SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XIV Thường Niên Năm C và Năm Chẵn

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật


Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: Ed 2, 2-5

"Ðây là nhà phản loạn, và họ sẽ biết rằng giữa họ vẫn có một tiên tri".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Trong những ngày ấy, sau khi nói với tôi, Thần Linh nhập vào tôi, và đỡ tôi đứng dậy. Tôi nghe Người nói với tôi rằng: "Hỡi con người, Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân nổi loạn phản nghịch Ta, chúng và cha ông chúng vi phạm giao ước của Ta cho đến ngày nay. Ta sai ngươi đến để nói với những con cái dầy mặt cứng lòng rằng: 'Chúa là Thiên Chúa phán như vậy'. Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn, và chúng sẽ biết rằng giữa chúng có một tiên tri".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 122, 1-2a. 2bcd. 3-4

Ðáp: Mắt chúng con nhìn vào Chúa, cho tới khi Người thương xót chúng con (c. 2cd).

Xướng: 1) Con ngước mắt nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở cõi cao xanh. Kìa, như mắt những người nam tôi tớ, nhìn vào tay các vị chủ ông. - Ðáp.

2) Như mắt của những người tỳ nữ, nhìn vào tay các vị chủ bà, mắt chúng tôi cũng nhìn vào Chúa, là Thiên Chúa của chúng tôi như thế, cho tới khi Người thương xót chúng tôi. - Ðáp.

3) Nguyện xót thương, lạy Chúa, nguyện xót thương, vì chúng con đã bị khinh dể ê chề quá đỗi! Linh hồn chúng con thật là no ngấy lời chê cười của tụi giàu sang, nỗi miệt thị của lũ kiêu căng. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2 Cr 12, 7-10

"Tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, để những mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự cao tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ của Satan vả mặt tôi. Vì thế đã ba lần tôi van nài Chúa, để nó rời khỏi tôi. Nhưng Người phán với tôi rằng: "Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối". Vậy tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ và khốn khó vì Ðức Kitô: vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: 1 Pr 1, 25

Alleluia, alleluia! - Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 6, 1-6

"Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" Và họ vấp phạm vì Người.

Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình". Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.

Ðó là lời Chúa.

Related image

 


sự sống âm ỉ

 

 

 

Bài Phúc Âm nói riêng và Phụng Vụ Lời Chúa nói chung cho Chúa Nhật XVI Thường Niên hậu Phục Sinh hôm nay dường như không cho chúng ta thấy được chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh kéo dài sang cả Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh một cách rõ ràng hay có liên hệ nào đó như các Chúa Nhật (XI, XII và XIII) vừa rồi, nhưng ở một khía cạnh sâu xa nào đó cũng gián tiếp liên quan đến "sự sống"


Thật vậy, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XVI hôm nay, Thánh ký Marco thuật lại biến cố "Chúa Giêsu trở về quê nhà" của Người là Nazarét, và "đến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người", nhưng họ vẫn cảm thấy Người chẳng có gì đặc biệt hơn ai hết, khi họ nhìn về quá khứ của Người bằng con mắt quen thuộc có tính cách hoàn toàn thuần tự nhiên: 


"Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?"


Đối với Thánh ký Marco thì tâm tưởng, lời nói và thái độ mà dân làng của Người tỏ ra với Người như thế thì chẳng khác nào "họ vấp phạm vì Người", ở chỗ, họ không thể nào tin rằng Người lại có thể trổi vượt xuất chúng như thế. Và sở dĩ "họ vấp phạm vì Người" như vậy là do bởi một lý do tâm lý rất dễ hiểu và thật đáng thông cảm, như chính Chúa Giêsu đã cho họ biết trong bài Phúc Âm hôm nay, đó là: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình".


Thế nhưng, dù sao chính vì dân làng của Người dù "sửng sốt" về Người nhưng vẫn không cảm phục Người và không chấp nhận Người, nghĩa là, như Thánh ký Marco nhận định, "họ cứng lòng tin", đến độ họ đã làm cho Chúa Giêsu tỏ ra "ngạc nhiên", mà hậu quả tất yếu kèm theo đó là "Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân" và "Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy"


Nếu so sánh với một trong 4 trường hợp liên quan đến môi trường mà hạt giống lời Chúa được gieo vãi, như Thánh ký Marco thuật lại về dụ ngôn hạt giống của Chúa Giêsu (xem 4:3-8), thì phải chăng thành phần dân làng Nazarét của Người thuộc loại "những hạt rơi trên đường đi là những người vừa nghe lời Chúa xong thì Satan đến lấy mất những gì được gieo nơi họ" (câu 15).


Và nếu "sự sống" được chất chứa trong "hạt giống" nói chung và nơi nhân của "hạt giống" nói riêng thì "sự sống" nơi "hạt giống" muốn nẩy nở và tăng trưởng trọn vẹn tầm vóc của mình lại lệ thuộc vào môi trường đất đai tốt xấu lúc ban đầuỞ trường hợp dân làng Nazarét trong bài Phúc Âm hôm nay có thể nói không phải là thứ "đất lành chim đậu", nên Chúa Giêsu mới phải "đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy".


Tâm trạng của dân làng Nazarét trong bài Phúc Âm hôm nay cũng là tâm trạng chung của loài người đối với những nhân vật mình vốn quen biết từ trước, nhất là của riêng dân Do Thái, một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, và đã từng thấy Ngài tỏ mình ra cho họ bằng đủ mọi dấu kỳ sự lạ liên tục trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, nhất là qua các vị tiên tri, nhưng hình như là "bụt nhà không thiêng", ở chỗ dân tộc này vẫn không làm sao thoát được tình trạng và khuynh hướng cứng đầu, cứng cổ, cứng lòng, thậm chí phản loạn nữa, đúng như lời Chúa phán qua Tiên Tri Êzêkiên trong bài đọc thứ 1 hôm nay:


"Trong những ngày ấy, sau khi nói với tôi, Thần Linh nhập vào tôi, và đỡ tôi đứng dậy. Tôi nghe Người nói với tôi rằng: 'Hỡi con người, Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân nổi loạn phản nghịch Ta, chúng và cha ông chúng vi phạm giao ước của Ta cho đến ngày nay. Ta sai ngươi đến để nói với những con cái dầy mặt cứng lòng rằng: Chúa là Thiên Chúa phán như vậy. Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn, và chúng sẽ biết rằng giữa chúng có một tiên tri".


Thế nhưng, đối với thành phần được Thiên Chúa ưu đãi, không phải được Ngài gần gũi và tỏ mình ra cho thì trở thành siêu đẳng, không còn gì là tầm thường và hèn hạ theo bản tính tự nhiên của mình nữa. Trái lại, Ngài lại muốn họ tiếp tục ở trong trạng thái bất toàn ấy để có cơ hội tỏ bản tính "trọn lành" của Ngài ra cho họ và nơi họ. Điển hình là trường hợp Kitô hữu cho dù đã được thánh hóa bởi Phép Rửa nhưng vẫn mang bản tính yếu đuối với đầy những mầm mống tội lỗi đến độ có thể sa ngã phạm tội bất cứ lúc nào, thậm chí mất Thánh Sủng bởi trọng tội.


Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô cũng tự thú với Kitô hữu Giáo Đoàn Corintô về trường hợp của ngài, một con người tự nhiên được Thiên Chúa cho lên tầng trời thứ ba, nơi mà mắt chưa hề xem và tai chưa hề nghe (2Corinto 12:3-4), một đặc ân được tu đức họ gọi là ngất trí xuất thần siêu đẳng chẳng mấy ai được hưởng như ngài, nhưng, như ngài cho biết như sau:


"Để những mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự cao tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ của Satan vả mặt tôi. Vì thế đã ba lần tôi van nài Chúa, để nó rời khỏi tôi. Nhưng Người phán với tôi rằng: 'Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối'". 


Vấn đề ở đây là không phải Thiên Chúa chỉ tỏ mình ra cho con người qua những ơn lạ mà cả qua chính bản thân yếu hèn của họ nữa, thậm chí qua chính yếu hèn của họ việc tỏ mình ra của Ngài lại còn tỏ tường và hiển vinh hơn nữa. Đó là lý do trong bài đọc 2 hôm nay Thánh Phaolô đã chí lý cảm nhận và xác tín rằng: 

 


"Vậy tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ và khốn khó vì Đức Kitô: vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ".


Thánh Vịnh 122 trong bài Đáp Ca hôm nay cho thấy, nếu tận thâm tâm của một tâm hồn nhận biết mình hèn yếu, (như trường hợp của Thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay), thậm chí đã phạm những lỗi lầm đáng trách (như trường hợp của dân làng Nazarét trong bài Phúc Âm hôm nay), thì "sự sống" vẫn có thể nẩy mầm và Thiên Chúa vẫn có thể tỏ mình ra nơi ánh mắt của họ chỉ biết ngước trông lên tình thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa: 


1) Con ngước mắt nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở cõi cao xanh. Kìa, như mắt những người nam tôi tớ, nhìn vào tay các vị chủ ông. 

2) Như mắt của những người tỳ nữ, nhìn vào tay các vị chủ bà, mắt chúng tôi cũng nhìn vào Chúa, là Thiên Chúa của chúng tôi như thế, cho tới khi Người thương xót chúng tôi. 

3) Nguyện xót thương, lạy Chúa, nguyện xót thương, vì chúng con đã bị khinh dể ê chề quá đỗi! Linh hồn chúng con thật là no ngấy lời chê cười của tụi giàu sang, nỗi miệt thị của lũ kiêu căng. 

 


 

 

 

Thứ Hai

Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 2, 14. 15-16. 19-20

"Ta sẽ đính hôn với ngươi đến muôn đời".

Trích sách Tiên tri Hôsê.

Ðây Chúa phán: "Này đây Ta sẽ dụ dỗ nó, đem nó vào sa mạc, và kề lòng, Ta nói khó với nó. Ở đó nó sẽ vọng lại như ngày còn thơ, và như ngày nó lên từ đất Ai-cập. Sẽ xảy ra là trong ngày ấy, sấm của Giavê, nó sẽ gọi Ta: 'Chồng tôi', chứ nó sẽ không gọi Ta là 'Ông chủ tôi' nữa".

"Ta sẽ đính hôn với ngươi đến muôn đời. Ta sẽ đính hôn với ngươi trong công bình và chính trực, trong tình yêu và thương xót. Ta sẽ đính hôn với ngươi trong sự trung tín và ngươi sẽ biết Ta là Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Chúa nhân ái và từ bi (c. 8a).

Xướng: 1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được. - Ðáp.

2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.

3) Người ta nói tới quyền năng trong những việc đáng sợ, và kể ra sự vĩ đại của Ngài. Người ta lớn tiếng khen ngợi lòng nhân hậu bao la, và hân hoan vì đức công minh của Chúa. - Ðáp.

4) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 14cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 18-26

"Con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến, nó sẽ sống lại".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đang nói, thì có một vị kỳ mục kia đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên nó, thì nó sẽ sống lại". Chúa Giêsu chỗi dậy, và cùng với các môn đệ, đi theo ông ấy. Và này có người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm, tiến lại đàng sau Người và chạm đến gấu áo Người. Vì bà nghĩ thầm rằng: Nếu tôi được chạm đến áo Người thôi, thì tôi sẽ được khỏi. Chúa Giêsu ngoảnh lại, trông thấy bà ta, liền phán rằng: "Này con, hãy vững lòng. Ðức tin của con đã cứu thoát con". Và người đàn bà được khỏi bệnh.

Khi Chúa Giêsu đến nhà vị kỳ mục, và thấy những người thổi kèn và đám đông đang xôn xao, thì bảo rằng: "Các ngươi hãy lui ra, con bé không có chết đâu, nó ngủ đó thôi". Họ liền nhạo cười Người. Và khi đã xua đám đông ra ngoài, Người vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy. Tin này đồn đi khắp cả miền ấy.

Ðó là lời Chúa.


sự sống thần linh lứa đôi


Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Mathêu thuật lại một sự kiện giống như Thánh ký Marcô đã thuật lại trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XIII Thường Niên Năm B tuần trước. Tuy nhiên, Thánh ký Mathêu thuật lại có vẻ ngắn gọn hơn, ít chi tiết hơn Thánh ký Marco, bao gồm một số chi tiết khác hẳn nhau:


Hai chi tiết hoàn toàn khác nhau, thậm chí nghịch nhau như sau: Chi tiết thứ nhất đó là người đến xin Chúa cứu đứa con gái của mình là "một vị kỳ mục" chứ không phải là một "trưởng hội đường" như Thánh Marco cho biết, và chi tiết thứ hai đó là "con gái tôi vừa mới chết" chứ không phải "đang hấp hối" như trong Phúc Âm Thánh ký Marco.


