế vị bác của mình sau
cuộc tranh đấu với phe ủng hộ người đối thủ là Timotheus. Ngay sau khi
lên ngôi, Ðức Cyril bắt đầu tấn công lạc thuyết Novatianô với việc đóng
cửa các nhà thờ; đuổi những người Do Thái ra khỏi thành phố; và phản bác
một số hành động của quan đầu tỉnh Orestes là người theo phe Novatianô.
Vào năm 430, Ðức Cyril lại xung đột với Nestorius, thượng phụ của
Constantinople, là người cho rằng Ðức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa
vì Ðức Kitô là Thiên Chúa chứ không phải con người, hậu quả là không thể
dùng chữ theotokos (người-mang-Thiên-Chúa) áp dụng cho Ðức Maria. Ðức
Cyril thuyết phục được Ðức Giáo Hoàng Celestine I triệu tập một công
đồng ở Rôma nhằm lên án Nestorius, và chính ngài cũng hành động tương tự
trong công đồng Alexandria.
Vào năm 431, Ðức Giáo Hoàng Celestine ra lệnh cho Ðức Cyril truất phế
Nestorius. Trong Ðại Công Ðồng Ephêsô lần thứ ba, với sự tham dự của hai
trăm giám mục và dưới sự chủ tọa của Ðức Cyril, công đồng đã lên án mọi
giáo thuyết của Nestorius là sai lầm trước khi Ðức Tổng Giám Mục Gioan ở
Antiôkia và bốn mươi hai môn đệ ủng hộ giáo thuyết của Nestorius kịp đến
tham dự. Khi thấy mọi sự đã lỡ, họ tổ chức một công đồng riêng để truất
phế Ðức Cyril. Hoàng Ðế Theodosius II bắt giữ cả hai người, Ðức Cyril và
Nestorius nhưng sau đó đã trả tự do cho Ðức Cyril khi các đại diện của
đức giáo hoàng xác nhận các quyết định của công đồng.
Hai năm sau, Ðức Tổng Giám Mục Gioan, đại diện cho các giám mục ôn hòa ở
Antiôkia, đã ký kết một thỏa ước với Ðức Cyril và cùng lên án Nestorius.
Trong quãng đời còn lại, Ðức Cyril đã viết nhiều luận án làm sáng tỏ học
thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Nhập Thể nhằm ngăn chặn lạc
thuyết Nestorius và Pelagian khỏi ăn sâu vào cộng đồng Kitô Hữu.
Ngài là thần học gia sáng chói nhất của truyền thống Alexandria. Văn bút
của ngài có đặc tính chính xác về tư tưởng, lập trường rõ ràng, và lý
luận sắc bén. Các văn bản của ngài gồm các nhận định về Thánh Gioan,
Thánh Luca, và ngày lễ Ngũ Tuần, các luận thuyết về thần học tín lý,
cũng như các thư từ và bài giảng. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII
tuyên xưng là tiến sĩ Giáo Hội vào năm 1882.
Trích từ NguoiTinHuu.com
http://www.memaria.org/default.aspx?LangID=0&tabId=392&ArticleID=60102
Thứ Tư 3/10/2007 – Bài Giáo Lý 52 - Thánh giáo phụ Cyril Thành
Alexandria
(ĐTC Biển Đức XVI)
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) 2 V 25, 1-12
"Cả dân Giuđa bị di chuyển khỏi lãnh thổ mình".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Ngày mồng mười tháng mười năm thứ chín triều đại Sêđêcia đã xảy ra như thế này: Nabucôđônôsor vua Babylon kéo cả đạo quân tấn công Giêrusalem, dựng trại quanh thành và đào hầm quanh tường thành. Thành bị bao vây cho tới năm thứ mười một đời vua Sêđêcia. Ngày mồng chín tháng tư, nạn đói hoành hành trong thành, dân chúng không còn bánh ăn. Tường thành bị chọc thủng một khoảng, thừa đêm tối tất cả các chiến sĩ chạy trốn qua lối cửa giữa hai tường, gần vườn vua. Khi ấy, quân Calđê vẫn bao vây thành. Vậy vua Sêđêcia chạy trốn qua con đường đi Araba. Nhưng quân Calđê đuổi theo kịp vua tại cánh đồng Giêricô: tất cả các chiến sĩ hộ tống vua đều bỏ vua mà chạy tứ tán.
Sêđêcia bị bắt và điệu về cho vua Babylon đang ngự tại Rebla: vua này tuyên án xử ngài; rồi truyền giết các con của Sêđêcia ngay trước mặt ngài, truyền khoét mắt vua và xiềng vua dẫn về Babylon.
Ngày mồng bảy tháng năm, chính là năm thứ mười chín triều đại vua Babylon, Nabuzarđan tướng quân, cận thần vua Baby-lon, đến Giêrusalem: đốt đền thờ Chúa, đền vua, và tất cả các nhà ở Giêrusalem. Tất cả các nhà đồ sộ, ông nổi lửa đốt hết. Quân binh Calđê đang ở với tướng quân, triệt hạ tường thành bao quanh Giêrusalem.
Nabuzarđan tướng quân bắt đi phần dân còn sót trong thành, cả những kẻ trốn theo vua Babylon và tất cả những người khác. Còn hạng cùng đinh chỉ để lại (làm) những kẻ trồng nho và những người làm ruộng.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 136, 1-2. 3. 4-5. 6
Ðáp: Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi (c. 6a).
Xướng: 1) Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở khi tưởng nhớ đến núi Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm của chúng tôi. - Ðáp.
2) Vì nơi này, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng tôi rằng: "Hãy vui mừng; hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion". - Ðáp.
3) Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa trên đất khách quê người? Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét. - Ðáp.
4) Lưỡi tôi dính vào cuống họng nếu tôi không nhớ đến ngươi, nếu tôi không đặt Giêrusalem trên tất cả mọi niềm vui thoả. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8, 1-4
"Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người. Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch". Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: "Ta muốn. Anh hãy lành bệnh". Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi. Chúa Giêsu phán bảo anh ta: "Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết".
Ðó là lời Chúa.
Giao ước sự sống
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XII Thường Niên, Thánh ký Mathêu (8:1-4) đã cho biết ở ngay câu đầu của đoạn 8 là: "Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người". Tức là, sau Bài Giảng Trên Núi của Người, một bài giảng đã gây một tác dụng mãnh liệt nơi dân chúng như câu kết của đoạn 7 sau bài Giảng Trên Núi ở bài Phúc Âm hôm qua cho thấy: "Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ".
Nhưng có một cái lạ là hình như trong đám đông dân chúng ấy có một người cùi, không biết nặng hay nhẹ, chắc là nhẹ thôi nên không ai chú ý lắm, bằng không anh ta đâu có thể lẻn vào đám đông như vậy được mà đến xin Chúa Giêsu chữa lành cho một cách dễ dàng như thế: "Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: 'Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch'".
Còn một cái lạ hơn nữa, đó là, sau khi chữa cho người cùi được lành rồi, Chúa Giêsu chẳng những bảo anh ta đi trình diện các vị tư tế theo đúng luật định mà trước hết căn dặn anh ta phải giữ kín chuyện được chữa lành nữa: "Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: 'Ta muốn. Anh hãy lành bệnh'. Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi. Chúa Giêsu phán bảo anh ta: 'Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết'".
Nếu Chúa Giêsu đã chữa cho người cùi này lành mạnh ngay giữa đám đông dân chúng theo Người bấy giờ thì Người còn căn dặn "'Hãy ý tứ, đừng nói với ai" đây nghĩa là gì, trong khi đó bao nhiêu người bấy giờ đã biết chuyện anh ta được chữa lành và sẽ đồn ra khắp nơi, cho dù anh ta không nói. Hay là Chúa Giêsu đã gặp riêng người cùi này khi dân chúng đã tự động giải tán vào một lúc nào đó, vì Người cùng với các môn đệ đi vào một nơi hoang vắng nào đó, nơi ẩn náu của thành phần bị cùi hủi sống xa tránh dân chúng?
Thật ra, ngay trước Bài Giảng Trên Núi, theo Thánh ký Mathêu (4:23-25), Chúa Giêsu đã nổi tiếng tới tận Syria về các phép lạ Người chữa lành cho các thứ bệnh nạn tật nguyền rồi. Nhưng ngay sau Bài Giảng Trên Núi thì người cùi này là trường hợp cá nhân đầu tiên được kể đến bởi quyền năng chữa lành của Người.
