SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Bài Ðọc I: Am 7, 12-15
"Hãy đi nói tiên tri cho dân Ta".
Trích sách Tiên tri Amos.
Trong những ngày ấy, Amasia (vị tư tế ở Bêthel) nói cùng Amos rằng: "Hỡi tiên tri, người hãy trốn sang đất Giuđa, sinh sống và nói tiên tri ở đó. Chớ tiếp tục nói tiên tri ở Bêthel, vì đó là thánh điện của vua và là đền thờ của vương quốc". Amos trả lời cùng Amasia rằng: "Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải là con của tiên tri, nhưng là đứa chăn bò (và chuyên) đi hái trái sung. Khi tôi đang đi theo đàn chiên, thì Chúa dẫn tôi đi và nói cùng tôi rằng: "Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 84, 9ab -10. 11-12. 13-14
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con (c. 8).
Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi. - Ðáp.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Tự mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.
3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái, đức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 1, 3-10 {hoặc 3-14}
"Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng đã chúc lành cho chúng ta bằng mọi phúc lành thiêng liêng trên trời, trong Ðức Kitô. Như Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài trong tình yêu thương.
Chiếu theo thánh ý Ngài, Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Ðức Giêsu Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài mà Ngài đã ban cho chúng ta được ơn cứu chuộc nhờ máu Người, được ơn tha tội theo sự phong phú của ân sủng Ngài. Ân sủng này, Ngài đã đổ tràn đầy trên chúng ta với tất cả sự khôn ngoan thượng trí, khiến chúng ta được biết mầu nhiệm ý định của Ngài, theo ý Ngài đã định về Người, để kiện toàn trong thời gian viên mãn, là thâu hồi vạn vật trên trời dưới đất trong Ðức Kitô.
{Cũng trong Người mà chúng tôi được kêu gọi làm thừa tự, được tiền định theo ý định của Ngài là Ðấng tác thành mọi sự theo thánh ý Ngài, để chúng tôi trở thành lời ca vinh quang của Ngài, chúng tôi là những kẻ trông cậy vào Ðức Kitô. Trong Người, cả anh em nữa, sau khi anh em đã nghe lời chân thật là Tin Mừng cứu rỗi anh em, anh em đã tin và được ghi dấu Thánh Thần, như đã hứa. Người là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, để chúng ta được ơn cứu chuộc, và được ca ngợi vinh quang Ngài.}
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 7-13
"Người bắt đầu sai các ông đi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: "Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ". Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
Ðó là lời Chúa.
Chủ đề
"sự sống" của Mùa Phục Sinh vẫn tiếp tục phản ảnh nơi Phụng
Vụ Lời Chúa của Chúa
Nhật XV Thường Niên Năm B, một sự sống cứu độ được tóm gọn trong
chính câu đáp ca của ngày hôm nay: "Lạy
Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho
chúng con".
Thật
vậy, con người tạo vật không thể nào có thể tự cứu độ mình, như chủ
trương "tự độ" của Phật giáo, mà là một ân huệ từ trời cao, được gọi
là "ơn
cứu rỗi", một
"ơn cứu rỗi" hoàn
toàn xuất
phát bởi "lòng từ bi" của Thiên Chúa, Đấng ngay sau nguyên
tội đã tự động hứa cứu rỗi con người (xem Khởi Nguyên 3:15).
"Ơn cứu
rỗi" này, sau khi được Thiên Chúa hứa ban cho chung loài người
sau nguyên tội, Ngài còn bắt đầu thực hiện trong giòng lịch sử của
nhân loại nói chung và lịch sử cứu độ của dân
Do Thái nói riêng, bằng
cách tuyển chọn họ như một giòng dõi đặc biệt để từ đó xuất hiện
một Đấng Thiên Sai Cứu Thế là Đức Giêsu
Kitô Con của Ngài.
Thế
rồi, trong giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái, Vị Thiên Chúa chân
thật duy nhất này đã liên tục tỏ mình ra cho họ bằng đủ mọi dấu kỳ
sự lạ ngay trước mắt họ để giúp họ mỗi ngày một tin vào Ngài hơn,
tin vào
Vị Thiên Chúa thủy chung của họ, ở chỗ một khi đã hứa là Ngài sẽ
hoàn thành đúng như lời Ngài hứa, bất chấp bản chất vừa mù
quáng đầy yếu hèn lại cứng lòng luôn bất
trung thất
tín của họ với giao ước của Ngài, đến độ đã có 2 lần Ngài muốn ra
tay tiêu diệt họ (xem Xuất Hành 32:10; Dân Số 14:12).
Ngài đã quả
thực "tỏ
lòng từ bi"
với
họ khi nhẫn nại với họ, bằng cách tiếp tục sai đến với họ chẳng
những các vị cứu tinh dân tộc như thời Quan Án, sau khi họ đã
vào Đất Hứa và trước thời Các Vua, mà còn cả các vị ngôn sứ của
Ngài để nhắc nhở họ về giao ước của Ngài, nhờ đó cảnh giác lối sống
bất xứng của họ và kêu gọi họ trở về với Ngài, và vì thế các vị ngôn
sứ này thường trở thành nạn nhân bị dân chúng khủng bố tấn công, như
trường hợp của Tiên Tri Amos trong bài đọc
1 hôm nay, vị
tiên tri bị xua đuổi vì dám nói sự thật chống lại Jeroboam là vua
của Israel bấy giờ:
"Trong những ngày ấy, Amasia (vị tư tế ở Bethel thân
cận với Vua Jeroboam - biệt chú của người viết)
nói cùng Amos rằng: 'Hỡi tiên tri, người hãy trốn sang đất Giuđa,
sinh sống và nói tiên tri ở đó. Chớ tiếp tục nói tiên tri ở Bethel,
vì đó là thánh điện của vua và là đền thờ của vương quốc'. Amos trả
lời cùng Amasia rằng: 'Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải
là con của tiên tri, nhưng là đứa chăn bò chuyên đi hái sung. Khi
tôi đang đi theo đàn chiên, thì Chúa dẫn tôi đi và nói cùng tôi
rằng: Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta'".
Chính
Chúa Giêsu, đang khi còn tại thế, như bài Phúc Âm hôm nay cho
thấy, cũng đã từng "gọi
mười hai tông đồ và sai từng hai người đi". Ở
Phúc Âm Thánh ký Mathêu (10:1,5) khi sai các tông đồ đi thì không
nói là đi "từng hai người"; Phúc Âm của Thánh ký Luca (9:1-2) cũng
không nói đến sự kiện "từng hai người" trong trường hợp các
tông đồ được sai đi này,
mà
chỉ trong trường hợp 72 môn đệ được
sai đi thôi (10:1), nên
sau khi Chúa Kitô Phục Sinh mới xẩy ra sự kiện 2
môn đệ cùng nhau đi về làng Emmau được
vị Thánh ký này thuật lại (xem
Luca 24:13).
Sở dĩ "các
ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu
chữa lành nhiều bệnh nhân", như
câu kết của bài Phúc Âm thuật lại cho thấy, nghĩa là hoàn thành một
cách rất tốt đẹp, là vì những lý do sau đây:
1- Thành
phần tông đồ thừa sai này đã được "Người
ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế", một
thứ quyền chỉ có Con Thiên Chúa mới có và trao ban: "Con
Thiên Chúa tỏ mình ra là để hủy diệt các công việc của ma quỉ"
(1Gioan 3:8) - các vị tông đồ thừa sai thi hành quyền trừ quỉ này là
dấu cho thấy "Vương quốc của Thiên Chúa đã gần đến" (Mathêu
10:7) rồi vậy;
2- Các
vị ra đi với một tấm lòng hoàn toàn tin tưởng vào thần linh hơn là
vào những phương tiện vật chất: "đi
đường, không mang
gì, ngoài cây gậy ("cây
gậy" ở đây dường như ám chỉ đến quyền chủ chiên chăn dắt sau này của
các tông đồ và của các vị thừa kế trong vai trò giáo hoàng và giám
mục - suy diễn của người viết),
không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi
dép (chứ
không đi chân đất, cho dù bên
Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thì klhông đi dép, nhưng
theo chi tiết đi
dép ở Phúc Âm Thánh Marcô ở đây dường như ám chỉ đến tinh thần siêu
thoát của thành phần thừa sai truyền giáo hoàn toàn không dính bén
một sự gì trên thế gian này, cho dù là bụi đất chăng nữa, là những
gì nếu cần thì phủi bụi bỏ lại - suy diễn của người viết),
và đừng mặc hai áo";
3- Các
vị chấp nhận tất cả những gì xẩy ra cho các vị, dù bất lợi, bởi
thành công hay thất bại của các vị là ở chỗ các vị có chu toàn sứ vụ
của mình đúng với ý muốn của Đấng đã sai các vị hay chăng, chứ không
phải là chỗ các vị được thế gian khen hay chê,
do đó
các vị vẫn bình an trong Chúa, không chịu trách nhiệm về những ai
không chấp nhận các vị, mà hoàn toàn để Đấng đã sai các vị đi xét xử
họ: "Đến
đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không
đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó,
phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ".
Trước
"lòng từ bi Chúa" được liên lỉ tỏ
ra qua lịch sử cứu độ của dân Do Thái trong Cựu Ước, nhất là nơi Đức
Giêsu Kitô "vào thời điểm viên trọn" (Galata 4:4), hay "trong
thời
gian viên mãn" được nhắc đến trong bài đọc 2 hôm nay, Vị Tông Đồ
Dân Ngoại Phaolô, cũng ở trong bài đọc 2, đã không thể nào cầm mình
mà không than lên với Kitô
hữu giáo đoàn Êphêsô những
cảm nhận thần linh đầy đức tin và lòng mến yêu tri ân cảm tạ sâu
xa của ngài như sau:
"Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã
chúc lành cho chúng ta bằng mọi phúc lành thiêng liêng trên trời,
trong Đức Kitô. Như Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo
dựng thế gian, để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền trước
mặt Ngài trong tình yêu thương. Chiếu
theo thánh ý Ngài, Ngài đã tiền định cho chúng ta
được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang
ân sủng của Ngài mà Ngài đã ban cho chúng ta được ơn cứu chuộc nhờ
máu Người, được ơn tha tội theo sự phong phú của ân sủng Ngài. Ân
sủng này, Ngài đã đổ tràn đầy trên chúng ta với tất cả sự khôn ngoan
thượng trí, khiến chúng ta được biết mầu nhiệm ý định của Ngài, theo
ý Ngài đã định về Người, để kiện toàn trong thời gian viên mãn, là
thâu hồi vạn vật trên trời dưới đất trong Đức Kitô".
Bài đáp
ca hôm nay đã cho thấy những gì đã được chất chứa trong Phụng Vụ Lời
Chúa của Chúa Nhật XV thế này:
1- "Tôi
sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người
sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai
tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi": nghĩa
là lúc nào Chúa cũng muốn cứu độ con người: "ơn
cứu độ Chúa gần đến",
muốn con người được bình an vui sống: "Người
sẽ phán bảo về sự bình an",
chỉ cần con người tỏ lòng "tôn sợ"
Ngài thì
sẽ được thấy "vinh quang của Chúa".
2- "Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Tự mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống": Đúng thế, "ơn cứu rỗi" xuất phát từ "lòng nhân hậu" và từ "đức công minh" của Thiên Chúa như "từ trời nhìn xuống", nhưng phải được "lòng trung thành" của con người như "từ mặt đất" đón nhận và đáp ứng, nhờ đó mới xẩy ra một cuộc "gặp gỡ nhau" và "hôn nhau âu yếm".