Ngoài ra, còn hai chi tiết khác cả hai bài Phúc Âm đều giống nhau, đó là chi tiết về người đàn bà loạn huyết 12 năm được Chúa Giêsu chữa lành nhờ bà có lòng tin: "Này con, hãy vững lòng. Đức tin của con đã cứu thoát con", và chi tiết về người con gái vừa qua đời được Người đến cải tử hoàn sinh cho: "'Các ngươi hãy lui ra, con bé không có chết đâu, nó ngủ đó thôi'. Họ liền nhạo cười Người. Và khi đã xua đám đông ra ngoài, Người vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy"


Về hai chi tiết hoàn toàn khác nhau, thậm chí nghịch nhau giữa bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay và bài Phúc Âm của Thánh ký Marco hôm Chúa Nhật XIII Thường Niên Năm B tuần trước, chúng ta có thể đặt vấn đề tại sao, nhưng cả hai chỉ là những chi tiết phụ thuộc không đáng lưu ý bằng những gì chính yếu hơn, đó là việc Chúa Giêsu tỏ mình ra qua cái chết của người con gái này nơi cả 2 bài Phúc Âm (cho dù là hấp hối hay vừa chết), chẳng những cho cha mẹ của em (cho dù người bố của em là trưởng hội đường hay kỳ mục) mà còn cho cả dân chúng bấy giờ nữa. 

 

 

Cả việc chữa lành cho người đàn bà loạn huyết 12 năm lẫn việc cải tử hoàn sinh cho người con gái của gia chủ thân phụ xin Chúa Giêsu cứu giúp, đều được Chúa Giêsu thực hiện bằng những thứ tiếp xúc khác nhau với thân xác của Người: Trước hết, người đàn bà loạn huyết 12 năm được chữa lành nhờ "chạm đến gấu áo Người. Vì bà nghĩ thầm rằng: Nếu tôi được chạm đến áo Người thôi, thì tôi sẽ được khỏi", còn người con gái được cải tử hoàn sinh nhờ "Người vào cầm tay đứa bé". 


Có nghĩa là quyền năng chữa lành bệnh nạn tật nguyền và cải từ hoàn sinh của Chúa Giêsu là những gì xuất phát từ thân xác của Người, thậm chí từ cả "gấu áo" Người mặc, hay nói cách khác, thân xác của Người và những gì liên hệ tới Người đều có thể trở thành phương tiện cứu độ con người. Sự kiện đụng chạm giữa con người với Chúa Giêsu, như trường hợp người đàn bà loạn huyết còn sống, hay sự kiện Chúa Giêsu chạm đến con người, như trường hợp bé gái đã chết, đều cho thấy một mối liên hệ thân tình giữa Vị Thiên Chúa vô cùng cao cả với con người trần gian, nơi Con của Ngài là Lời đã hóa thành nhục thể để có thể chẳng những ở với con người mà còn nên một với con người, thành một lứa đôi như thể bất khả phân ly với con người. Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Hosêa, Thiên Chúa đã cho thấy Ngài một vị Thiên Chúa gắn bó với con người trần gian biết là chừng này:

 

"Này đây Ta sẽ dụ dỗ nó, đem nó vào sa mạc, và kề lòng, Ta nói khó với nó. Ở đó nó sẽ vọng lại như ngày còn thơ, và như ngày nó lên từ đất Ai-cập. Sẽ xảy ra là trong ngày ấy, sấm của Giavê, nó sẽ gọi Ta: 'Chồng tôi', chứ nó sẽ không gọi Ta là 'Ông chủ tôi' nữa. Ta sẽ đính hôn với ngươi đến muôn đời. Ta sẽ đính hôn với ngươi trong công bình và chính trực, trong tình yêu và thương xót. Ta sẽ đính hôn với ngươi trong sự trung tín và ngươi sẽ biết Ta là Chúa".

 

Đó là lý do, Bài Đáp Ca hôm nay mới vang lên những tâm tình ngợi khen chúc tụng lòng thương xót Chúa đối với thân phận vô cùng thấp hèn của loài tạo vật của Ngài

 

1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được.

2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa.

3) Người ta nói tới quyền năng trong những việc đáng sợ, và kể ra sự vĩ đại của Ngài. Người ta lớn tiếng khen ngợi lòng nhân hậu bao la, và hân hoan vì đức công minh của Chúa.

4) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.




Thứ Ba


 

Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 8, 4-7. 11-13

"Chúng gieo gió thì sẽ gặt bão".

Trích sách Tiên tri Hôsê.

Ðây Chúa phán: "Chúng cai trị chớ không phải Ta. Chúng đã làm thủ lãnh, và Ta không nhận biết. Chúng đã lấy vàng bạc mà đúc tượng thần, để Ta tàn phá đi.

"Hỡi Samaria, hãy ném con bê của ngươi đi. Ta đã nổi giận chúng. Chúng không thể thanh tẩy mình đến bao giờ? Con bê này bởi Israel mà ra, người thợ đúc đã làm ra nó, nó đâu phải là thần. Con bê của Samaria sẽ giống như con nhện. Chúng gieo gió thì sẽ gặt bão: lúa mì của chúng chẳng đâm bông, mà nếu có bông cũng chẳng có hạt, và nếu có được hạt, thì người ngoại bang cũng sẽ nuốt hết.

"Ephraim làm thêm bàn thờ để phạm tội, những bàn thờ này đã nên dịp tội cho nó. Vì Ta viết cho nó muôn ngàn lề luật, và nó coi như không can gì đến nó. Chúng sẽ dâng của lễ, sẽ hiến tế thịt thà, chúng cứ việc ăn, Chúa không chấp nhận đâu. Chúa sẽ nhớ lại sự gian ác của chúng và sẽ phạt tội chúng: chúng sẽ hướng về Ai-cập".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 113B, 3-4. 5-6. 7-8. 9-10

Ðáp: Nhà Israel! cậy tin vào Chúa (c. 9a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Thiên Chúa chúng ta ngự trên trời, phàm điều chi Người ưng ý, Người đã thực thi. Thần tượng của họ bằng bạc với vàng, đó là sự vật do tay người tác tạo. - Ðáp.

2) Chúng có miệng mà không nói năng; chúng có mắt mà không nhìn thấy; chúng có tai mà chẳng khá nghe; chúng có mũi mà không biết ngửi. - Ðáp.

3) Chúng có tay mà không sờ mó; chúng có chân mà chẳng bước đi. Sẽ nên giống y như chúng, bao nhiêu kẻ làm ra và cậy tin vào chúng. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 32-38

"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, người ta đem đến Chúa Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám đông dân chúng kinh ngạc và nói rằng: "Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy trong dân Israel". Nhưng các người biệt phái nói rằng: "Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ".

Và Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn. Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".

Ðó là lời Chúa.

 

el que lucha con Dios | De la mano de María

 

 

sự sống thương tật 


Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Thứ Ba Tuần XIV Thường Niên hôm nay bao gồm 2 sự kiện khác nhau: trước hết về việc Chúa Giêsu trừ quỉ, và sau đó về tình trạng chiên cần chủ chiên.


Về việc Chúa Giêsu trừ quỉ, Thánh ký Mathêu thuật lại ở phần trên của bài Phúc Âm hôm nay thế này: "Khi ấy, người ta đem đến Chúa Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám đông dân chúng kinh ngạc và nói rằng: 'Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy trong dân Israel'. Nhưng các người biệt phái nói rằng: 'Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ'". Ở đây hiện tượng bị câm về thể lý cho thấy cũng có thể do ma quỉ gây ra, nhất là bị câm về tinh thần, không dám nói lên sự thật và làm chứng cho chân lý, càng do ma quỉ đầy quyền lực tối tăm chết chóc là thành phần thù ghét chân lý và muốn tiêu diệt chân lý.


Về tình trạng chiên cần chủ chiên, Thánh ký Mathêu thuật lại ở phần dưới của bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn. Người liền bảo môn đệ rằng: 'Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa'". Chúa Giêsu đến để cứu nhân loại cả về phần hồn (bằng giáo huấn của Người) lẫn phần xác (bằng việc chữa lành của Người).


Ý tưởng chính yếu của bài Phúc Âm hôm nay đó là câu Thánh ký Mathêu ghi nhận về Chúa Giêsu rằng: "Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn". 


Đúng thế, tất cả những gì Thiên Chúa làm cho con người đều do bởi tình thương của Ngài trước thân phận tháp hèn và khốn khổ của con người, thành phần không thể tự cứu được mình mà chỉ hoàn toàn trông chờ vào Ngài, Đấng quả thực đã sai Con của Ngài đến với loài người, cũng chỉ vì thương con người, và Con của Ngài trở thành hiện thân sống động của tình thương Ngài đối với chung nhân loại và riêng thành phần nạn nhân của "mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền" hay bị quỉ ám về thể lý, như "người câm bị quỷ ám" trong bài Phúc Âm hôm nay, nhất là thành phần đáng thương tiêu biểu của nhân loại ngay trước mắt Người bấy giờ không được ai giúp đỡ và phục vụ


Bởi thế, trong dự án thần linh của mình, Người cần tuyển mộ thêm một số cộng sự viên đắc lực với Người trong sứ vụ cứu độ bất khả thiếu của Người. Đó là lý do Người "liền bảo với các môn đệ" là thành phần được Người gọi theo Người, chứ không bảo chung dân chúng, rằng: '"Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".


"Lúa chín đầy đồng" đây nghĩa là gì, nếu không phải là thành phần dân chúng đáng thương cần được cứu vớt, họ là thành phần bình dân chất phác thường cởi mở và dễ tin tưởng vào Chúa cùng chấp nhận Lời Chúa hơn thành phần luật sĩ và biệt phái vốn hay tự phụ kiêu căng nên khó tin, khó chấp nhận những gì không hợp với họ hay họ có thành kiến, ngay cả khi họ thấy Người trừ quỉ câm trong bài Phúc Âm hôm nay mà họ vẫn cho rằng "Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ'". 


Và cũng vì thế mới xẩy ra tình trạng "thợ gặt thì ít", nghĩa là những người lãnh đạo tinh thần cho dân chúng thì nhiều đấy nhưng về phẩm thì vẫn quá ít ỏi và hiếm hoi, hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả (xem Gioan 10:8 - "tất cả những kẻ đến trước Tôi đều là trộm cướp)" vừa bất xứng về tinh thần và uy tín vừa bất khả về cung cách và hiệu quả, đến không phải là để phục vụ như Người mà chỉ lo hưởng thụ ở chỗ tìm cầu những gì là danh dự và uy quyền mà thôi (xem Mathêu 20:28 và đoạn 23). 


Do đó, cần phải "xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa", chứ không phải đi gieo lúa, nghĩa là sai những con người sống tinh thần của Chúa Kitô và như Chúa Kitô đến mới có thể đáp ứng nhu cầu cùng lòng mong đợi của dân chúng, nhờ đó hoàn thành dự án cứu độ thần linh vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa. 


"Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn" là những gì chứng tỏ cho thấy dù con người hèn yếu nhưng vẫn thắng được cõi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, đến độ đã khiến cho Thiên Chúa phải cúi mình xuống phục vụ họ. "Đoàn lũ dân chúng... tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có ngưòi chăn" trước mắt Chúa Giêsu là Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người để tự mình chăn dắt họ, cũng như tiếp tục chăn dắt họ qua thành phần được Người tuyển chọn lãnh đạo Giáo Hội của Người.

 

Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Hôsêa, Thiên Chúa đã cho biết tình trạng đàn chiên dân Chúa bơ vơ như không có chủ chiên nên đã luôn xu hướng vào việc tôn thờ đủ mọi thứ ngẫu tượng do chính họ nghĩ ra hay bị ảnh hưởng của ngoại bang: "Chúng cai trị chớ không phải Ta. Chúng đã làm thủ lãnh, và Ta không nhận biết. Chúng đã lấy vàng bạc mà đúc tượng thần, để Ta tàn phá đi... Ta viết cho nó muôn ngàn lề luật, và nó coi như không can gì đến nó. Chúng sẽ dâng của lễ, sẽ hiến tế thịt thà, chúng cứ việc ăn, Chúa không chấp nhận đâu. Chúa sẽ nhớ lại sự gian ác của chúng và sẽ phạt tội chúng".

 

Đúng thế, Thiên Chúa đã thực sự "tàn phá đi" các thứ ngẫu tượng của dân Ngài, chẳng những bằng cách "phạt tội chúng", nhờ đó chúng biết mình mà trở về cùng Ngài là Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, mà còn bằng cách tỏ hết mình ra nơi Lời Nhập Thể là Đức Giêsu Kitô Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng họ. Và Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất này của họ đã được Thánh Vịnh gia chân nhận là sống động và toàn năng, chứ Ngài không phải là hay giống như các thứ thần tượng được dân tạo nên bằng chính những gì quí báu nhất của họ (vàng bạc ám chỉ lòng đạo đức ảo tưởng), thứ ngẫu tượng được Bài Đáp Ca diễn tả như sau:


1) Thiên Chúa chúng ta ngự trên trời, phàm điều chi Người ưng ý, Người đã thực thi. Thần tượng của họ bằng bạc với vàng, đó là sự vật do tay người tác tạo.

2) Chúng có miệng mà không nói năng; chúng có mắt mà không nhìn thấy; chúng có tai mà chẳng khá nghe; chúng có mũi mà không biết ngửi.