Thái độ khiêm cung ("đến lạy Người") và hoàn toàn tin tưởng phó thác tùy ý Chúa muốn ("Lạy Ngài nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch") của nạn nhân phong cùi đã được Chúa Giêsu đáp ứng, bằng cách Người "giơ tay chạm đến anh ta và phán: 'Ta muốn. Anh hãy lành bệnh'".
Bệnh phong cùi là chứng bệnh làm hư hoại hình dạng của con người, một chứng bệnh tiêu biểu cho tác dụng của nguyên tội đã làm cho con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27) không còn nguyên vẹn hình hài tốt lành như thuở ban đầu nữa.
Thế nhưng, Thiên Chúa đã hứa cứu độ con người ngay sau khi nguyên tổ của họ sa ngã (xem Khởi Nguyên 3:15), để họ có thể lấy lại dung nhan hình hài thần linh của mình, bằng cách được trở nên giống Chúa Giêsu Kitô Con của Ngài "là hình ảnh Thiên Chúa vô hình" (Colose 3:15).
Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy một vương quốc Giuđa nói chung và Thành Thánh Giêrusalem nói riêng bị phong cùi đến độ hoàn toàn biến dạng và trở thành dị dạng gây ra bởi bàn tay của đế quốc dân ngoại Babylon. Chỉ vì sau đợt lưu đầy sang Babylon thứ nhất, vua Sêđêcia là chú của vua Gioakim, được Vua Babylon đặt lên thay người cháu bị bắt đầy sang Babylon, nhưng bất chấp biến cố người cháu làm vua trước mình có bị đi đầy sang Babylon và vương quốc của mình đang bị Babylon đô hộ, vẫn tiếp tục sống một cách gian ác. Để rồi cuối cùng phải hứng chịu một hậu quả còn ghê gớm hơn cháu của mình, liên quan đến bản thân vua, gia đình vua, dân của vua và thành trì của vua nữa, thật là tan hoang, chẳng còn hình thù gì nữa, chẳng khác gì như bị một chứng phong cùi rùng rợn:
"Vua Sêđêcia chạy trốn qua con đường đi Araba. Nhưng quân Calđê đuổi theo kịp vua tại cánh đồng Giêricô: tất cả các chiến sĩ hộ tống vua đều bỏ vua mà chạy tứ tán. Sêđêcia bị bắt và điệu về cho vua Babylon đang ngự tại Rebla: vua này tuyên án xử ngài; rồi truyền giết các con của Sêđêcia ngay trước mặt ngài, truyền khoét mắt vua và xiềng vua dẫn về Babylon. Ngày mồng bảy tháng năm, chính là năm thứ mười chín triều đại vua Babylon, Nabuzarđan tướng quân, cận thần vua Baby-lon, đến Giêrusalem: đốt đền thờ Chúa, đền vua, và tất cả các nhà ở Giêrusalem. Tất cả các nhà đồ sộ, ông nổi lửa đốt hết. Quân binh Calđê đang ở với tướng quân, triệt hạ tường thành bao quanh Giêrusalem. Nabuzarđan tướng quân bắt đi phần dân còn sót trong thành, cả những kẻ trốn theo vua Babylon và tất cả những người khác".
Và cũng chỉ khi nào thành phần dân ưu tuyển này phải hứng chịu gian nan khốn khổ đến tận cùng như thế, xứng với thái độ quá ư là mù quáng và cứng đầu cứng cổ ương ngạnh của họ, họ mới nhận biết tội lỗi mình mà kêu khóc xin Chúa đoái thương, như tâm tình ai oán than thân trách phận nơi lưu đầy tha hương ở đất khách quê người của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở khi tưởng nhớ đến núi Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm của chúng tôi.
2) Vì nơi này, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng tôi rằng: "Hãy vui mừng; hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion".
3) Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa trên đất khách quê người? Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét.
4) Lưỡi tôi dính vào cuống họng nếu tôi không nhớ đến ngươi, nếu tôi không đặt Giêrusalem trên tất cả mọi niềm vui thoả.
Ngày 28 tháng 6
Thánh I-rê-nê, giám mục, tử đạo
lễ nhớ bắt buộc
Con người sống là vinh quang của Thiên Chúa,
còn sự sống của con người là nhìn thấy Thiên Chúa
Trích khảo luận Chống lạc giáo của thánh I-rê-nê, giám mục.
Vinh quang của Thiên Chúa làm cho sống, nên ai thấy Thiên Chúa thì đón nhận được sự sống. Vì thế, Đấng mà loài người không thể dò thấu, không thể lãnh hội, không thể thấy được thì lại tỏ mình ra cho họ thấy, cho họ lãnh hội và dò thấu, để ban sự sống cho những ai đón nhận và thấy Người. Vì không thể sống mà không có sự sống, nên sự sống chỉ tồn tại khi nó thông phần vào sự sống của Thiên Chúa, mà thông phần vào sự sống của Thiên Chúa là được thấy Thiên Chúa và vui hưởng lòng nhân hậu của Người.
Vì vậy, nếu muốn được sống thì con người phải thấy Thiên Chúa ; nhờ được thấy như thế, họ trở thành bất tử và đạt tới chính Thiên Chúa. Như tôi đã nói trên đây, đó là điều mà các ngôn sứ đã diễn tả một cách bóng bẩy, vì những ai mang thần khí Thiên Chúa và đợi chờ Thiên Chúa đến thì được thấy Người. Và như ông Mô-sê nói trong sách Đệ nhị luật : Trong ngày ấy, chúng tôi sẽ thấy, vì Thiên Chúa nói với con người và họ sẽ được sống.
Đấng thực hiện mọi sự nơi mọi người, Đấng cao cả và vô cùng lớn lao, Đấng vô hình và khôn tả đối với muôn loài Người đã dựng nên, Đấng ấy lại không phải là Đấng không ai biết đến. Thật vậy, nhờ Ngôi Lời của Người, vạn vật học biết rằng có một Thiên Chúa là Cha, Đấng bao trùm vạn vật và làm cho chúng hiện hữu như trong Tin Mừng có lời chép : Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nếu chính Con Một, Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, không tỏ cho biết.
Vậy, Đấng tỏ cho biết, từ đầu đã là Con của Chúa Cha, vì từ đầu Người vẫn ở với Chúa Cha. Người là Đấng đã tỏ cho loài người một cách tuần tự, hài hoà và đúng thời đúng lúc, những thị kiến tiên tri, những ân điển và tác vụ khác nhau để tôn vinh Chúa Cha, đồng thời mưu ích cho nhân loại. Quả vậy, ở đâu có tuần tự thì ở đó có hài hoà, ở đâu có hài hoà thì ở đó đúng thời đúng lúc, và ở đâu đúng thời đúng lúc thì ở đó có ích lợi.
Bởi thế, vì lợi ích của nhân loại, Ngôi Lời đã trở thành Đấng phân phát ân sủng của Chúa Cha. Chính vì nhân loại mà Người đã thực hiện biết bao việc diệu kỳ, để mặc khải Thiên Chúa cho con người và tỏ bày con người với Thiên Chúa. Một đàng, Người vẫn tôn trọng tính vô hình của Chúa Cha, để con người không coi thường Thiên Chúa, trái lại luôn biết phải hướng về mục tiêu nào ; đàng khác, qua nhiều việc kỳ diệu, Người lại cho nhân loại thấy được Thiên Chúa, kẻo họ hoàn toàn xa lìa Thiên Chúa mà không còn tồn tại. Thật vậy, con người sống là vinh quang của Thiên Chúa, còn sự sống của con người là nhìn thấy Thiên Chúa. Quả thế, nếu việc Thiên Chúa được nhận biết qua thụ tạo đã mang lại sự sống cho mọi kẻ hiện hữu trên mặt đất, thì việc Chúa Cha được nhận biết qua Ngôi Lời càng mang lại sự sống hơn biết bao cho những ai nhìn thấy Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh giám mục I-rê-nê thành công bênh đỡ đức tin chân chính và xây dựng sự thuận hoà trong Giáo Hội. Xin nhậm lời thánh nhân chuyển cầu mà củng cố niềm tin và lòng mến của chúng con, để chúng con đem hết sức mình làm cho mọi người luôn đồng tâm nhất trí. Chúng con cầu xin
Thánh Irênê sinh tại Tiểu Á vào giữa thế kỷ II. Chúng ta biết được phần nào ngày sinh của Ngài, dựa vào bản tường thuật Ngài viết về thánh Policarpô. Ngài viết cho Flôrinô:
- “Tôi có thể nói với ông nơi thánh Pôlicarpô ngồi khi Ngài rao giảng lời Chúa, tôi được thấy Người ra vào. Bước chân, phong thái, cách sống và lời Ngài nói in sâu vào lòng tôi. Tôi như còn nghe thấy Người kể lại cách người đàm luận với thánh Gioan và các tông đồ khác đã thấy mặt Chúa. Người nói lại cho chúng tôi những lời nói và những điều các Ngài đã học được liên quan đến Chúa Giêsu. Các phép lạ và giáo thuyết của Chúa.”
