SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Phụng Vụ Lời Chúa Tuần X Thường Niên
Chúa Nhật
Năm B - Trong Tuần Năm
Chẵn
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chúa Nhật X Thường Niên
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: St
3,9-15
"Ta sẽ gây mối thù giữa dòng giống
mi và dòng giống người đàn bà".
Trích sách Sáng thế.
Sau khi con người ăn trái cây biết
lành biết dữ, Ðức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: "Ngươi ở đâu?"
Con người thưa: "Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần
truồng, nên con lẫn trốn". Ðức Chúa là Thiên Chúa hỏi: "Ai đã cho ngươi biết
là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn
không?" Con người thưa: "Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái
cây ấy, nên con ăn". Ðức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: "Ngươi đã làm
gì thế?" Người đàn bà thưa: "Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn". Ðức Chúa
là Thiên Chúa phán với con rắn:
"Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị
nguyền rủa nhất
trong mọi loài súc vật và mọi loài dã
thú.
Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn
bà,
giữa dòng giống mi và dòng giống người
ấy;
dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và
mi sẽ cắn vào gót nó".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 129,
1-2.3-4.5-6a.6b-8
Ðáp: Chúa luôn
luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa. (c. 7bc)
Xướng: 1) Từ vực thẳm, con kêu lên
Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng
tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu. - Ðáp.
2) Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội,
nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng
con biết kính sợ Ngài. - Ðáp.
3) Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong
đợi, cậy trông ở lời Người. Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi
hừng đông. - Ðáp.
4) Hơn lính canh mong đợi hừng đông,
trông cậy Chúa đi, Ítraen hỡi, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc
nơi Người chan chứa. Chính Người sẽ cứu chuộc Ítraen cho thoát khỏi tội
khiên muôn vàn. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2Cr
4,13 - 5,1
"Chúng tôi tin, nên chúng tôi mới
nói".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Thưa anh em, có được cùng một lòng
tin, như đã chép: Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng tôi cũng tin, nên
chúng tôi mới nói. Quả thật, chúng tôi biết rằng: Ðấng đã làm cho Chúa Giêsu
trỗi dậy, cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giêsu, và đặt
chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em. Thật vậy, tất cả những điều ấy xảy
ra là vì anh em. Như thế, ân sủng càng dồi dào, thì càng có đông người hơn
dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn vinh Người.
Cho nên chúng tôi không chán nản. Trái
lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên
trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm
thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận
tuyệt vời. Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình,
nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm
thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn.
Quả thật, chúng ta biết rằng: nếu ngôi
nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá hủy đi, thì chúng ta
có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời,
không do tay người thế làm ra.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga
12,31b-32
Alleluia, alleluia! - Chúa nói: Giờ
đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! Phần tôi, một khi được
giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 3,20-35
"Xatan đã tận số".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Marcô.
Khi ấy, Ðức Giêsu và các môn đệ trở về
nhà, và đám đông lại kéo đến, nên Người và các môn đệ không sao ăn uống
được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng
Người đã mất trí.
Còn các kinh sư từ Giêrusalem xuống
thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám, và người dựa thế quỷ
vương mà trừ quỷ. Ðức Giêsu liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ:
"Xatan làm sao trừ Xatan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền;
nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy Xatan mà chống Xatan, Xatan
mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. Không ai có thể vào
nhà kẻ mạnh mà cướp của được, nếu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới
cướp sạch nhà nó.
"Tôi bảo thật các ông: mọi tội lỗi và
lời phạm thượng, dù nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng sẽ được
tha cho con cái loài người. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời
nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời". Ðó là vì họ đã nói: "Ông ấy bị thần
ô uế ám".
Mẹ và anh em Ðức Giêsu đến, đứng ở
ngoài, cho gọi Người ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ
nói với Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang
tìm Thầy!" Nhưng Người đáp lại: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?" Rồi Người
rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: "Ðây là mẹ tôi, đây là anh em
tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ
tôi".
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm Lời Chúa
Phụng niên của Giáo Hội bao gồm 2 giai đoạn của Mùa Thường Niên hay cũng gọi
là Mùa Quanh Năm, giai đoạn đầu sau Mùa Giáng Sinh và giai đoạn cuối sau Mùa
Phục Sinh. Giai đoạn Mùa Thường Niên sau Mùa Giáng Sinh chỉ kéo dài nhất là
9 tuần lễ, và ngắn nhất là 5 tuần lễ. Tuần 10 Thưòng Niên, đối với năm nào
có giai đoạn Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh dài 8 hay 9 tuần, là tuần kể như
bắt đầu giai đoạn Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh. Mà giai đoạn Mùa Thường
Niên nào cũng thế, cũng liên hệ với Mùa Phụng Vụ ngay trước đó, với Mùa
Giáng Sinh hay với Mùa Phục Sinh. Nếu giai đoạn Mùa Thường Niên Hậu
Giáng Sinh liên quan đến Mùa Giáng Sinh, ở chủ đề "Người Con
duy nhất đến từ Cha đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14), thì giai đoạn
Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh cũng liên quan đến Mùa Phục Sinh, ở chủ đề: "Tôi
đến cho chiên được sự sống và là một sự sống viên mãn" (Gioan 10:10).
Như thế, sự sống ngay từ ban đầu của loài người được Thiên Chúa dựng nên
theo hình ảnh thần linh và tương tự thần linh (xem Khởi Nguyên 1:26-27) dù
là sự sống thần linh đấy, vì bấy giờ con người đang ở trong tình trạng công
chính nguyên thủy, đang được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, nhưng vẫn
chưa phải là "sự sống viên mãn", một "sự sống viên mãn"
tràn đầy Thánh Linh chỉ được thông ban cho loài người tạo vật qua Con Một
của Ngài mà thôi. Bởi vậy, ngay sau khi hai nguyên tổ vừa sa ngã phạm tội
mất lòng Thiên Chúa Hóa Công của mình, Thiên Chúa dường như đã chộp ngay lấy
cơ hội ấy để hứa ban cho họ "sự sống viên mãn" này, nơi Đấng được
Ngài hứa ngay trong bản án nguyên tội và được Bài Đọc I hôm nay ghi lại:
"Ta sẽ gây mối thù giữa mi và
người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ
đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó".
Trong bản án nguyên tội này bao gồm lời hứa cứu chuộc, lời hứa ban cho loài
người được "sự sống và là sự sống viên mãn" hơn như thế, Thiên Chúa
như thể đáp ứng ước vọng sâu xa của con người muốn nên giống như Thiên Chúa
(xem Khởi Nguyên 3:5), tức muốn được "sự sống và là sự sống viên mãn"
như Ngài và với Ngài, nhưng con người đã sử dụng phương cách để đạt được mục
đích ấy không đúng, bằng cách tự động muốn hái trái cấm mà ăn, thay vì hái
trái cây sự sống. Đúng thế, "sự sống viên mãn" chỉ có ở nơi Thiên
Chúa và do Thiên Chúa ban mới được. Bởi thế, sau khi thấy được ước vọng của
con người muốn nên giống như Ngài, Ngài đã hứa ban chính bản thân Ngài là
Con Một của Ngài, là "sự sống viên mãn" của Ngài cho họ.
Tuy nhiên, "sự sống viên mãn" chỉ được ban cho con người nói chung
và Giáo Hội nói riêng chỉ sau khi Chúa Kitô từ trong kẻ chết sống lại mà
thôi, khi "Người thở hơi trên các môn đệ mà phán 'các con hãy nhận lấy
Thánh Linh'" (Gioan 20:22), nhất là sau khi Người thăng thiên về cùng
Cha và từ Cha sai Thánh Thần xuống trên các tông đồ (xem Gioan 15:26) vào
Ngày Lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem (xem Tông Vụ 2:1-4;1:8), nhờ đó, các tông đồ
đã thông ban "sự sống viên mãn" của mình ra qua việc các ngài, điển
hình nhất là trường hợp tông đồ Phêrô được sai đến nhà của viên đại đội
trưởng Corneliô ở Cesarea để rao giảng và làm phép rửa (xem Tông Vụ
10:44-48).
Bởi thế, chẳng lạ gì, vì chưa được "sự sống viên mãn" nên hai
nguyên tổ sa ngã phạm tội thế nào, thì một khi Chúa Kitô chưa Phục Sinh,
chính các môn đệ nói chung và cả thành phần tông đồ thân tín nhất của Người
"tất cả đã bỏ Người mà tẩu thoát" (Marco 14:50), khi Người bị bắt
điệu đi từ Vườn Cây Dầu vào Đêm Thứ Năm Tuần Thánh, thậm chí người môn đệ
lãnh đạo tông đồ đoàn cũng trắng trợn chối bỏ Người 3 lần đúng như Người đã
tiên báo (xem Marco 14:27-31). Nếu các tông đồ của Chúa Kitô còn như thế thì
cũng chẳng lạ gì thái độ lạ đời nơi "thân nhân của Người",
và thái độ quái gở như lộng ngôn phạm đến Thánh Linh của thành
phần "kinh
sư từ Giêrusalem xuống", vì họ "nói rằng Người bị quỷ vương
Bê-en-dê-bun ám, và người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ".
Là "chân dung thương xót - misericordiae vultus" của Thiên Chúa vô cùng nhân hậu, Chúa Giêsu chẳng những không tỏ ra giận dữ trước những lời
lộng ngôn phạm thượng quá sức của họ như thế, những lời như thể cho Người bị
quỉ ám, trái lại, Người vẫn bình tĩnh, nhẫn nại và nhịn nhục, tìm cách làm
cho họ thấy được chính cái sai lầm của họ, ngay ở nơi lập luận mâu thuẫn của
họ, nhờ đó mà họ có thể nhận biết Người hơn: "Ðức Giêsu liền gọi họ đến,
dùng dụ ngôn mà nói với họ: 'Xatan làm sao trừ Xatan được? Nước nào tự chia
rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy
Xatan mà chống Xatan, Xatan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã
tận số'".