3) Chúng có tay mà không sờ mó; chúng có chân mà chẳng bước đi. Sẽ nên giống y như chúng, bao nhiêu kẻ làm ra và cậy tin vào chúng.


Thánh Augustinus Zhao Rong và Các Bạn Tử Đạo Người Trung Hoa

Vào ngày mồng 09 tháng 07 hàng năm, Giáo hội Công giáo cử hành Lễ kính nhớ Thánh Augustinus Zhao Rong và các bạn Tử Đạo. Thực ra, Lễ kính Thánh nhớ Augustinus Zhao Rong và các bạn Tử Đạo là ngày Lễ của nhiều vị Tử Đạo người Trung Hoa, cụ thể là của 120 vị, với tuổi đời khác nhau. Các Ngài đã trao hiến mạng sống mình cho Thiên Chúa trong những năm từ 1648 tới 1930. Một số trong các Ngài vẫn còn trong độ tuổi thiếu nhi, và số khác thì đã cao niên: Vị trẻ nhất là 7 tuổi, và vị cao niên nhất là 97 tuổi. Phần lớn trong số các Ngài đều là những người Giáo dân Trung Hoa, bao gồm những bậc cha mẹ, những người con, các Giáo Lý Viên và những công nhân. Cũng có một số Giáo sĩ và Tu sĩ, cả bản địa lẫn người nước ngoài. Trong số những vị Tử Đạo không được sinh ra tại đất Trung Hoa nhưng người ta vẫn kể các Ngài vào trong số những Vị Thánh Tử Đạo Trung Hoa, gồm nhiều Nữ Tu, Linh mục, đặc biệt là các Nữ Tu và Linh mục Dòng Thánh Đa-minh, rồi đến các Linh mục và Tu sĩ Dòng Tên cũng như các Linh mục và Tu sĩ Dòng Thánh Phan-xi-cô.

Các vị Tử Đạo Trung Hoa đã được tôn phong lên bậc Chân Phúc vào nhiều thời gian khác nhau, nhưng cùng được tôn phong lên bậc Hiển Thánh vào ngày mồng 01 tháng 10 trong Năm Thánh 2000 bởi Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II. Chính quyền cộng sản Trung Quốc tỏ ra vô cùng bất bình với biến cố Phong Thánh nêu trên. Tuy nhiên, sự quan phòng của Thiên Chúa lại vô cùng nhiệm màu, Ngài đã biến sự bực dọc và bất bình đến lỗ mãng của chính quyền cộng sản Trung Quốc thành điều tốt lành cho các tín hữu và cho Giáo hội tại quốc gia này: Vì chính quyền Trung Cộng đã bày tỏ sự bực dọc và bất bình với vụ này một cách quá đáng, nên nhiều người, không phải chỉ tại Trung Hoa đại lục, tại Hồng Kong, tại Đài Loan hay tại Ma-cao, nhưng còn tại nhiều nơi khác trên toàn thế giới, đã lưu tâm tới biến cố Phong Thánh đó. Rất nhiều người đã dành thời gian để tìm hiểu về cuộc đời và cái chết của các Vị Tử Đạo Trung Hoa, bởi sự ồn ào của chính quyền Trung Cộng đã khiến người ta đặt câu hỏi: Tại sao những người ấy lại được Phong Thánh? Và tại sao chính quyền Trung Cộng lại chống đối việc Phong Thánh đó?

Những gì được kể về các vị Tử Đạo Trung Hoa thật ấn tượng: Một vị đã tỏ ra vô cùng hạnh phúc khi người ta dẫn Ngài tới nơi hành hình Thập Giá, Ngài đã khóc vì sung sướng và đã tạ ơn Chúa, vì Ngài được phúc chịu Tử Đạo với cùng một cách thức như Đấng Cứu Chuộc của Ngài. Một vị Tử Đạo khác đó là Thánh Chi Zhuzi, chỉ mới 18 tuổi, đã chịu Tử Đạo trong cùng thời gian với Thánh Augustinus Zhao Rong. Khi người ta chặt đứt cánh tay phải của Ngài và chuẩn bị lột da Ngài khi Ngài vẫn còn đang sống, Ngài đã kêu lên rằng: „Từng miếng thịt của tôi và từng giọt máu của tôi sẽ làm chứng rằng, tôi là một Ki-tô hữu!“ Trong số các vị Tử Đạo có một Linh mục đã bị một người khác tiết lộ nơi ẩn náu của Ngài khi anh ta nhận được 30 đồng bạc; cũng có một vị khác đã được phúc Tử Đạo chỉ sau hai ngày kể từ khi được lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy; và có hai Linh mục Dòng Tên đã được phúc Tử Đạo ngay trong lúc đang cử hành Thánh Lễ.

Ki-tô giáo đến Trung Hoa qua ngả Syria, nơi mà Giáo hội ngày nay cũng đang phải sống với tính cách là nhóm thiểu số và đang phải trải qua sự bách hại. Những báo cáo về Giáo hội tại Trung Hoa chỉ cho thấy rằng, con số các tín hữu Công giáo tại Trung Hoa đã tăng lên rất nhiều, bất chấp sự đàn áp, sự trục xuất, bất chấp chủ nghĩa cộng sản và chiến dịch văn hóa. Tuy nhiên, trong hiện tại, các vụ phong chức Giám mục bất hợp pháp đang là những vết thương đầy đớn đau trong cộng đoàn Giáo hội, như Đức Bê-nê-đíc-tô XVI đã viết như thế trong một bức thư gửi cho người người Công giáo Trung Hoa vào năm 2007. Nhưng dù bị áp bức tư bề, Giáo hội tại Trung Hoa vẫn đang tiếp tục phát triển.

Lm Đa-minh Thiệu O.Cist

http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang7/Ngay9.htm

 

1310436309839089416_574_0
Ngày hôm nay, Giáo Hội cử hành thánh lễ tôn kính các vị tử đạo Trung Hoa. Các ngài là những người đã nêu gương anh dũng trong đời sống đức tin Kitô giáo dọc theo lịch sử của đất nước này. Thánh Augustinô Triệu Vinh (趙榮 Zhao Rong) đã anh dũng tử đạo để minh chứng đức tin, là một trong số 120 tín hữu Công giáo đã hy sinh suốt từ năm 1648 đến năm 1930.
Tháng 4 năm 1785, Đức Cha Jean-Gabriel Taurin Dufresse (1750-1815), thuộc hội Thừa Sai Paris và là Giám Quản Tông Tòa giáo phận Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, bị bắt và bị giải về Bắc Kinh, vì tội dám rao giảng Kitô Giáo trên vương quốc Trung Hoa.
Trên đường đi, Đức Cha được một nhóm binh sĩ hộ tống. Trong nhóm binh sĩ có một người ngoại giáo tên Triệu Vinh. Thái độ điềm tĩnh và hiền từ, khiêm tốn của vị Giám Mục thừa sai ngoại quốc đánh động sâu xa tấm lòng chàng trai Triệu Vinh.
Sau cuộc hành trình đó, chàng Triệu Vinh xin giải ngũ và tìm hiểu học hỏi về Kitô Giáo, một tôn giáo mà theo chàng, có thể trao ban cho con người sức mạnh vô song, thực thi nhân đức anh hùng.
Sau khi được rửa tội với tên thánh Agustino, Triệu Vinh không ngừng ở địa vị một giáo dân. Chàng tiến một bước xa hơn. Agustino xin gia nhập chủng viện và sau đó thụ phong Linh mục.
Cha Agustino Triệu Vinh được chỉ định coi sóc một giáo xứ Quảng Nguyên cũng thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Cha nhiệt thành rao giảng Lời Chúa, ban các Bí Tích và đưa rất nhiều người ngoại giáo theo Kitô Giáo.
Cha có chương trình mục vụ rất đặc biệt. Cha lần lượt đi từ làng này sang làng khác. Cứ mỗi lần đến một làng, Cha dành ra ba ngày đầu để giải thích Lề Luật Chúa, nói về 7 mối tội đầu, về các ân xá và về các bí tích. Cha đặc biệt nói về cuộc Khổ Nạn của Đức Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Rỗi nhân loại. Lời giảng của Cha vừa hùng hồn vừa chân thành đến độ làm cho mọi người nghe, ai nấy đều cảm động đến rơi nước mắt. Sau ba ngày giảng dạy là thời gian Cha ngồi tòa giải tội. Đây là lúc Cha lắng nghe từng tín hữu, khuyên bảo và chỉ dạy họ điều khôn ngoan, cách thức phải cẩn trọng trong lúc Đạo Công Giáo bị cấm cách và bị bắt bớ trong toàn nước Trung Hoa. Sau cùng, Cha Agustino Triệu Vinh ban bí tích rửa tội cho các tân tòng và cử hành Thánh Lễ cho tất cả các tín hữu Công Giáo.
Vào cuối năm 1814, Cha Agustino Vinh có linh cảm mình sẽ được đổ máu đào làm chứng cho Đạo Công Giáo. Cha nói với Cha Benedetto Dương:
– Giờ tôi đã già lại bệnh tật nên có lẽ tôi không trốn thoát khỏi cuộc lùng bắt của các binh lính. Xin Cha cầu nguyện nhiều cho tôi. Xin Thiên Chúa cho tôi ơn can đảm chịu đau khổ, để làm vinh danh Ngài.
Đầu năm 1815, Cha Agustino Triệu Vinh ngã bệnh nặng. Tuy thế, Cha vẫn tiếp tục chu toàn nhiệm vụ chủ chăn. Một ngày, có người đến mời Cha đi kẻ liệt. Dầu liệt giường, Cha vẫn nhận lời, nhờ người cáng Cha đến nhà người hấp hối. Sau khi ban các bí tích sau hết, và bệnh nhân êm ái trút hơi thở cuối cùng, Cha lại lên cáng ra về.
Giữa đường, Cha gặp nhóm lính đi tuần. Người dẫn đầu tỏ dấu nghi ngờ. Ông ra lệnh chặn cáng Cha lại và hỏi:
– Ông có phải tín hữu Công Giáo không?
Cha Agustino Triệu Vinh điềm tĩnh trả lời:
– Phải, tôi là Linh Mục Công Giáo!
Lời thú nhận quá tốt và quá đủ để bọn lính ập tới, lôi Cha xuống cáng và còng tay Cha lại .. Cha bị giải về Thành Đô. Tại đây, Cha bị đánh đập tàn nhẫn. Bọn lính tìm đủ mọi cực hình để làm cho Cha nản lòng bỏ Đạo. Nhưng Cha già Vinh vẫn kiên vững như đá. Bọn lính tức giận hét lớn:
– Sao Chúa của ông không xuống đây để bảo vệ ông?
Cha hiền từ trả lời:
– Thiên Chúa che chở linh hồn tôi, ban cho tôi đủ sức mạnh hầu tôi có thể chịu khổ vì Ngài. Các ông là kẻ phàm tục và điên rồ, các ông không thể nào hiểu niềm an bình và hạnh phúc mà Thiên Chúa tuôn đổ vào tâm lòng con người đâu!
Nghe Cha Agustino Triệu Vinh nói thế, bọn lính càng hăng máu dữ tợn hơn. Chúng giáng xuống thân xác đau yếu và già cả của Cha những trận đòn khủng khiếp. Cha yên lặng chịu đựng, không hé môi nói nửa lời than trách. Đánh chán rồi, bọn lính lại lôi Cha về phòng giam và bỏ Cha nằm đó, thập tử nhất sinh.
Dĩ nhiên Cha già Agustino Triệu Vinh không sống được lâu với trận đòn dữ tợn như thế. Ngày 27 tháng Giêng năm 1815, Cha êm ái trút hơi thở cuối cùng trong phòng giam, hưởng thọ 73 tuổi, trước khi chính thức nhận bản án tử hình do nhà vua châu phê.
Ngày 27 tháng 5 năm 1900, Cha Agustino Triệu Vinh được Đức Giáo Hoàng Lêo XIII tuyên chân phúc cùng với Đức Cha Jean-Gabriel Taurin Dufresse và 8 vị tuẫn đạo Trung Hoa khác.
Chúa Nhật 1-10-2000, trong khung cảnh Đại Năm Thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II tuyên 120 vị Tuẫn Đạo Trung Hoa vào sổ bộ các Hiển Thánh, đứng đầu danh sách là Cha Agustino Triệu Vinh. Danh sách các vị anh hùng này bao gồm 76 giáo dân, một số em thiếu nhi thậm chí mới bảy tuổi, 8 chủng sinh, 24 linh mục và 6 giám mục. Trong số này, có 88 vị là người gốc Trung Hoa và 34 vị là các nhà truyền giáo đến từ nhiều quốc gia khác nhau, nhưng các vị đã nhận Trung Hoa là quê hương của mình.
 Chúng ta hãy noi gương thánh Augustinô Zhao Rong và các bạn tử đạo Trung Hoa. Như các ngài, chúng ta hãy sống niềm tin của mình cách vui tươi. Chúng ta hãy can đảm sống cho sự thật dù đôi lúc đó không phải là điều dễ thực hiện.
Tài liệu của nhà thờ thánh Phanxico Xavie (Chợ Lớn)

https://ungsinhdongten.net/thanh-augustino-zhao-rong-va-cac-ban-tu-dao-2/


 Ngày 9 tháng 7

Thánh Augustinô Zhao Rong và các bạn tử đạo

Ngày hôm nay, Giáo hội cử hành thánh lễ tôn kính các vị tử đạo Trung Hoa. Các ngài là những người đã nêu gương anh dũng trong đời sống đức tin Kitô giáo dọc theo lịch sử của đất nước này. Thánh Augustinô Zhao Rong, đã anh dũng tử đạo để minh chứng đức tin, là một trong số 122 tín hữu Công giáo đã hy sinh suốt từ năm 1648 đến năm 1930.