3- "Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái, đức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người": Phải, chính vì Thiên Chúa là Đấng "công minh" đầy từ bi thương xót, Đấng thấu suốt được tất cả bản chất yếu hèn và tội lỗi của con người, thành phần tạo vật không thể nào tự cứu được mình, mà Ngài đã tỏ mình ra cho họ bằng việc ra tay ban "ơn cứu độ" cho họ: "đức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người".
Bài Ðọc I: (Năm II) Is 1, 10-17
"Các ngươi hãy tắm rửa, hãy dẹp khỏi mắt Ta các tư tưởng xấu xa".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Hỡi các hoàng tử Sôđôma, hãy nghe lời Chúa; hỡi dân Gômôra, hãy lắng tai nghe luật Thiên Chúa chúng ta. Chúa phán: "Muôn vàn hy lễ có ích lợi gì cho Ta? Ta đã chán chê và không còn ưa thích những của lễ toàn thiêu bằng chiên đực, mỡ các súc vật béo, máu bò đực, chiên con và dê đực.
"Khi các ngươi đến trước mặt Ta, ai kiểm soát các vật ấy nơi tay các ngươi, để các ngươi đi vào hành lang của Ta? Các ngươi đừng tiếp tục hiến dâng cho Ta những lễ tế vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày Sabbat và các ngày lễ trọng khác. Những cuộc hội họp của các ngươi đều là gian ác.
"Tâm hồn Ta chán ghét những ngày trăng mới và các lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta, Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi. Và khi các ngươi giơ tay các ngươi lên, thì Ta quay mặt đi. Khi các ngươi càng cầu nguyện, thì Ta càng không nhậm lời, vì tay các ngươi vấy đầy máu.
"Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, hãy dẹp khỏi mắt Ta các tư tưởng xấu xa; đừng làm điều xấu nữa, hãy làm điều lành; hãy tìm kiếm công lý, hãy cứu giúp kẻ bị áp bức, hãy xét xử công bằng cho những trẻ mồ côi và bênh vực người goá bụa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 49, 8-9. 16bc-17. 21 và 23
Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).
Xướng: 1) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận từ nhà ngươi một con bò non, cũng không nhận từ đàn chiên ngươi những con dê đực. - Ðáp.
2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? - Ðáp.
3) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta cũng giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 34 - 11, 1
"Thầy không đến để đem hòa bình, nhưng đem gươm giáo".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu".
Sau khi Chúa Giêsu truyền dạy xong các điều ấy cho mười hai tông đồ, Người rời khỏi đó để đi dạy dỗ và rao giảng trong các thành phố của các ông.
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm
Ngày 15 tháng 7
Thánh Bô-na-ven-tu-ra, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
lễ nhớ bắt buộc
Sự khôn ngoan nhiệm mầu được mặc khải nhờ Chúa Thánh Thần
Trích tác phẩm “Lộ trình của tâm hồn đến với Thiên Chúa” của thánh Bô-na-ven-tu-ra, giám mục.
Đức Ki-tô là đường và là cửa. Đức Ki-tô là thang và là xe, là nắp xá tội được đặt trên Hòm Bia Chứng Ước và là mầu nhiệm đã được giữ kín từ muôn thuở. Người nào hoàn toàn ngước mặt nhìn về nắp xá tội này, nhìn về Đấng chịu treo trên thập giá, với lòng tin, cậy, mến, lòng sùng kính, ngưỡng mộ, vui mừng, lòng quý trọng, ngợi khen và hoan hỷ, thì người ấy cùng với Đức Ki-tô làm một cuộc vượt qua, nghĩa là băng qua Biển Đỏ nhờ cây gậy thập giá. Người ấy rời Ai-cập đi vào hoang địa, ở đó được thưởng thức man-na đã được giấu kỹ, được an nghỉ trong mồ cùng với Đức Ki-tô. Người ấy bề ngoài như thể đã chết, nhưng trong thân phận lữ hành, lại cảm nghiệm được lời Đức Ki-tô trên thập giá nói với kẻ trộm gắn bó với Người : Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.
Trong cuộc vượt qua này, nếu người ấy muốn nên hoàn hảo, thì phải bỏ đi những hoạt động của trí óc, và trọn tâm tư ước muốn phải được đưa về Thiên Chúa và được biến đổi trong Người. Đây là mầu nhiệm cao siêu nhất, chẳng ai biết được trừ ra người đón nhận, chẳng ai đón nhận được trừ ra người khao khát, chẳng ai khao khát được trừ ra người đã thấy bừng lên trong cõi thâm sâu của lòng mình ngọn lửa Chúa Thánh Thần mà Đức Ki-tô phái xuống trần gian. Thế nên thánh Phao-lô bảo sự khôn ngoan nhiệm mầu này được mặc khải nhờ Chúa Thánh Thần.
Nếu bạn thắc mắc việc đó xảy ra thế nào, bạn hãy hỏi ơn thánh chứ đừng hỏi kiến thức, hỏi lòng khao khát thâm sâu chứ đừng hỏi lý trí, hỏi tiếng rên siết của lời cầu khẩn chứ đừng hỏi việc chuyên chăm đọc sách, hỏi hôn phu chứ đừng hỏi thầy giáo, hỏi Thiên Chúa chứ đừng hỏi người phàm, hỏi mây mù chứ đừng hỏi ánh quang, cũng đừng hỏi ánh sáng nhưng hãy hỏi ngọn lửa đốt cháy trọn vẹn con người và đưa con người lên tới Thiên Chúa bằng ân sủng chứa chan và lòng yêu mến nồng nàn. Ngọn lửa này là chính Thiên Chúa và lò thì ở Giê-ru-sa-lem. Chính Đức Ki-tô đã nhóm lên ngọn lửa ấy trong cuộc Thương Khó nồng cháy của Người. Chỉ có người nói được như ông Gióp mới thật sự hiểu được điều ấy : Tôi chẳng thà bị treo, chẳng thà bị chết. Ai yêu cái chết như thế mới có thể nhìn thấy Thiên Chúa. Vì lời sau đây là lời chân thật : Con người không thể thấy Ta mà vẫn sống. Vậy chúng ta hãy chết, hãy tiến vào trong mây mù, hãy bắt những lo toan, những dục vọng, những ảo ảnh phải im lặng. Cùng với Đức Ki-tô chịu đóng đinh, chúng ta hãy bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Và một khi Chúa Cha đã được tỏ ra cho chúng ta, thì cùng với ông Phi-líp-phê, chúng ta hãy nói : Như thế là chúng con mãn nguyện. Cùng với thánh Phao-lô, ta hãy nghe : Ơn của Thầy đã đủ cho con. Cùng với vua Đa-vít, ta hãy hân hoan thưa rằng : Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn. Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en từ muôn thuở cho đến muôn đời. Toàn dân hãy hô lên : A-men ! A-men !
ĐTC Biển Đức XVI
17/3/2010 Bài 108 vể Thánh Bonaventura - Khoa Thần Học Thập Giá
10/3/2010 Bài 107 về Thánh Bonaventura - Quan Điểm về Lịch Sử
3/3/2010 Bài 106 vể Thánh Bonaventura - Cuộc đời và con người
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con đang họp nhau mừng ngày thánh giám mục Bô-na-ven-tu-ra về trời. Xin cho chúng con vừa được đức khôn ngoan phi thường của thánh nhân soi sáng, vừa được lòng bác ái nồng nhiệt của người khích lệ. Chúng con cầu xin
Bài Ðọc I: (Năm II) Is 7, 1-9
"Nếu các ngươi không tin, các ngươi sẽ không còn tồn tại nữa".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Xảy ra trong đời Acaz con của Gioatham, Gioatham con của Ozia, vua nước Giuđa, Rasin vua nước Syria, và Phaxê con của Rômêlia, vua Israel, tiến lên gây chiến với Giêrusalem, nhưng không thể thắng trận được. Người ta báo tin cho nhà Ðavít rằng: "Syria đã đóng quân ở Ephraim". Nghe vậy, vua và dân đều run sợ, như cây trong rừng rung động trước gió.
Và Chúa phán cùng Isaia rằng: "Ngươi và con ngươi là Giasub, hãy đi đón vua Acaz đang ở cuối cống ao thượng, trên đường ra ruộng Fullon, và nói rằng: "Hãy cẩn thận ở yên lặng, đừng sợ, và đừng nao núng trước hai ngọn đuốc xông khói này là cơn thịnh nộ của Rasin, vua nước Syria, và của con trai Rômêlia, vì chưng Syria, Ephraim và con trai của Rômêlia đã toan mưu hại ngươi, họ nói rằng: "Chúng ta hãy tiến đánh Giuđa, quấy rối nó và lôi cuốn nó theo ta, và đặt con trai Tabeel làm vua".
Chúa phán thế này: "Sự việc này không thành và không xảy ra đâu, vì Ðamas là thủ đô của Syria, và Rasin là thủ lãnh của Ðamas. Còn sáu mươi lăm năm nữa, thì Ephraim sẽ bị tiêu diệt và không còn là một dân tộc nữa. Thủ đô của Ephraim là Samaria, và thủ lãnh của Samaria là con của Rômêlia. Nếu các ngươi không tin, các ngươi sẽ không còn tồn tại".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 47, 2-3a. 3b-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Thiên Chúa kiên thủ thành trì của Người tới muôn đời (c. 9d).
Xướng: 1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Người là ngọn đồi duyên dáng, là niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu. - Ðáp.
2) Núi Sion là cùng kiệt phương Bắc, là thành trì của Ðức Ðại Ðế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Người, tự chứng tỏ Người là an toàn chiến lũy. - Ðáp.
3) Bởi chưng, kìa các vua chúa đã họp nhau, họ đã nhất tề xung phong tác chiến. Nhưng thoạt nhìn thấy, họ đã ngẩn người ra, họ đã thất kinh và chạy trốn. - Ðáp.
4) Chính tại đây, họ đã khiếp run sợ hãi, đau đớn như người phụ nữ lúc lâm bồn, và lúc Chúa dùng ngọn gió Ðông đánh cho những chiến thuyền Tác-xi tan vỡ. - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 11, 20-24
"Trong ngày phán xét, Tyro và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối: "Hỡi Corozain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.
"Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi".
Ðó là lời Chúa.
"Hỡi Corozain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy
ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo
nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày
phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.
"Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi
sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra
tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các
ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi".
Căn
cứ vào lời cảnh báo và khiển trách có vẻ dữ dội trên đây của Chúa Giêsu
trong bài Phúc Âm hôm nay, vấn đề được đặt ra ở đây là:
1- Nếu Chúa Giêsu biết trước rằng
các thành ở trong Cựu Ước xưa, như Tyro, Sidon và Sodoma mà được xem thấy
phép lạ Người làm như ở Corozain, Bethsaida hay Capharnaum, họ đã ăn năn sám
hối, để khỏi bị trừng phạt thì
tại sao bấy giờ Thiên Chúa
không làm phép lạ để cứu các thành ấy?
2- Ngược lại, nếu Người đã biết
trước rằng các
thành được thấy các phép lạ Người làm vào
thời của Người sẽ
bị trừng phạt nặng hơn những thành đã bị trừng phạt trước đó thì
tại sao Người vẫn cứ mất công
vô ích làm
phép lạ ở những thành ấy chứ?
Câu
trả lời đó là nếu ai được trao bao nhiêu nén ân sủng, 2 nén, 5 nén hay 10
nén, chỉ cần sinh lời gấp trăm là đủ, tức là 2 nén cần sinh lợi 2 nén, 5 nén
cần sinh lợi 5 nén và 10 nén cần sinh lợi 10 nén (xem
Mathêu 25:14-23), thì ai
không chấp nhận ân sủng hay không làm cho ân sủng sinh lợi cũng bị xét xử
và trừng
phạt tùy theo tội trạng và hoàn cảnh của họ (xem Luca 12:47-48): "Người
tôi tớ nào biết ý chủ mình mà không sẵn lòng làm theo sẽ bị đòn nặng hơn...