Trong cùng Bài Phúc Âm hôm nay, về phần tích cực, Chúa Giêsu cũng chỉ cách
để được "sự sống viên mãn" của Người và với Người, như Người Mẹ đầy
ơn phúc của Người, đó là: "Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy
là anh em chị em tôi, là mẹ tôi". Ngoài Mẹ của Người ra, còn một con
người nữa có thể nói là tiêu biểu cho thành phần có được "sự sống viên
mãn" này, đó là vị Tông Đồ Dân Ngoại, vị mà trong Bài Đọc 2 hôm nay đã
tràn đầy Thánh Thần đến độ hết sức phấn khởi trong việc bày tỏ tất cả lòng
tin tưởng của mình ra để có thể loan báo và khuyến dụ tín hữu Cộng Đoàn
Corinto trong Thư Thứ 2 gửi họ rằng:
"Quả thật, chúng tôi biết rằng: Ðấng đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy,
cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giêsu, và đặt chúng tôi bên
hữu Người cùng với anh em.... Cho nên chúng tôi không chán nản. Trái lại, dù
con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong
của chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm thời
trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận tuyệt
vời. Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến
những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn
những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn".
Tuy nhiên, vì "sự sống viên mãn" là của Chúa và do Chúa ban cho,
nên dù con người Kitô hữu chưa có được "sự sống viên mãn" như Thánh
Phaolô, vị dám nói rằng "tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Chúa
Kitô sống trong tôi" (Galata 2:20), một khi họ thực lòng thống hối ăn
năn, nhận biết mình và nhận biết Chúa, và hết sức khao khát nhân đức trọn
lành thì chắc chắn họ sẽ được no đủ vậy (xem Mathêu 5:7), bằng cách họ hoàn
toàn tin tưởng trông cậy vào Chúa, thì Chúa sẽ trở thành tất cả của họ,
thành "sự sống viên mãn" của họ, ở tầm mức xứng với họ, đúng như
tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe
tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu.
2) Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?
Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài.
3) Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người. Hồn tôi
trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông.
4) Hơn lính canh mong đợi hừng đông, trông cậy Chúa đi, Ítraen hỡi, bởi
Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa. Chính Người sẽ
cứu chuộc Ítraen cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn.
Thánh Ephrem, Phó Tế, Tiến Sĩ Hội Thánh
(306 - 373)
Vào ngày mồng
09 tháng 06, Giáo hội Công giáo cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem Phó Tế,
Tiến Sĩ Hội Thánh (Ephrem có nghĩa là sự phong nhiêu kép). Thánh Nhân là
một con người hết sức vĩ đại nhưng lại sống một cuộc đời vô cùng khiêm
nhu. Sau đây là một số chi tiết liên quan đến cuộc đời Thánh Nhân.
1.Tiểu sử
Thánh Ephrem
sinh năm 306 tại Nisibe, một thành phố nằm ở khu vực biên giới giữa đế
quốc Persia và đế quốc Byzantin hồi đó (tức Iran và Thổ-nhĩ-kỳ ngày
nay). Các sử gia vẫn chưa thống nhất với nhau được về niềm tin tôn giáo
của cha mẹ Ngài. Nhiều sử gia cho rằng, thân mẫu của Ephrem là một nữ
Ki-tô hữu, sinh ra tại Amid (tức Diar Bekir, Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay). Còn
thân phụ Ngài thì sinh ra tại Nisibe, và là một tư tế ngoại giáo. Khi đã
cao niên, thân phụ của Thánh Nhân mới đón nhận Đức Tin Ki-tô giáo. Và
cùng với người bạn đời của mình, ông đã được đón nhận hồng phúc Tử Đạo
dưới thời hoàng đế Schabur II của Persia.
Một số nhà
chuyên chép sử về các Thánh nói rằng, Thánh Ephrem đã lãnh nhận Bí Tích
Thanh Tẩy vào lúc khoảng 18 tuổi. Ngài đã bị thân phụ tống cổ khỏi nhà
vì coi thường những thực hành tôn giáo phù phép của người ngoại giáo.
Người thanh niên trẻ đã tìm được nơi ẩn trú bên Thánh Gia-cô-bê, Giám
Mục thành Nisibe. Vị Giám Mục này đã cảm thấy rất ấn tượng về lòng đạo
đức cũng như về trí thông minh vượt trội của Ephrem, và đã nhận người
thanh niên này vào trường của mình. Ở đó, Ephrem đã tỏa sáng nhờ đức
hạnh cao vời của mình cũng như nhờ những thành công rực rỡ trong học
tập. Sau đó, Thánh Gia-cô-bê đã đặt Ephrem vào chính chức vụ do Ngài
đang đảm nhận: Ngài bổ nhiệm Ephrem làm giáo sư, và làm hiệu trưởng của
trường rất nổi tiếng do chính vị Giám Mục này sáng lập. Và rồi, Thánh
Nhân đã phong chức Phó Tế cho Ephrem. Theo một số sử gia, Thánh
Gia-cô-bê còn đặt Thầy Ephrem làm thư ký riêng của mình để Thầy cùng
được tham dự Công Đồng Nicea năm 325. Và theo một số truyền thuyết,
Ephrem đã gặp Thánh Basilio Cả, Giám mục thành Cesarea (329-379), và
Thầy đã tiếp tục con đường của mình tới tận Ai-cập, rồi ở đó, Thầy có
được kinh nghiệm về đời sống Ẩn Sĩ.
Sau khi Thánh
Gia-cô-bê qua đời, Ephrem vẫn tiếp tục làm hiệu trưởng của trường học do
Giáo Phận quản lý, dưới thời ba vị Giám mục khác: Babo (338-349),
Walgache (349-361) và Áp-ra-ham (361).
Khi hoàng đế
Jovian giao Nisibe lại cho vua Persia vào năm 359, Ephrem đã rời bỏ nơi
chôn rau cắt rốn của mình để đi tới Edessa (tức thành phố Urfa của
Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay). Tất cả các giáo viên của trường Nisibe và phần lớn
những người nổi tiếng khác cũng đều đi theo Ngài. Tại Edessa, Ngài đã
lập nên một ngôi trường rất nổi tiếng và đã dậy học ở đó cho tới những
năm cuối cùng đời Ngài. Thánh Ephrem đã qua đời vào ngày mồng 09 tháng
06 năm 373. Sau này, một Đan Viện đã được kiến thiết ngay trên phần mộ
của Ngài. Khi người Kurd xâm lược Edessa vào năm 1145, các hiệp sĩ của
Thập Tự Quân đã mang hài cốt và những Thánh Tích khác của Ngài về Rô-ma.
2.Thánh Nhân
Thánh Ephrem
là một vị Đại Thánh. Đức Giám Mục của Ngài đã rất lấy làm cảm phục trước
sự đạo đức và sự thông minh của Ngài, và đã muốn phong chức Linh mục cho
Ngài. Nhưng Thánh Nhân đã coi mình là bất xứng, và vì Ngài đã không biết
cách phải chạy trốn trước niềm mong muốn của Đức Giám Mục Giáo phận thế
nào, nên Ngài đã giả bộ hóa điên, và nhờ thế, Ngài đã suốt đời làm Phó
Tế.
Ngài sống
trong một hang động tại Edessa. Ban ngày Ngài đi dậy học và đặt mình
trong sự phục vụ tha nhân, còn đêm về thì Ngài dành thời gian để cầu
nguyện và nghiên cứu Kinh Thánh. Một người sống cùng thời với Ngài là
Thánh Grê-gô-ri-ô thành Nyssê (355-394), đã để lại cho chúng ta một bức
chân dung sau đây về Thánh Ephrem: „Thánh Ephrem là một người sống theo
gương mẫu của các Tông Đồ đầu tiên; Ngài trở thành mẫu gương của tất cả
mọi Đan Sĩ và Ẩn Sĩ. Ngài sống nhưng không hề có tiền túi, cũng chẳng hề
có của dư. Ngài không có vàng cũng chẳng có bạc. Lương thực của Ngài là
bánh lúa mạch và rau xanh; đồ uống của Ngài chỉ là nước lã hoặc nước đun
sôi. Thân xác Ngài giống như một bộ xương làm bằng đất sét.“ Dẫu rằng
Ngài đã gỡ mình ra khỏi thế gian, nhưng Ngài lại sống trong sự phục vụ
những người đau khổ trên thế gian này. Theo gương mẫu của Thầy mình
trong đời sống Ẩn Sĩ, Ngài đã liên kết đời sống hoạt động với đời sống
chiêm niệm. Một trận dịch bệnh đáng sợ đã bất ngờ tấn công thành phố
Edessa. Ngay lập tức Thánh Ephrem đã rời bỏ nơi cô tịch và sách vở của
Ngài để đi chăm sóc các bệnh nhân, an ủi những người phiền muộn và kêu
gọi mọi người giúp đỡ cũng như bố thí cho họ.
Ngay trước lúc
qua đời, Thánh Ephrem đã xin các học trò và những người bạn của Ngài cầu
nguyện cho mình, cũng như xin họ hãy chôn cất mình ngay tức khắc và đừng
tổ chức nghi lễ rình rang dưới bất cứ hình thức nào. Ngài cũng xin họ
chỉ bận cho thi hài Ngài một chiếc áo duy nhất của người Đan Sĩ, đừng
đặt thi hài Ngài dưới một bàn thờ, vì Ngài thấy mình là một tội nhân,
nhưng hãy chôn cất Ngài ở nghĩa địa dành cho những người ngoại kiều, vì
Ngài cũng là một ngoại kiều như họ.