Vào năm 1815, một Giám mục tên Gioan Gabriel Đufresse bị bắt. Lúc ấy, việc thực hành đạo Kitô bị coi là một hành vi chống lại luật lệ của đất nước Trung Hoa. Một anh lính Trung Hoa canh giữ Đức Giám mục rất đỗi khâm phục ngài bởi sự bình thản và lòng kiên nhẫn đối với cuộc bách hại. Sau khi Giám mục Đufresse bị giết, người lính này đã xin gia nhập Giáo hội. Anh được chịu phép Thanh tẩy và nhận tên là Augustinô. Sau này, Augustinô gia nhập chủng viện và học làm linh mục.

Thụ phong linh mục chẳng bao lâu, Augustinô cũng bị bắt vì là Kitô hữu. Người ta đã tra tấn Augustinô dữ dội hầu làm cho ngài chối bỏ niềm tin vào Đức Kitô. Thế nhưng, những đau khổ ấy lại chỉ giúp cho Augustinô Zhao Rong thêm can đảm và làm xác tín hơn niềm tin của ngài. Augustinô Zhao Rong bị lên án tử và tên ngài được ghi vào danh sách các tín hữu Trung Hoa anh dũng đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho niềm tin của mình.

Danh sách các vị anh hùng này bao gồm 76 giáo dân, một số em thiếu nhi thậm chí mới bảy tuổi, 8 chủng sinh, 24 linh mục và 6 Giám mục. Trong số này, có 88 vị là người gốc Trung Hoa và 34 vị là các nhà truyền giáo đến từ nhiều quốc gia khác nhau, nhưng các vị đã nhận Trung Hoa là quê hương của mình.

Chúng ta hãy noi gương thánh Augustinô Zhao Rong và các bạn tử đạo Trung Hoa. Như các ngài, chúng ta hãy sống niềm tin của mình cách vui tươi. Chúng ta hãy can đảm sống cho sự thật dù đôi lúc đó không phải là điều dễ thực hiện.

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-augustino-zhao-rong-va-cac-ban-tu-dao-42614





Thứ Tư

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 10, 1-3. 7-8. 12

"Ðây là lúc phải tìm kiếm Chúa".

Trích sách Tiên tri Hôsê.

Israel là cây nho xanh tốt, hoa trái xứng hợp với nó. Ðất càng màu mỡ, thì càng thêm các tượng thần. Lòng dạ chúng phân đôi, giờ đây chúng sẽ đền tội. Chúa sẽ đánh vỡ các tượng thần và phá tan các bàn thờ của chúng. Bấy giờ chúng sẽ nói: "Chúng ta không có vua, vì chúng ta không kính sợ Chúa: và nhà vua sẽ làm gì cho chúng ta?"

Samaria đã làm cho vua mình qua đi như bọt nước. Những nơi cao dựng tượng thần sẽ bị phá huỷ: Ðó là tội lỗi của Israel! Cây ké và gai góc sẽ mọc trên bàn thờ chúng. Chúng sẽ nói với núi non rằng: Hãy che lấp chúng ta đi. Chúng sẽ nói với đồi rằng: Hãy đổ xuống trên chúng ta cho rồi! Các ngươi hãy gieo rắc sự công chính và sẽ gặt mùa nhân từ. Các ngươi hãy khai khẩn những khu đất mới: Ðây là lúc phải tìm kiếm Chúa, khi Người đến, Người sẽ dạy dỗ sự công chính cho các ngươi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn (c. 4b).

Xướng: 1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người; tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa; hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ, và những điều miệng Ngài phán quyết.- Ðáp.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người; hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 1-7

"Các con hãy đến cùng chiên lạc nhà Israel".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền.

Ðây là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, Philipphê và Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, Simon nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.

Chúa Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: "Các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. Tốt hơn, các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Các con hãy đi rao giảng rằng: 'Nước Trời đã gần đến'".

Ðó là lời Chúa.

 

DISSE O SENHOR: IDE E ANUNCIAI, O REINO DE DEUS ESTÁ PRÓXIMO...

 

 

sự sống lạc loài


Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XIV Thường Niên, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, ở chỗ, trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu thấy dân chúng bơ vơ như chiên không chủ chăn, và ngỏ ý muốn có thêm cộng sự viên trong công cuộc cứu độ với Người, bằng cách kêu gọi các môn đệ hãy xin thêm thợ gặt đến làm mùa, thì trong bài Phúc Âm hôm nay "Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền". 


Thành phần được Chúa Giêsu ưu tuyển này là những ai, được Thánh ký Mathêu cho biết như sau: "Đây là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, Philipphê và Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, Simon nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người".


Và sứ vụ của 12 môn đệ được gọi là tông đồ này như thế nào, cũng được Thánh ký Mathêu cho biết như thế này: "Chúa Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: 'Các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. Tốt hơn, các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Các con hãy đi rao giảng rằng: 'Nước Trời đã gần đến'".


Ở đây có 2 vấn đề được đặt ra: thứ nhất là danh xưng môn đệ và tông đồ có khác nhau không, nếu có thì như thế nào? Và thứ hai là địa bàn hoạt động của các tông đồ tại sao chỉ giới hạn vào "các chiên lạc nhà Israel" mà thôi? 


Trước hết về danh xưng "môn đệ" (disciple) và "tông đồ" (apostle), căn cứ vào Phúc Âm, chúng ta nên hiểu như thế này: 


1- "Môn đệ" là một ơn gọi, ơn gọi theo Chúa Kitô, còn "tông đồ" là sứ vụ đặc biệt, sứ vụ "làm chứng" cho Chúa Kitô, sứ vụ chính yếu của thành phần làm "môn đệ" Chúa Kitô

2- Bởi thế "tông đồ" căn bản cũng là "môn đệ" của Chúa Kitô, tức là thành phần theo Chúa Kitô, nên các Phúc Âm hay thuật lại rằng Chúa Giêsu đi với các môn đệ của mình hoặc Người nói với các môn đệ của Người, chứ hầu như không viết là với các tông đồ. Ngay trong bài Phúc Âm hôm nay cũng thấy: "Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại", chứ không phải gọi 12 tông đồ lại.

3- Trong thành phần theo Chúa Kitô được Thánh Luca cho biết là có 72 "môn đệ" (disciples), thế nhưng cả 3 Phúc Âm Nhất Lãm (Mathêu, Marco và Luca) đều liệt kê chỉ có 12 "tông đồ" (apostles), thành phần "tông đồ" có tên tuổi đàng hoàng, như trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, trong khi các "môn đệ" không được liệt kê tên tuổi như vậy, và các môn đệ này có thể bao gồm cả thành phần nữ giới theo phục vụ Chúa nữa. Có thể nói "tông đồ" là thành phần môn đệ "full time", trong khi các môn đệ không phải là tông đồ thì chỉ cần part time theo Chúa.

4- Để trở thành "tông đồ" cần phải hội đủ 3 điều kiện chính yếu bất khả thiếu: thứ nhất, phải được chính Chúa Kitô tuyển chọn + thứ hai, phải được chính Chúa Kitô tỏ mình ra cho + thứ ba, phải được chính Chúa Kitô sai đi. Thánh Phaolô cũng được gọi bằng danh xưng "tông đồ", (cho dù không sống trực tiếp với Người ngay từ đầu và có tên trong danh sách "tông đồ"), là vì ngài cũng hội đủ 3 yếu tố để làm "tông đồ" trên đây: cũng được chính Chúa Kitô tuyển chọn (xem Tông Vụ 9:15), cũng được chính Chúa Kitô tỏ mình ra cho (xem Tông Vụ 9:4-6) và cũng được chính Chúa Kitô sai đi (xem Tông Vụ 13:47)

Vấn đề thứ hai là địa bàn hoạt động của các tông đồ tại sao "các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria" mà chỉ giới hạn vào "các chiên lạc nhà Israel" thôi? Phải chăng tại vì dân ngoại (nhất là ở Galilêa) có thể nói đã biết nhiều về Chúa Giêsu, Đấng đã bắt đầu xuất hiện như ánh sáng chiếu trong tăm tối ở miền đất này, một sự kiện được Thánh ký Mathêu ghi nhận như sau: 

"Khi Chúa Giêsu nghe Gioan đã bị tống giam thì Người lui về Galilêa. Người bỏ Nazarét mà đi đến sống ở Capernaum gần địa hạt Zebulun và Naphtali, cho trọn những gì đã được Tiên Tri Isaia nói: "Miền Galilêa dân ngoại: dân sống trong tăm tối đã được thấy ánh sáng cả thể..." (Mathêu 4:12-16). 

Vì Galilêa là vùng đất của Dân Do Thái sống chung đụng với rất nhiều dân ngoại, một miền bắc hoàn toàn khác với miền nam Giuđêa thuần túy Do Thái và là nơi có giáo đô Giêrusalem, một miền bắc đã trở thành vùng hoạt động chính yếu của Chúa Giêsu, nơi Người cũng đã tuyển chọn 12 tông đồ, mà sau khi sống lại Người cũng đã hẹn với các tông đồ về lại Galilêa gặp Người (xem Mathêu 28:7) và các vị quả thực đã gặp Người ở đó (xem Mathêu 28:16) để được Người sai đi "tuyển mộ môn đồ khắp các dân nước" (Mathêu 28:19).

Galilêa còn là vùng đất không được Chúa Giêsu bao gồm trong lệnh truyền sai các tông đồ đi rao giảng khắp nơi trước khi Người thăng thiên về cùng Cha: "Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8).

Vậy đối tượng các tông đồ được sai đến là "các chiên lạc nhà Israel" - Chúa Giêsu có ý ám chỉ những ai đây, nếu không phải thành phần dân Do Thái lầm lạc, chứ không phải thành phần Do Thái thành tâm đang tìm kiếm chân lý và thiết tha trông đợi Đấng Thiên Sai, như một Nicôđêmô (xem Gioan 3:1-2). Họ ở đâu? Nếu không phải ở ngay Galilêa, chứ không ở đâu xa, vì họ là thành phần đáng thương nhất! 

Mà thành phần "các chiên lạc nhà Israelđây thực sự là ai, nếu không phải là nhóm biệt phái và luật sĩ, thành phần mà các môn đệ của Chúa Kitô cần phải trổi vượt hơn về thánh đức (xem Mathêu 5:20), và không được nhiễm lây men gương mù gương xấu của họ (xem Mathêu 16:6), thành phần luôn có thái độ cao ngạo và thù nghịch với Chúa Kitô, bằng những hành động rình rập, bắt bẻ, chống đối và chụp bắt Người. Nói chung, bao gồm cả dân chúng lẫn thành phần thông luật và dạy luật cho dân chúng, đều là những con chiên lạc, ở chỗ họ đều mong đợi một Đấng Thiên Sai về chính trị hơn là Đấng đến giải thoát họ khỏi tội lỗi và sự chết thiêng liêng; thậm chí bao gồm cả các tông đồ cũng thế, cũng có một tâm thức chính trị này, nên đã vấp phạm khi thấy Thày mình phải trải qua cuộc khổ nạn và tử giá.

Phải chăng đó là lý do Chúa Giêsu đã báo trước cho các tông đồ được Người sai đi rằng: "Thày sai các con đi như chiên giữa sói rừng" (Mathêu 10:16) và cảnh giác các vị về những gian nan khốn khó xẩy ra do đối phương gây ra cho các vị, nhưng Người trấn an và phấn khích các vị rằng: "Đừng sợ kẻ chỉ giết được sự sống phần xác nhưng không thể hủy diệt được linh hồn" (Mathêu 10:28)?

Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu, qua chi tiết được Thánh ký Mathêu diễn tả,  thấy đoàn lũ dân chúng như chiên bơ vơ không chủ chiên, thì bài Phúc Âm hôm nay chính Chúa Giêsu lại khẳng định họ là "con chiên lạc Nhà Israel". Và họ đã bị lạc như thế nào và ra sao, thì chính Thiên Chúa, qua miệng Tiên Tri Hôsêa cho biết như sau: "Israel là cây nho xanh tốt, hoa trái xứng hợp với nó. Ðất càng màu mỡ, thì càng thêm các tượng thần. Lòng dạ chúng phân đôi, giờ đây chúng sẽ đền tội". Đến độ: "Cây ké và gai góc sẽ mọc trên bàn thờ chúng. Chúng sẽ nói với núi non rằng: Hãy che lấp chúng ta đi. Chúng sẽ nói với đồi rằng: Hãy đổ xuống trên chúng ta cho rồi!"