Thánh Irênê còn phấn khởi ghi thêm:
- “Tôi ghi nhận các hành vi và lời nói ấy không phải trên bảng viết mà là trong sâu thẳm tâm hồn. Thiên Chúa cho tôi được ơn không ngừng nhớ lại những kỷ niệm ấy trong lòng.”
Như vậy, thánh Irênê luôn nhớ mãi hình ảnh sống động của thánh Policarpô qua đời năm 155. Vậy có thể là thánh Irênê ra đời khoảng từ năm 130 đến 135, và Ngài được giáo dục tại Smyrna, làm môn đồ của thánh Pôlicarpô. Hấp thụ nền giáo dục gần với các tông đồ. Nhất là với thánh Gioan, thánh Irênê còn ở trong vòng ánh sáng mà tâm điểm là tình yêu đằm thắm giữa thánh Gioan với Chúa Kitô. Trong tác phẩm dài “Adversus Haereses” của Ngài. Chúng ta cảm thấy Ngài là người được thấm nhiễm một trực giác hiếm có.
Thánh Pôlicarpô gọi Irênê sang Gaule. Tại đây thánh Pôthinô, Giám mục Lyon phong chức linh mục cho Ngài. Phần đóng góp của thánh Irênê cho Giáo Hội thật lớn. Ngài chú tâm tới mọi khoa học, chuyên cần suy gẫm Thánh Kinh. Khi nghiên cứu huyền thoại và các hệ thống triết học ngại giáo, Ngài biết tìm ra nguồn gốc các sai lầm và bác bỏ các lạc thuyết pha trộn huyền thoại vào Kitô giáo. Tertulianô đã tuyên nhận rằng không có ai nỗ lực tìm tòi hơn là thánh Irênê. Thánh Hiêrônimô, nại đến thánh nhân để củng xố uy tín của mình. Ngài được coi như là ánh sáng các vùng Gaules ở Phương Tây.
Năm 177, thánh Irênê được cử làm đại diện về Rôma, bên cạnh Đức Giáo Hoàng để thực hiện một sứ mệnh tế nhị là dàn xếp ngày mừng lễ Phục sinh
Trở lại Lyon, thánh Irênê gặp lại một giáo đoàn côi cút. Marcô Aureliô vừa mới giết hại các Kitô hữu. Đức cha Pothinô đã bị sát hại. Thánh Irênê được bầu lên kế vị. Ngài trở thành thủ lãnh Giáo Hội tại xứ Gaule, bận rộn với công việc rao giảng, thánh nhân vẫn viết sách để chống đỡ chân lý. Ngài phải chiến đấu không ngừng, bởi vì cuộc bách hại tưởng chấm dứt khi Marcô Aureliô qua đời, nhưng các lạc giáo lại nổi lên chống phá Giáo Hội. Thánh Irênê dùng hết tâm trí và đức tin chống lại các lạc thuyết nhưng vẫn yêu thương những lẻ lầm lạc, Ngài cầu nguyện cho họ van nài họ trở về với Giáo Hội thật:
- “Hợp nhất với Chúa là sự sống và là Sự sống... Khốn khổ cho ai lìa xa sự hợp nhất ấy. Hình phạt đổ xuống họ không phải do Thiên Chúa mà do chính họ, vì khi chọn quay mặt khỏi Thiên Chúa, họ đánh mất mọi tài sản.”
Các tác phẩm lừng danh Ngài đã soạn khiến cho Ngài đáng được gọi là “Ánh sáng bên trời Tây.”
Dưới sự dẫn dắt của thánh Irênê, Lyon đã trở thành một trường dạy phụng sự Chúa đào tạo nhà tri thức và có khả năng truyền giáo. Thế hệ đầu tiên của trường đã bảo vệ đức tin tinh tuyền bằng những nghiên cứu và sách vở của họ. Thế hệ thứ hai phổ biến Tin Mừng đến những miền khác.
Hoàng đế Seltinô – Severô tái diễn cuộc bách hại. Ông gia hình cho đến chết những ai kiên trì với đức tin. Lyon là thành phố diễn ra cuộc hãm xác tập thể các Kitô hữu thật khủng khiếp. Máu chảy thành suối trên đường phố tiếp nối dòng máu các Giám mục tử đạo, thánh Irênê, cũng bị hạ sát với đàn chiên mình. Một tài liệu cố tìm được cho thấy có đến 19 ngàn Kitô hữu cùng chịu khổ chịu chết vì đạo với Ngài.
https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-irene-giam-muctu-dao-42722
https://giaophanvinhlong.net/thanh-irene-giam-muc-tu-dao-130202.html
Thánh Irênê sinh vào khoảng năm 135 tại Smyrna, tức Ízmir, Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay. Ngài xuất thân từ một gia đình Ki-tô giáo gốc Hy-lạp, và là người có học thức. Có lẽ Thánh Nhân là môn sinh của Thánh Polykarpo Giám mục thành Smyrna. Khi lớn lên, Irênê đã đi tới nước Pháp và lập cư tại Lyon. Tại đó, anh đã làm việc trong một nhóm thương gia gốc Tiểu Á nói tiếng Hy-lạp. Nhóm này càng ngày càng thêm đông số và cần có một Linh mục phụ trách. Vì thế, Irênê đã được phong chức Thánh và được chỉ định phụ trách Cộng Đoàn nói tiếng Hy-lạp đó.
Khi chủ thuyết Montano xuất hiện và lan rộng, một số các Ki-tô hữu đến từ thành phố Viên cũng như đến từ thành phố Lyon đã cử Cha Irênê về Rô-ma để thỉnh ý Giáo hội Mẹ về chủ thuyết nói trên. Trong lúc Cha Irênê trẩy đi Rô-ma thì tại Lyon đã xảy ra một cuộc bách hại lớn nhắm vào các Ki-tô hữu. Đức Giám mục của Giáo phận Lyon lúc ấy là Pothinus đã bị bắt giam cùng với nhiều Ki-tô hữu khác, và đều được phúc Tử Đạo. Khi rời Rô-ma để trở về Lyon, Cha Irênê đã được số Ki-tô hữu còn sót lại của Cộng Đoàn này bầu làm Giám mục. Thời gian Ngài trở thành Giám mục được xác định là năm 177.
Vào năm 180, trong cuộc tranh luận với giáo thuyết của bè rối Duy Tri cũng như với những luồng tư tưởng khác cùng thời với Ngài, Thánh Irênê đã viết một bộ Bút Chiến gồm năm cuốn mang tính kinh điển với tựa đề "Adversus haereses“ nhằm chống lại những lạc thuyết đó. Với tác phẩm này, Thánh Irênê đã đưa ra một cái nhìn tổng quát về Đức Tin Ki-tô giáo, rồi với những bằng chứng cặn kẽ được trích từ Kinh Thánh, đã vạch trần và bác bỏ lạc thuyết được gọi là Duy Tri. Mãi tới năm 1904 người ta mới phát hiện ra một tác phẩm ngắn của Ngài về những lời chứng của các Tông Đồ đã được dịch sang tiếng A-ram. Với tư cách là những bài Giáo Lý, tác phẩm này muốn trình bày sứ điệp Ki-tô giáo qua việc giải thích các bản văn Kinh Thánh Cựu Ước dưới nhãn quan Ki-tô học.