3.Tiến Sĩ Hội Thánh
Trong một
Thánh Thi của mình, Thánh Ephrem đã kể lại rằng, khi Ngài còn rất nhỏ,
Ngài đã nhìn thấy một hình dạng trong đêm, mà theo Ngài, nó giống như
một cây nho đang phát triển; các nhánh của nó có rất nhiều chùm, và
trông nó có vẻ như thế khi nó phủ lên toàn bộ khu đất. Nhiều đàn chim
kéo đến và thưởng thức những trái nho, mà những trái nho ấy càng ngày
lại càng mọc thêm ra nhiều, cho tới khi đàn chim mổ hết sạch. Đó là một
giấc mơ hay là một thị kiến? Có lẽ các tác phẩm của Thánh Ephrem được ví
giống như những gì liên quan đến con số của chúng: đó là một đại dương
mà người ta hầu như không thể nhận ra bờ của nó. Urtez Urban, một Linh
mục uyên bác Dòng Tên, người am tường cách đặc biệt về văn chương Syria,
đã không ngần ngại viết như sau: "Chúng ta đừng coi chứng từ của sử gia
Sosimus là cường điệu. Ông này viết rằng, Thánh Ephrem đã sáng tác
khoảng ba triệu câu thơ". Còn Photius, Thượng Phụ Giáo Chủ
Constantinopoli (858-886) thì nói: Bên cạnh những Thánh Thi và những bài
Thánh Ca, Thánh Ephrem còn để lại hơn một ngàn bài diễn văn và bài
giảng.
Vào ngày mồng
05 tháng 10 năm 1920, trong Tông Sắc tôn phong Thánh Ephrem lên bậc Tiến
Sĩ Hội Thánh, Đức Bê-nê-đíc-tô XV (+1922) đã viết rằng: "Thánh Ephrem
chính là vị Ngôn Sứ vĩ đại của dân tộc Syria, là triều thiên của đất
nước vùng Aram này, là mặt trời của các ngôi trường, là Thầy của các vị
thầy, là đầu của các nhà giáo, là hoàng tử của các thi sĩ, là giếng phun
trào của khoa học, là chiếc búa đối với những kẻ lạc giáo, là mẫu gương
của các Ẩn Sĩ, là mỏ ngọc, là cột trụ của Giáo hội, là triết gia của
Thiên Chúa, là cây hạc cầm của Chúa Thánh Thần…"
Không những
thế, Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XV còn bổ sung thêm vào với những tước
hiệu lấp lánh kể trên một tước hiệu khác mà nó là triều thiên của tất cả
những tước hiệu đó. Ngài viết: "Sẽ thật là vô cùng hạnh phúc đối với
chúng ta khi bổ sung cho triều thiên của Thánh Ephrem Ẩn Sĩ một bông huệ
mới… Theo lời mời gọi của Chúa Thánh Thần, Cha cảm thấy tràn ngập niềm
vui khi tặng cho thánh Ephrem tước hiệu "Tiến Sĩ Hội Thánh".
Ở đây cũng cần
phải nhấn mạnh rằng, trong số rất nhiều các Thánh Tiến Sĩ Hội Thánh, chỉ
có một mình Thánh Ephrem là Phó Tế mà thôi. Vì sự khiêm nhượng, nên Ngài
đã giữ chức vụ Phó Tế cho đến suốt đời.
4.Thần Học Gia
Thánh Ephrem
đã sáng tác 56 Thánh Thi để chống lại những người theo tà thuyết, 87
Thánh Thi về Đức Tin, 4 Thánh Thi chống lại hoàng đế Julian và những
người chối đạo, 15 Thánh Thi về Thiên Đàng, một thiên khảo luận về Chúa
Giê-su Ki-tô, một thiên khảo luận về Lời Tựa của Tin Mừng theo Thánh
Gio-an, 52 Thánh Thi về mầu nhiệm Chúa Ki-tô và về Đức Trinh Nữ Maria,
52 Thánh Thi về Giáo hội, 2 Thánh Thi về tính tự cao tự đại của thế
gian, một Thánh Thi về thư gửi các Ẩn Sĩ tại Edessa, cũng như nhiều
thiên khảo luận về bài giảng của Ngôn Sứ Giô-na tại Ninive và về lòng
thống hối.
5.Sử gia và chuyên viên Phụng
Vụ
Thánh Ephrem
đã sáng tác 16 Thánh Thi về cuộc Giáng Sinh của Chúa Ki-tô và về cuộc
Hiển Linh của Ngài, 8 Thánh Thi về Mùa Chay và về sự Phục Sinh, 21 Thánh
Thi về bánh Không Men, 12 Thánh Thi về các vị Thánh Tử Đạo và về những
người công khai tuyên xưng Đức Tin, 15 Thánh Thi theo bảng chữ cái ABC
về vị Thầy của Ngài trong đời sống Ẩn Sỹ, đó là thánh Abraham Al
Kaydouni, 24 Thánh Thi về Thánh Julian, một Thánh Thi về anh em nhà
Macabê, một thiên khảo luận về cơn mưa, 77 Thánh Thi «De Nisibena» về
những cuộc khởi nghĩa của người Nisibe (Thổ-nhĩ-kỳ) chống lại đế quốc
Persia (Iran) và người kế vị Thánh Gia-cô-bê Giám mục thành Nisibe.
6.Nhà bút chiến và hộ giáo
Trước Thánh
Ephrem, một nhà thơ tên là Bardeisan (154-222) đã lôi kéo nhiều người
nhờ vào những khúc ca hời hợt và có tính tà giáo của mình. Để chống lại
thi sĩ đó, Thánh Ephrem đã biến những ca khúc của chính ông ta thành
những vũ khí, bằng cách là: Thánh Nhân giữ lại những vần điệu của
Bardeisan, nhưng thay đổi từ ngữ. Ngài thành lập một Ca Đoàn với những
chàng trai và cô gái trẻ để phổ biến cách tốt hơn những Học Thuyết lành
mạnh. Sáng kiến đầy can đảm này đã lan rộng khắp cả Đông Phương lẫn Tây
Phương. Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XV đã nói về sáng kiến đó như sau:
"Chúng ta có thể khẳng định được rằng, các Ca Đoàn và các ca điệu trong
Phụng Vụ đều có nguồn gốc từ Thánh Ephrem. Thánh Gio-an Kim Khẩu (+407)
"đã vay mượn" những ca điệu đó cũng như đã du nhập chúng vào
Constantinopoli; Thánh Ambrôsiô (+337) đã đưa chúng về Mi-lan; và từ
Mi-lan, các ca điệu của Thánh Ephrem đã lan rộng trên toàn nước Ý. Dưới
Triều Đức Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô Cả (+604), những điệu nhạc đó đã đạt
tới cao điểm của chúng. Theo các chuyên gia, công lao chính của Thánh
Ephrem là tạo ra nghệ thuật Thánh Nhạc, mà sau đó, nghệ thuật này đã
được các Giáo Phụ, cả Hy-lạp lẫn La-tinh "nhận làm con"…"
7.Thi sĩ và ca sĩ của Đức
Trinh Nữ Maria
Đức Thánh Cha
Bê-nê-đíc-tô XV nói về Thánh Ephrem rằng: "Không ai, kể cả những người
hùng biện nhất của nhân loại, có thể miêu tả về Tình Yêu bừng cháy của
Mẹ Thiên Chúa như cách mà Thánh Ephrem đã mô tả.“ Rất sớm, trước tất cả
các Giáo Phụ, các Tiến Sĩ Hội Thánh và các Công Đồng, trong một cuộc đối
thoại với Chúa Giê-su, Thánh Nhân nói rằng: "Ôi Chúa Giê-su và Thân Mẫu
Chúa, cả Chúa và Mẹ đều có sự mỹ miều cao nhất; nơi Chúa không hề có bất
cứ tì vết nào, và nơi Thân Mẫu Chúa cũng không một chút bợn nhơ". Thánh
Nhân còn viết về đức Khiết Trinh trọn đời của Mẹ Thiên Chúa như sau:
"Đức Maria đã sinh ra Đấng Emmanuel, Chúa Giê-su, và sau cuộc sinh nở
đó, Mẹ đã không sinh bất cứ người con nào khác". Thánh Nhân đã ca ngợi
tư cách làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria với một giọng hùng vang sánh
ngang tiếng sét: "Từ nơi huyệt mộ, xương cốt con gầm thét lên rằng, Đức
Maria là Mẹ Thiên Chúa".
8.Các ngày cử hành Lễ Kính
Thánh Ephrem của các Giáo hội
Hiện tại, Giáo
hội Công giáo đang cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem vào chính ngày Ngài qua
đời, tức ngày mồng 09 tháng 06. Nhưng trước đây Giáo hội cử hành Lễ Kính
Ngài vào ngày mồng 01 tháng 02.
Giáo hội Tin
lành cử hành ngày tưởng nhớ Thánh Ephrem cũng vào ngày mồng 09 tháng 06.
Giáo hội Anh
giáo cử hành ngày kính Thánh Ephrem cũng vào ngày mồng 09 tháng 06.
Các Giáo hội
Chính Thống cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem vào ngày 28 tháng Giêng, tức
ngày di dời Thánh Tích của Ngài từ Thổ Nhĩ Kỳ về Rô-ma.
Giáo hội
Armenia cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem cũng vào ngày 28 tháng Giêng.
Giáo hội
Coptit cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem vào ngày mồng 02 tháng Giêng và vào
ngày mồng 9 tháng 07.