Càng được trao phó
nhiều thì càng bị đòi nhiều", như các thành ở vào thời Chúa Giêsu được
thấy các phép lạ Người làm tất nhiên phải nhận
biết Người hơn mới phải, và
vì không nhận biết nên sẽ hứng chịu luận phạt cân xứng.
Vì Thiên
Chúa không làm phép lạ ở các thành bị phạt trong Cựu Ước nên
Người đã không trừng phạt họ nặng nề như các thành được thấy phép lạ trong
thời Chúa
Giêsu. Thật ra Người có làm
phép lạ ở thành Sodoma đấy chứ, đó là thành này như một bãi bùn lầy tội
lỗi đã chứng kiến thấy một bông sen công chính là Lot "gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn". Biết đâu
việc Thiên Chúa ra tay trừng phạt các thành ấy ngay ở đời này đã làm cho
nhiều tội nhân trong các thành ấy bấy
giờ đã tỏ lòng thống
hối ăn năn trước
khi chết vì thấy án phạt tỏ tường Thiên
Chúa giáng xuống để trừng trị tội
lỗi của họ. Còn
các thành được thấy phép lạ
của Chúa Giêsu, tuy không bị trừng phạt một cách tỏ tường và công khai cả
thành như các thành trước kia ấy, cũng sẽ bị trừng phạt một cách nào đó xứng
với tội lỗi của họ.
Đúng thế, cho dù có "trừng phạt" con
người tội lỗi, Vị Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu cũng chỉ sử dụng
những đau khổ, thậm chí cả chết chóc, để cảnh báo con người và làm cho con
người nhận biết Ngài để cuối cùng được cứu độ mà thôi, chứ không bao giờ
muốn tận diệt con người hay vui thú khi thấy con người bị đời đời hư đi.
Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan muốn lợi dụng tất cả mọi sự, dù tốt hay
xấu, để tỏ mình ra cho con người, để họ nhận biết Ngài mà được sự sống thần
linh của Ngài.
Cảm Nghiệm
Thật vậy, nếu Thiên Chúa là Tình Yêu Thương Xót (Merciful Love) thì bất cứ việc gì Ngài làm cũng đều xuất phát từ bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Ngài, cho dù là những gì con người cho là hình phạt chăng nữa. Thật ra những sự dữ con người phải chịu là do chính tội lỗi của con người gây ra, không trực tiếp (bởi chính mình) cũng gián tiếp (qua người khác). Vậy những sự dữ là hậu quả của tội lỗi do con người gây ra ấy là hình phạt họ đáng phải chịu, chứ không phải thiên Chúa là Tình Yêu Nhân Hậu tự mình tạo dựng nên sự dữ và muốn ra tay trừng phạt họ.
Ngay từ ban đầu cũng thế, Thiên Chúa tạo dựng nên "mọi sự rất tốt đẹp" (Khởi Nguyên 1:31), chứ không dựng nên bất cứ một sự dữ nào, không dựng nên sự chết. Tuy nhiên, Ngài đã cảnh báo con người về sự dữ là tội lỗi cùng với sự chết gây ra bởi tội lỗi của họ khi Ngài đặt họ vào trong vườn địa đường được Ngài dựng nên cho họ, một ngôi vườn biểu tượng cho tất cả những gì xứng với chức phận và quyền lợi của họ là loài được Ngài dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26). Tuy nhiên, đồng thời Ngài cũng đặt giới hạn cho họ là loại tạo vật ở chỗ họ không được đụng tới một thứ cây biết lành biết dữ ngay giữa vườn, ám chỉ lương tâm, họ không được chạm đến, tức không được làm trái lương tâm được Ngài cài đặt nơi con người của họ kẻo bị chết (xem Khởi Nguyên 2:15-17).
Thế nhưng con người đã bất tuân nên đã chết, ở chỗ mất ơn nghĩa với Thiên Chúa Hóa Công, và đáng chịu hình phạt do tội lỗi của họ gây ra đúng như lời cảnh báo của Thiên Chúa. Tuy nhiên, vì là Tình Yêu Nhân Hậu nên Thiên Chúa đã sử dụng chính sự dữ con người gây ra cùng với hậu quả họ phải chịu theo phép công bằng để làm cho họ nhận biết mình và nhận biết Chúa, nhờ đó mà được cứu rỗi (xem Khỏi Nguyên 3:6-19).
Lịch sử cứu độ của dân Do Thái là tất cả mạc khải thần linh của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất là Tình Yêu Nhân Hậu của họ, Đấng luôn tỏ bản tính là Tình Yêu Nhân Hậu của mình ra cho dân tộc được Ngài tuyển chọn giữa muôn dân, nhất là khi họ yếu đuối sa ngã hay yếu đuối bất lực trước đối phương, trước sự dữ, để nhờ đó, dân của Ngài mỗi ngày một nhận biết Ngài hơn và tin vào Ngài hơn.
Bài Đọc 1 hôm nay đã cho thấy đúng như vậy, khi Vua Acaz nước Giuđêa, đang cai trị một vương quốc (Do Thái ở Miền Nam Đất Hứa) thuộc giòng dõi Đavít, vương tổ của Chúa Kitô, một vương quốc được chính Thiên Chúa hứa bảo tồn cho đến muôn đời (xem 2Samuel 7:16; Luca 1:32-33), bị lực lượng của Syria cùng với vương quốc Israel (vương quốc Do Thái bao gồm cả miền Bắc và miền Trung của Đất Hứa) hợp lại âm mưu tấn công: "Chúng ta hãy tiến đánh Giuđa, quấy rối nó và lôi cuốn nó theo ta, và đặt con trai Tabeel làm vua".
Trước tình trạng hết sức hoảng sợ của cả vua lẫn dân thuộc vương quốc Giuđêa: "Nghe vậy, vua và dân đều run sợ, như cây trong rừng rung động trước gió", Thiên Chúa là Đấng đã chọn giòng dõi Đavít để Con Ngài nhập thể cứu thế làm sao có thể để cho những gì thuộc về Ngài bị lọt vào tay kẻ dữ, cho dù chính vương quốc Đavít, qua thành phần các vua cháu chắt chít chịt của vương tổ Đavít cũng gây ra không biết bao nhiêu là gian ác đáng trừng phạt, không thể tha thứ, Ngài vẫn ở với vương quốc này khi cần phải tỏ mình ra vào thời điểm ấn định của Ngài, nhất là vào những lúc con người không còn biết trông cậy vào đâu ngoài Ngài. Bởi thế, Bài Đọc 1, qua Tiên Tri Isaia, Ngài đã tỏ mình ra như thế này:
"Ngươi và con ngươi là Giasub, hãy đi đón vua Acaz đang ở cuối cống ao thượng, trên đường ra ruộng Fullon, và nói rằng: 'Hãy cẩn thận ở yên lặng, đừng sợ, và đừng nao núng trước hai ngọn đuốc xông khói này là cơn thịnh nộ của Rasin, vua nước Syria, và của con trai Rômêlia, vì chưng Syria, Ephraim và con trai của Rômêlia đã toan mưu hại ngươi, họ nói rằng: 'Chúng ta hãy tiến đánh Giuđa, quấy rối nó và lôi cuốn nó theo ta, và đặt con trai Tabeel làm vua'. Sự việc này không thành và không xảy ra đâu, vì Ðamas là thủ đô của Syria, và Rasin là thủ lãnh của Ðamas. Còn sáu mươi lăm năm nữa, thì Ephraim sẽ bị tiêu diệt và không còn là một dân tộc nữa. Thủ đô của Ephraim là Samaria, và thủ lãnh của Samaria là con của Rômêlia. Nếu các ngươi không tin, các ngươi sẽ không còn tồn tại".
Trước việc tỏ mình ra như thế của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất là Tình Yêu Thương Xót trong suốt giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái mà Ngài đã quả thực làm cho chính dân của Ngài tuyển chọn, không nhiều thì ít, không sớm thì muộn, không trước thì sau, vào một lúc nào đó, nhận biết Ngài và dâng lời tri ân cảm tạ ngợi khen Ngài như các nhận thức và tâm tình của Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Người là ngọn đồi duyên dáng, là niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu.
2) Núi Sion là cùng kiệt phương Bắc, là thành trì của Ðức Ðại Ðế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Người, tự chứng tỏ Người là an toàn chiến lũy.
3) Bởi chưng, kìa các vua chúa đã họp nhau, họ đã nhất tề xung phong tác chiến. Nhưng thoạt nhìn thấy, họ đã ngẩn người ra, họ đã thất kinh và chạy trốn.
4) Chính tại đây, họ đã khiếp run sợ hãi, đau đớn như người phụ nữ lúc lâm bồn, và lúc Chúa dùng ngọn gió Ðông đánh cho những chiến thuyền Tác-xi tan vỡ.
Áo Đức Bà Carmêlô,
một bảo vật cho Giáo
Hội
3.- … Đối với các phần tử của Gia Đình Dòng
Carmêlô thì Mẹ Maria, Vị Trinh Mẫu của Thiên Chúa và loài người, chẳng những
là một mô phạm để bắt chước, mà còn hiện diện như là một Người Mẹ và Người
Chị đáng tin tưởng cậy trông. Thánh Têrêsa Giêsu đã có lý để thúc giục các
chị em dòng của mình là: “Chị em hãy bắt chước Đức Mẹ, hãy coi Mẹ cao cả là
dường nào, và việc chúng ta nhận Người là Quan Thày của mình là một điều tốt
lành biết bao” (Interior Castle, III, 1, 3).
4.- Cuộc sống thiết tha với Mẹ Maria ấy, một cuộc sống được thể hiện nơi
việc tin tưởng nguyện cầu, nhiệt thành chúc tụng và tỉ mỉ bắt chước, giúp
cho chúng ta hiểu được lý do tại sao hình thức tôn sùng chân thực nhất đối
với Đức Trinh Nữ, một việc tôn sùng được bộc lộ nơi dấu hiệu Giây Đức Bà
Carmêlô thô sơ, đó là việc tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ (xem
Đức Piô XII, Bức Thư Neminem Profecto Latet [11-2-1950: AAS 42, 1950, pp.
390-391]; Hiến Chế Lumen Gentium, 67). Thực hiện điều này, tâm hồn sẽ lớn
lên trong sự hiệp thông và thân tình với Đức Trinh Nữ, “như một cách sống
mới đối với Thiên Chúa cũng như tiếp tục cách sống yêu mến của Chúa Giêsu
trên thế gian đối với Mẹ Maria của Người” (xem Huấn Từ Buổi Nguyện Kinh
Truyền Tin trong Insegnamenti XI/3, 1988, p. 173). Bởi đó, như chân phước tử
đạo Dòng Carmêlô Titus Brandsma diễn tả, chúng ta sống hòa hợp sâu xa với Mẹ
Maria Thiên Mẫu, và, như Mẹ, chúng ta trở nên những người thông truyền sự
sống thần linh: “Chúa cũng sai thiên thần của Ngài đến với chúng ta… cả
chúng ta cũng phải chấp nhận Thiên Chúa nơi tâm hồn của mình, nuôi dưỡng
Ngài và làm cho Ngài lớn lên trong chúng ta, để Ngài được hạ sinh từ chúng
ta và sống với chúng ta như Vị Thiên Chúa ở với chúng ta” (theo bản tường
trình về Chân Phước Titus Brandsma trong Hội Nghị Thánh Mẫu Học ở Tongerloo,
8/1936).