Thánh Irênê đã đặt Giáo hội vào trong sự nguyên sơ, vào tính phổ quát và vào tính thống nhất của chính Giáo hội để chống lại các lạc thuyết đang bị ghi đậm dấu ấn của sự chệch hướng cũng như của sự phân hóa. Ngài nhấn mạnh tới tính hợp pháp của Giáo hội nhờ vào việc kế vị các Tông Đồ của các Giám mục, chẳng hạn như các Đức Giám Mục thành Rô-ma, cũng như nhờ vào việc theo sát các bản văn Cựu và Tân Ước mà chỉ duy chúng mới có thẩm quyền với tư cách là quy điển chân lý. Thánh Nhân cũng phát triển một khoa chú giải Kinh Thánh dựa vào phương pháp luận.
Nhằm chống lại những giáo thuyết của phái Duy Tri, Thánh Irênê còn nhấn mạnh tới Đức Tin vào một Thiên Chúa duy nhất và là Đấng sáng Tạo, Đấng chứng thực cho sự sống trên thế giới, cũng như nhấn mạnh tới tầm quan trọng của nền luân lý, và sự mong chờ cuộc tái lâm của Chúa Ki-tô. Theo Thánh Nhân, con người được Thiên Chúa tạo dựng nên từ chính đôi tay của Ngài sẽ luôn hướng tới sự hoàn thiện theo nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa; tội lỗi của A-đam đã bị bãi bỏ nhờ Mầu Nhiệm Làm Người của Chúa Ki-tô. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, con người sẽ càng ngày càng được đến gần hơn với Thiên Chúa, và khát khao hưởng sự phục sinh cả thể xác lẫn linh hồn, có nghĩa là được dự phần vào Thần Khí của Thiên Chúa, Đấng duy nhất có khả năng làm cho sống.
Trong các tác phẩm của mình, Thánh Irênê đã viện dẫn một số các tác giả lớn đến từ Tiểu Á, chẳng hạn như Thánh Polykarpo thành Smyrna và Papias thành Hierapolis. Theophilos thành Antiochia cũng là tác giả được Ngài trưng dẫn nhiều. Ngoài ra, Ngài còn biết tới các tác phẩm của Đức Giáo Hoàng Clemens I, của Thánh Ignatio thành Antiochia, cũng như của Thánh Justinô.
Thánh Irênê là một trong những sáng lập viên của nền Thần Học Ki-tô giáo. Vì thế, người ta đã gọi Ngài với tước hiệu danh dự là Tổ Phụ ngành Tín Lý và Ngọn Đèn Sáng của Phương Tây. Và do đó, Ngài được liệt vào số các Giáo Phụ.
Thánh Giê-rô-ni-mô đã gọi Thánh Irênê là Thánh Tử Đạo. Còn Thánh Grê-gô-ri-ô thành Tour thì nói về Giám mục của thành Lyon rằng, Thánh Irênê đã được phúc Tử Đạo vào năm 202 dưới triều hoàng đế Lucius Septimius của Rô-ma. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy Thánh Irênê đã chết với tư cách là một vị Tử Đạo cả. Truyền thống vẫn cho rằng Ngài qua đời vào ngày 28 tháng 06 năm 202 tại Lyon, Pháp Quốc. Và theo truyền thuyết thì sau khi qua đời, thi hài của Thánh Irênê đã được người môn đệ thân tín của mình là Linh mục Clemens mai táng. Các tín hữu đã sớm tôn kính Ngài không chỉ với tư cách là một vị Thánh, nhưng cũng còn với tư cách là một vị Tử Đạo nữa.
Giáo hội Công giáo mừng Kính Thánh Irênê Giám mục Tử Đạo vào ngày 28 tháng 06 với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III. Các Giáo hội Tin lành và Anh giáo cũng mừng kính Ngài vào ngày 28 tháng 06. Nhưng Giáo hội Chính thống và Giáo hội Armenie thì lại mừng kính Ngài vào ngày 23 tháng 08.
Lm. Đa-minh Trần Tiến Thiệu, O.Cist
http://hoidongxitothanhgia.com/thu-vien/thanh-irene-giam-muc-tu-dao-3444.html
Thứ Tư 28/3/2007 – Bài 35: Thánh Irênê Thành Lyon
(ĐTC Biển Đức XVI)
Thứ Bảy
Ngày 29 tháng 6
Lễ Trọng
Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, Tông đồ
Ngày 29 tháng 6
THÁNH PHÊ-RÔ VÀ THÁNH PHAO-LÔ, TÔNG ĐỒ
Phụng Vụ Giờ Kinh
lễ trọng
Cuộc thương khó của hai thủ lãnh
Đã làm nên ngày thánh huy hoàng,
Phê-rô thắng trận vẻ vang,
Phao-lô chỉ cách bạn vàng ít lâu.
Cùng dòng máu anh hào tử tiết,
Kết giao thành bạn thiết nghìn thu,
Niềm tin vào Đức Ki-tô
Kiện toàn cuộc sống phượng thờ Chúa Cha.
Phê-rô thật chính là anh cả,
Nhưng Phao-lô cũng chả thua chi,
Bình vàng Chúa chọn ai bì,
Niềm tin son sắt kém gì hiền huynh.
Cây giá ngược chẳng kinh chẳng sợ,
Si-mon làm rạng rỡ Thánh Danh,
Nhớ câu Thầy nhắn nhủ mình,
Thân treo thập giá đóng đinh như Thầy.
Lòng sùng bái từ đây vươn mạnh,
Cả Rô-ma thành kính dâng lên,
Máu ai thắm đỏ tinh tuyền,
Máu Phê-rô đã thấm nền thánh đô.
Ai ngờ thiên hạ nô nức tới,
Người bốn phương trẩy hội nơi này.
Kinh thành vạn quốc là đây,
Ngai toà của Đấng làm thầy muôn dân.
Nguyện xin Chúa khoan nhân từ ái
Khấng nghe lời con cái nài van,
Ban cho hưởng phúc thiên đàng
Cùng hai thánh cả hát vang muôn đời.
Các ngài được thấy thể hiện điều các ngài đã rao giảng
Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.
Cuộc tử đạo của hai vị Tông Đồ diễm phúc là thánh Phê-rô và thánh Phao-lô đã làm cho ngày hôm nay trở thành ngày thánh đối với chúng ta. Các thánh chúng ta nói tới hôm nay không phải là những vị tử đạo vô danh nào đó. Thật ra, tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. Một khi các ngài đã đi theo đường công chính vì tuyên xưng và chết cho chân lý, thì giờ đây các vị tử đạo này được thấy thể hiện điều các ngài đã rao giảng.
Thánh Phê-rô, thủ lãnh các Tông Đồ, con người say mê Chúa Ki-tô, đã xứng đáng nghe lời này : Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô. Quả vậy, vì trước đó chính ông Phê-rô đã nói : Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, nên Đức Ki-tô đáp lại : Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây dựng đức tin mà anh tuyên xưng. Đối lại điều anh vừa nói : Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Tên anh quả là Phê-rô. Phê-rô lấy từ “tảng đá”, chứ không phải tảng đá lấy từ Phê-rô. Ki-tô hữu lấy từ danh Ki-tô thế nào, thì Phê-rô cũng lấy từ “tảng đá” như vậy.
Như anh em đã biết, trước khi chịu thương khó, Chúa Giê-su đã chọn một số môn đệ mà Người gọi là Tông Đồ. Trong số các ngài, hầu như bất cứ nơi đâu, chỉ một mình ông Phê-rô là xứng đáng đại diện cho toàn thể Hội Thánh. Chính vì là đại diện duy nhất của toàn thể Hội Thánh, nên ông xứng đáng được nghe Chúa nói : Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời. Không phải một cá nhân, nhưng cả Hội Thánh duy nhất đã lãnh nhận chìa khoá này. Do đó, địa vị nổi bật của Phê-rô được đề cao, vì chính ông tiêu biểu cho đặc tính phổ quát và duy nhất của Hội Thánh, khi Chúa nói với ông : Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá mà Thầy đã trao cho tất cả. Vì chưng, để anh em biết Hội Thánh đã lãnh nhận chìa khoá Nước Trời thế nào, thì hãy nghe điều Chúa nói với tất cả các Tông Đồ ở một đoạn khác : Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Rồi Người tiếp : Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.