Còn Giáo hội
Chính thống Syria thì cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem vào các ngày sau:
mồng 01 tháng Giêng; mồng 01 tháng 02; 19 tháng 02; 20 tháng 02; thứ Bảy
đầu tiên của Mùa Chay; mồng 09 tháng 06; 15 tháng 06; 18 tháng 06 và
ngày mồng 09 tháng 07.
Lm Đa-minh Trần Tiến Thiệu,
O.Cist
http://hoidongxitothanhgia.com/thu-vien/thanh-ephrem-pho-te-3413.html
Thánh Ephrem sinh năm 306 tại Nisibis, miền Mesopotamia, thuộc đế quốc La
mã. Gia đình ngài là người ngoại giáo, và cha ngài là thầy cả đền thờ Abnil,
nhưng thánh nhân lại có thiện cảm với người Kitô hữu. Khi trở lại Kitô giáo,
thánh nhân đã trở nên mẫu mực cho nhiều người khác về sự khiêm tốn, bác ái,
say mê học hỏi khoa học thánh, yêu thích sự tĩnh lặng, chuyên chăm cầu
nguyện và nhiệt thành nói về Chúa cho người khác.
Chúng ta có thể dừng lại ở hai nét nổi bật sau:
· Yêu
Thích Cuộc Sống Thanh Vắng
Thánh Ephrem luôn muốn sống ẩn dật, để tách mình khỏi những vướng bận thế
gian và dành trọn cuộc đời cho Chúa. Ngài thường lui vào nơi
thanh vắng, chuyên chăm cầu nguyện, hy sinh hãm mình, nhưng cũng sẵn sàng
giúp đỡ những ai tìm đến ngài. Với thánh Ephrem, “sa mạc” không phải là nơi
của chết chóc, cô độc mà là không gian thuận lợi cho con người cởi bỏ cái
tôi ích kỷ, thanh luyện bản thân và luôn sống trong mối tình thân thiết với
Chúa. Cũng từ nơi hoang vằng, ngài đã viết nhiều bài văn có ý tưởng phong
phú, diễn tả một đời sống nội tâm sâu sắc và khát vọng luôn làm đẹp ý Chúa:
“Lạy Chúa, Đấng cứu chuộc chúng con, kế hoạch thần diệu của Chúa là hình ảnh
của thế giới thần thiêng, xin cho chúng con biết đi trong kế hoạch đó như là
con người thần thiêng”.
Được thụ phong phó tế, nhưng vì sự khiêm tốn, thánh nhân đã từ chối chức
linh mục.
· Một
Văn Sĩ Tài Ba
Khi
chiến trang bùng nổ, Nisibis nằm dưới ách thống trỉ của người Ba tư, và
thánh Ephrem đã lui về Edessa. Ở đây, ngài đã tận tình chăm sóc bệnh nhân,
người nghèo khổ, an ủi và đồng hành với những người bị bỏ rơi. Ngoài ra,
thánh nhân còn chú tâm hoạt động về lãnh vực tri thức như: Giảng Lời Chúa
cho mọi người, viết sách tu đức, giải thích thơ phú và
chú giải Kinh Thánh. Với tâm hồn nghệ sĩ, ngài đã viết các bài giảng bằng
thơ, các thánh thi ca ngợi Đức Kitô và Đức Trinh Nữ Maria. Các thánh thi của
ngài hiện nay vẫn còn được sử dụng trong Phụng Vụ Syria và gây ảnh hưởng sâu
rộng trong việc sáng tác các thánh thi ở Châu Âu.
Thánh nhân được mệnh danh là “Cây đàn của Thánh Linh”, và là người tiên
phong trong việc tôn kính Đức Maria Trinh Nữ, đấng mà ngài hằng tuyên xưng
là “hoàn toàn trong sạch mọi tội lỗi”.
Thánh Ephrem qua đời tại Edessa vào ngày 09 tháng 06 năm 373. Ngày 05tháng
10 năm 1920, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV đã nâng ngài lên bậc tiến sĩ Hội
Thánh.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Ephrem phó tế ơn sức mạnh của Chúa Thánh
Thần, để thánh nhân luôn biết ca tụng tình yêu Chúa bằng chính cuộc sống yêu
thích sự thanh vắng, thực thi bác ái và đào luyện tri thức.
Xin cho chúng con biết đón nhận tất cả với niềm tri ân cảm tạ để danh Chúa
luôn được hiển vinh. Amen.
Montfort
Nguyễn Xuân Pháp O.Cist
http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang6/Ngay9_Ephrem.htm
Thánh nhân sinh tại Nisibis, miền Mesopotamia vào khoảng đầu thế kỷ thứ IV.
Có truyện kể rằng: hồi nhỏ, một lần Ngài lấy đá chọi con bò mẹ gần chết. Khi
chủ nhân hỏi thăm có thấy con bò ở đâu Ngài đã trả lời xấc xược để chữa lỗi.
Ephrem đã khóc suốt đời về sự độc ác và hèn nhát này. Sau này có lần vào đêm
khuya bị lạc vào giữa đồng, một đứa chăn chiên cho Ngài trú ngụ trong lều
của nó. Nhưng đứa chăn chiên này đã xấu bụng lại đang say rượu. Đêm ấy chó
sói vào tàn sát đàn chiên. Để chữa mình, thằng chăn chiên đổ lỗi cho Ephrem.
Trong tù Ngài nghe nhiều người than thở vì bị hàm oan. Một buồi chiều, trong
giấc mơ, Ngài thấy thiên thần cho biết lần này Ngài vô tội nhưng phải khổ để
đền bù vào những lỗi lầm khác. Thức dậy, Ephrem nhớ lại con bò và thú nhận
với mọi người. Thân phụ Ephrem là một thày cả thờ thần Abnil. Hình như Ngài
bị đuổi khỏi nhà vì có thiện cảm với các Kitô hữu. Thánh Giacôbê, Giám mục
Nisibis tiếp nhận dạy dỗ và rửa tội cho Ngài hồi 10 tuổi. Để sống, Ngài làm
việc ở những hồ tắm công cộng. Nhưng sau đó Ngài lại vào sa mạc sống với sự
hướng dẫn của thánh Abbê ẩn tu; dệt vải để sống như thói quen của các ẩn sĩ
Ai cập và Mêsôpôtamia thời đó.
Ephrem thường khóc tội mình và tội người khác. Các tập “tự thú” Ngài viết
cho thấy Ngài rất mực khiêm tốn, Ngài rất ghét tính kiêu căng:
- Tính kiêu căng phá đổ ơn Chúa và thiêu hủy mọi nhân đức.
Thánh Ephrem luôn ao ước sống đời ẩn dật. Nhưng một cuộc chiến đã bùng ra
giữa người Rôma và người Batư. Người Batư bách hại các Kitô hữu cách tàn
bạo. Nghe tin này, Ephrem về Nisibis để giúp đỡ và khích lệ họ. Danh thơm
nhân đức của Ngài lan rộng đến nỗi người ta cho việc giải phóng khỏi ách
thống trị của Sapor II là bởi lỗi cầu nguyện của thánh nhân.
Được thụ phong phó tế, nhưng rồi thánh nhân đã từ chối chức linh mục vì
khiêm tốn. Được Đức Giám mục Nisibis trao cho trách nhiệm rao giảng lời
Chúa, Ngài dùng hết tài lợi khẩu để khêu gợi nhiệt tình nơi các linh hồn:
- “Thần dữ nói: Ta đi tìm những người khô khan là bạn hữu của ta, và ta
không cần phải tìm đến mưu kế, ta chỉ cần giữ chúng trong xiềng xích mà
chúng ưa thích là đủ.”
Thánh Ephrem đã gặp thánh Basiliô thành Cappadocia. Truyền thuyết cho rằng:
hai vị hiểu nhau dầu ngôn ngữ bất đồng.
Chiến tranh tái phát, Nisibis rơi vào tay người Batư, thánh Ephrem trốn đến
Sdessa. Nơi đây, Ngài tận tâm phục vụ bệnh nhân và người nghèo, hoạt động
trí thức bằng việc viết sách và giải thích thơ phú. Thánh Ephrem đã viết các
bài giảng bằng thơ, các thánh thi ca ngợi vinh quang Chúa Kitô và Đức Trinh
Nữ Maria. Người luôn được gọi là “cây đàn của Thánh Linh” là một trong những
người rao truyền việc VÔ NHIỄM THAI.
- Lạy Chúa, chỉ có Chúa và Mẹ Chúa là tuyệt mỹ. Nơi Mẹ Chúa không vương một
tì tích nào.
Một năm trước khi thánh nhân qua đời, Edessa bị một cơn đói. Ngài kêu gọi
lòng quảng đại của mọi người và người ta đã rộng tay đóng góp vào công cuộc
phát chẩn của thánh. Cơn đói chấm dứt, thánh nhân trở lại chòi của mình. Lên
cơn sốt, Ngài nghĩ tới lúc chết:
- Đừng liệm xác tôi bằng đồ quí giá, cũng đừng dựng đài tưởng niệm. Hãy đối
xử với tôi như một người lữ khách vì thực sự tôi là một lữ khách xa lạ trên
mặt đất này thôi.
Ngài qua đời có lẽ vào tháng 6 năm 373. Thánh Gregoriô miền Nyssa viết về
thánh Ephrem:
- Vinh quang đời sống và giáo thuyết của thánh nhân chiếu giãi khắp hoàn
cầu.