Qua giòng thời gian, với việc phổ biến lòng tôn sùng Giây Thánh Đức Bà, gia
sản Thánh Mẫu phong phú này đã trở thành một bảo tàng cho cả Giáo Hội. Nơi
tính cách thô sơ của nó, nơi giá trị về nhân loại học của nó cùng với mối
liên hệ của nó với vai trò của Mẹ Maria liên quan với Giáo Hội và nhân loại,
việc tôn sùng này đã được Dân Chúa hưởng ứng một cách hết sức nồng nhiệt và
rộng rãi, đến nỗi nó đã được thể hiện qua việc tưởng niệm vào ngày 16/7 theo
lịch phụng vụ của Giáo Hội hoàn vũ.
5.- Dấu hiệu Giây Đức Bà Carmêlô cho thấy một tổng lược hay ho về linh đạo
Thánh Mẫu, một linh đạo nuôi dưỡng lòng tôn sùng của các tín hữu và làm cho
họ cảm nhận được sự hiện diện âu yếm của Vị Trinh Mẫu nơi đời sống của họ.
Giây Đức Bà Carmêlô thực sự là một “chiếc áo dòng” (“habit”). Những ai lãnh
nhận chiếc áo dòng này thì không nhiều thì ít được liên kết chặt chẽ với
Dòng Carmêlô và hiến thân phụng sự Đức Bà cho lợi ích của toàn thể Giáo Hội
(xem “Formula of Enrolment in the Scapular”, in the Rite of Blessing of and
Enrolment in the Scapular, được Thánh Bộ Phượng Tự Và Bí Tích chuẩn nhận
ngày 5/1/1996). Những ai mặc Áo Đức Bà Carmêlô, nhờ đó, được đưa vào mảnh
đất Carmêlô, để họ được “thưởng thức hoa trái của nó cùng với những sự tốt
lành của nó” (x Jer 2:7), cũng như cảm nghiệm được sự hiện diện âu yếm và từ
mẫu của Mẹ Maria trong việc họ dấn thân hằng ngày để được mặc lấy Chúa Giêsu
Kitô, cũng như để tỏ hiện Người ra qua cuộc sống của họ cho lợi ích của Giáo
Hội và toàn thể nhân loại (xem “Formula of Enrolment in the Scapular”,
cit.).
Bởi thế, dấu hiệu Áo Đức Bà Carmêlô gợi lên cho thấy hai chân lý: chân lý
thứ nhất đó là việc liên lỉ bảo vệ của Đức Trinh Nữ, chẳng những trong cuộc
hành trình của cuộc sống mà còn vào giây phút bước đến cõi trường vinh toàn
mãn; chân lý thứ hai đó là nhận thức rằng lòng tôn sùng Mẹ không chỉ giới
hạn vào các kinh nguyện và những cách thức tôn kính Mẹ ở một số dịp, mà phải
trở thành một “thói quen” - “habit”, (biệt chú của người dịch: ở đây ĐTC
dùng chữ “habit”, theo tiếng Anh, vừa có nghĩa là “áo dòng”, như Ngài đã nói
đến ở trên, lại vừa có nghĩa là “thói quen”), tức là, một hướng chiều thường
xuyên nơi tác hành của người Kitô hữu, một hướng chiều liên kết giữa việc
cầu nguyện và đời sống nội tâm, qua việc năng lãnh nhận các bí tích, với
những việc làm cụ thể nơi hoạt động từ thiện về phương diện tinh thần cũng
như vật chất. Có như thế, Áo Đức Bà Carmêlô mới trở thành một dấu hiệu “giao
ước” và cho thấy mối hiệp thông với nhau giữa Mẹ Maria và người tín hữu:
thật vậy, nó là một việc chuyển dịch cụ thể cái ý nghĩa của tặng ân Mẫu Thân
được Chúa Giêsu trên thập giá trao ban cho tông đồ Gioan, và qua vị tông đồ
này, cho tất cả chúng ta, và cả ý nghĩa việc trao phó vị Tông Đồ yêu dấu này
cùng với chúng ta cho Mẹ, Vị đã trở nên Mẹ thiêng liêng của chúng ta.
6.- Mẫu gương sáng ngời của linh đạo Thánh Mẫu này, một linh đạo khuôn đúc
nội tâm con người và làm cho họ nên giống Chúa Kitô, trưởng tử của nhiều anh
em, là chứng từ cho thấy sự thánh thiện và khôn ngoan nơi rất nhiều vị thánh
của Dòng Carmêlô, tất cả những vị này đã lớn lên dưới bóng phủ và trong sự
chở che của Người Mẹ các vị.
Tôi cũng đeo Áo Đức Bà Carmêlô trước ngực một thời gian rất lâu! Vì yêu mến
Vị Thiên Mẫu chung của chúng ta, Đấng Tôi luôn cảm nghiệm được việc Người
bảo vệ chở che, Tôi tin rằng năm Thánh Mẫu này sẽ giúp cho tất cả mọi tu sĩ
nam nữ Carmêlô và tín hữu đạo hạnh có lòng tôn kính Mẹ với tình con thảo
được lớn lên trong tình yêu của Người, và chiếu tỏa cho thế giới thấy sự
hiện diện của Người Nữ thầm lặng và nguyện cầu này, một Người Nữ được kêu
cầu như Mẹ Tình Thương, Mẹ Hy Vọng và Ân Sủng…
(Thư ĐTC Gioan Phaolô II gửi Dòng Carmêlô cả
hai ngành OCD và O.Carm., đề ngày 25/3/2001,
nhân dịp kỷ niệm 750 năm Áo Đức Bà Carmêlô.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 4/4/2001)
Bài Ðọc I: (Năm II) Is 10, 5-7. 13-16
"Cái cưa có thể tự cao tự đại đối với thợ cưa sao?"
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa phán: "Khốn cho Assur, là cây roi cơn giận của Ta. Cây gậy trong tay nó là cơn thịnh nộ của Ta. Ta sẽ sai nó chống lại dân ngoại dối trá, và truyền lệnh cho nó đi chống lại dân chọc giận Ta, để nó cướp bóc, mang chiến lợi phẩm về chà đạp dưới chân như bùn ngoài đường phố. Nhưng chính nó không đồng quan điểm như vậy, và lòng nó không tưởng nghĩ như thế. Trái lại, lòng nó ưa thích phá hoại, và huỷ diệt nhiều dân tộc. Vì chưng, nó nói rằng: 'Tôi đã dùng sức mạnh cánh tay tôi, và dùng sự khôn ngoan của tôi mà làm việc ấy, vì tôi thông minh. Tôi đã dời đổi biên giới các dân, đã cướp lấy kho tàng các vua quan, và như người hùng, tôi lật đổ truất phế các thủ lãnh. Tay tôi lấy của cải các dân như bắt tổ chim. Tôi vơ vét cả hoàn cầu như lượm các trứng rơi, không một ai đập cánh hoặc mở miệng kêu la'.
"Lẽ nào cái rìu lại khoe mình với kẻ cầm rìu sao? Lẽ nào cái cưa lại tự cao tự đại với thợ cưa sao? Lẽ nào cây roi có thể chống lại người cầm roi, và cây gậy có thể nâng tay người cầm gậy sao, vì nó chỉ là gỗ cây? Bởi đó Chúa tể là Thiên Chúa các đạo binh sẽ gửi sự điêu tàn đến giữa cảnh mầu mỡ của nó; và từ dưới cảnh vinh quang của nó, một ngọn lửa sẽ bốc cháy lên như ngọn lửa của một đám cháy".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 93, 5-6. 7-8. 9-10. 14-15
Ðáp: Chúa sẽ không loại trừ dân tộc của Chúa (c. 14a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, chúng chà đạp dân riêng Chúa, và làm khổ gia nghiệp của Ngài. Chúng bóp cổ khách kiều cư, người quả phụ, và chúng sát hại những kẻ mồ côi. - Ðáp.
2) Chúng nói rằng: "Chúa không nhìn thấy, và Thiên Chúa nhà Giacóp cũng chẳng hay". Ðồ ngu xuẩn trong dân, các ngươi nên hiểu biết; lũ dại khờ, bao giờ các ngươi mới nhận ra? - Ðáp.
3) Ðấng làm ra tai, há chẳng biết nghe? Ðấng nặn ra mắt, há không nhìn thấy? Ðấng giáo dục chư dân, há không sửa lỗi? Ðấng dạy bảo thiên hạ, há chẳng thông minh? - Ðáp.
4) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Người. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 11, 25-27
"Chúa đã giấu không cho những người khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thưa rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho".
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm
Kitô hữu nói chung nhất là những ai sống đạo tốt lành nói riêng, thường cảm thấy mình gặp gian nan hoạn nạn hơn người sống theo tinh thần trần tục, nhất là những con người gian ác. Lắm khi chính thành phần gian ác này lại còn được Thiên Chúa sử dụng để làm việc của Ngài nữa, chẳng khác gì cái roi Thiên Chúa sử dụng để sửa phạt con cái Chúa, như ngày xưa trong giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái, mỗi khi dân của Ngài bỏ Ngài đi ngoại tình với tà thần ngẫu tượng, hay ngày nay Ngài sử dụng cộng sản trong hầu hết thế kỷ 20 để trừng phạt thế giới tư bản duy lợi, và một số Hồi giáo cực đoan, nhất là nhóm Al Queda hay Nhà Nước Hồi Giáo (IS - Islamic State) xuất hiện ở Iraq từ 6/2014, để trừng trị thế giới văn minh Tây phương đang quay cuồng với nền văn hóa chết chóc theo chủ nghĩa tương đối duy nhân bản, nhất là từ đầu thế kỷ 21 tới nay.
Kinh nghiệm cho thấy cả thành phần gian ác cũng được Thiên Chúa, Đấng Quan Phòng Thần Linh làm chủ lịch sử loài người, tỏ mình ra nữa, bởi họ, khi bất ngờ được Ngài sử dụng, lại bị lầm tưởng, cứ cho rằng mình ngon lành lắm, cho rằng chính do quyền lực tự nhiên của họ mà họ có thể thống trị thành phần được Chúa đang muốn cứu độ bằng cách giáng phạt qua họ. Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Isaia, chính Thiên Chúa đã cho thấy cái mâu thuẫn giữa ý định của Thiên Chúa muốn sử dụng họ với ý nghĩ tự cao tự đại tự kiêu của họ như sau:
"Khốn cho Assur, là cây roi cơn giận của Ta. Cây gậy trong tay nó là cơn thịnh nộ của Ta. Ta sẽ sai nó chống lại dân ngoại dối trá, và truyền lệnh cho nó đi chống lại dân chọc giận Ta, để nó cướp bóc, mang chiến lợi phẩm về chà đạp dưới chân như bùn ngoài đường phố. Nhưng chính nó không đồng quan điểm như vậy, và lòng nó không tưởng nghĩ như thế. Trái lại, lòng nó ưa thích phá hoại, và huỷ diệt nhiều dân tộc. Vì chưng, nó nói rằng: 'Tôi đã dùng sức mạnh cánh tay tôi, và dùng sự khôn ngoan của tôi mà làm việc ấy, vì tôi thông minh. Tôi đã dời đổi biên giới các dân, đã cướp lấy kho tàng các vua quan, và như người hùng, tôi lật đổ truất phế các thủ lãnh. Tay tôi lấy của cải các dân như bắt tổ chim. Tôi vơ vét cả hoàn cầu như lượm các trứng rơi, không một ai đập cánh hoặc mở miệng kêu la'".