Sau khi phục sinh, Chúa cũng đã trao đoàn chiên của Người cho chính ông Phê-rô chăn dắt. Trong số các môn đệ, không phải chỉ mình ông xứng đáng chăn dắt đoàn chiên của Chúa ; nhưng khi Chúa nói với một người, là Chúa dạy phải giữ sự duy nhất ; dạy ông Phê-rô trước tiên, vì ông là người thứ nhất trong các môn đệ. Thưa thánh Phê-rô, xin ngài đừng buồn ; xin hãy đáp lời Chúa một lần, đáp lần thứ hai nữa, rồi lần thứ ba. Ước chi lời tuyên xưng vì yêu mến thắng thế ba lần, bù lại lòng quá tự tin đã thất bại ba lần vì sợ hãi. Ngài đã ba lần cột trói, thì cũng phải ba lần tháo cởi. Ngài đã cột trói vì sợ hãi, thì hãy tháo cởi vì yêu mến. Thế mà Chúa vẫn trao đoàn chiên của Người cho ông Phê-rô một lần, hai lần, rồi đến ba lần.
Một ngày kính chung cuộc tử đạo của hai vị Tông Đồ. Nhưng hai vị xưa kia chỉ là một ; dù các ngài chịu tử hình những ngày khác nhau, các ngài cũng chỉ là một. Thánh Phê-rô đi trước, rồi thánh Phao-lô theo sau. Đối với chúng ta, ngày lễ chúng ta cử hành hôm nay là một ngày thánh, vì đã được ghi bằng máu của các Tông Đồ. Chúng ta hãy quý chuộng đức tin, đời sống, công lao khó nhọc và những khổ hình của các ngài, quý chuộng những lời các ngài tuyên xưng, những điều các ngài rao giảng.
Nguồn Ánh Sáng thiên thu soi vạn kỷ,
Khai mở ngày muôn tia nắng điểm tô,
Ngày tôn vinh hai thủ lãnh Tông Đồ,
Bao tội lỗi phàm nhân được tha thứ.
Đấng mở cửa Nước Trời lên thập tự,
Vị Tông Đồ dân ngoại phải đầu rơi !
Thẩm phán trần gian, ánh sáng soi đời,
Nay vinh hiển khải hoàn vào thiên quốc.
Rô-ma hỡi, ngươi quả là diễm phúc
Nhuốm máu hồng hai chiến sĩ hùng oai,
Nhờ anh linh, nhờ công đức các ngài,
Ngươi trổi vượt mọi kỳ quan thế giới.
Quỳ dâng Chúa Ba Ngôi bài ca ngợi,
Đấng quang vinh và hạnh phúc trường tồn,
Nắm chủ quyền trên vũ trụ càn khôn
Từ muôn thuở tới muôn đời muôn kiếp.
Đức Ki-tô đã xây dựng Giáo Hội trên nền tảng các thánh Tông Đồ và ngôn sứ. Vậy ta hãy tin tưởng nguyện cầu :
Xin Chúa thương ở cùng Giáo Hội.
Chúa đã gọi ông Si-mon Phê-rô đi lưới người như lưới cá, - xin sai nhiều sứ giả đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân.
Xin Chúa thương ở cùng Giáo Hội.
Chúa đã truyền cho sóng yên biển lặng để con thuyền các môn đệ khỏi chìm, - xin gìn giữ con thuyền Giáo Hội khỏi phong ba bão táp, và ban thêm sức mạnh cho người kế vị thánh Phê-rô.
Xin Chúa thương ở cùng Giáo Hội.
Chúa là Mục Tử nhân lành, sau khi phục sinh, đã cho đoàn chiên quy tụ lại và giao cho thánh Phê-rô chăm sóc giữ gìn, - xin liên kết mọi tín hữu đang tản mác khắp nơi thành một đoàn chiên duy nhất.
Xin Chúa thương ở cùng Giáo Hội.
Chúa đã cử thánh Phao-lô đem Tin Mừng cho dân ngoại, - xin cho hết mọi người được phúc nghe lời Chúa.
Xin Chúa thương ở cùng Giáo Hội.
Chúa đã giao chìa khoá Nước Trời cho Giáo Hội, - xin thương đón nhận những ai khi còn sống đã cậy trông vào lượng từ bi của Chúa.
Xin Chúa thương ở cùng Giáo Hội.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con được vui mừng hoan hỷ nhân ngày đại lễ kính hai thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô. Chính nhờ các ngài mà Hội Thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin, thì xin cho Hội Thánh cũng luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy. Chúng con cầu xin
Bài Ðọc I: Cv 12, 1-11
"Bây giờ tôi biết thật Chúa đã cứu tôi khỏi tay Hêrôđê".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vua Hêrôđê làm khổ mấy người trong Hội thánh. Ông đã dùng gươm giết Giacôbê anh của Gioan. Ông thấy việc ấy đẹp lòng người Do-thái, nên lại cho bắt cả Phêrô. Bấy giờ là ngày lễ Bánh Không Men. Bắt được người, vua cho tống ngục, giao cho bốn đội binh, mỗi đội bốn người canh giữ, có ý đợi sau lễ Vượt Qua, sẽ điệu người ra cho dân. Phêrô bị giam trong ngục, nhưng Hội thánh vẫn luôn luôn cầu nguyện cùng Chúa cho người. Ðến khi vua Hêrôđê sắp điệu người ra, thì đêm ấy, Phêrô phải mang xiềng xích, nằm ngủ giữa hai tên lính, và có quân canh giữ trước cửa ngục. Bỗng có thiên thần Chúa đứng kề bên, một luồng ánh sáng chiếu giãi vào ngục; thiên thần đập vào cạnh sườn Phêrô, đánh thức người dậy mà rằng: "Hãy chỗi dậy mau". Xiềng xích liền rơi khỏi tay người. Thiên thần bảo người rằng: "Hãy thắt lưng và mang giày vào". Người làm y như vậy. Thiên thần lại bảo rằng: "Hãy khoác áo vào mà theo ta".
Người liền đi ra theo thiên thần, mà chẳng biết việc thiên thần làm có thật chăng, người tưởng như trong giấc mộng. Qua khỏi chặng thứ nhất và chặng thứ hai, thì đến cửa sắt thông ra thành. Cửa ấy tự nhiên mở ra. Thiên thần và Phêrô rảo qua một phố nọ, rồi thiên thần biến đi. Phêrô hoàn hồn và nói rằng: "Bây giờ tôi biết thật Chúa đã sai thiên thần cứu tôi khỏi tay Hêrôđê và khỏi mọi âm mưu của dân Do-thái".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Chúa đã cứu tôi khỏi điều lo sợ (c. 5b).
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ. - Ðáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.
4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Tm 4, 6-8. 17-18
"Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Ðấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy, nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện. Nhưng có Chúa phù hộ giúp sức cho cha, để nhờ cha, việc giảng đạo nên trọn, và tất cả Dân Ngoại được nghe giảng dạy: và cha đã thoát được khỏi miệng sư tử. Nguyện cho Người được vinh quang muôn đời. Amen.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 16, 18
Alleluia, alleluia! - Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 16, 13-19
"Con là Ðá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở".
Ðó là lời Chúa.
ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ GIẢNG LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ THÀNH PHAOLÔ
Nhị vị Tông đồ Phêrô và Phaolô hiện lên trước chúng ta như những vị
chứng nhân. Các vị không bao giờ mệt mỏi trong việc rao giảng và
hành trình như những vị thừa sai từ mảnh đất của Chúa Giêsu đến
chính Roma. Ở đó, các vị đã cống hiến chúng từ tột đỉnh của mình,
khi các vị hiến dâng mạng sống mình như những vị tử đạo. Nếu chúng
ta tiến vào cốt lõi của chứng từ ấy, chúng ta mới có thể thấy các vị
như những chứng nhân cho cuộc sống, những
chứng nhân cho việc thứ tha và những
chứng nhân cho Chúa Giêsu.
Những chứng nhân cho cuộc sống.
Tuy nhiên, đời sống của các vị không phải là trơn tru ngon lành gì.