Và chính trong lúc "con chiên lạc Nhà Israel" nhận biết "Ðó là tội lỗi của Israel!" như thế, Thiên Chúa, cũng qua miệng cùng vị tiên tri trong Bài Đọc 1 hôm nay, mới khuyên nhủ họ rằng: "Các ngươi hãy gieo rắc sự công chính và sẽ gặt mùa nhân từ. Các ngươi hãy khai khẩn những khu đất mới: Ðây là lúc phải tìm kiếm Chúa, khi Người đến, Người sẽ dạy dỗ sự công chính cho các ngươi". Câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay theo chiều hướng của Bài Đọc I cũng kêu gọi dân Chúa rằng: "Hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn". Ở chỗ:

 

1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người; tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui.

2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa; hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ, và những điều miệng Ngài phán quyết.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người; hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu.

 



Thứ Năm

Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 11, 1b, 3-4, 8c-9

"Quả tim Ta thổn thức trong Ta và ruột gan Ta bồi hồi".

Trích sách Tiên tri Hôsê.

Ðây Thiên Chúa phán: "Lúc Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương nó, và Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.

"Ta đã dưỡng nuôi Ephraim, Ta đã bồng chúng trên cánh tay Ta mà chúng không biết Ta chăm sóc chúng. Ta đã dùng dây êm ái và mối yêu thương mà tập (cho) chúng đi; Ta đối xử với chúng như người dưỡng nuôi trẻ thơ, Ta đã ấp yêu chúng vào má. Ta nghiêng mình trên chúng và đút cho chúng ăn.

Quả tim Ta thổn thức trong Ta và ruột gan Ta bồi hồi. Ta sẽ không buông thả theo cơn giận của Ta. Ta sẽ không huỷ diệt Ephraim, vì Ta là Thiên Chúa chứ không phải người phàm; Ta là Ðấng Thánh ở giữa ngươi, Ta không thích tiêu diệt".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 79, 2ac và 3b. 15-16

Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống (c. 4b).

Xướng: 1) Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các vệ binh thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin tỉnh thức quyền năng của Chúa. - Ðáp.

2) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại; tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy; bảo vệ ngành nho mà tay Ngài đã củng cố cho mình. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 7-15

"Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy đi rao giảng rằng "Nước Trời đã gần đến". Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Các con chớ mang vàng bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc, vì thợ thì đáng được nuôi ăn.

"Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: "Bình an cho nhà này". Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy. Nhưng nếu ai không tiếp rước các con và không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi nhà hay thành ấy và giũ bụi chân các con lại. Thật, Thầy bảo các con: Trong ngày phán xét, đất Sôđôma và Gômôra sẽ được xét xử khoan dung hơn thành ấy".

Ðó là lời Chúa.

Daily Meditation: "Go and proclaim this message: 'The kingdom of ...


sự sống
 d
ưới chân


Bài Phúc Âm cho ngày Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên hôm nay, cũng như cho 2 ngày còn lại trong tuần này, đều chất chứa những lời huấn dụ của Chúa Giêsu về sứ vụ được sai đi của các tông đồ.

Riêng trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã căn dặn và nhắn nhủ các tông đồ mấy điểm chính yếu sau đây: sứ điệp rao giảng (1); năng lực rao giảng (2); tinh thần rao giảng (3); thái độ giao tiếp (4).

1- Sứ điệp rao giảng - Nước Trời: "Các con hãy đi rao giảng rằng 'Nước Trời đã gần đến'". Nếu các tông đồ được tuyển chọn trong số các môn đệ là để làm chứng cho Chúa Kitô, và nếu các vị được sai đến với riêng "con chiên lạc nhà Israelđược cho là thành phần biệt phái và luật sĩ ở Galilêa, thì "Nước Trời" đây có thể hiểu là chính Chúa Kitô mà thành phần biệt phái và luật sĩ ở Galilêa là những "con chiên lạc nhà Israel" cần phải tin tưởng để được cứu độ và nên công chính thực sự.

2- Năng lực rao giảng - Cứu chữa: "Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ". Nếu "Nước Trời" được hiểu là chính Chúa Kitô là Đấng các tông đồ được Người sai đi rao giảng, mà Chúa Kitô "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10), thì các tông đồ là môn đệ của Người cũng được Người thông ban cho quyền năng cứu chữa của Người và như Người, một quyền năng cứu độ nhân loại mà thành phần luật sĩ và biệt phái lãnh đạo tinh thần của dân chúng không thể nào có được.

3- Tinh thần rao giảng - Tin tưởng: "Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Các con chớ mang vàng bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc, vì thợ thì đáng được nuôi ăn". Vì sứ vụ rao giảng của các tông đồ được Chúa Kitô trao cho thì đó là việc của Người làm qua các vị, hơn là chính công việc "của" các vị, nên các vị không cần phải lo toan những gì phụ thuộc liên quan đến bản thân của các vị, mà chỉ cần lưu ý đến những gì trực tiếp liên quan đến sứ vụ rao giảng của các vị. Nếu cần sử dụng đến các phương tiện trần gian thì không lệ thuộc chúng và tin vào chúng, cũng như vào chính bản thân mình và tài năng của mình.

4- Thái độ rao giảng - Khách quan vô tư: "Nếu ai không tiếp rước các con và không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi nhà hay thành ấy và giũ bụi chân các con lại". Tất nhiên, ở đâu cũng thế, với ai cũng vậy (kể cả với chính Chúa Kitô), có người ủng hộ, tin tưởng, và có người coi thường, không ưa. Phần các tông đồ, sau khi đã hết sức chu toàn sứ vụ rao giảng của mình đúng như những gì Chúa Kitô mong muốn mà vẫn không gặt hái được thành quả mong muốn thì hãy cứ bình an, không cần phải lo gì hết, các vị không phải chịu trách nhiệm ("giũ bụi chân") về những ai không nghe. Ở đây Chúa Giêsu còn muốn nói rằng các vị thừa sai cần phải sống chung với dân chúng, cần phải xông mùi chiên nữa mới được.

Việc Thiên Chúa tỏ hết mình ra cho dân của Ngài qua Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô Thiên Sai, và qua cả thành phần môn đệ tông đồ thừa sai của Người, chứng tỏ Ngài yêu thương dân Ngài biết bao và như thế nào, bất chấp khuynh hướng bất trung và hành động ngoại tình của họ với tà thần ngẫu tượng trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, miễn là họ nhận biết tình yêu nhưng không, vô đối và vô cùng bất tận của Ngài đối với họ, một dân tộc như thể bất khả thiếu đối với Ngài, mà trở về với Ngài. Qua miệng Tiên Tri Hôsêa, qua Bài Đọc I hôm nay, Ngài đã bày tỏ tình yêu của Ngài với dân của Ngài như sau:

"Lúc Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương nó, và Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập. Ta đã dưỡng nuôi Ephraim, Ta đã bồng chúng trên cánh tay Ta mà chúng không biết Ta chăm sóc chúng. Ta đã dùng dây êm ái và mối yêu thương mà tập (cho) chúng đi; Ta đối xử với chúng như người dưỡng nuôi trẻ thơ, Ta đã ấp yêu chúng vào má. Ta nghiêng mình trên chúng và đút cho chúng ăn. Quả tim Ta thổn thức trong Ta và ruột gan Ta bồi hồi. Ta sẽ không buông thả theo cơn giận của Ta. Ta sẽ không huỷ diệt Ephraim, vì Ta là Thiên Chúa chứ không phải người phàm; Ta là Ðấng Thánh ở giữa ngươi, Ta không thích tiêu diệt".

 

Chính vị cảm nhận được tình yêu tuyệt vời của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình mà Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay đã cảm nhận nguyện xin, chẳng những ở câu họa: "Lạy Chúa, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống", mà còn ở cả 2 câu xướng nữa:

 

1) Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các vệ binh thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin tỉnh thức quyền năng của Chúa.

2) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại; tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy; bảo vệ ngành nho mà tay Ngài đã củng cố cho mình.

 

 

Ngày 11/7 là Lễ Thánh Biển Đức - Đệ Nhất Thánh Quan Thày của Âu Châu

Men Saint Icons: St. Benedict Icon | Monastery Icons

Chào đời quãng năm 480 tại Noóc-xi-a (Um-ri-a), sau một thời gian theo học ở Rô-ma, Biển-đức rút lui vào một hang ở Xu-bi-a-cô và bắt đầu sống đời ẩn sĩ, chiêu mộ các đồ đệ rồi chuyển đến Mon-tê Cát-xi-nô. Tại đây, người lập một đan viện thời danh, chính người soạn tu luật cho đan viện. Sau này tu luật mang tên người được phổ biến khắp châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống đan tu ở phương Tây”. Người qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547. Từ cuối thế kỷ VIII, người đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7. Ngày 24 tháng 10 năm 1964, đức giáo hoàng Phao-lô VI ra tông thư “Sứ giả hoà bình” (Pacis nuntius), đặt người làm bổn mạng toàn châu Âu.

Tuyệt đối không coi gì trọng hơn Đức Ki-tô

Trích tu luật của thánh Biển-đức, viện phụ.

Tiên vàn, bạn hãy đem lời khẩn cầu tha thiết mà xin Thiên Chúa hoàn thành bất cứ công việc tốt lành nào bạn đã khởi sự, ngõ hầu Đấng đã thương kể chúng ta vào số các con cái Người, sẽ không lúc nào phải phiền lòng vì những hành vi xấu xa của chúng ta. Thật vậy, trong mọi lúc, chúng ta phải dùng các ơn lành Thiên Chúa đã ban để phục vụ Người. Như thế, Thiên Chúa sẽ không như một người cha nổi giận truất quyền thừa kế của con cái. Người cũng không như một ông chủ đáng sợ, bực tức vì các việc xấu xa chúng ta đã làm mà bắt chúng ta phải chịu hình khổ đời đời như những tên đầy tớ gian ác nhất đã không muốn đi theo Người vào chốn vinh quang.

Vậy chúng ta hãy trỗi dậy như Kinh Thánh đã từng thúc giục chúng ta : Đã đến lúc anh em phải thức dậy. Chúng ta hãy mở đôi mắt đón nhận ánh sáng thần hoá, hãy lắng tai nghe tiếng Thiên Chúa vẫn hằng ngày nhắc nhở : Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa. Người phán : các ngươi chớ cứng lòng. Và lời khác nữa : Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh.

Thần Khí nói gì ? Các con ơi, hãy đến mà nghe, Ta sẽ dạy cho biết đường kính sợ Chúa. Hãy nhanh chân bao lâu các con còn có ánh sáng của sự sống, kẻo bóng tối bắt chợt các con.

Khi đến giữa đoàn dân đông đảo để đi tìm thợ, Chúa còn nói thêm : Ai là người thiết tha được sống, ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc chứa chan. Nghe như thế, bạn hãy thưa lại : Dạ, con đây ! Chúa bảo bạn : Nếu con muốn được sống đời sống thật và vĩnh cửu, con phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa, hãy làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà. Khi các con làm như vậy, Ta sẽ để mắt nhìn các con và sẽ lắng tai nghe lời các con cầu nguyện. Và trước cả khi các con kêu cầu Ta, Ta sẽ đáp lại : Này Ta đây !

Anh em thân mến, còn gì dịu ngọt đối với chúng ta hơn là tiếng nói của Chúa đang mời gọi ta ? Bạn thấy đó, vì yêu thương, Người chỉ cho chúng ta con đường đưa tới sự sống.

Vậy chúng ta hãy lấy đức tin và các việc lành làm đai thắt lưng, và nhờ Tin Mừng hướng dẫn, hãy tiến bước trong đường lối của Chúa, để một ngày kia chúng ta đáng được nhìn thấy Chúa là Đấng đã gọi chúng ta vào vương quốc của Người. Nếu muốn có một chỗ ở trong vương quốc ấy, chúng ta phải ra công làm việc lành phúc đức thì mới mong đạt được.

Nếu có một thứ nhiệt thành xấu xa chua chát làm xa cách Chúa và dẫn đến hoả ngục, thì cũng có một lòng nhiệt thành tốt đẹp làm xa rời thói xấu, dẫn đến cùng Thiên Chúa và sự sống đời đời. Vậy các đan sĩ phải lấy hết lòng yêu mến nồng nàn mà luyện tập lòng nhiệt thành tốt đẹp này, nghĩa là người này coi người khác trọng hơn mình ; phải hết sức kiên nhẫn chịu đựng những yếu đuối của nhau, về thể xác hoặc về tinh thần ; phải thi đua vâng lời nhau, đừng ai tìm kiếm điều mình xét thấy là lợi ích cho mình, nhưng nhắm lợi ích cho người khác thì hơn ; phải thực thi tình bác ái huynh đệ trong sáng ; phải đem lòng yêu mến mà kính sợ Chúa ; phải đem lòng bác ái chân thành và khiêm tốn mà yêu mến viện phụ của mình ; phải tuyệt đối không coi gì trọng hơn Đức Ki-tô, Đấng muốn dẫn đưa chúng ta đến hưởng sự sống đời đời.