Tuy nhiên, vì Thiên Chúa làm chủ lịch sử loài người chỉ sử dụng họ cho mục đích tốt lành thiện hảo của Ngài, nhờ họ để đánh động dân Ngài ngày xưa hay Giáo Hội hoặc thế giới Kitô giáo băng hoại ngày nay, cho đến khi Ngài không cần đến họ nữa, thì Ngài quẳng cái roi trong tay Ngài đi, như Ngài đã loại trừ cái roi cộng sản đi vào cuối thế kỷ 20 ở cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, với Biến Cố Đông Âu tự động giải thể và cuối cùng là Liên Bang Sô Viết tự động từ bỏ chủ nghĩa và chế độ cộng sản vào ngày 25/12/1991. Bởi vì, chính Ngài cũng muốn tỏ mình ra cho cái roi được Ngài sử dụng để trừng phạt nữa, như chính Ngài đã phán qua Tiên Tri Isaia trong bài Đọc 1 hôm nay:
"Lẽ nào cái rìu lại khoe mình với kẻ cầm rìu sao? Lẽ nào cái cưa lại tự cao tự đại với thợ cưa sao? Lẽ nào cây roi có thể chống lại người cầm roi, và cây gậy có thể nâng tay người cầm gậy sao, vì nó chỉ là gỗ cây? Bởi đó Chúa tể là Thiên Chúa các đạo binh sẽ gửi sự điêu tàn đến giữa cảnh mầu mỡ của nó; và từ dưới cảnh vinh quang của nó, một ngọn lửa sẽ bốc cháy lên như ngọn lửa của một đám cháy".
Bài Đáp Ca hôm nay bao gồm 4 câu, hai câu đầu cũng phản ảnh tâm thức vô thần của thành phần gian ác, đầy tự kiêu khi ra tay hành khổ thành phần dân Chúa, và hai câu sau cho thấy dự án thần linh của Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ dân Ngài, không bao giờ bỏ rơi họ, miễn là họ nhờ chịu khổ mà nhận biết Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ. Chúng ta đọc lại toàn Bài Đáp Ca hôm nay sẽ thấy rõ 2 phần và ý định thống lĩnh vô địch tối hậu vô cùng tốt lành nhân hậu của Thiên Chúa:
1) Lạy Chúa, chúng chà đạp dân riêng Chúa, và làm khổ gia nghiệp của Ngài. Chúng bóp cổ khách kiều cư, người quả phụ, và chúng sát hại những kẻ mồ côi.
2) Chúng nói rằng: "Chúa không nhìn thấy, và Thiên Chúa nhà Giacóp cũng chẳng hay". Ðồ ngu xuẩn trong dân, các ngươi nên hiểu biết; lũ dại khờ, bao giờ các ngươi mới nhận ra?
3) Ðấng làm ra tai, há chẳng biết nghe? Ðấng nặn ra mắt, há không nhìn thấy? Ðấng giáo dục chư dân, há không sửa lỗi? Ðấng dạy bảo thiên hạ, há chẳng thông minh?
4) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Người. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo.
Bài Ðọc I: (Năm II) Is 26, 7-9. 12. 16-19
"Hỡi những kẻ nằm trong tro bụi, hãy thức dậy và hãy nhảy mừng".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðường lối người công chính thì ngay thẳng, Chúa ban cho bằng phẳng đường nẻo của người công chính. Lạy Chúa, chúng con cậy trông Chúa trong đường xét xử của Chúa. Thánh danh và sự kính nhớ Chúa là sự ước mong của tâm hồn. Ban đêm hồn con khát khao Chúa, và sớm mai khi thức dậy, lòng trí con hướng về Chúa. Từ khi Chúa thực hiện việc xét xử ở trần gian, thì người dương thế học biết sự công chính.
Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con ơn bình an, vì mọi việc chúng con làm, đều do Chúa làm cho chúng con.
Lạy Chúa, trong cơn hoạn nạn, chúng con đã tìm kiếm Chúa, và trong khi Chúa sửa dạy, chúng con kêu van đến Chúa. Lạy Chúa, trước tôn nhan Chúa, chúng con khác nào như đàn bà mang thai sắp sinh, kêu la đau đớn. Chúng con cưu mang, chúng con đau đớn như phải sinh con.
Chúng con không mang lại sự cứu độ cho trần gian, và không còn người sinh ra trên trần gian. Người chết của Chúa sẽ được sống, các xác chết của con sẽ sống lại. Hỡi những kẻ nằm trong tro bụi, hãy thức dậy và nhảy mừng, vì sương Chúa là sương ánh sáng, và trái đất sẽ làm tái sinh u tối.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 101, 13-14ab và 15. 16-18. 19-21
Ðáp: Từ trời cao xanh Chúa đã quan sát địa cầu (c. 20b).
Xướng: 1) Phần Chúa, lạy Chúa, đời đời còn mãi và danh Ngài tồn tại đời nọ tới đời kia. Xin Ngài đứng lên, thương xót Sion, nay là thời để Ngài quan tâm phù trợ. Các bầy tôi ưa thích tường hoa móng đá, và ngậm ngùi thương đống gạch tro hoang tàn. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van. - Ðáp.
3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 11, 28-30
"Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
Ðó là lời Chúa.
Câu chuyện xảy ra năm 1550 tại 1 làng nhỏ tại miền trung Italy, làng
Bucchianico bên bờ biển. Dân làng rất hiền lành và chăm chỉ. họ cùng nhau
sống an bình trong ơn nghĩa Chúa.
Dòng tộc De Leliis là 1 dòng quý tộc, sống
tốt lành nên được dân làng rất yêu quý, tôn trọng.
GIẤC MƠ CỦA MẸ
Camilla De Compellis, bạn đời của đại uý Giovani De Lellis đã có thai khi đã
60 tuổi. mặc dù đã cao tuổi nhưng bà rất vui mừng đón nhận hồng ân Chúa ban.
Tuy nhiên, 1 nỗi lo lắng bao trùm bà khi bà mơ thấy con mình sẽ sinh ra dẫn
đầu 1 đoàn quân đồng phục, trên ngực có thập giá đỏ, đi khắp mọi nơi. Bà
nghĩ rằng con mình sau này sẽ trở thành tướng cướp.
Ngày 25 tháng 05 năm 1550 , bà Camilla đang cùng mọi người tham dự thánh lễ
kính thánh Ubano, Giáo hoàng tử đạo, bổn mạng giáo xứ, thì bà đau bụng lâm
bồn . Mọi người vội vã đưa bà về nhưng chưa kịp về đến nhà thì bà tới giờ
sanh, mọi người liền đưa bà vô 1 chuồng ngựa gần nhất.
Bà sinh 1 bé trai khoẻ mạnh. để ghi nhớ nỗi
nhọc nhằn của người mẹ cao tuổi, bé được đặt tên là Camillo De Lellis.
GIOVANNI DE LELLIS CHA CỦA CAMILLO
Ông Giovanni De Lellis vông cùng vui mừng vì hồng ân Chúa ban cho là đứa con
trai thông minh, khoẻ mạnh. Ông bàn với vợ về việc nuôi dạy cho con nên
người tốt.
Nhưng ông Giovanni phai đi xa thường xuyên,
Camillô ở nhà dưới sự chỉ dạy của mẹ. cậu bé càng lớn càng càng mảng chơi và
quạy phá như giặc.
TUỔI THƠ
Camillô thường đàn đúm với người anh họ Onofrio và những trẻ nghịch ngợm
khá. Chúng quậy phá làm khu xóm rất khó chịu nên họ kêu ca với ông Giovannni
và bàCamilla để ông bà dạy bảo.
Camillô được ửi tới trường nhưng cậu bé
chẳng chịu học hành gì. Cậu muốn theo nghề chiến binh của cha en nghĩ rằng
chỉ cần biết đọc biết viết là đủ. Suốt ngày cậu cờ bạc lêu lổng.
CAMILLÔ NHẬP NGŨ
biết con trai mình chẳng chịu học hàng tới nơi tới chốn, ông Giovanni lo cho con trai nhập ngũ để học kỹ cương nhà binh hầu trở nên người tốt. Camillo gia nhập lữ đoàn Hải Quân hoàng gia. Ông Giovanni dành nhiều thời gian ân cần dạy con. Tuy nhiên chẳng bao lâu ông lâm bệnh và qua đời ở tuổi 70. Camillo mồ côi cả cha lẫn mẹ. giống như những chiến sĩ hải quân khác, Camillô trải qua nhiều huấn luyện, thử thách và tham gia nhiều trận chiến.
CỜ BẠC
Tệ nạn cờ bạc rất phổ biến trong đời chiến binh thế kỷ XVI. Mồ côi cả cha lẫn mẹ, Camillô buồn nên chỉ biết lao vào cơ bạc cho khuây khoả. một lần, bọn xấu lợi dụng, Camillô bị thua sạch. Càng cố gỡ , càng thua đến độ Camillô phải gán cả quần áo.
BÃO BIỂN
giới trẻ thườn cậy sức mạnh mình. họ tin vào số phận nhiều hơn là tin vào
Thiên Chúa. Chỉ khi nào gặp hiểm nguy họ mới chạy tới Chúa.
Một lần thuỷ thủ đoàn đang di chuyển từ Tây
Ban Nhatrở về Naplethì gặp bão lớn. Bảo kéo dài suốt 3 ngày 3 đêm mà vẫn
không có dâu hiệu giảm đi, mọi người ai nấy đều mệt mỏi và lo sợ.
Camillô cầu nguyện khấn xin Chúacho thoát
nạn. chàng hứa với Chúa rằng khi thoát nạn chàng sẽ đi tu dâng mình cho
Chúa. Nhưng khi tàu thoát nạn cập bến, Camillô đã quên hết những nguy hiểm
và những gì đã khấn hứa cùng Chúa.
LẦN ĐẦU TIÊN TẠI NHÀ THƯƠNG
Camillô cao 2 mét, rất khoẻ mạnh và thường không ngại khó khăn xông pha hiểm
nguy. Anh có 1 vết thương nhỏ bên trên mắt cá chân. vết thương lúc đầu nhỏ
nhưng càng ngày càng lan rộng . Camillô phải đi nhà thương tháng James tại
thàng phố Roma để chữa trị. ở nhà thương chẳngbao lâu vết thương đã khá hơn
nhưng Camillo muốn ở lại chữa cho dứt điểm . trong thời gian này, Camillo
nhận nhiệm vụ phục vụ bệnh nhân trang trải cuộc sống thường nhật. nhưng
Camillo chẳng chịu phụ vụ bệnh nhân mà suốt ngày lo chơi bời , cờ bạc. do
vậy Camillo bị đuổi ra khỏi nhà thương.
ĂN XIN
Mùa đông Châu Âu lạnh cóng. những chiến binh thường về quê ẩn đông. những
người vô gia cư thì phải đi ăn xin hoặc là trộm cướp để sinh sống. Camillo
đã nướng sạch mọi sự vào cờ bạc nên phải đi xin ăn. Đứng ngả mủ xin những
người qua lại tại Manphredonia, Camillo cảm thấy vô cùng xâu hổ nhưng không
còn con đường nào khác. May thay 1 người qua đường động lòng thương giới
thiệu Camillo vô giúp việc cho Dòng Capuchins để sống qua ngày.
CHA ANGELLO
Khi làm việc trong Dòng Capuchins, một hôm Camillo được cử tới 1 tu viện
khác của Dòng để lãnh lương thực, thực phẩm. sau khi đã chuẩn bị xong mọi
thứ đã sẵn sàng trở về, Camillo được cha Angello, bề trên cộng đoàn tiếp
chuyện. Ngài khuyên dạy Camillo rằng phần rỗi linh hồn là phần quan trọng
nhất. Ngài còn khuyên Camillo từ bỏ mọi tội lỗi để trở nên người tốt.
những điều cha Angello chỉ dạy đánh động
trái tim Camillo. Chàng cám ơn cha và xin Cha cầu nguyện cho mình.