Cả hai vị đều rất sùng đạo: Thánh Phêrô là một trong những môn đệ
đầu tiên (xem Gioan 1:41), và Thánh Phaolô là một con người “nhiệt
thành với truyền thống của tổ tiên” (Galata 1:14). Tuy nhiên, các vị
cũng phạm những lầm lỗi to lớn: Thánh Phêrô đã chối Chúa, còn Thánh
Phaolô đã bách hại Giáo Hội của Chúa. Cả 2 vị đều bị cảm thấy nhức
nhối trước vấn nạn của Chúa Giêsu: “Simon con Gioan, con có yêu mến
Thày hay chăng?" (Gioan 21:15); “Saolê, Saolê, tại sao ngươi lại bắt
bớ Ta?” (Tông Vụ 9:4). Thánh Phêrô đã cảm thấy buồn khổ trước câu
hỏi của Chúa Giêsu, còn Thánh Phaolô trở nên mù lòa trước những lời
của Người. Chúa Kitô đã gọi đích danh các vị và đã biến đổi cuộc đời
của các vị. Sau khi đã xẩy ra tất cả những điều ấy thì Người đặt tin
tưởng vào các vị, tin vào kẻ đã chối bỏ mình và tin vào kẻ đã bách
hại thành phần môn đồ của mình, tin vào hai tội nhân thống hối.
Chúng ta có thể ngẫm nghĩ rằng tại sao Chúa đã không muốn cống hiến
cho chúng ta hai nhân chứng
hoàn toàn tinh
vẹn, lý lịch thanh bạch và đời sống bất khả trách cứ? Tại sao là
Phêrô mà không phải là Gioan? Tại sao là Phaolô mà không phải là
Barnabê?
Đây là một bài học cả thể: khởi điểm của đời sống Kitô hữu không
phải là tính chất xứng đáng của chúng ta; thật vậy, Chúa có thể hoàn
thành chíu xíu nơi những ai nghĩ rằng mình tốt lành và đàng hoàng.
Bất cứ khi nào chúng ta coi mình thong minh hơn hay khá hơn
người khác thì bấy giờ là khởi điểm của tận cùng. Chúa không làm
phép lạ nơi những ai coi mình là công chính, nhưng với những ai cảm
thấy mình bần cùng thiếu thốn. Người không bị lôi cuốn bởi những gì
là thiện hảo của chúng ta; đó không phải là lý do tại sao Người yêu
thương chúng ta. Người yêu thương chúng ta đúng như chúng ta là;
Người tìm kiếm những ai không tự mãn, nhưng sẵn sàng mở lòng mình ra
cho Người. Những con người giống như Thánh Phêrô và Phaolô là những
con người trong sáng trước nhan Thiên Chúa. Thánh Phêrô đã thưa cùng
Chúa Giêsu rằng: “Con là một con người tội lỗi”
(Luca 5:8). Thánh Phaolô viết rằng ngài “nhỏ mọn nhất trong các
tông đồ, không xứng đáng được gọi là tông đồ” (1Corinto 15:9).
Dọc suốt cuộc đời của mình, các vị bảo tồn lòng khiêm nhượng này,
cho đến cùng. Thánh Phêrô đã chết tử giá lộn ngược, vì ngài không
coi mình xứng đáng được nên giống Chúa. Thánh Phaolô luôn thích thú
với tên gọi của mình là “bé nhỏ - little”, quên đi tên gọi của mình
là Saolê, tên của vị vua đầu tiên của dân ngài. Cả 2 vị đều hiểu
rằng thánh thiện không phải là ở chỗ nâng mình lên mà là hạ mình
xuống. Thánh thiện không phải là một trận đấu, mà là vấn đề trao phó
cho Chúa từng ngày tình trạng nghèo khốn của mình, Đấng thực hiện
những điều cao trọng cho những ai thấp hèn. Đâu là bí quyết làm cho
các vị kiên trì giữa nỗi yếu hèn của các vị? Chính là ơn tha thứ của
Chúa.
Chúng ta hãy nghĩ đến các vị như là nhân chứng cho
ơn tha thứ nữa. Nơi những sai phạm của mình, các vị
đã được gặp gỡ lòng thương xót mãnh liệt của Chúa, Đấng đã tái sinh
các vị. Nơi việc tha thứ của Người, các vị đã gặp được nỗi an bình
và niềm vui khôn tả. Nghĩ lại những sai phạm của mình, các vị đã
trải qua những cảm giác lỗi lầm. Biết bao nhiều lần Thánh Phêrô đã
nghĩ lại việc ngài chối Chúa! Biết bao nhiêu hối hận Thánh Phaolô đã
cảm thấy vì đã gây đớn đau cho rất nhiều kẻ vô tội! Về phương diện
loài người, các vị đã sai phạm. Tuy nhiên, các vị đã gặp được một
tình yêu lớn lao hơn cả những sai phạm của các vị, một ơn tha thứ
mạnh mẽ để để chữa lành ngay cả các cảm giác tội lỗi của các vị. Chỉ
khi nào chúng ta cảm thấy ơn tha thứ của Thiên Chúa chúng ta mới
thực sự cảm thấy mình được tái sinh. Từ đó chúng ta mới bắt đầu lại,
bắt đầu lại từ ơn tha thứ; từ đó chúng ta mới tái nhận thức chúng ta
thực sự là ai: trong việc xưng thú các tội lỗi của chúng ta.
Là thành phần nhân chứng cho cuộc sống cũng như cho ơn tha thứ,
Thánh Phêrô và Phaolô cuối cùng đã trở thành các
nhân chứng cho Chúa Giêsu. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa hỏi:
“Người ta bảo Con Người là ai?” Câu trả lời gợi lại các hình ảnh
trong quá khứ: “Gioan Tẩy Giả, Elia, Giêrêmia hay một trong các tiên
tri”. Những con người đáng kể, nhưng tất cả đều đã chết. Thay vào
đó, Thánh Phêrô đáp lại rằng: “Thày là Đức Kitô” (Mathêu
16:13-14,16). Đức Kitô, tức là Đấng Thiên Sai. Một lời không hướng
về quá khứ mà là về tương lai: Đấng Thiên Sai là một nhân vật đang
được mong đợi, Người là những gì mới mẻ, Đấng mang đến cho thế giới
việc xức dầu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là quá khứ mà là
hiện tại và là tương lai. Người không phải là một nhân vật xa cách
cần phải tưởng nhớ mà là nhân vật được Thánh Phêrô thân tình nói
rằng: “Thày là Đức Kitô”. Đối với những ai là nhân chứng của Người
thì Chúa Giêsu không phải chỉ là một nhân vật lịch sử; Người là một
con người sống động: Người là những gì mới mẻ, không phải là vật gì
chúng ta đã thấy, mà là những gì mới mẻ của tương lai chứ không phải
ký ức trong quá khứ.
Chứng nhân, bởi thế, không phải là ai đó biết chuyện về Chúa Giêsu,
mà là người cảm nghiệm thấy chuyện tình với Chúa Giêsu. Cuối cùng
thì chứng nhân chỉ công bố điều này là Chúa Giêsu đang sống động và
Người là bí quyết của đời sống. Thật vậy, Thánh Phêrô, sau khi nói
rằng: “Thày là Đức Kitô” thì nói tếp rằng: “Con Thiên Chúa hằng
sống” (câu 16). Chứng nhân xuất phát từ một cuộc gặp gỡ Đức
Giêsu sống động. Ở tâm điểm đời sống của Thánh Phaolô, chúng ta cũng
thấy cùng ngôn từ xuất phát từ cõi lòng của Thánh Phêrô: Đức
Kitô. Thánh Phaolô lập đi lập lại danh xưng này gần 4 trăm lần
trong các bức thư của ngài! Đối với ngài, Chúa Kitô chẳng những là
một mô phạm, một mẫu gương, một điểm qui chiếu: Người là chính sự
sống nữa. Thánh Phaolô viết: “Đối tôi sống là Chúa Kitô” (Philiphe
1:21). Chúa Giêsu là hiện tại và là tương lai của ngài, đến độ ngài
coi qua khứ như cặn bã so với kiến
thức siêu việt về Chúa Kitô (xem Philiphe 3:7-8).