Năm 1820, Đức Bênêđictô XI tôn phong Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.
https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-ephrempho-tetien-si-hoi-thanh-42855
http://giaophanvinhlong.net/thanh-ephrem-pho-te-tien-si-hoi-thanh-306373.html
ĐTC Biển Đức
XVI: Thứ Tư 28/11/2007 – Bài Giáo Lý 60 - Thánh giáo phụ
Ephrem người Syria
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1
V 17, 1-6
"Êlia đứng trước tôn nhan Chúa,
Thiên Chúa Israel".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Êlia người Thesbê
thuộc miền Galaad, tâu vua Acáp rằng: "Có Chúa là Ðấng hằng sống, Thiên Chúa
dân Israel, mà tôi đứng trước tôn nhan! Trong những năm sắp tới, sẽ không có
sương mà cũng không có mưa, nếu tôi không ra lệnh". Và Chúa đã phán cùng
Êlia như sau: "Ngươi hãy bỏ nơi này, đi về hướng đông và ẩn náu tại suối
Karit ở phía đông sông Giođan. Nơi đây ngươi sẽ uống nước suối, và Ta đã
truyền cho chim quạ nuôi ngươi". Vậy ông trẩy đi và làm như lời Chúa dạy.
Ông đến ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Sáng sớm quạ đem cho
ông bánh và thịt; ban chiều quạ cũng lại đem cho ông bánh và thịt, và ông
uống nước suối.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 120,
1-2. 3-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Ơn
phù trợ của tôi do nơi danh Chúa, là Ðấng đã tạo thành đất với trời (c. 2).
Xướng: 1) Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh
núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới? Ơn phù trợ của tôi do nơi
danh Chúa, là Ðấng đã tạo thành đất với trời. - Ðáp.
2) Người chẳng để cho chân ngươi xiêu
té, Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người
không thiếp giấc, không ngủ say. - Ðáp.
3) Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là
Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày,
và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm. - Ðáp.
4) Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều
tai biến, Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi, khi
tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời
đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5, 1-12
"Phúc cho những ai có tinh thần
nghèo khó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông
đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người.
Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo
khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được
Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. -
Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc
cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho
những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho
những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho
những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".
"Phúc cho các con khi người ta ghen
ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều
gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng
đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri trước các con như
vậy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Sự sống chiếu
tỏa
Suy Niệm
Hôm nay, Tuần X Thường Niên, theo phụng vụ
cho ngày thường trong tuần, dù chu kỳ phụng niên thuộc năm lẻ hay năm
chẵn (giành cho chỉ
bài đọc 1), bắt đầu sang
Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, sau 9 tuần lễ đầu theo Phúc Âm của Thánh ký Marco.
Và đoạn Phúc Âm đầu tiên của Phúc Âm Thánh ký
Mathêu được Giáo Hội chọn đọc để tiếp nối các bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho
9 tuần lễ đầu của Mùa Thường Niên đó là đoạn về Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành
trên núi của Chúa Giêsu trong việc Người huấn dụ các môn đệ của Người sống
trọn lành hơn thế gian, thậm chí như Cha trên trời.
Mối liên hệ giữa việc chuyển tiếp từ Phúc Âm
Thánh ký Marco ở cuối đoạn 12 cho Thứ Bảy Tuần IX Thường Niên sang Phúc Âm
của Thánh ký Mathêu ở đoạn 5 cho Thứ Hai Tuần X Thường Niên thật là khít khao và
tuyệt vời. Ở chỗ, trong bài Phúc Âm cuối cùng của Thánh ký Marco cho Thứ Bảy
Tuần IX Thường Niên trước, Chúa Giêsu vừa mới chỉ cho các tông đồ thấy gương
sống trọn lành của bà góa 1 xu, thì trong bài Phúc Âm Thứ Hai bắt đầu của Thánh
ký Mathêu (5:1-12) Tuần X Thường Niên này Người nói ngay với các tông đồ
về Các Phúc Đức Trọn Lành.
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của
họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc
cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều
công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì
họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được
nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là
con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời
là của họ. Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi
ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân
hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng
bắt bớ các tiên tri trước các con như vậy".
Trong bài Phúc Âm về Phúc Đức Trọn Lành này, Thánh ký Mathêu đã
mô tả một cảnh tượng rất thích hợp với nội dung của bài
giảng Phúc Đức Trọn Lành ấy: "Khi ấy, Chúa Giêsu thấy
đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần
Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng...".
Trước hết, về thời điểm, bài giảng này của Chúa Giêsu
chỉ được Người thực hiện và chỉ xẩy ra vào lúc "khi ấy, Chúa Giêsu thấy
đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi...", tức là
vì dân chúng mà có bài
giảng này, nhưng, ngay câu sau đó lại cho thấy lại bài giảng này giành
riêng cho các tông đồ, nghĩa là giáo huấn của Người được truyền đạt từ cao
(tấm mức tông đồ, Giáo Hội) xuống thấp (tầm mức dân chúng, giáo dân,
cộng đồng);
Sau nữa, về địa điểm, bài giảng này được Chúa Giêsu giảng
không phải là dưới thung lũng, hay ở đồng bằng, hoặc trong thành phố, hay ở
trên thuyền ngoài bờ biển như các lần khác sau này, mà là ở trên "núi",
một biểu hiệu cho ý nghĩa trọn lành, sống trổi vượt hơn thế gian, hơn phàm
nhân;
Sau hết, về tính cách, bài giảng này được Chúa Giêsu giảng
một cách thân tình, ở tư thế "ngồi xuống" với thành phần "các
môn đệ đến gần Người" để Người có thể dạy bảo các vị những gì giúp các
vị "là ánh sáng thế gian" (5:14). Cử chỉ "ngồi" đây còn ám chỉ quyền
giảng dạy của Chúa Giêsu nữa, một quyền giảng dạy được Người trao ban cho
chung Tông Đồ Đoàn (xem Mathêu 18:18) và cho riêng Tông Đồ Phêrô (xem Mathêu
16:19), một quyền bính được
Giáo Hội hằng năm tưởng kính nơi phụng vụ Lễ "Ngai Tòa Thánh Phêrô - Chair
of Peter" vào ngày 22/2 hằng năm.
Một
chi tiết được Thánh ký Mathêu ghi nhận cũng cần
lưu ý ở đây nữa là: "lúc Người ngồi xuống, các môn
đệ đến gần Người", tức là thế
giá và uy tín của Chúa Giêsu đã lôi kéo các môn đệ đến cùng Người, và chỉ có
từ Chúa Kitô và bởi lằng nghe Chúa Kitô, thấm nhuần giáo huấn của Người, các
tông đồ mới có thể trở thành chứng nhân tiên khởi của Người và cho Người sau
này.
Nếu căn cứ vào các chữ "phúc" ở đầu mỗi phúc thì có tất cả là 9
Phúc hơn là chỉ có 8 phúc. Và phúc nào cũng ngược đời hết. Ở chỗ, trong khi thế
gian cho những 9 điều được Chúa Giêsu gọi là và cho là phúc thì họ cho là
khốn, đặc biệt là 3 phúc đầu và 2 phúc cuối. Theo tu đức Kitô giáo vốn có 3 bậc
hay 3 giai đoạn nên trọn lành thì 9 phúc được Chúa Giêsu liệt kê theo thứ tự
trong bài Phúc Âm hôm nay, về ý nghĩa liên hệ của chúng với
nhau, có thể được ghép lại thành 3 phúc cho một giai đoạn hay một bậc nên
trọn lành. Chẳng hạn, 3 phúc đầu (1-2-3) thuộc về bậc hay
giai đoạn tu đức khởi sinh (từ bỏ), 3 phúc tiếp theo (4-5-6) thuộc về bậc hay
giai đoạn tu đức tiến sinh (tập đức), và 3 phúc cuối cùng (7-8-9) thuộc
về bậc hay giai đoạn tu đức hiệp sinh (nên một).
Cảm Nghiệm
Có thể nói hình ảnh một Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 cho năm chẵn hôm nay
là một hình ảnh siêu thoát, sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian. Ở
chỗ, trong khi thế gian bị hạn hán, một hình ảnh tiêu biểu cho khô cằn tàn
úa và chết chóc bởi tội lỗi, sự dữ và gương mù gương xấu v.v., thì vị tiên
trị sống ẩn khuất theo lời Chúa này lại được chính Ngài chăm sóc và dưỡng
nuôi.
"Trong những ngày ấy, Êlia người Thesbê thuộc miền Galaad, tâu vua Acáp
rằng: 'Có Chúa là Ðấng hằng sống, Thiên Chúa dân Israel, mà tôi đứng trước
tôn nhan! Trong những năm sắp tới, sẽ không có sương mà cũng không có mưa,
nếu tôi không ra lệnh'. Và Chúa đã phán cùng Êlia như sau: 'Ngươi hãy bỏ nơi
này, đi về hướng đông và ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Nơi
đây ngươi sẽ uống nước suối, và Ta đã truyền cho chim quạ nuôi ngươi'. Vậy
ông trẩy đi và làm như lời Chúa dạy. Ông đến ẩn náu tại suối Karit ở phía
đông sông Giođan. Sáng sớm quạ đem cho ông bánh và thịt; ban chiều quạ cũng
lại đem cho ông bánh và thịt, và ông uống nước suối".
Đời sống bởi Chúa và trong Chúa của vị tiên tri này là một đời sống thật
hạnh phúc. Đến độ, vị tiên tri này dường như có thẩm quyền và quyền năng gây
ra hạn hán và mưa rơi tùy ý: "Có Chúa
là Ðấng hằng sống, Thiên Chúa dân Israel, mà tôi đứng trước tôn nhan! Trong
những năm sắp tới, sẽ không có sương mà cũng không có mưa, nếu tôi không ra
lệnh".