CAMILLO ĂN NĂN THỐNG HỐI
Ngày 02 tháng 02 năm 1575, Camillo lên đường trở về Manphredonia. Trên đường
về , Camillo suy gẫm về những gì đã xãy đến trong cuộc đời mình . Chúa ban
cho Camillo ơn đặc biệt . Chàng mạnh dạn ý thức với thân phận tội lỗi của
mình. Camillo vội vã xuống ngựa và quỳ xuống trên đường lởm chởm đá. Anh
khóc “ lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi. sao con không nhận biết Chúa sớm hơn”.
Camillo tạ ơn Chúa về những ơn Chúa ban.anh
quyết tâm không rời bỏ Chúa nữa và sẽ mau mắn đi tu như đã hứa cùng Chúa.
TRỞ LẠI THÀNH ROMA
Ngay sau khi trở lại Manphredonia, Camillo xin tu Dòng Capuchins. Trong Dòng
Camillo sống tốt với hết mọi người nên được mọi người rất yêu quý. Nhưng vết
thương cũ nơi chân lại hoành hành làm cho Camillo không thể tiếp tục tu
được. Anh bị bề trên Dòng cho ngừng tu để chữa trị vết thương.
Camillo trở lại nhà thương thánh James ở
thành phố Rome nơi anh đã từng chữa trị vết thương. lần này Camillo cũng
nhận nhiệm vụ phục vụ bệnh nhân như trước. Tuy nhiên, khác với lần trước,
lần này Camillo phục vụ chăm sóc bệnh nhân với hết cả tấm lòng mình.
QUẢN LÝ NHÀ THƯƠNG
Sau 4 năm chữa trị bệnh viện tại nhà thương. Camillo rời nhà thương để quay
trở lại dòng Capuchins. Nhưng vết thương ở chân lại hoành hành . Camillo 1
lần nữa phải rời dòng capuchins không được tu nữa . Biết làm gì bây giờ?
Camillo quay lại nhà thương thánh James tình nguyện phục vụ những bệnh nhân
nghèo. Anh được tín nhiệm làm quản lý nhà thương.
SÁNG LẬP DÒNG
Camillo đêm ngày chăm sóc bệnh nhân. Đêm 15 tháng 08 năm 1582 , Camillo được
linh hứng về một ý tưởng thành lập Dòng. Anh muốn phục vụ bệnh nhân vì tình
yêu Thiên Chúa hiện diện nơi mỗi người đau khổ bệnh tật chứ không phải vì lý
do tiền bạc.
LỜI ĐỘNG VIÊN CỦA CHÚA GIÊSU TỪ THẬP GIÁ
chẳng bao lâu Camillo quy tụ được 5 thanh niên cùng ý chí với mình. họ mượn
1 phòng trong nhà thương làm nơi cầu nguyện và hội họp trao đổi với nhau mỗi
ngày.
những ngày đầu tiên gầy dựng dòng gặp rất
nhiều khó khăn từ nhiều phía xã hội cũng như Giáo Hội . Camillo hầu như đã
nản chí muốn bỏ cuộc. nhưng 1 đêm, đang khi Camillo cầu nguyện, Chúa Giêsu
rời thập giá xuống an ủi Camillo “con hãy vững tâm, đừng sợ, đừng bỏ cuộc.
đây là công việc của ta, chứ không phải con .
CHỊU CHỨC LINH MỤC
Camillo quyết định thành lập nhóm những người thiện chí để phục vụ bệnh
nhân. Nhưng anh chỉ là 1 người bình thường thì khó lòng có thể chiêu mộ được
nhiều người. Do vậy Camillo quyết định sẽ học để trở thành Linh mục. mặc dù
đã 30 tuổi, Camillo vẫn khiêm nhường đăng kí với những người trẻ.
Nhờ ơn Chúa, Camillo được Đức cha Goldwell
truyền chức linh mục ngày 26 tháng 05 năm 1584. Tân linh mục dâng lễ mở tay
ngày 10 tháng 06 năm 1584 cùng với bệnh nhân tại nhà thương tháng James.
THẬP GIÁ ĐỎ
Cha Camillo muốn gắn trên áo dòng thập giá đỏ như là dấu chỉ tình yêu của
Thiên Chúa ban cho những người nghèo khổ bệnh tật. Đức Giáo hoàng Sistus X
đã phê chuẩn nguyện vọng này. Cha Camillo và các thành viên của Dòng hết sức
yêu quý và trân trọng biểu tượng cao đẹp này.
một lần cha chia sẻ rằng “ đây là biểu
tượng mẹ tôi đã gặp trong giấc mơ. Bà nghĩ rằng đó là dấu chỉ dữ. nhưng
Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng ta. Thập giá đỏ chính là dấu chỉ tình yêu
Chúa ban cho nhân loại, và là biểu tượng của niềm vinh danh Chúa.
PHỤC VỤ BỆNH NHÂN DÙ HY SINH TÍNH MẠNG
Cha Camillo và những thành viên của Dòng ngoài việc giữ các lời khấn Phúc Âm
: khó nghèo, trong sạch, vâng lời còn khấn lời khấn thứ 4 : phục vụ người
bệng cho dù có nguy hại đến tính mạng.
XÂY
DỰNG MỞ MANG NHÀ DÒNG
Cha Camillo đi khắp các thành phố lớn của Italy để gầy dựng, mở mang và phát
triển nhà dòng. Ngài muốn đòan sủng của dòng lan rộng khắp nơi tới những
người đau khổ bệnh tật .Chẳng bao lâu nhà dòng đã phát triển tại rất nhiều
thành phố của Italy.
Cha Camillo được các thành viên bầu chọn là
Bề trên tổng quyền. Bởi vậy ngài luôn đi kinh lý để lắng nghe, giúp đỡ và
giải quyết những công việc của Dòng.
PHỤC VỤ KHI BỆNH DỊCH
Rome vào triều đại Đức Giáo Hòang Gregory XIV dịch bệnh hoành khắp thành phố
làm thiệt mạng 60 ngàn người. Cha Camillo và các tu sĩ của dòng ngày đêm
phục vụ bệnh nhân không nghỉ ngơi. Họ giúp bệnh nhân ăn uống tắm giặt, thuốc
thang. họ cũng luôn cận kề bên những người lâm chung để an ủi động viên và
cầu nguyện cho bệnh nhân .
PHỤC VỤ TRÊN BIỂN
Cha Camillo đã nhiều lần vượt biển . Mỗi khi ngài tới tàu, việc đầu tiên
ngài hỏi các thủy thủ đòan xem có ai bị bệnh trên tàu không . Ngài luôn tình
nguyện sống cùng những bệnh nhân để phục vụ cho họ mặc dù những nơi như vậy
thường hôi hám và tối tăm. Mỗi khi tàu ghé cảng, cha Camillo thường mua chút
gì đó làm quà cho những ai bệnh tật không thể tự mình đi lại được.
PHỤC VỤ TRONG CHIẾN TRANH
Cha Camillo trở lại chiến trường lần nữa. nhưng lần này với thập giá đỏ trên
ngực ngài và các đồng nghiệp tới để phục vụ thương bệnh binh của chiến
tranh.
Cha Camillo và những cộng sự phục vụ bệnh
nhân hết sức mình. Nơi nào có thập giá đỏ, nơi đó bệnh nhân được quan tâm
phục vụ nơi đó có sự trao nhận tình yêu.
PHỤC VỤ KHI BỘ HÀNH
rất nhiều khi người ta gặp cha Camillo vác bênh nhân trên vai. Đôi khi không
phải là 1 người nhưng là 2 hay 3 người. Một lần khi ngang qua một khu phố
giàu có, Cha Camillo gặp 1 người bệnh nằm vất vưởng cô đơn bên vệ đường.
Những người qua lại không ai ngó ngàng chi đến người nghèo khổ đó cả . Cha
Camillo cúi xuống ân cần vác bệnh nhân lên vai đem về cộng đòan để chăm sóc.
PHỤC VỤ BẤT CỨ NƠI NÀO
Một lần đang khi đi chung xe ngựa với 1 nhà quý tộc. Cha Camillo nhìn thấy 1
người bệnh yếu ớt nằm bên đường . Ngài đề nghị cho xe dừng và xuống ẵm người
bệnh lên xe. Nhà quý tộc rùng mình khiếp sợ vì nguy hiểm và hôi hám nhưng
cũng rất cảm kích bởi tình yêu của cha Camillo với bệnh nhân.
NHU CẦU CỦA BỆNH NHÂN TRƯỚC
Cha Camillo luôn có lòng yêu mến và tôn trọng các phẩm trật trong Giáo Hội.
Nhưng ngài luôn đặt nhu cầu cấp bách của bệnh nhân lên trên hết. Có lần trên
đường từ tu viện tới nhà thương , Cha Camillo gặp Đức Hồng Y bảo trợ của
Dòng, Đức Hồng Y hỏi qua tình hình của Dòng, của bệnh nhân . Ngài muốn trao
đổi với cha Camillo một số việc có liên quan đến nhà Dòng, cha Camillo chỉ
nồi cháo trên tay và nói : “ thưa cha,con phải đi vội vì bệnh nhân có thể
đang chờ con”. Nói xong , cha Camillo cúi xuống kính cẩn hôn nhẫn Đức Hồng Y
rồi vội vã tới nhà thương.
PHỤC VỤ TRONG LỤT LỘI
Noel năm 1598 , đê sông Tibe bị vỡ, nước tràn ngập khắp nơi . Người ta vội
vã di chuyển chạy lụt. Cha Camillo và các tu sỹ của Dòng lặn lội suốt đêm để
di chuyển bệnh nhân mà vẫn không xuể. Khi nước đã dâng tới ngang lưng. họ
phải vác bệnh nhân trên vai để tránh cho bệnh nhân không bị nứơc lạnh. Cha
thầm nghĩ “ Giá như có hàng trăm tay để phục vụ bệnh nhân”.
MUỐN PHỤC VỤ SUỐT ĐỜI
Do lao động quá kiệt sức , cha Camillo bị các bác sĩ yêu cầu nghỉ ngơi tại
tu viện, không được tiếp tục làm việc bên nhà thương . Cha vẫn muốn phục vụ
bệnh nhân . Cha xin được giữ chìa khóa phòng làm việc của cha bên nhà thương
tới sau khi cha qua đời , Cha nói “ cho dù thân xác cha không còn bên nhà
thương, nhưng tâm hồn và tình yêu của cha luôn ở cùng những bệnh nhân
nghèo”.
GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG
Thành Rome đêm 14 tháng 7 năm 1614 tối sẫm như mực. Mọi người quy tụ quanh
cha Camillo để cầu nguyện cho ngài. Đức Hồng Y tới ban phép sức dầu thánh
cho cha cùng ban cho cha phép lành tòa thánh. Sau khi mọi người vừa dứt lời
cầu nguyện, Cha Camillo trút hơi thở cuối cùng.
với 40 năm phục vụ Chúa hiện diện trong
người bệnh, cha Camillo hưởng thọ 65 tuổi.
TÌNH YÊU CHA CAMILLO SỐNG MÃI
Đã mấy trăm năm, cho dù cha Camillo không còn nữa nhưng tinh thần của ngài
vẫn sống giữa những người nghèo khổ bệnh tật, những người bị ruồng bỏ, bị
đẩy ra bên thềm của xã hội. tinh thần và tình yêu của cha vẫn được sống,
trao và nhận bởi những tu sĩ dòng Camillian và những ai yêu quý đòan sủng
của Dòng.
VINH QUANG
những người nghèo khổ bệnh tật luôn tìm được an ủi nơi cha Camillo cũng như
không ngừng cầu nguyện cho ngài. nhờ sữ hiệp thông này, Chúa đã ban cho niềm
vinh quang cho tôi tớ của Chúa. Năm 1886 Đức Giáo Hòang Leo XII đã tông
phong cha Camillo lên hàng Hiển Thánh đồng thời là thánh bảo trợ bệnh nhân.