Thưa anh chị em, trước sự hiện diện của những vị nhân chứng này,
chúng ta hãy tự vấn xem: “Tôi có lập lại hằng ngày việc tôi gặp gỡ
riêng với Chúa Giêsu hay chăng?” Chúng ta có tò mò tìm hiểu về Chúa
Giêsu, hay có chuyên chú đến các vấn đề của Giáo Hội hay các tin về
đạo giáo hay chăng? Chúng ta có thể thiết lập các mạng điện
toán hay các báo chí mà nói về các sự linh thánh hay chăng? Thế
nhưng điều này vẫn ở lãnh vực về những gì
dân chúng nói? Chúa Giêsu chẳng màng chi tới các thứ thăm dò,
lịch sử quá khứ hay thống kê. Người không tìm kiếm những biên soạn
về tôn giáo, lại càng không tìm kiếm thành phần Kitô hữu ở “trang
nhất – front page” hay “theo thống kê”. Người tìm kiếm những chứng
nhân nói cùng Người từng ngày rằng: “Lạy Chúa, Chúa là sự sống của
con”.
Được gặp gỡ Chúa Giêsu và được cảm nghiệm thấy ơn tha thứ của Người,
các vị Tông Đồ này đã làm chứng về Người bằng sống cuộc đời mới: các
vị không còn nhìn lại quá khứ, mà là hiến trọn bản thân mình. Các vị
không còn mãn nguyện nửa vời nữa, mà là theo đuổi mức độ duy nhất có
thể đối với những ai theo Chúa Giêsu, đó là mức độ của một tình yêu
vô hạn. Các vị được “tuôn đổ như là một
thứ tửu tế” (xem
2 Timôthêu 4:6). Chúng ta hãy xin ơn đừng trở thành thứ Kitô hữu
ương ương dở dở, sống nửa vời, để cho tình yêu của chúng ta trở
thành nguội lạnh. Chúng ta hãy tái nhận thức chúng ta thực sự là ai
qua mối liên hệ hằng ngày với Chúa Giêsu, và nhờ quyền năng của ơn
Người tha thứ. Như Người đã hỏi Thánh Phêrô, giờ đây Người cũng hỏi
chúng ta: “Con bảo Thày là ai?”, “Con có yêu mến Thày hay chăng?”
Chúng ta hãy để cho những lời này thấm nhập cõi lòng của chúng ta và
tác động chúng ta không tiếp tục thỏa nguyện với những gì là tối
thiểu mà là nhắm đến những cao điểm, nhờ đó cả chúng ta nữa có thể
trở nên thành phần chứng nhân sống động cho Chúa
Giêsu.
Hôm nay chúng ta làm phép những chiếc áo bào tổng giám mục cho các
vị TGM được bổ nhiệm trong năm qua. Áo bào này nhắc nhở đến con
chiên mà vị mục tử được kêu gọi vác trên vai của mình. Nó là dấu
hiệu cho thấy các vị mục tử không sống cho bản thân mình mà là cho
chiên. Nó là một dấu hiệu cho thấy để có được sự sống chúng ta cần
phải thí nó đi, bỏ nó đi…. (mấy lời cuối cùng ĐTC ngỏ cùng các
vị đại diện Tòa Thượng Phụ Đại Kết…)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
Thứ Bảy
(PVLC cho Thứ Bảy này sẽ được tiếp tục nếu không bị trùng với và át đi bởi Lễ Trọng Kính Hai Thánh Phêrô và Phaolô 29/6 hôm nay như năm 2024)
Bài Ðọc I: (Năm II) Ac 2, 2. 10-14. 18-19
"Trên tường thành thiếu nữ Sion, lòng họ kêu vang lên Thiên Chúa".
Trích sách Ai Ca.
Chúa phá tan các báu vật nhà Giacóp chẳng nương tay: trong cơn thịnh nộ, Chúa phá huỷ thành luỹ thiếu nữ Giuđa. Người quật xuống đất và làm sỉ nhục cả vương quốc, cả quan chức cao sang.
Các kỳ lão của thiếu nữ Sion ngồi dưới đất thinh lặng, mình mang áo nhặm và rắc tro trên đầu. Còn các trinh nữ Giêrusalem gục đầu xuống đất. Mắt tôi hao mòn vì quá khóc than, lòng tôi bàng hoàng thổn thức, gan tôi đổ tràn trên đất, vì các tai hoạ của thiếu nữ dân tôi: các trẻ thơ, hài nhi măng sữa, xỉu la liệt giữa phố phường. Chúng xin mẹ: "Bánh mì rượu tốt ở đâu?" Chúng ngã xỉu ngoài đường phố như bị gươm đao. Chúng tắt thở ngay nơi lòng mẹ.
Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, ta sánh ngươi cùng ai, ta ví ngươi như kẻ nào? Hỡi trinh nữ Sion, ta sánh ngươi cùng ai để an ủi? Vì nỗi khổ ngươi man mác tựa biển khơi, nào ai chữa nổi ngươi? Các tiên tri của ngươi nói bậy nói sai, chẳng vạch cho ngươi một vài gian ác, cùng chẳng giục ngươi khóc lóc ăn năn, mà chỉ tiên kiến những điều giả dối, khiến ngươi bị trục xuất và lưu đày.
Trên tường thành thiếu nữ Sion, lòng họ kêu vang lên Chúa. Hãy chan hoà suối lệ đêm ngày, đừng để mắt ngươi yên nghỉ. Hãy chỗi dậy, hãy ca ngợi mỗi đầu canh đêm, hãy giốc đổ lòng ra như nước trước Nhan Chúa, hãy giơ tay cầu khẩn Chúa cho lũ trẻ thơ, chúng ngã xỉu vì đói ở góc đường xó chợ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 73, 1-2. 3-5a. 5b-7. 20-21
Ðáp: Ðời sống con người cơ khổ, xin Chúa đừng nỡ quên hoài (c. 19b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, tại sao Chúa ruồng bỏ chúng con hoài? Tại sao Chúa nung nấu lửa hận với đoàn chiên Chúa? Xin nhớ lại cộng đồng Chúa thiết lập tự thuở xa xưa, xin nhớ bộ lạc Chúa đã chuộc để làm phần tư hữu, xin nhớ lại núi Sion, nơi Chúa đã đặt ngai toà! - Ðáp.
2) Xin Chúa dời gót tới nơi hoang tàn vĩnh viễn: tên thù đã tàn phá hết trong thánh điện của Ngài. Trong hội đường của Chúa, quân nghịch đã rống lên, chúng đã đặt cờ hiệu của chúng trên đài chiến thắng. - Ðáp.
3) Chúng giống như kẻ trong rừng rậm vung lưỡi rìu! Chúng cũng dùng rìu búa bổ vào cửa hội đường như thế, chúng đã châm lửa đốt thánh điện của Ngài, chúng chà đạp cung lâu danh Ngài tận đất! - Ðáp.
4) Xin Chúa nhìn lại lời minh ước, vì nơi hang hốc và đồng ruộng đầy dẫy bạo hành. Xin đừng để người khiêm cung trở về tủi hổ, xin cho người cơ hàn nghèo khổ được ngợi khen danh Chúa. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8, 5-17
"Những người từ phương đông và phương tây sẽ đến trong nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó". Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!" Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". Ðoạn Chúa nói với viên sĩ quan rằng: "Ông cứ về, ông được như ông đã tin". Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh.
Khi Chúa Giêsu vào nhà ông Phêrô, thấy bà mẹ vợ ông đang sốt rét liệt giường. Chúa chạm đến tay bà và cơn sốt biến đi. Bà chỗi dậy tiếp đãi các ngài.
Ðến chiều, họ đưa đến cho Chúa nhiều người bị quỷ ám: Chúa dùng lời đuổi quỷ, và chữa lành tất cả các bệnh nhân, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói rằng: "Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta".
Ðó là lời Chúa.
Giao ước sự sống
(tiếp)
Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu (8:5-17) cho Thứ Bảy Tuần XII Thường Niên hôm nay tiếp tục bài phúc âm hôm qua, cả hai bài đều được vị thánh ký này ghi lại về 2 trường hợp chữa lành khác nhau, nhưng bài phúc âm hôm qua việc chữa lành của Người liên quan đến một người Do Thái, còn bài phúc âm hôm nay việc chữa lành của Người liên quan đến một người dân ngoại, đó là "một đại đội trưởng".