Theo dự án thần linh của Thiên Chúa, quả thực ơn cứu chuộc của Người được
Chúa Kitô thực hiện và ban phát cho chung toàn thể nhân loại, nhưng qua môi
giới Giáo Hội của Người được Người thiết lập để làm bí tích và phương tiện
cứu độ, đến độ, khi sống lại từ trong kẻ chết, vào tối ngày thứ nhất trong
tuần, Người đã hiện ra với chung các môn đệ lần đầu tiên mà thở hơi trên họ
và phán: "Các con hãy nhận lấy Thánh Linh. Các con tha tội cho ai thì
tội người ấy được tha, các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại"
(Gioan 20:21-22).
Cuộc đời các vị thánh trong Giáo Hội cũng thế, dường như vận mệnh thế giới
và của nhân loại đều nằm ở trong tay của các vị, như số phận của thành
Sodoma và Gomorra lệ thuộc vào việc can thiệp của tổ phụ Abraham, hay số
phận sống còn của dân Do Thái hai lần ở trong tay của Moisen vậy. Nghĩa là
thế gian này hay nhân loại ở trong thế gian tối tăm chết chóc lệ thuộc vào
một số linh hồn ưu tú sống đúng với bản chất của mình "là muối đất"
và "là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:13,14).
Và thành phần môn đệ của Chúa Kitô chỉ có thể sống đúng với bản chất "là
muối đất" và "là ánh sáng thế gian" khi họ sống các phúc đức
trọn lành được Chúa Giêsu giảng dạy riêng cho các vị trong bài giảng trên
núi, bắt đầu từ bài Phúc Âm hôm nay. Họ là những tâm hồn luôn "ngước mắt
nhìn lên đỉnh núi cao" để tìm kiếm Chúa, để nhận biết ý Chúa, để đáp
ứng ý Chúa, để cậy trông vào Chúa, để Chúa có thể thực hiện tất cả mọi sự
nơi họ và tỏ mình ra qua họ, theo tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay.
1) Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban
tới? Ơn phù trợ của tôi do nơi danh Chúa, là Ðấng đã tạo thành đất với trời.
2) Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té, Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng
có ngủ say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say.
3) Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu.
Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi
về ban đêm.
4) Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến, Người sẽ bảo vệ linh
hồn ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi, khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến
muôn đời.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1
V 17, 7-16
"Vò bột không cạn và bình dầu không
giảm như lời Chúa đã dùng lời Êlia mà phán".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, giòng suối nơi
Êlia ẩn náu đã cạn, vì trong xứ không mưa. Bấy giờ Thiên Chúa phán cùng Êlia
rằng: "Hãy chỗi dậy, đi Sarephta thuộc miền Siđon và ở lại đó: Ta đã truyền
cho một quả phụ nuôi dưỡng ngươi". Ông liền lên đường đi Sarephta. Khi ông
đến trước cửa thành, ông thấy một quả phụ đang lượm củi; ông gọi bà và nói
với bà rằng: "Xin đem cho tôi một ít nước trong bình để tôi uống". Ðương lúc
bà đi lấy nước, ông gọi lại mà nói: "Xin cũng mang cho tôi một miếng bánh".
Bà thưa: "Có Chúa là Thiên Chúa hằng sống chứng giám: Tôi không có sẵn bánh,
tôi chỉ còn một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình. Này đây tôi lượm
vài que củi về nấu cho tôi và con trai tôi ăn, rồi chết thôi". Êlia trả lời
bà rằng: "Bà đừng lo, cứ đi và làm như bà đã nói. Nhưng, với chút bột ấy,
trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem ra đây cho tôi, sau đó hãy
làm cho bà và con trai bà. Vì Chúa là Thiên Chúa Israel truyền rằng: "Hũ bột
sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi, cho đến ngày Chúa cho mưa xuống
trên mặt đất". Bà đi làm theo lời ông Êlia; chính ông và bà cùng cả nhà đều
đủ ăn; từ ngày đó, hũ bột không cạn và bình dầu không vơi, như lời Chúa đã
dùng Êlia mà phán.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 4, 2-3.
4-5. 7-8
Ðáp: Lạy
Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con (c. 7b).
Xướng: 1) Khi con cầu, nguyện Chúa
nghe, lạy Chúa công bình của con, Chúa đã giải thoát con trong cơn khốn khó,
nguyện xót thương và nghe tiếng con cầu. Người quyền thế, các ông cứng lòng
tới bao giờ nữa? Tại sao say đắm bả phù hoa và kiếm chuyện sai ngoa? - Ðáp.
2) Nên biết rằng Chúa biệt đãi thánh
nhân Ngài, Chúa sẽ nghe tôi khi tôi cầu khẩn Chúa. Hãy run lên và thôi phạm
tội, hãy hồi tâm nghĩ lại trên giường nằm, và hãy lặng thinh. - Ðáp.
3) Nhiều người nói: "Ai chỉ cho ta
thấy điều thiện hảo?" Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình
chúng con. Chúa đã gieo vào lòng con niềm vui, vui hơn tụi kia khi chúng
tràn đầy lúa rượu. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta
là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5,
13-16
"Các con là sự sáng thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp
cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra
ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng thế gian. Một thành
phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp
đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi
người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên
hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên
trời".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
sức
sống nội tâm
Suy Niệm
Bài
Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần X
Thường Niên hôm nay tiếp tục ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, một bài Phúc Âm về
Các Phúc Đức Trọn Lành được Chúa Giêsu chỉ dạy riêng cho các môn đệ thân tín của
Người, để các vị có thể "giảng dạy cho họ tất
cả những gì Thày đã truyền dạy các con" (Mathêu
28:20), trước hết bằng đời sống chứng
nhân của các vị, như "ánh
sáng" chiếu tỏa trên "thế gian" này.
Đúng thế, nội dung của những lời
Chúa Giêsu tiếp tục dạy cho các môn đệ của Người trong bài
Phúc Âm hôm nay (5:13-16) đã
cho thấy rõ ý hướng của Người, như câu mở đầu của bài Phúc Âm hôm qua, tỏ lộ, ở
chỗ Người dạy riêng cho các môn đệ nhưng nhắm đến lợi ích chung dân chúng và
riêng đoàn chiên của các vị sau này: "Khi
ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống,
các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng...".
Đó là lý do Người đã khẳng định với các môn đệ của
Người rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã
lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc
chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng
thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta
cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi
sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước
mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các
con trên trời".
Chúa Giêsu đã ví các môn đệ của Người như "muối đất"
và như "ánh sáng thế gian".
Tại sao Người không đề cập đến "ánh sáng thế gian" trước mà là "muối đất" trước.
Phải chăng Người có ý nói đến 2 phương diện tối yếu bất khả thiếu và bất khả
phân ly của thành phần môn đệ được Người tuyển chọn, đó là phương diện nội tâm
(cần phải có trước) và phương diện làm chứng (thành quả tất yếu đến sau)?
Đúng vậy, nếu một người tông đồ mà không có đời sống
nội tâm sâu xa mặn mà như "muối đất", trái lại, nội tâm của họ hết sức nông cạn,
hời hợt, sống theo tình cảm, đầy ắp kiến thức suông, mang tâm tình tự phụ tự
mãn v.v., chẳng kết hợp với Chúa Kitô và theo tác động thần linh của Chúa Thánh
Thần, thì làm sao họ có thể có cùng một tâm tưởng của Chúa Kitô, có những lời
nói sưởi ấm lòng người như Chúa Kitô, có những tác hành và phản ứng nhân ái yêu
thương với Chúa Kitô, và vì thế họ không thể nào làm chứng cho Người theo đúng
như ơn gọi và sứ vụ chuyên biệt trổi vượt cao cả của họ như "một
thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được nữa".
Chính vì ý thức được thâm sâu những gì Chúa Giêsu
truyền dạy như thế mà Giáo Hội, qua Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962 -
8/12/1965), đã khẳng định về căn tính và sứ vụ chính yếu bất khả thiếu của mình
là "Ánh Sáng Chư Dân - Lumen Gentium",
nhan đề của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, một căn tính và sứ vụ chiếu soi muôn
dân, sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô: "Tự bản
chất, Giáo Hội lữ hành là truyền giáo"
(Công Đồng Chung Vaticanô II - Sắc Lệnh 'Ad
Gentes - Cho Chư Dân' về Việc Truyền Giáo của
Giáo Hội - đoạn 2).
Cảm Nghiệm
Hai hình ảnh thứ tự "muối" trước và "ánh sáng" sau trong
Bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến bản chất các môn đệ là thành phần theo
Người có thể ám chỉ đức tin (muối) và đức mến (ánh sáng) là những gì bất khả
thiếu và gắn liền với nhau. Ở chỗ, "đức tin hoạt động qua đức mến"
(Galata 5:6). Không có đức tin không thể nào có đức mến, vì đức tin chiếu
tỏa ánh sáng đức mến, hay ánh sáng đức tin (lumen fidei - nhan đề bức thông
điệp đầu tay của ĐTC Phanxicô ban hành ngày 29/6/2013) chính là đức mến, là
những việc làm bác ái yêu thương vậy.
Bà góa dân ngoại trong Bài Đọc 1 hôm nay, nếu không có niềm tin tưởng mãnh
liệt phi thường, bà đã không thể nào thực hiện một việc bác ái yêu thương
với vị tiên tri của dân Do Thái, mà có thể bà chưa hề biết đến hay gặp gỡ
bao giờ, ở chỗ bà đã dám liều lĩnh làm theo điều vị tiên tri này bảo bà làm,
cho dù bà và người con trai duy nhất của bà có phải chết sớm hơn bởi bà bớt
phần ăn của hai mẹ con bà cho vị tiên tri lạ mặt người dưng nước lã ấy, theo
như lời ông yêu cầu.