Năm 1939 Đức Giáo Hòang Pio XI tôn vinh
thánh Camillo là thánh bảo trợ các nhà thương và thầy thuốc.
PHÁT TRIỂN DÒNG TRÊN KHẮP THẾ GIỚI
Hơn 400 năm hình
thành và phát triển. Dòng Camillo nam va Camillo nữ hiện diện và phục vụ
bệnh nhân nghèo trên hơn 40 nước trên thế giới. Tình yêu của Chúa qua cách
thế của cha Camillo đã được gieo vào Việt Nam . chúng ta tạ ơn Chúa và hy
vọng linh đạo của dòng sẽ luôn không ngừng phát triển.
Có mộ phản hồi
tới “Tiểu Sử”
Bài Ðọc I: (Năm II) Is 38, 1-6. 21-22. 7-8
"Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, và Ta đã lau sạch nước mắt của ngươi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Trong những ngày ấy Êdêkia đau gần chết. Tiên tri Isaia, con ông Amos đến thưa người rằng: "Chúa phán thế này: Ngươi hãy sắp xếp công việc nhà cửa của ngươi, vì ngươi sắp chết, không sống được nữa". Êdêkia liền quay mặt vào vách, cầu nguyện cùng Chúa rằng: "Ôi lạy Chúa, con van xin Chúa, xin Chúa hãy nhớ lại: con đã sống ngay chính trước mặt Chúa, và đã làm những điều đẹp lòng Chúa". Rồi Êdêkia than khóc lớn tiếng.
Bấy giờ Chúa phán cùng Isaia rằng: "Hãy đi nói với Êdêkia rằng: Ðây Chúa là Thiên Chúa Ðavít, tổ phụ ngươi, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, và Ta đã thấy nước mắt của ngươi. Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa. Ta sẽ cứu ngươi và bảo vệ thành này khỏi tay vua Assyria".
Isaia sai người đi lấy mẩu bánh trái vả đắp lên mụn ung độc, và vua liền khỏi bệnh. Bây giờ Êdêkia hỏi: "Có dấu nào cho ta biết coi ta còn lên đền thờ Chúa được chăng?" Isaia đáp: "Ðây là dấu lạ Chúa ban cho vua, vì Chúa sẽ thực hiện lời Người đã phán: "Ta sẽ làm cho bóng đã ngả trên bảng độ Acaz lui lại mười độ". Và mặt trời lui lại mười độ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Is 38, 10. 11. 12. 16
Ðáp: Lạy Chúa, xin cứu mạng sống con, ngõ hầu con khỏi phải chết (c. 17b).
Xướng: 1) Con đã từng nói: Ðến nửa đời con, con sẽ đi đến cửa địa ngục. Con sẽ bị giam giữ những năm cuối đời con. - Ðáp.
2) Con đã từng nói: Con sẽ không nhìn thấy Thiên Chúa trong đất nước những kẻ nhân sinh: con sẽ không còn thấy người ta nữa, không còn trông thấy dân chúng sống yên vui. - Ðáp.
3) Miêu duệ con đã xa cách và lìa bỏ con, như chiếc lều của những mục tử. Như người thợ dệt, con lôi cuốn đời sống con đi; con chặt đứt nó, khi nó còn muốn kéo dài. - Ðáp.
4) Lạy Chúa, đời sống con là như thế, và đời sống tinh thần của con cũng như vậy, nhưng xin Chúa hãy thuyên chữa và cứu sống con". - Ðáp.
Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 12, 1-8
"Con Người cũng là chủ ngày sabbat".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói, liền bứt bông lúa mà ăn. Thấy vậy, các người biệt phái thưa với Người rằng: "Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat". Người nói với các ông rằng: "Các ông không đọc thấy Ðavít và những người đi với ông đã làm gì khi đói lả sao? Các ông cũng không đọc thấy Ðavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến, bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc tội đó sao? Tôi bảo cho các ông biết, đây có Ðấng còn trọng hơn đền thờ nữa. Vì nếu các ông biết được điều này là, "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ", chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat".
Ðó là lời Chúa.
1) Con đã từng nói: Ðến nửa đời con, con sẽ đi đến cửa địa ngục. Con sẽ bị giam giữ những năm cuối đời con.
2) Con đã từng nói: Con sẽ không nhìn thấy Thiên Chúa trong đất nước những kẻ nhân sinh: con sẽ không còn thấy người ta nữa, không còn trông thấy dân chúng sống yên vui.
3) Miêu duệ con đã xa cách và lìa bỏ con, như chiếc lều của những mục tử. Như người thợ dệt, con lôi cuốn đời sống con đi; con chặt đứt nó, khi nó còn muốn kéo dài.
4) Lạy Chúa, đời sống con là như thế, và đời sống tinh thần của con cũng như vậy, nhưng xin Chúa hãy thuyên chữa và cứu sống con".
Bài Ðọc I: (Năm II) Mk 2, 1-5
"Chúng tham lam ruộng đất và chiếm lấy nhà cửa".
Trích sách Tiên tri Mikha.
Khốn cho những kẻ suy tính điều gian ác, và mưu đồ việc xấu xa trong phòng mình. Sáng ngày, chúng thực hiện điều đó, vì tay chúng chống lại Thiên Chúa. Chúng tham lam và dùng võ lực chiếm lấy ruộng đất, nhà cửa kẻ khác. Chúng ức hiếp người ta, phá phách nhà họ, chủ nhà và sản nghiệp của họ. Vì thế, Chúa phán thế này:
Ðây Ta toan giáng hoạ trên dòng giống này mà các ngươi không thoát được, các ngươi không ngước đầu lên mà đi được nữa, vì đây là thời kỳ tai hoạ. Trong ngày đó, người ta ngâm bài trào phúng chế diễu các ngươi và sẽ hát bài ca thán mà rằng: "Chúng ta đã bị bóc lột hết rồi, sản nghiệp dân ta bị đổi chủ, làm sao Chúa tước đoạt của cải chúng ta, và phân chia đất đai chúng ta cho những kẻ bóc lột chúng ta".
Vì thế, trong cộng đoàn Thiên Chúa, không còn ai giăng dây chia đất cho ngươi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 10, 1-2. 3-4. 7-8. 14
Ðáp: Lạy Chúa, xin đừng quên những kẻ cơ bần (c. 12b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, tại sao Ngài xa cách, tại sao Ngài ẩn mặt trong lúc gian truân, đang khi đứa ác kiêu căng, người nghèo bị hại, bị trúng mưu gian nó đã bày ra? - Ðáp.
2) Bởi đứa tội nhân đang hãnh diện vì lòng tham; tên kẻ cắp đang lộng ngôn, khinh nhờn Chúa. Ðứa ác nhân ngạo nghễ thốt lời: "Ngài không báo ứng, không có Chúa Trời!" Ðó là tất cả điều nó suy tư. - Ðáp.
3) Miệng nó đầy lời chửi rủa, gian ngoan và xảo kế, dưới lưỡi nó chứa sự tân toan và sách nhiễu. Nó ngồi núp gần những nơi thôn xóm, trong chỗ khuất tịch nó giết người hiền lương, mắt nó rình xem kẻ cơ bần. - Ðáp.
4) Nhưng Ngài thấy, Ngài nhìn nỗi tân toan sầu khổ, để rồi Ngài đỡ lấy trong tay. Kẻ cơ bần đem thân phó thác cho Ngài, Ngài là Ðấng phù trợ kẻ mồ côi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 144, 13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 12, 14-21
"Người cấm họ đừng cho ai biết Người, để ứng nghiệm lời đã phán".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các người biệt phái đi ra ngoài, bàn mưu kế chống lại Chúa Giêsu để hãm hại Người. Biết thế, Chúa Giêsu rời bỏ nơi ấy. Có nhiều kẻ đi theo Người, và ai có bệnh, đều được Người chữa lành. Người cấm họ đừng cho ai biết Người, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã chép rằng:
"Này là tôi tớ Ta đã chọn, là người Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Ta sẽ cho Thần trí ngự trên Người. Người sẽ rao giảng sự công chính cho dân ngoại. Người không cãi cọ hay dức lác, và không ai nghe tiếng Người ngoài đường phố. Người không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói, cho đến lúc Người khiến sự công minh được toàn thắng. Dân ngoại sẽ hy vọng vào danh Người".
Ðó là lời Chúa.
Cho dù Chúa có trừng phạt thì Người cũng sử dụng chính cái vạ do tội ác của phạm nhân gây ra, cái hậu quả tội ác của họ mà làm cho họ mở mắt ra nhận biệt tội lỗi của họ và lòng thương xót của Người mà ăn năn thống hối để được cứu độ mà thôi.
Đó là lý do chúng ta thấy trong Bài Đọc 1, trích sách Tiên Tri Mikha, đối với thành phần suy tính điều gian ác, và mưu đồ việc xấu xa trong phòng mình. Sáng ngày, chúng thực hiện điều đó, vì tay chúng chống lại Thiên Chúa. Chúng tham lam và dùng võ lực chiếm lấy ruộng đất, nhà cửa kẻ khác. Chúng ức hiếp người ta, phá phách nhà họ, chủ nhà và sản nghiệp của họ", Chúa đã phải làm cho họ phải làm sao tỉnh ngộ "Chúng ta đã bị bóc lột hết rồi, sản nghiệp dân ta bị đổi chủ, làm sao Chúa tước đoạt của cải chúng ta, và phân chia đất đai chúng ta cho những kẻ bóc lột chúng ta".
Trong Bài Đáp Ca hôm nay cũng thế, cho dù thấy được chẳng những đối phương gian ác của mình (câu 1, 2 và 3), nhưng cuối cùng chính họ cũng phải công nhận rằng Thiên Chúa thấu biết tất cả mọi sự, kể cả cái gian ác của kẻ ác, lẫn nỗi khổ đau của nạn nhân tội lỗi, thành phần nhận biết mình và tin vào Người mới cảm nghiệm thấy lòng thương xót của Người ngay trong lúc gian nan khốn khổ của mình, do chính tội lỗi của mình gây ra. Nghĩa là Thiên Chúa muốn sử dụng chính tội lỗi của con người để tỏ mình cho con người, như thế là Người biến sự ác họ gây ra thành sự lành cho họ rồi vậy.
1) Lạy Chúa, tại sao Ngài xa cách, tại sao Ngài ẩn mặt trong lúc gian truân, đang khi đứa ác kiêu căng, người nghèo bị hại, bị trúng mưu gian nó đã bày ra?
2) Bởi đứa tội nhân đang hãnh diện vì lòng tham; tên kẻ cắp đang lộng ngôn, khinh nhờn Chúa. Ðứa ác nhân ngạo nghễ thốt lời: "Ngài không báo ứng, không có Chúa Trời!" Ðó là tất cả điều nó suy tư.
3) Miệng nó đầy lời chửi rủa, gian ngoan và xảo kế, dưới lưỡi nó chứa sự tân toan và sách nhiễu. Nó ngồi núp gần những nơi thôn xóm, trong chỗ khuất tịch nó giết người hiền lương, mắt nó rình xem kẻ cơ bần.
4) Nhưng Ngài thấy, Ngài nhìn nỗi tân toan sầu khổ, để rồi Ngài đỡ lấy trong tay. Kẻ cơ bần đem thân phó thác cho Ngài, Ngài là Ðấng phù trợ kẻ mồ côi.