Xướng đáp

XGiã từ cha, không màng chi gia sản, chỉ ôm ấp trong lòng một nỗi đam mê là làm vui lòng Chúa, Biển-đức dấn thân vào cuộc đời chiêm niệm

Đvà trong nơi thanh vắng, người sống dưới cái nhìn của Đấng thấu suốt những gì bí ẩn.

XNgười rút lui khỏi thế giới loài người, giàu sang danh vọng không ham, mánh khoé mưu mô chẳng thiết.

Đvà trong nơi thanh vắng, người sống dưới cái nhìn của Đấng thấu suốt những gì bí ẩn.

Lạy Chúa, Chúa đã đặt thánh viện phụ Biển-đức làm tôn sư lỗi lạc dạy những ai muốn hiến thân phục vụ Chúa, xin cho chúng con hằng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, để tâm hồn được thảnh thơi mà rảo bước trên con đường theo Chúa. Chúng con cầu xin



Xin m
ời mở bài Giáo Lý Tông Truyền 70, ngày 19/4/2008, của ĐTC Biển Đức XVI, ở cái link dưới đây:

Thánh Biển Đức Tổ Phụ Đan Tu Tây Phương  


Thứ Sáu


Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 14, 2-10

"Chúng tôi sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra".

Trích sách Tiên tri Hôsê.

Ðây Chúa phán: "Hỡi Israel, hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa ngươi, vì ngươi đã gục ngã trong đường tội ác. Các ngươi hãy mang lời Chúa và trở về với Chúa; các ngươi hãy thưa rằng: 'Xin hãy xoá bỏ mọi tội ác, và nhận điều lành. Chúng tôi dâng lên Chúa của lễ ca tụng. Assurô sẽ không giải thoát chúng tôi; chúng tôi sẽ không cỡi ngựa và sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra, vì nơi Chúa, kẻ mồ côi tìm được sự thương xót'.

"Ta sẽ chữa sự bất trung của họ và hết lòng yêu thương họ, vì Ta đã nguôi giận họ. Ta sẽ như sương sa, Israel sẽ mọc lên như bông huệ, và đâm rễ như chân núi Liban. Các nhánh của nó sẽ sum sê, vẻ xinh tươi của nó như cây ôliu và hương thơm của nó như hương thơm núi Liban. Thiên hạ sẽ đến ngồi núp dưới bóng mát của nó, họ sống bằng lúa mì và lớn lên như cây nho. Nó sẽ được lừng danh như rượu Liban.

"Hỡi Ephraim, tượng thần giúp ích gì cho ngươi không? Chính Ta sẽ nhậm lời và săn sóc ngươi, cho ngươi mọc lên như cây hương nam xinh tươi. Nhờ Ta, ngươi sẽ sinh hoa kết quả. Ai là người khôn ngoan hiểu được các việc này, ai là người sáng suốt biết được các việc đó? Vì chưng đường lối của Chúa là đường ngay thẳng và những người công chính sẽ đi trên đó, còn các người gian ác sẽ gục ngã trên đó".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 8-9. 12-13. 14 và 17

Ðáp: Miệng con sẽ loan truyền lời ca khen Chúa (c. 17b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi; xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Nhưng Chúa ưa sự thật trong tâm khảm, và trong đáy lòng, Chúa dạy con điều khôn. Xin dùng cành hương thảo rảy con thanh khiết; xin tẩy rửa cho con được hơn tuyết trắng tinh. - Ðáp.

3) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

4) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy vào Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 16-23

"Không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.

"Anh sẽ đem nộp giết em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại với cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến".

Ðó là lời Chúa.

 

Prepared to Preach Despite Persecution | Life of Jesus 

 

 

sự sống trốn chạy


 

Tiếp tục bài huấn dụ sai đi của mình với các tông đồ, nếu trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu nói đến mặt phải của sứ vụ thừa sai tông đồ, thì trong bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XIV Thường Niên tuần này, Chúa Giêsu nói đến mặt trái của sứ vụ ấy, liên quan đến số phận gian nan khốn khổ bất khả phân ly với sứ vụ chứng nhân của các vị. 


"Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết". 

 

 

Nếu "rắn" tiêu biểu cho ma quỉ tinh quái cám dỗ, như trong vườn địa đường, và nếu "bồ câu" tiêu biểu cho Thánh Linh, như trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa ở Sông Dược Đăng, thì "khôn như rắn" đây có nghĩa là hãy tỉnh thức đề phòng các mưu chước quỉ quyệt của ma quỉ, và "chân thật như bồ câu" đây nghĩa là hãy đơn sơ dễ dậy với Thánh Linh, vì không theo tác động của Thánh Linh, con người không thể nào chiến thắng ma quỉ tinh khôn hơn con người rất nhiều.

 

 

Nguyên tắc "khôn như rắn, chân thật như bồ câu" này có thể được áp dụng ngay trong Bài Phúc Âm hôm nay, ở 2 điều: 1- "khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì"; 2- "Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác".


Thế nhưng, Chúa Giêsu đồng thời cũng trấn an các vị với 3 điều để các vị có thể tin tưởng chống đỡ, khôn ngoan tồn tại cho đến khi hoàn thành sứ vụ của các vị như sau:


"Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.... Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến".


Điều thứ nhất trong 3 điều này đó là tin tưởng chống đỡ: "khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con". Đúng thế, vì là việc của Thiên Chúa, Ngài sẽ lo việc của Ngài và bảo vệ thành phần thừa sai của Ngài, nhất là trong những lúc chúng từ của họ lên đến mức tột đỉnh và hùng hồn nhất.

 

 

Ở đây Chúa Kitô khuyên các tông đồ hãy lợi dụng chính lúc gian nan khốn khó nhất của mình để làm chứng về Người, để cho thấy rằng "bóng tối không thể át được ánh sáng" (Gioan 1:5), vì quyền lực trần gian chính là đối tượng, như một Philatô, cần phải được sự thật giải phóng trước hết và trên hết (xem Gioan 8:32). Và số phận chứng nhân tông đồ của các ngài không thể tách lìa với bách hại vì danh Người, như chính Người cũng đã bị như thế, và càng như thế lại càng nên giống Người, và càng cho thấy họ là chứng nhân đích thực của người.


Điều thứ hai trong ba điều đó là khôn ngoan tồn tại: "Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác". Ở đây Chúa Giêsu cho phép các tông đồ được trốn tránh những bách hại xẩy ra, không phải vì sợ chết cho bằng vì lợi ích cho chung đoàn chiên, không phải vì liều lĩnh cho bằng quí trọng mạng sống. Chính Chúa Giêsu mấy lần cũng tự thoát khỏi tay những kẻ tìm bắt Người khi chưa tới giờ của Người (xem Luca 4:30; Gioan 8:59).


Điều thứ ba trong ba điều đó là hoàn thành sứ vụ: "Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến". Câu này có thể Chúa Giêsu ám chỉ đến Cuộc Vượt Qua của Người hơn là đến việc Người tái giáng lần thứ hai. Nghĩa là các tông đồ chưa rao giảng xong cho thành phần "chiên lạc của Nhà Israel" thì đã đến thời điểm các vị cần phải theo Người lên Giêrusalem, nơi Người 3 lần đã tiên báo cho các vị về số phận kết thúc của Người ở đó. Câu này cũng có thể ám chỉ như thế này: cho dù Chúa Kitô đã hoàn tất vai trò Thiên Sai Cứu Thế của mình để cứu cả nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết mà riêng dân Do Thái của Người vẫn chưa tin vào Người... "cho tới khi đủ số dân ngoại" (Roma 11:25-26).

 

 

Đúng thế, việc các vị môn đệ thừa sai tông đồ được Chúa Kitô sai đi rao giảng cho "chiên lạc nhà Israel" chỉ là việc dọn đường cho Người mà thôi, chứ không phải là chính việc cứu độ con người. Bởi thế, cho dù các vị có hoàn thành sứ vụ của mình trên khắp đất nước Do Thái chăng nữa, thì vẫn phải tiến đến tột đỉnh của mạc khải thần linh là cuộc Vượt Qua cứu độ của Chúa Kitô, một cuộc Vượt Qua cứu độ chẳng những cho riêng dân Do Thái là thành phần "chiên lạc Nhà Israel" mà còn chung cho cả nhân loại (bao gồm tất cả dân ngoại không phải dân Do Thái nữa), nhưng qua môi giới dân Do Thái, một sự thật đã được chính Thiên Chúa tiên báo trong lời hứa với tổ phụ Abraham (xem Khởi Nguyên 22:18), cũng như qua miệng Tiên Tri Hôsêa trong Bài Đọc I hôm nay:

 

"Ta sẽ chữa sự bất trung của họ và hết lòng yêu thương họ, vì Ta đã nguôi giận họ. Ta sẽ như sương sa, Israel sẽ mọc lên như bông huệ, và đâm rễ như chân núi Liban. Các nhánh của nó sẽ sum sê, vẻ xinh tươi của nó như cây ôliu và hương thơm của nó như hương thơm núi Liban. Thiên hạ sẽ đến ngồi núp dưới bóng mát của nó, họ sống bằng lúa mì và lớn lên như cây nho. Nó sẽ được lừng danh như rượu Liban".

 

Chính dân Do Thái của Thiên Chúa, dù được đặc tuyển duy nhất giữa muôn dân, mà nhất là dù được trở thành môi giới hay môi trường cho ơn cứu độ của Thiên Chúa thông ban cho chung loài người, chính họ cũng cần phải nhận biết Thiên Chúa mới được rỗi, chứ không phải đã là người Do Thái, người thuộc về thành phần dân được đặc tuyển của Thiên Chúa là tự nhiên được cứu độ, nếu không tỏ ra xứng đáng với lòng thương xót vô cùng bất tận của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất hằng tỏ mình ra trong giòng lịch sử cứu độ của họ, thành phần cũng liên lỉ bất trung với Ngài, nhưng cũng biết ăn năn sám hối về lỗi lầm của mình và van xin cùng Ngài, như tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay:

 

 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi; xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.

2) Nhưng Chúa ưa sự thật trong tâm khảm, và trong đáy lòng, Chúa dạy con điều khôn. Xin dùng cành hương thảo rảy con thanh khiết; xin tẩy rửa cho con được hơn tuyết trắng tinh.

3) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.

4) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen.

 

 


Thứ Bảy


Bài Ðọc I: (Năm II) Is 6, 1-8

"Lưỡi tôi nhơ bẩn, mắt tôi trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Năm vua Ozias băng hà, tôi nhìn thấy Thiên Chúa ngự trên ngai cao, và đuôi áo của Người phủ đền thờ. Các Thần Sốt Mến đứng trước mặt Người, mỗi vị có sáu cánh: hai cánh che mặt, hai cánh phủ chân và hai cánh để bay. Các vị đó luân phiên tung hô rằng: "Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy vinh quang Chúa!" Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và Ðền thờ đầy khói.

Tôi nói rằng: "Vô phúc cho tôi, tôi chết mất! Vì lưỡi tôi nhơ bẩn, mắt tôi trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh". Nhưng lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến bay đến tôi, tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp gắp từ trên bàn thờ. Ngài đặt than lửa vào miệng tôi và nói: "Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi ngươi được xoá bỏ, tội của ngươi được tha thứ". Và tôi nghe tiếng Chúa phán bảo: "Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho Chúng Ta?" Tôi liền thưa: "Này con đây, xin hãy sai con".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 92, 1ab. 1c-2. 5

Ðáp: Chúa làm Vua, Ngài đã mặc thiên oai (c. 1a).

Xướng: 1) Chúa làm Vua, Ngài đã mặc thiên oai, Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. - Ðáp.

2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở; tự đời đời vẫn có Chúa. - Ðáp.

3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin; lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 24-33

"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.

"Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.

"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời".

Ðó là lời Chúa.


Lc 10: 1-9 - GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG

sự sống bất khuất


Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XIV Thường Niên, Chúa Giêsu tiếp tục huấn từ sai đi của Người với 12 tông đồ. Người tiếp tục bằng những lời trấn an các vị: "đừng sợ", sau khi đã tỏ cho các vị biết về số phận đầy gian nan khốn khổ của thành phần thừa sai như các vị trong bài Phúc Âm hôm qua.

"Đừng sợ" những ai chụp mũ xuyên tạc cho mình: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Belzebul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó".

"Đừng sợmới có thể rao giảng làm chứng: "Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà".

Ở đây Chúa Giêsu muốn nói đến sức mạnh vô địch của sự thật, một sự thật có sức giải phóng con người (xem Gioan 8:32), một "sự thật" cho dù có bị che giấu hay đè nén cuối cùng cũng được "thổ lộ". Bởi thế, Chúa Giêsu đã khuyên dạy các tông đồ rằng: "điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà".