Qua cử chỉ bác ái yêu thương đầy tin tưởng ấy của bà góa thành Sarephta,
không thể phủ nhận là nơi bà góa này quả thực vừa có muối tin tưởng lẫn ánh
sáng yêu thương. Và chính vì lòng tin như muối của bà đã chẳng những làm cho
từ bà chiếu tỏa ra ánh sáng đức tin là các việc bác ái yêu thương mà còn làm
cho hai mẹ con bà thậm chí đã không trở thành hai thây ma thối rữa bởi chết
đói như bao nhiêu người khác thuộc cùng một khu vực bị hạn hán trong một
thời gian kéo dài lúc bấy giờ.
"Lạy
Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con", câu Đáp Ca
hôm nay quả thực đã ứng ngjiệm nơi cả Tiên Tri Elia và bà góa ở Sidon, vì cả
hai đều có muối và ánh sáng, hai nhân vật tiêu biểu cho huấn dụ của Chúa
Kitô với các môn đệ của Người, thành phần mà Người muốn họ phải "là muối
đất" và "là ánh sáng thế gian": "muối đất" để thế
gian khỏi hư thối bởi nội tâm nguyện cầu và đời sống khổ chế cùng khổ đau
của họ, và "ánh sáng" để làm chứng cho thế gian để họ nhận biết
Chúa Kitô "là đường, là sự thật và là sự sống" (Gioan 14:6).
Hiệp cùng Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay, chúng ta hãy dâng lên
Thiên Chúa tâm nguyện sau đây:
1) Khi con cầu, nguyện Chúa nghe, lạy Chúa công bình của con, Chúa đã
giải thoát con trong cơn khốn khó, nguyện xót thương và nghe tiếng con cầu.
Người quyền thế, các ông cứng lòng tới bao giờ nữa? Tại sao say đắm bả phù
hoa và kiếm chuyện sai ngoa?
2) Nên biết rằng Chúa biệt đãi thánh nhân Ngài, Chúa sẽ nghe tôi khi tôi
cầu khẩn Chúa. Hãy run lên và thôi phạm tội, hãy hồi tâm nghĩ lại trên
giường nằm, và hãy lặng thinh.
3)
Nhiều người nói: "Ai chỉ cho ta thấy điều thiện hảo?" Lạy Chúa, xin chiếu
sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con. Chúa đã gieo vào lòng con niềm
vui, vui hơn tụi kia khi chúng tràn đầy lúa rượu.
Thánh BARNABA TÔNG ĐỒ
Hôm nay, trong số đạo binh đông đảo nam nữ cộng tác viên của Thánh
Phaolô, chúng ta chú trọng tới 3 vị trong số những nhân vật ấy, những vị
có một vai trò quan trọng trong việc truyền bá phúc âm hóa từ ban đầu là
Barnabê, Silas và Apollos.
‘Barnabas’ nghĩa là ‘người con của niềm khích lệ’ (Acts 4:36) hay ‘người
con của niềm ủi an’, là biệt hiệu của một người Do Thái thuộc giòng họ
Levi sinh quán ở Cyprus. Di chuyển về Giêrusalem, ngài là một trong
những người đầu tiên theo Kitô Giáo sau khi Chúa Kitô phục sinh.
Với tấm lòng rất quảng đại, ngài đã bán một thửa ruộng của mình, dâng
cúng tiền bạc cho các vị Tông Đồ để giải quyết nhu cầu trong Giáo Hội (x
Acts 4:37). Ngài trở thành bảo đảm viên đối với việc hoán cải của Thánh
Phaolô đối với cộng đồng Kitô hữu ở Giêrusalem, một cộng đồng vẫn tỏ ra
ngờ vực về nhân vật đã từng bắt bớ mình (x Acts 9:27).
Được gửi tới Antiôkia xứ Syria, ngài đã tìm kiếm Phaolô ở Tarsê là nơi
Phaolô đã đến, và ngài đã sống ở đó cả năm với Phaolô, dấn thân thực
hiện việc truyền bá phúc âm hóa cho thành phố quan trọng đó, và
ngài đã có tiếng là ngôn sứ và y sĩ tại Giáo Hội ở đấy (x Acts 13:1).
Vậy Thánh Barnabê, ở vào thời điểm xẩy ra những cuộc hoán cải đầu tiên
của dân ngoại, đã hiểu rằng giờ khắc của Saulê đã điểm; Saolê đã đến
Tarsê là thành phố của mình. Ngài đã đến đó để tìm Saolê. Vào giây phút
quan trọng ấy, ngài đã thực sự mang Phaolô về cho Giáo Hội; ngài đã cống
hiến một lần nữa Vị Tông Đồ Dân Ngoại cho Giáo Hội ở một nghĩa nào đó.
Từ Giáo Hội ở Antiôkia, Thánh Barnabas được sai đi truyền giáo cùng với
Thánh Phaolô, thực hiện cuộc hành trình được gọi là cuộc truyền giáo đầu
tiên của vị Tông Đồ này. Thực ra, đó là cuộc truyền giáo của Thánh
Barnabê, vì ngài là người được giao phó trách nhiệm. Thánh Phaolô liên
hợp với ngài như là một hợp tác viên, băng qua những miền đất của Cyprus
và miền trung nam phần của Anatolia là Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay, qua các
thành phố Atalia, Perga, Antioch ở Psidia, Lycaonia, Lystra and
Derbe (x Acts 13:14).
Thế rồi, cùng với Thánh Phaolô, ngài đã về tham dự biến cố được gọi là
Công Đồng Giêrusalem, một công đồng mà sau khi sâu xa khảo sát vấn nạn
được đặt ra, các Tông Đồ cùng với các vị trưởng lão đã quyết định loại
bỏ vấn đề thi hành việc cắt bì (x Acts 15:1-35).
Cuối cùng, chỉ có thế các vị mới chính thức cho phép thành lập Giáo Hội
nơi dân ngoại, một Giáo Hội phi cắt bì: Chúng ta là con cái của Abraham
chỉ bằng đức tin vào Chúa Kitô mà thôi.
Hai vị, Thánh Phaolô và Barnabê, sau này đã trở nên đối chọi với nhau
vào đầu cuộc hành trình truyền giáo thứ hai, vì Thánh Barnabê muốn đem
John Marcô them, trong khi Thánh Phaolô lại không, cho rằng con người
trẻ này đã tách khỏi các vị trong cuộc hành trình trước đó (x Acts
13:13, 15:36-40).
Thế nên, giữa các vị thánh cũng có những đối chọi, bất hòa và tranh cãi.
Và đối với tôi thì đó là điều rất an ủi, vì chúng ta thấy rằng các thánh
nhân đã không phải là những người ‘từ trời rơi xuống’.
Họ cũng là người như chúng ta, với những thứ trục trặc rắc rối. Thánh
thiện không phải là ở chỗ chẳng vấp phải lỗi lầm chi hay chẳng bao giờ
sa ngã phạm tội. Thánh thiện gia tăng theo khả năng hoán cải, thống hối,
sẵn sàng bắt đầu lại, nhất là theo khả năng hòa giải và thứ tha.
Có thế, Thánh Phaolô, vị tỏ ra khó khăn và cay nghiệt với Thánh Marcô,
cuối cùng đã gặp lại Thánh Marcô. Trong những bức thư cuối cùng của
Thánh Phaolô, một gửi cho Philêmon và một (bức thứ hai) gửi cho
Timôthêu, Thánh Marcô đã xuất hiện thực sự như là ‘hợp tác viên của
tôi’.
Chúng ta không trở thành thánh nhân vì chúng ta không bao giờ vấp phải
một lỗi lầm nào, mà vì khả năng chúng ta có thể thứ tha và hòa giải. Và
tất cả chúng ta đều có thể học biết đường lối nên thánh này. Dầu sao thì
Thánh Barnabê cùng với Thánh Marcô đã trở về Cyprus (x Acts 15:39)
khoảng năm 49.
Từ đó trở đi thì tất cả mọi dấu vết về ngài đều bị thất lạc. Giáo phụ
Tertullian đã qui cho ngài Bức Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái, rất có thể
vì thuộc về chi họ Levi Thánh Barnabê đã chú trọng tới đề tài về thiên
chức linh mục. Và Bức Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái giải thích một cách
đặc biệt vai trò tư tế của Chúa Giêsu đối với chúng ta.
ĐTC Biển Đức XVI: Thứ
Tư 31/1/2007 - Bài
29: Thánh Barnabê, và Sila với Apollos
http://www.thoidiemmaria.net/GIAOHOI/Giao%20Ly%20ve%20Giao%20Hoi/Bai22.htm
Thánh Barnaba vốn là một Thầy Lê-vi, và là con của một chủ trang trại
người Sýp, gốc Do-thái. Tên khai sinh của Ngài là Giu-se,
nhưng các Tông Đồ đã đổi tên cho Ngài là Barnaba, nghĩa là người có tài
yên ủi (Cv 4,36). Trong cuộc bầu chọn để trở thành thành viên của nhóm
Mười Hai, Barnaba cũng là một trong hai ứng cử viên được đề cử để thế
chỗ cho Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Tuy nhiên khi các Tông Đồ tổ chức rút thăm
thì Ngài đã không trúng, nhưng thánh Mát-thi-a đã trúng (Cv 1,23-26).
Sau khi gia nhập cộng đoàn Giáo hội sơ khai, Thánh Nhân đã bán hết tài
sản, nhà cửa và ruộng vườn của mình đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các
Tông Đồ (Cv 4, 36-37). Thánh Nhân còn là người có tài khuyên bảo, đầy
Thánh Thần và Đức Tin (Cv 11,23-24). Không những thế, Thánh Bác-na-ba
còn là người bảo lãnh để Cộng đoàn Giáo hội tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem
đón nhận Thánh Phao-lô, khi vị Tông Đồ này trở lại (Cv 9,26-27).