Thế nhưng, phải công nhận là viên đại đội trưởng Roma này có lòng bác ái yêu thương nên vừa nghe ông yêu cầu: "Lạy Thầy, thằng nhỏ giúp việc cho nhà tôi - my serving boy - đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" nên đã được Chúa Giêsu đáp ứng liền: "Tôi sẽ đến chữa nó".
Đúng thế, viên đại đội trưởng Roma này đã tỏ ra chăm sóc cho cả thằng nhỏ đầy tớ giúp việc nhà cho ông, chứ không phải là con của ông. Nếu có máu đế quốc thì ông chẳng để ý đến nó làm gì, có thể đã bảo nó về nhà của nó để nghỉ ngơi cho đến khi nào khỏi bệnh thì trở lại.
Ngoài ra, có thể ông cũng biết nói cả tiếng Do Thái để sống với họ là thành phần sống dưới quyền đô hộ của đế quốc Rôma. Do đó, không thấy Thánh ký Mathêu nói có người thông dịch hay ông bảo ai nói thay ông. Thánh ký Luca, trong cùng câu chuyện, lại thuật rằng ông "sai một số vị trưởng lão Do Thái đến với Người" (7:3), chứ ông không đích thân đến như trong bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay.
Ở Phúc Âm Thánh ký Luca, chúng ta còn thấy 1 chi tiết nữa cho thấy viên đại đội trưởng này sống bác ái yêu thương dân chúng bị đô hộ của mình nên được họ thương mến, đó là chi tiết được chính các vị trưởng lão do ông sai đến với Chúa Giêsu bày tỏ cho Người biết rằng: "Ông ta yêu thương dân chúng tôi, thậm chí xây dựng hội đường cho chúng tôi nữa" (Luca 3:5).
Tuy nhiên, không thể bác ái yêu thương nếu không có lòng khiêm nhượng. Viên đại đội trưởng này quả thực có cả một tấm lòng khiêm nhượng trong vai trò làm đại đội trưởng khá nhiều quyền lực trong vùng trách nhiệm của ông. Trước hết, theo Thánh ký Mathêu, chính ông có thể đã biết tiếng Do Thái (nhờ học hỏi giao tiếp) để sống hòa đồng với thành phần dân bị đế quốc ông đô hộ, chứ không cần nhờ người phụng dịch cho ông. Sau nữa, chính ông đích thân đến xin Chúa Giêsu chữa lành cho thằng nhỏ đầy tớ Do Thái của ông, chứ không sai bảo ai dưới quyền ông. Sau hết, chính ông đích thân bày tỏ cái cảm giác bất xứng trong việc được diễm phúc đón rước vào nhà của ông một vị ông rất coi trọng, ngưỡng phục và đầy lòng tin tưởng là Chúa Giêsu:
"Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ đầy tớ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!"
Đó là lý do, không lạ gì, sau khi đối diện với viên đại đội trưởng này, nhất là sau khi nghe ông bày tỏ cả lòng bác ái lẫn khiên nhượng như vậy, Chúa Giêsu đã không ngớt lời khen tặng ông, như Thánh ký Mathêu đã ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: 'Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Lòng bác ái yêu thương và khiêm nhượng của viên đại đội trương dân ngoại Rôma này phát xuất từ một đức tin hữu thần, dù sống trong một thế giới vô thần, một đức tin còn mãnh liệt hơn cả dân Do Thái của Người, một đức tin được bày tỏ với chính vị Thiên Chúa Làm Người, Đấng đã "nói với viên sĩ quan rằng: 'Ông cứ về, ông được như ông đã tin'. Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh".
Việc Chúa Giêsu chữa lành cho thằng nhỏ đầy tớ của viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma cho thấy rằng Người đến không phải chỉ cứu dân Do Thái mà là để cứu chuộc cả loài người nói chung và những ai tin vào Người nói riêng. Bởi vì, Người tuy mang giòng máu Do Thái nhưng lại mặc lấy bản tính chung của loài người, một bản tính đã bị hư hoại bởi nguyên tội, và vì thế, đúng như câu cuối của bài Phúc Âm hôm nay trích lại lời tiên tri Isaia: "Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta".
"Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". Lời Chúa Giêsu phán trong bài Phúc Âm hôm nay quả thực đã ứng nghiệm nơi thân phận lưu đầy của dân Do Thái là thành phần "con cái trong nước", vì họ không tin vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình hơn dân ngoại, trái lại, còn liên lỉ bất trung phản bội Ngài, cho đến khi họ "phải khóc lóc nghiến răng" như những gì được Sách Ai Ca diễn tả ở Bài Đọc 1 hôm nay:
"Chúa phá tan các báu vật nhà Giacóp chẳng nương tay: trong cơn thịnh nộ, Chúa phá huỷ thành luỹ thiếu nữ Giuđa. Người quật xuống đất và làm sỉ nhục cả vương quốc, cả quan chức cao sang.... các trẻ thơ, hài nhi măng sữa, xỉu la liệt giữa phố phường. ... Chúng ngã xỉu ngoài đường phố như bị gươm đao. Chúng tắt thở ngay nơi lòng mẹ...."
Cũng trong lúc "khóc lóc" như thế, họ đồng thời cũng "nghiến răng" khi nghĩ đến các tay tiên tri giả mà họ đã nghe theo, phủ nhận và bách hại tiên tri thật do Thiên Chúa sai đến cảnh báo và kêu gọi họ, bởi không hợp với xu hướng buông tuồng phản bội của họ, và vì hùa theo những tên tiên trỉ giá ấy đã khiến họ phải lâm vào cảnh khốn cùng như vậy: "Các tiên tri của ngươi nói bậy nói sai, chẳng vạch cho ngươi một vài gian ác, cùng chẳng giục ngươi khóc lóc ăn năn, mà chỉ tiên kiến những điều giả dối, khiến ngươi bị trục xuất và lưu đày".
Thế nhưng, trong cảnh khốn cùng ấy họ mới có thể thức tỉnh mà nhận ra chân lý và tha thiết cầu xin cho được cứu độ: "Trên tường thành thiếu nữ Sion, lòng họ kêu vang lên Chúa. Hãy chan hoà suối lệ đêm ngày, đừng để mắt ngươi yên nghỉ. Hãy chỗi dậy, hãy ca ngợi mỗi đầu canh đêm, hãy giốc đổ lòng ra như nước trước Nhan Chúa, hãy giơ tay cầu khẩn Chúa cho lũ trẻ thơ, chúng ngã xỉu vì đói ở góc đường xó chợ".
Họ đặt vấn đề với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, chứ không dám trách móc Ngài, xin Ngài nhớ lại giao ước của Ngài mà thương cứu họ cho khỏi tay quân thù là thành phần chẳng những hành khổ họ mà còn phạm đến cả Thiên Chúa của họ ở những nơi thánh điện của Ngài, như tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:
1) Lạy Chúa, tại sao Chúa ruồng bỏ chúng con hoài? Tại sao Chúa nung nấu lửa hận với đoàn chiên Chúa? Xin nhớ lại cộng đồng Chúa thiết lập tự thuở xa xưa, xin nhớ bộ lạc Chúa đã chuộc để làm phần tư hữu, xin nhớ lại núi Sion, nơi Chúa đã đặt ngai toà!
2) Xin Chúa dời gót tới nơi hoang tàn vĩnh viễn: tên thù đã tàn phá hết trong thánh điện của Ngài. Trong hội đường của Chúa, quân nghịch đã rống lên, chúng đã đặt cờ hiệu của chúng trên đài chiến thắng.
3) Chúng giống như kẻ trong rừng rậm vung lưỡi rìu! Chúng cũng dùng rìu búa bổ vào cửa hội đường như thế, chúng đã châm lửa đốt thánh điện của Ngài, chúng chà đạp cung lâu danh Ngài tận đất!
4) Xin Chúa nhìn lại lời minh ước, vì nơi hang hốc và đồng ruộng đầy dẫy bạo hành. Xin đừng để người khiêm cung trở về tủi hổ, xin cho người cơ hàn nghèo khổ được ngợi khen danh Chúa.