Phải chăng "điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng" đây có nghĩa là những gì linh hồn Kitô hữu biết được qua đêm tối tăm đức tin như một cảm nghiệm thần linh, một xác tín siêu nhiên, cần phải loan truyền một cách trung thực như "nói nơi ánh sáng" hay "giữa ban ngày", "và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà" có nghĩa là những gì Kitô hữu cảm nhận được khi lắng đọng tâm hồn cầu nguyện, hay bất ngờ được tỏ cho biết về ý nghĩa của mạc khải Thánh Kinh, thì hãy mang tuyên bố công khai như "trên mái nhà"?

"Đừng sợ" thậm chí cả những ai sát hại mạng sống của mình: "Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần".

Ở đây Chúa Giêsu đã khôn khéo sử dụng những thí dụ cụ thể để chẳng những trấn an các môn đệ "đừng sợ" mà còn củng cố lòng tin tưởng của các vị nữa, bằng cách so sánh giá trị trổi vượt của các vị với loài chim, cũng như bằng hình ảnh tóc trên đầu rụng xuống, cả hai đều được Thiên Chúa quan phòng thần linh lưu ý, dù chúng chẳng là gì như sợi tóc rụng xuống hay chắng đáng gì như giá của 2 con chim sẻ.   

"Đừng sợ" mới có thể tuyên xưng đức tin: "Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời".

"Đừng sợ" còn áp dụng cả cho trường hợp của Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay, khi vị tiên tri này "nhìn thấy Thiên Chúa ngự trên ngai cao, và đuôi áo của Người phủ đền thờ. Các Thần Sốt Mến đứng trước mặt Người, mỗi vị có sáu cánh: hai cánh che mặt, hai cánh phủ chân và hai cánh để bay. Các vị đó luân phiên tung hô rằng: 'Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy vinh quang Chúa!' Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và Ðền thờ đầy khói", thì tự nhiên cảm thấy: "Vô phúc cho tôi, tôi chết mất! Vì lưỡi tôi nhơ bẩn, mắt tôi trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh".

Nhưng chính vị Thiên Chúa vô cùng uy nghi cao cả vĩ đại mà vị tiên tri này chiêm ngưỡng thấy đó đã biết được tất cả sự thật nơi con người mà Ngài đã tuyển chọn và sai đi làm tiên tri cho Ngài, nên, trước khi sai con người ấy đi, Ngài chẳng những đã cho con người này thị kiến thấy chính Ngài, mà còn sai thiên thần của Ngài đến thanh tẩy con người ấy cho xứng đáng với vai trò tiên tri được Ngài trao cho nữa. Bởi thế mà "lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến bay đến tôi, tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp gắp từ trên bàn thờ. Ngài đặt than lửa vào miệng tôi và nói: 'Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi ngươi được xoá bỏ, tội của ngươi được tha thứ'. Và tôi nghe tiếng Chúa phán bảo: 'Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho Chúng Ta?' Tôi liền thưa: 'Này con đây, xin hãy sai con'".

Vị tiên tri của Bài Đọc 1 hôm nay vì được chính Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi, nên được Ngài trang bị cho xứng với vai trò ngôn sứ của một vị Thiên Chúa uy nghi cao cả và làm chứng cho vị Thiên Chúa là Đấng Tối Cao này, vị Thiên Chúa được Bài Đáp Ca hôm nay chúc tụng ngợi khen như sau:


1) Chúa làm Vua, Ngài đã mặc thiên oai, Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai.

2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở; tự đời đời vẫn có Chúa.

3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin; lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn đời.

 




Ngày 13/7 - Thánh Henry II

 

Thánh Henri II, hoàng đế

 

 

Chuyện về cuộc đời thánh Henry II kể lại rằng[1]:  Thánh Henry II sinh năm 972 tại Đức. Năm 23 tuổi (995) ngài trở thành công tước miền Bavaria. Một đêm kia, Henry nằm mộng. Henry thấy thánh Wolfgang (Vót-cang), là thầy giáo rất yêu chuộng của Henry thời thơ ấu, hiện ra với ngài. Wolfgang chỉ tay vào hai chữ “sau sáu” được viết trên bức tường. Henry tự hỏi điều đó có ý nghĩa gì? Có lẽ sáu ngày nữa Henry sẽ chết chăng? Sau sáu ngày hết lòng cầu nguyện và sám hối, Henry vẫn sống. Vậy là sáu tháng chăng? Henry lại tận tụy hết mình làm những việc thiện hơn bao giờ hết. Sau sáu tháng, Henry II càng mạnh khỏe hơn trước kia. Vậy là chỉ còn sáu năm để sống ở trần gian này nữa chăng? Thế nhưng, sáu năm trôi qua, thay vì qua đời, thánh Henry II lại được chọn làm hoàng đế nước Đức. Lúc đó, thánh nhân mới hiểu được toàn bộ ý nghĩa của thị kiến trước đây…

Năm 42 tuổi (1014), Henry II và hoàng hậu đến Roma và được phong vương cai trị Rôma. Cả đức vua lẫn hoàng hậu được chính đức thánh cha Bênêđictô VIII đội vương miện cho. Phải nói rằng, vua Henry II là một trong những nhà lãnh đạo tài giỏi vào bậc nhất của Rôma. Đối với thần dân, ngài ra công làm việc để giúp họ an vui hiệp nhất, ngài hết mực sống công bình, công tâm và luôn yêu cầu các tướng sĩ của ngài phải biết quý trọng danh dự. Đối với Giáo hội, ngài lưu tâm đến việc canh tân Giáo hội, xây dựng nhiều đại giáo đường, cải tạo nhiều nhà thờ, lập thêm các tòa giám mục, ngài tỏ lòng yêu mến đối với Chúa Giêsu và Giáo hội bằng tấm lòng chân thành. Đối với bản thân, ngài là một người năng cầu nguyện và rất ham mộ đời sống đạo đức. Đối với gia đình, ngài đã thực hiện vai trò làm chồng với đầy lòng quảng đại và trách nhiệm. Ngày 13/7/1024, Henry II qua đời lúc 52 tuổi.

Nhận ra dấu chỉ của Chúa để thay đổi cuộc đời hướng đến phục vụ Chúa và Hội thánh đó là điều quan trọng thiết yếu của đời sống. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với người trẻ rằng: “Ơn gọi bản thân của riêng các bạn không chỉ hệ tại ở việc làm của các bạn, mặc dù đó là một cách biểu hiện. Ơn gọi của các bạn là một điều gì hơn điều đó nhiều: đó là một nẻo đường hướng dẫn nhiều nỗ lực và hành động của các bạn đối với việc phục vụ người khác.”[2]
 Thánh Henry II đã làm được điều này. Từ khi nhận được dấu chỉ, ngài đã ân cần chăm lo cho Hội thánh mới thiết lập được bình an và yên ổn, ngài “đặt lợi lộc trần gian xuống hàng thứ yếu, để cố đạt được nơi vĩnh cửu ở trên trời. Thật vậy, vinh quang hiện tại thật là mau qua và phù phiếm mà một khi hưởng thụ, người ta không còn nghĩ tưởng gì đến sự vĩnh cửu trên trời. Nhưng tình thương Chúa đã tiên liệu một phương dược hữu ích cho con người: Người ban cho chúng tôi của cải trần gian làm phương thế mua lấy một chỗ ở trên quê trời.”[3]

Phải nhìn nhận rằng, nhiều khi chúng ta và đặc biệt là các người trẻ tự cảm thấy mình chưa được trang bị đầy đủ và thích hợp cho việc đáp trả lại các dấu chỉ của Chúa, cả về phương diện kỹ năng lẫn phương diện phẩm chất đức hạnh. Chúng ta thường e sợ và lo ngại. ĐTC Phanxico cũng đã nói với những người trẻ: “Hỡi những người trẻ, các con là hiện tại, vì các con sống tích cực, cống hiến một sự đóng góp quyết định và quảng đại bởi sự lựa chọn của các con; đồng thời các con cũng là tương lai, vì sắp tới các con sẽ được mời gọi nắm giữ việc hướng dẫn linh hoạt, huấn luyện, phục vụ, và công tác truyền giáo… Trong tình hiệp thông huynh đệ, các con sẽ làm cho mình nên phong phú…, góp phần mở tung ra sự tươi mát và hăng say của các con, cùng nhau đưa ra các hình thức mới để sống Phúc Âm và các câu trả lời thích hợp cho việc chứng tá và loan báo Tin Mừng.

Nhờ lời chuyển cầu của thánh Henry II, xin Chúa cho chúng con nhìn ra và đáp lại tiếng Chúa qua các dấu chỉ Chúa gởi đến cho chúng con hằng ngày.

Henry đệ nhị tài ba
Làm vua nước Đức khi là quận công.
Hồng ân Thiên Chúa nhưng không,
Phong vương cho kẻ một lòng tín trung.
Rôma đế quốc trùng phùng
Trung tâm Giáo hội oai hùng thánh đô
Phong ba bão táp vô bờ
Tuy nhiên, được vững cũng nhờ Henry
Kỷ cương đạo đức ai bì
Dựng xây Nước Chúa không gì lung lay
Gương cho người trẻ ngày nay
Quyền hành giàu có chẳng lay tâm hồn
Một lòng vì Chúa chí tôn
Đời nay hạnh phúc, trường tồn đời sau. Amen


 
 
[1] Susan Helen Wallace, FSP. Các thánh dành cho bạn trẻ ngày 13/7, Đa Minh M. Nguyễn Phúc Lộc, CMC chuyển ngữ.
http://tinmung.net/CACTHANH/DanhChoBanTre/CacThanhBanTreINDEX.htm
[2] Đức Thánh Cha Phanxico, Tông huấn Christus Vivit, số 255.
[3] Trích hạnh thánh Henry của một tác giả xưa. Bđ 2, BĐKS ngày 13/7.

 

http://daminhrosalima.net/phut-cau-nguyen-moi-ngay/ngay-137---thanh-henry-ii-29484.html

 

 

Thánh Henry II sinh năm 972. Ngài trở thành công tước miền Bavaria năm 995. Một đêm kia, Henry nằm mộng. Henry thấy thánh Wolfgang, là thầy giáo rất yêu chuộng của Henry thời thơ ấu, hiện ra với ngài. Wolfgang chỉ tay vào hai chữ “sau sáu” được viết trên bức tường. Điều đó có ý nghĩa gì? Có lẽ sáu ngày nữa Henry sẽ chết chăng? Nghĩ như vậy nên ngài đã cầu nguyện hết sức tha thiết. Tuy nhiêu, sáu ngày trôi qua và sức khỏe Henry vẫn tốt đẹp. Vậy có lẽ là sáu tháng chăng? Vị công tước Bavaria lại tận tụy hết mình làm những việc thiện hơn bao giờ hết. Sau sáu tháng, Henry II vẫn mạnh khỏe hơn cả trước kia nữa. Vậy Henry II lại nghĩ rằng ngài chỉ còn sáu năm để sống ở trần gian này nữa thôi. Thế nhưng sáu năm trôi qua, thay vì qua đời, thánh Henry II lại được chọn làm hoàng đế nước Đức. Lúc đó, thánh nhân mới hiểu được toàn bộ ý nghĩa của thị kiến trước đây.

Thánh Henry II đã ra công làm việc để giúp cho thần dân của ngài được an vui và đất nước được hiệp nhất. Để bảo vệ sự công bình, Henry II đã tổ chức nhiều cuộc chinh chiến. Trong các trận chiến, Henry II rất có công tâm và ngài cũng yêu cầu các tướng sĩ của ngài phải biết quý trọng danh dự. Khoảng năm 998, Henry II kết hôn với một phu nhân hiền lành và dễ thương tên là Cunêgun. Đến năm 1014, Henry II và Cunêgun sang Rôma và được phong vương cai trị Rôma. Đó là một vinh dự lớn lao vì cả đức vua lẫn hoàng hậu được chính đức thánh cha Bênêđictô VIII đội vương miện cho.

Vua Henry II là một trong những nhà lãnh đạo tài giỏi nhất của Rôma. Ngài đã đề đạt việc canh tân Giáo hội, khuyến khích phát triển những tu viện mới thành lập và xây cất nhiều ngôi thánh đường nguy nga tráng lệ. Henry II bày tỏ lòng yêu mến đối với Chúa Giêsu và Giáo hội bằng tấm lòng chân thành. Thánh nhân là một người năng cầu nguyện và rất ham mộ đời sống đạo đức. Ngài đã thực hiện vai trò làm chồng và làm người lãnh đạo với đầy lòng quảng đại và trách nhiệm. Khi qua đời năm 1024, Henry II mới 52 tuổi. Đến năm 1146, Henry II được đức chân phước giáo hoàng Êugiêniô III tôn phong hiển thánh. Đức thánh giáo hoàng Piô X đã đặt vua thánh Henry II làm bổn mạng của các hội viên sống tinh thần thánh Bênêđictô. 

Thiên Chúa mời gọi mọi người, trong mọi nghề nghiệp và mọi lãnh vực của đời sống, nên thánh. Đừng ai nghĩ rằng mình quá bận rộn hoặc quá quan trọng đến nỗi không thể đặt Thiên Chúa lên trên đời sống của mình. Thật ra, khi Thiên Chúa được đặt lên trên hết, thì mọi thứ khác sẽ tự có chỗ cho riêng nó. Đối với chúng ta, Thiên Chúa phải được đặt ở vị thế ưu tiên số một.