Thánh Apollinaris Ravenna
20/7
(thế kỷ thứ 1)
Vị thánh này sống ở thế kỷ thứ nhất. Những điều chúng ta biết về thánh nhân được trích từ sách “Tông Đồ Công Vụ” và các tài liệu, bài giảng của hai thánh Bêđa và Phêrô kim ngôn.
Thánh Apollinaris sinh tại Antioch, Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài là môn đệ của thánh Phêrô. Thánh Phêrô đã đặt Apollinaris làm giám mục và sai ngài tới truyền giáo tại Ravenna, nước Ý. Ở đó, Apollinaris đã làm cho nhiều người trở về với Giáo hội bằng gương sáng đời sống thánh thiện cũng như bằng những lời ngài rao giảng. Nhân danh Đức Kitô, thánh Apollinaris có thể chữa lành những người đau bệnh.
Thánh Apollinaris làm giám mục trong thời trị vì của hoàng đế Vespasian. Vì những cuộc bách hại các Kitô hữu, Apollinaris đã bị đi đày bốn lần. Thực sự, không chắc là Apollinaris đã bị chết vì đức tin, nhưng thánh nhân đã bị giam cầm và bị hành hạ rất nhiều lần trong suốt hai mươi năm làm giám mục giáo phận Ravenna. Thánh nhân được dân chúng tôn nhận như vị thánh tử đạo năm 79 bởi những cuộc bách hại ngài chịu vì Chúa Kitô, thậm chí dù ngài đã làm ơn cứu sống những người bách hại ngài dưới thời cấm cách đạo của hoàng đế Vespasian.
Thánh tích của ngài hiện còn ở tu viện Benedictine ở Classe, Ravenna, nước Ý và nhà thờ Thánh Lambert ở Düsseldorf, Germany. Nhiều thế kỷ sau, ngài hiện ra với Thánh Ramuald trong một thị kiến.
Các thánh tử đạo là những chứng nhân của Chúa Kitô và của Tin mừng. Hết thảy chúng ta cũng được mời gọi để trở nên những chứng nhân của Chúa qua cuộc sống đức tin. Đời sống của thánh Apollinaris cho chúng ta biết các thánh tử đạo không chỉ là những người làm chứng cho Chúa Kitô vì đã dám hy sinh mạng sống, mà các ngài còn trung thành sống Tin mừng của Chúa suốt trọn cuộc đời, ngay cả trong những nghịch cảnh đau thương.
nguon:https://dongten.net/2019/07/19
APÔLLINARÊ,
GIÁM MỤC, TỬ ĐẠO
I. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng kính thánh Apôllinarê, Giám Mục, Tử Đạo.
Chúng ta không có nhiều tài liệu lịch sử về vị Giám Mục này.
Tài liệu chỉ cho chúng ta biết: Vị thánh này sống ở thế kỷ thứ nhất và
những điều chúng ta biết được về thánh nhân được đều được trích từ các tài
liệu và bài giảng của hai thánh Bêđa và Phêrô kim ngôn. Đây là hai
vị thánh tiến sĩ nổi tiếng của Giáo Hội. Tuy
nhiên các tài liệu này cũng rất hạn chế.
Một cách vắn gọn thì tài liệu cho chúng ta biết Thánh
Apôllinarê sinh tại Antiôkia. Ngài là môn đệ của thánh Phêrô Kim Ngôn. Thánh
Phêrô đã đặt Apôllinarê làm Giám mục và sai ngài tới truyền giáo tại
Ravenna, nước Ý. Ở đó, Apôllinarê đã làm cho nhiều người trở về với Giáo
hội bằng gương sáng đời sống thánh thiện cũng như bằng những
lời ngài rao giảng. Nhân danh Đức Kitô, thánh Apôllinarê có thể chữa lành
những người đau bệnh.
Thánh Apôllinarê làm Giám mục trong thời trị vì của hoàng đế Vespasianô. Vì
những cuộc bách hại các Kitô hữu, Apôllinarê đã bị đi đày bốn lần. Thực
sự, không chắc là Apôllinarê đã bị chết vì đức tin, nhưng thánh nhân đã bị
giam cầm và bị hành hạ rất nhiều lần trong suốt 20 năm làm Giám mục Giáo
phận Ravenna. Thánh nhân được dân chúng tôn kính như vị thánh tử đạo bởi
những cuộc bách hại ngài phải chịu vì Chúa Kitô.
Tóm lại đời sống của thánh Apôllinarê đã cho chúng ta thấy thánh nhân là
người đã can đảm làm chứng cho Chúa Kitô, Ngài can đảm hy sinh cả mạng sống
để nói lên lòng trung thành của mình đối với Tin Mừng của Chúa suốt trọn
cuộc đời.
II. BÀI HỌC.
Kính thưa anh chị em,
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà nhiều người không còn muốn tin vào
Thiên Chúa nữa.
Một câu truyện như một minh họa cho sự việc này:
“Một hôm thần dữ Satan triệu tập tất cả các sứ giả của mình lại để sai đến
trần gian với sứ mạng duy nhất này là giải thích cho con người biết Thiên
Chúa đã chết rồi.
Các sứ giả ra đi. Nhưng không bao lâu sau tất cả đều trở về. Thần dữ Satan
ngạc nhiên hỏi:
-Tại sao các ngươi thực hiện công tác nhanh như thế? Hay là có chuyện gì
trục trặc chăng?
Các sứ giả đồng thanh đáp:
- Thưa Ngài, chúng tôi không còn việc gì để làm nữa. Bởi vì tất cả những nơi
chúng tôi đi qua trên trần gian, nơi nào con người cũng sống như thể Thiên
Chúa đã chết rồi. Họ hận thù, chém giết nhau, gian tham, trộm cắp. Không có
gì xấu mà con người không làm. Dù nhiều người vẫn còn xưng mình là kẻ tin
Thiên Chúa, nhưng cách sống của họ không hề biểu lộ niềm tin này mà ngược
lại như là loan báo Thiên Chúa đã chết rồi. Như vậy chúng ta đâu cần tốn
công thuyết phục con người nữa.
Con người sống như Thiên Chúa đã chết. Đó là một lời cảnh tĩnh nghiêm trọng
đáng cho chúng ta, những đồ đệ của Chúa Giêsu, suy nghĩ để kiểm điểm lại đời
sống mình hôm nay.
Thánh Apôllinarê ngày xưa bằng lời rao giảng và nhất là bằng cuộc sống tốt
lành, thánh thiện của ngài đã cho mọi người như đang được gần gũi với một
Thiên Chúa đầy lòng thương xót đang hiện diện giữa con người và làm cho con
người biết sống yêu thương nhau cũng như được sống một cuộc sống hạnh phúc
hơn.
Mỗi người chúng cũng hãy làm cho Chúa được lớn lên trong cuộc sống của chúng
ta cũng như trong cuộc sống của mọi người trên thế giới này để mọi người
đang sống trên thế giới đầy đau khổ này tìm được niềm vui và ý nghĩa cho
cuộc sống của mình.
Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Có gia đình kia đi nghỉ hè ngoài bờ biển. Hôm đó mấy đứa con đang nô đùa,
xây lâu đài bằng cát trên bãi biển, thì thấy một cụ bà xuất hiện. Tóc bà rối
bời trong gió, áo quần tả tơi. Bà vừa đi vừa cúi xuống nhặt những vật gì đó
trên mặt cát và cho vào giỏ.
Cha mẹ các trẻ thấy bà nghèo xơ nghèo xác như thế thì cấm các trẻ đến gần
bà. Nhưng khi đi ngang họ, bà mỉm cười với họ, nhưng họ quay mặt đi chỗ
khác. Ít hôm sau, cả gia đình biết bà cụ đó là người tình nguyện đi lượm các
mảnh thủy tinh rơi rớt trên bãi biển, để các trẻ em đi trên cát khỏi bị đứt
chân.
“Giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết” (Ga. l,26)
Cụ bà nghèo khó tình nguyện làm việc âm thầm để cho các trẻ khỏi đứt chân.
Phải chăng bà là hình ảnh Chúa Giêsu. Người ở giữa mọi người, ban ơn
làm phúc cho mọi người mà loài người không biết, không nhận Người, khinh dễ
người. Và gioan Tiền hô, qua lối sống khổ hạnh khác thường, đã làm chứng cho
Đấng Cứu Thế. Như Gioan, mỗi người tin hữu cũng là chứng nhân cho Chúa Kitô
trong cuộc sống. Teillard de Chardin đã ví: Anh
Sáng xuyên qua đám mây, người ta biết là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời
sống chúng ta, mọi người đoán được có Đức Kitô “.Và
Martin Luther King đã nói: “Chúng ta không chỉ làm chứng bằng lời
nói, mà còn bằng cuộc sống của mình” (Theo Như Thầy đã yêu)
Thiên Chúa mà chết đi khỏi tấm lòng con người, thì con người cũng bị hủy
diệt theo.
Xã hội chúng ta, đất nước, quê hương chúng ta đang cần những chứng nhân của
Chúa.
Mỗi người chúng ta đều có sứ mệnh làm chứng cho Thiên Chúa hằng sống. Chúng
ta phải dùng chính cuộc sống tốt lành của mình để xác quyết Thiên Chúa đang
sống và hành động trong trần gian này.
Tự hào là môn đệ Chúa Giêsu, làm sao chúng ta có thể quên được nhật lệnh của
Thầy: “Chúng con hãy làm chứng!”
Đó là ơn gọi, là sứ mệnh, là căn tính, là lý do hiện hữu của người Kitô
chúng ta.
Ngày nay không ai lại không biết Mẹ Têrêsa thành Calcutta, một nữ tu Bác ái
chuyên việc tông đồ bằng cách phục vụ những kẻ mắc bệnh cùi, ốm đau, cùng
khổ, đặc biệt là những người đang hấp hối nằm la liệt trên các hè phố tại
Calcutta, Ấn Độ.
Trước đây, có lần một vị sư Phật giáo nói với Mẹ: “Tôi biết và yêu mến Đức
Kitô lắm, nhưng tôi ghét Hội thánh của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị
nói, có lẽ các chị sẽ trớ nên nơi hội ngộ để chúng tôi có thể gặp gỡ Hội
thánh của Đức Kitô”.
Sau một năm, có dịp cùng làm việc với Mẹ Têrêxa, vị sư đó phát biểu: “Tôi đã
quan sát chị. Bây giờ tôi thực sự tin rằng các chị làm việc chỉ cốt để giúp
những người nghèo khổ xấu số nhất. Chúng tôi sẽ dâng cho các chị một ngôi
nhà trong khuôn viên chùa chúng tôi để làm bệnh xá miễn phí!”
Nhờ các cuộc hoạt động từ thiện, bác ái, Mẹ Têrêsa đã nhận được nhiều giải
thưởng của chính phủ Ấn Độ, chẳng hạn như giải “Padna Shri” (Hoa huệ tuyệt
vời) năm 1963. Cùng năm đó, chính phủ Philippine tặng Mẹ giải thưởng
Magsaysay (giải thưởng dành cho vùng Đông Nam Á về các công cuộc xã hội).
Năm 1971, Mẹ lại được vinh dự lãnh giải thưởng “Hoà bình Gioan XXIII” do
chính tay Đức Phaolô VI trao tặng tại Rôma. Gần đây nhất, tháng 10 năm 1979,
Mẹ Têrêsa lại được hân hạnh nhận giải thưởng Nobel Hòa bình 1 979 là giải
thưởng lớn nhất và tiếng tăm nhất Thế giới.
Thế nhưng giải thưởng làm Mẹ Têrêsa thích thú và hãnh diện nhất chính là đưa
được nhiều người về với Hội Thánh Công giáo và làm cho nhiều người khác yêu
mến Hội Thánh của Đức Kitô hơn.
https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-20-07-thanh-apollinaregiam-muctu-dao-42537