Biên dịch: Đa Minh M. Nguyễn Phúc Lộc, CMC

http://mtgcaimon.net/mtgnews/index.php/suy-niem/hanh-cac-thanh/4493-ngay-13-thang-7-thanh-henry-ii.html

 

Gương Thánh nhân: Thánh Hen-ri sinh năm 973, nước Đức, thuộc gia đình vương giả quý tộc. Lớn lên, Ngài được Đức Giám mục giáo phận Ra-tít-bon giáo dục đạo đức, và đã khấn giữ mình đồng trinh cho đến chết.

Nhưng cha mất sớm, Thánh nhân phải thay cha làm vua miền Ba-vi-ê. Ngài phải vâng lời mẹ lập gia đình. Nhưng Chúa quan phòng hướng dẫn Ngài cưới cô Cu-nê-gon-đa, một thiếu nữ xinh đẹp cả thể xác lẫn tâm hồn, chính cô cũng đã hứa với Chúa sống đời độc thân. Thế là cả hai sống với nhau như bạn thân cho đến chết.

Thánh nhân làm vua, cai trị nước Đức cả nước Ý, và được Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô thứ 8 tấn phong hoàng đế vào năm 1014. Ngài là một vị hoàng đế thông minh nhân đức, tính tình hiền hậu nhân ái, được toàn dân quý mến kính chuộng. Công việc trước tiên Ngài thực hiện là tái lập trật tự an ninh, công bằng xã hội, cho người dân được an cư lạc nghiệp. Ngài đi khắp nước dẹp loạn, chống áp bức bất công; đến đâu Ngài cũng tìm gặp những người nghèo khổ, kẻ thất nghiệp, giải quyết công ăn việc làm cho họ.

Và mặc dầu việc nước đa đoan. Thánh nhân cũng hết lòng lo giúp việc đạo. Ngài chọn những người tài đức lên làm Giám mục cai quản các giáo phận trong khắp cả nước Ý và nước Đức, đồng thời thành lập thêm nhiều giáo phận mới, mở mang Giáo hội, canh tân các dòng tu, xây dựng Thánh đường, như lời một tác giả đã viết về Ngài:

“Khi người tôi tớ thánh thiện của Thiên Chúa được xức dầu làm vua, Ngài không lấy việc lo cho phần đời làm đủ, nhưng để được triều thiên bất tử, Ngài còn lo chiến đấu cho Vua Cả trời đất, vì phục vụ Người là cai trị vậy. Thế nên Ngài ân cần mở mang đạo thánh làm cho các nhà thờ có tư hữu và trang hoàng lộng lẫy các nhà thờ đó. Ngài lấy chính đất của mình mà lập toà Giám mục Bam-béc, chọn hai Thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô với Thánh Gio-gi-ô tử đạo làm bổn mạng cho toà Giám mục ấy, lập hợp đồng đặc biệt giữa toà Giám mục và Toà Thánh Rô-ma, để quy về cho ngôi toà độc nhất cái vinh dự như ý Chúa muốn, và để làm cho toà Giám mục mới nhờ sự bảo trợ ấy mà được vững chắc hơn”.

“Để cho mọi người thấy rõ người tôi tớ thánh thiện của Chúa đã lo lắng đến mức nào cho giáo phận mới nầy được bình an và êm thắm, ngay cả trong tương lai nữa, thì chúng tôi xin trích dẫn mẫu thư dưới đây để làm bằng chứng:

“Hen-ri nhờ lòng từ ái quan phòng của Chúa mà được làm vua, xin gởi lời thăm tất cả con cái trong Hội thánh, bây giờ và sau nầy. Chúng ta được Kinh Thánh dạy dỗ và nhắc nhở bằng những giáo huấn hết sức tốt lành, là phải từ bỏ của cải phù vân và đưa các lợi ích trần gian nầy xuống hàng thứ yếu, để lo cho được nơi cư ngụ vĩnh viễn ở trên trời…”

“Thế nên trẩm không hề quên ơn thương xót đó, cũng hằng ý thức rằng: nhờ lương hải hà nhưng không của Chúa mà được vinh dự hoàng đế nầy. Và vì vậy, trẩm nghĩ các việc sau đây thật là hợp lý: Không những trẩm phải trang hoàng thêm cho các đền thờ mà các bậc tiên vương đã xây dựng, mà để sáng danh Chúa hơn, trẩm còn phải xây dựng thật nhiều đền thờ khác và công đức nhiều vào đó để bày tỏ lòng đạo đức và biết ơn”.

Thánh nhân qua đời ngày 13 tháng 7 năm 1024, sau khi đã tận lực phục vụ Thiên Chúa và đồng loại.

Quyết tâm: Noi gương Thánh Hen-ri, hằng ngày lo làm tròn bổn phận đối với gia đình, và quê hương xứ sở, đồng thời cũng hết lòng giúp việc Chúa và phục vụ Hội thánh Người.

Lời nguyện: Lạy Chúa, Cha đã ban cho Thánh Hen-ri được đầy tràn ân sủng và đưa Thánh nhân từ ngai báu trần gian lên hưởng vinh quang thiên quốc. Vì lời Thánh nhân chuyển cầu, xin ban cho chúng con giữa cuộc sống hay thay đổi nầy, biết giữ lòng trong sạch ngay thẳng, mà mau bước tiến về cùng Chúa.

GPVL

http://giaoxutanviet.com/13-thang-bay-thanh-henry-ii-972-1024/

Thánh Henri sinh năm 972. Cha Ngài là Henri bá tước xứ Bavière. Mẹ Ngài là Gisèle, con gái của Conrad, vua miền Bourgogne. Để bảo đảm cho việc giáo dục con cái, Ngài được mẹ giao phó cho các thầy dòng ở Mildeshim, miền Saxe, rồi sau đó cho thánh Wolfgang, giám mục Ratisbonne.

Nhưng thật rủi ro, trong một năm, Henri đã chịu hai cái tang cha và thầy.

Thánh Wolfgang từ trần ngày 30 tháng 10 năm 994 và vua Henri từ trần ngày 28 tháng 12 năm 994. Tuy nhiên ở bên kia thế giới các Ngài dường như không ngừng săn sóc Henri. Một truyền thuyết kể rằng: Henri đã mơ thấy thánh Wolfgang hiện ra viết trên tường nhà thờ hai chữ “còn sáu”. Tỉnh dậy, Henri nghĩ rằng mình chỉ còn sống được sáu ngày nữa. Ngài vội vã bố thí rộng rãi để chuẩn bị ra trước tòa Chúa. Nhưng rồi hạn định đã qua Henri vẫn sống. Vị bá tước nghĩ rằng Ngài còn sáu tháng để làm việc lành. Sáu tháng trôi qua Ngài vẫn sống. Lần này Ngài nghĩ thời hạn kéo dài 6 năm và cố gắng sống hoàn hảo hơn nữa. Sau 6 năm trong trường nhân đức ấy, Henri bỗng được chọn làm hoàng đế nước Đức -Roma.

Trước khi lên ngai hoàng đế, Henri đã kế vị người cha từ trần, lên làm bá tước miền Bavière. Các lãnh Chúa thân thiết với Ngài. Dân chúng cũng cảm mến Ngài sâu xa. Họ ao ước bá tước trẻ của mình lập gia đình. Nhưng Ngài đã hứa với Chúa sẽ sống độc thân. Vì vâng lời mẹ và dưới áp lực của các lãnh Chúa. Ngài nhận cưới Cunégonda, một thiếu nữ trong số 11 người con của công tước miền Luxembourg.

Nàng có sắc đẹp mặn mà và nhiều đức tính làm cho mọi người mến phục. Sau các lễ nghi cưới hỏi, lúc về chốn riêng tư, Henri mở lời với người bạn đời: – Em yêu, anh không muốn em không hay biết rằng anh đã thề với Chúa sẽ hiến dâng hồn xác phụng sự Ngài, và vì tình yêu Chúa Giêsu Kitô, anh muốn tiếp tục hoàn toàn.

Và Cunégonde vui sướng trả lời: – Chúa công của em, lời khấn hứa, em cũng đã hứa rồi. Thật hạnh phúc, chúng ta có thể trung thành với những ước nguyện của chúng ta.

Đó là đám cưới tinh tuyền của Henri và Cunégonde. Hoàng đế Henri lên ngôi và được Đức Giám mục thành Mayence xức dầu phong vương năm 1002. Mấy hôm sau hoàng hậu Cunégonde cũng được truy phong và đội triều thiên ở giáo đường Paderbonne. Với tính tình vui vẻ, bình dân và đầy lòng bác ái, hoàng đế rất được dân chúng mến chuộng. Nhưng đế quốc Đức – Roma lúc ấy đang thời suy vong và tình hình rất phức tạp. Vì thế việc đầu tiên của hoàng đế là lo giải hoà các cuộc tranh chấp. Trước hết, Ngài nhường quyền bá tước miền Bavière chi Henri, người Luxembourg.

Tuy nhiên có thể nói rằng: suốt đời hoàng đế, Ngài luôn phải lo vãn hồi trật tự trong đế quốc. Ngay khi lên ngôi hoàng đế, Ngài mang quân sang chinh phục đất Ý, là nơi Arduin tự phong làm vua, tách rời khỏi đế quốc. Dẹp tan đối phương ở biên giới, gần núi Alpes, Ngài đã được dân chúng tưng bừng đón rước. Đức Tổng Giám mục Milanô phong vương cho Ngài tại Pavie. Trở về nước Ngài lại phải đối phó với Boleslaw, xứ Balan. Mấy năm sau, Boleslaw bị quân nhà vua đánh tan và Jarômia lên quản trị xứ Balan.

Bất đắc dĩ, vua Henri mới phải dùng đến binh lực, nhưng Ngài luôn tỏ ra nhân từ. Chẳng hạn Hermann vì muốn tiếm ngôi, đã đốt phá thành Strabourg. Trước lời khuyên nên trả thù thành phố dung dưỡng Hermann, hoàng đế trả lời: – Thiên Chúa trao quyền tối thượng cho ta, không phải là mang đến quanh ta những sát nhân và cướp bóc, nhất là không phải để cho ta phải thiệt mất linh hồn.

Lời này đến tai Hermann và ông ta hối cải.

Hoàng đế Henri bảo vệ Đức giáo hoàng Bênêditô chống lại đức giáo hoàng giả. Nhờ Ngài. Đức giáo hoàng nghĩ tới một Giáo hội trần thế, đã trao cho Ngài một trái cầu bằng vàng có cắm thánh giá để biểu trưng quyền hạn trao phó của Ngài, lo cho vương quyền Chúa Kitô phổ biến khắp muôn dân. Trở lại quốc gia, Ngài vội lo dẹp loạn ở Lombardie. Rồi với nhiệt tình, Ngài đã viếng tu viện Cluny. Ơ đó cầu nguyện lâu ngày và tặng cho tu viện món quà của Đức giáo hoàng.

Hoàng đế sống trong cung điện như trong tu viện và chỉ nghĩ tới hòa bình và đức ái. Ngài góp phần cải hóa dân Hungarie bằng việc gả em gái mình cho vua thánh Stêphanô. Để gây thuận hòa giữa các dân tộc, Ngài thực hiện cuộc gặp gỡ vua Robert nước Pháp. Đối với Giáo hội, Ngài lo trùng tu các thánh đường, giúp đỡ các giám mục. Đặc biệt hơn cả, Ngài đã thành lập giáo phận Banberg và chính tại nhà thờ chính tòa giáo phận này Ngài sẽ được mai táng.

Trên ngôi hoàng đế, Ngài luôn trung thành với lý tưởng. Giữa muôn công việc bề bộn, Ngài luôn dành thời gian cho việc cầu nguyện. Tương truyền rằng ao ước lớn lao nhất của Ngài là được sống trong tu viện. Lần kia, Ngài tới thăm tu viện thánh Vanne ở Verdun. Ngài đã xin với chân phước Richasd, tu viện trưởng nhận Ngài làm tu sĩ. Đức Đan viện phụ nói rằng: chỗ an toàn của vị hoàng đế là ở trên ngai tòa hơn là ở trong tu viện. Khi thấy vị hoàng đế khẩn nài, Đức Đan viện phụ hỏi: – Ngài có sẵn sàng thực hiện đức vâng lời cho đến chết không ?

Hoàng đế Henri cương quyết trả lời : – Con sẵn sàng.

Đức Đan viện phụ liền nhận Ngài như một tu sĩ của dòng và nhân danh đức vâng lời, truyền cho Ngài cai quản đế quốc để hiến thân tìm vinh quang Chúa và ông cứu rỗi cho thần dân.

Ngày 15 tháng 7 năm 1024 hoàng đế Henri từ trần, ai khi đã dùng trọn sức lực để xây dựng một đế quốc theo tinh thần Kitô giáo. 

 

http://yeuthuongphucvu.com/2019/07/12/thanh-henri-973-1024-ngay-13-7/