Sau khi Thánh Phao-lô bị gửi về
quê, còn mình thì được các Tông Đồ cử đến Antiochia (tức Antakya ngày
nay), Thánh Barnaba đã trẩy đi Tác-xô để tìm Thánh Phao-lô. Sau đó cả
hai cùng trở lại Antiochia và cùng hoạt động truyền giáo tại đó trong
suốt một năm (Cv 11,22-26). Thánh Barnaba cũng đồng hành với Thánh
Phao-lô trong cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên tới đảo Sýp, cũng như
tới vùng Tiểu Á. Cả hai đã cùng tham dự Công Đồng Giê-ru-sa-lem. Tại
Công Đồng này, các Tông Đồ đã thống nhất đưa ra quyết định sẽ thi hành
sứ mạng truyền giáo cho cả người Do-thái lẫn người gốc dân ngoại (Cv
15,2-35).
Một cuộc tranh cãi đã nổ ra
giữa Thánh Phao-lô và Thánh Barnaba vì vấn đề liên quan đến bổn phận
phải tuân giữ những quy định của Do-thái giáo đối với các Ki-tô hữu gốc
dân ngoại (Gl 2,11-14; Cv 15,22-35), cũng như vì vấn đề của Gio-an
Mác-cô, em họ của Barnaba. Do cuộc tranh cãi này nên hai vị Tông Đồ đã
chia tay nhau. Sau đó, Thánh Barnaba cùng với Thánh Mác-cô đến thăm các
Cộng Đoàn tại đảo Sýp, quê hương của Ngài (Cv 15,39). Theo nhiều truyền
thuyết có tính huyền thoại, thì Thánh Barnaba đã chữa lành nhiều bệnh
tật bằng cách dùng cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu mà Ngài luôn mang
theo mình, để đặt lên đầu các bệnh nhân. Cũng theo truyền thuyết, Thánh
Barnaba còn đến truyền giáo tại Rô-ma, và đã ban Bí Tích Thanh Tẩy cho
một tân tòng, mà sau này người tân tòng ấy đã trở thành Giám mục của
Rô-ma, tức Đức Giáo Hoàng Clê-men-tê I. Rời Rô-ma, Ngài đến Mi-lan, và
được coi là Giám mục tiên khởi của Giáo đoàn này. Nhưng theo một truyền
thuyết khác thì Thánh Bác-na-ba đã trở lại đảo Sýp, và tại đó, Ngài được
phúc Tử Đạo với việc bị ném đá đến chết.
Một số chuyên gia đã coi Thánh
Barnaba ngang hàng với Thánh Phao-lô về tầm quan trọng của Ngài trong
công cuộc truyền giáo cho dân ngoại. Có một bức thư mang tên Ngài, nhưng
nó được coi là mạo danh, và cũng được xếp vào hàng các sách Ngụy Thư.
Bức thư này muốn chứng minh những giáo thuyết của Ki-tô giáo nguyên thủy
về Chúa Giê-su Ki-tô và về cuộc khổ hình của Ngài như là sự tương ứng và
hài hòa với Cựu Ước; trong thời Giáo hội cổ đại, bức thư này đôi khi
được coi là thành phần của quy điển Tân Ước. Thực tế thì bức thư đó đã
xuất hiện khá muộn, chỉ khoảng vào năm 130, và với cách giải thích Cựu
Ước có tính bài Do-thái của mình, nên nó không được công nhận là của
Thánh Barnaba. Cũng có một cuốn Tin Mừng mạo danh Thánh Nhân, nhưng tiếc
rằng nó đã bị thất truyền. Một tác phẩm khác cũng mạo danh Thánh Nhân,
nhưng mãi tới thế kỷ XVI nó mới được biên soạn. Theo một truyền thống
trước đây, mà truyền thống này phát xuất từ Tertullianô, Thánh Barnaba
được coi là tác giả của Thư gửi Tín Hữu Do-thái. Các Giáo hội Chính
Thống đã liệt Thánh Nhân vào nhóm 70 môn đệ do đích thân Chúa Giê-su
tuyển chọn.
Tương truyền về việc Thánh
Barnaba được hưởng phúc Tử Đạo tại đảo Sýp xem ra đáng tin cậy hơn. Nếu
đúng thế thì Ngài đã được phúc Tử Đạo vào khoảng năm 63 dưới thời hoàng
đế Nero, và được an táng tại đó trong một hang mộ của một nghĩa trang
lớn thuộc vùng Salamis cổ, tức khu hoang tàn của Famagusta ngày nay
(phía Đông đảo Sýp). Một ngôi Thánh Đường của Giáo hội Sýp đã được kiến
thiết ngay trên ngôi mộ của Ngài. Sau một cuộc tranh cãi lâu dài giữa
các nhà lãnh đạo của Giáo hội Sýp với Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Antiochia
về tính độc lập của Giáo hội Sýp, tại Công Đồng Ê-phê-sô, các Nghị Phụ
đã đưa ra quyết định nghiêng về Giáo hội Sýp, nhưng Antiochia đã thu hồi
quyết định đó.
Theo tương truyền, vào năm 477, trong một buổi tối, Thánh
Barnaba đã hiện ra với Đức Tổng Giám Mục Anthemios của đảo Sýp, và đã
chỉ cho Đức Tổng Giám Mục này biết vị trí ngôi mộ của Ngài. Sau đó, thi
hài của Thánh Nhân đã được tìm thấy. Khi khai quật ngôi mộ của Ngài,
người ta phát hiện ra rằng, lúc Thánh Bác-na-ba qua đời, người bạn đường
của Ngài là Thánh Mác-cô, đã an táng Ngài với một cách thức hết sức
trang trọng. Trên ngực của Thánh Barnaba có đặt một bản sao cuốn Tin
Mừng theo Thánh Mát-thêu do chính Thánh Barnaba chép lại. Đức Tổng Giám
mục Anthemios đã cấp tốc báo cho triều đình hoàng đế Zenon tại
Constantinopoli biết tin về vụ khai quật.
Với viêc đó, vị Tổng Giám mục
của Giáo hội Sýp đã thành công trong việc thuyết phục nhà cầm quyền
rằng, Giáo hội Sýp được thành lập bởi Thánh Barnaba, nên không ít tính
Tông Truyền hơn Giáo hội Antiochia, và vì thế được coi là ngang hàng với
Giáo hội đó. Một nguồn suối đã bắt nguồn ngay bên cạnh ngôi mộ trống
ngày nay. Nguồn suối ấy được cho là có khả năng chữa lành cũng như có
nhiều khả năng kỳ diệu khác, đặc biệt là đối với những phụ nữ vô sinh và
những bệnh ngoài da. Vào năm 1953, một nhà nguyện mới đã được kiến thiết
ngay trên phần mộ được cho là của Thánh Barnaba. Các Thánh Tích của Thánh
Barnaba đã được bảo quản và tôn kính tại nhiều nhà thờ khác nhau trên
nước Ý, cũng như tại một số nơi khác như Prag (Tiệp Khắc), Köln, Andechs
(Đức), Toulouse (Pháp) và Namur (Bỉ).
Từ năm 1530, Hội Dòng do Thánh
Anton Maria Zaccaria thành lập đã đến đóng đô tại Tu Viện Thánh Barnaba
ở Mi-lan. Người ta cũng gọi Hội Dòng này là Dòng Thánh Barnaba.
Vào năm 1521, người Pháp muốn
đánh chiếm thành phố Logroño của Tây-ban-nha. Nhưng sau hơn 6 tuần vây
hãm, người Pháp vẫn không sao chiếm được thành phố ấy, nên đành phải rút
quân. Ngày lui binh của quân đội Pháp rơi đúng vào ngày 11 tháng 06 cùng
năm. Vì thế, ngay sau khi quân Pháp thoái triệt, Thánh Barnaba đã được
thành phố Logroño nhận làm Bổn Mạng. Trong ngày mừng Bổn Mạng của mình,
người dân thành phố Logroño luôn sử dụng cá để làm món ăn chính, vì
trong suốt hơn 6 tuần bị người Pháp vây đánh, dân chúng trong thành phố
này đã sống sót nhờ vào việc ăn cá được bắt từ hồ Ebro.
Ngay từ thế kỷ thứ IX, Thánh
Barnaba đã được Giáo hội Rô-ma mừng kính vào ngày 11 tháng 06 hàng năm,
nhưng các Giáo hội Phương Đông thì lại cử hành Lễ kính Thánh Nhân vào
ngày 11 tháng 04.
Giáo hội Tin Lành và Giáo hội
Anh giáo cũng cử hành Lễ Kính Thánh Barnaba vào ngày 11 tháng 06.
Còn các Giáo hội Chính thống
thì cử hành hai ngày để kính Thánh Barnaba, đó là ngày mồng 04 tháng
Giêng và ngày 11 tháng 06.
Riêng tại Giáo hội Armenia thì
Thánh Barnaba được mừng kính tới 4 ngày, gồm: mồng 09 tháng 04, 11 tháng
06, 29 tháng 10, và thứ Năm sau Chúa Nhật Suy Tôn Thánh Giá.
Giáo hội Cóp-tít cử hành hai
ngày Kính Thánh Barnaba: 11 tháng 06 và 17 tháng 12.
Giáo hội Chính Thống Syria cử
hành ba ngày kính Thánh Barnaba, gồm: 11 tháng 05, 11 tháng 06 và 17
tháng 12.
Lm Đa-minh Trần Tiến Thiệu,
O.Cist
Thánh Barnaba là một trong bảy mươi môn đệ đầu tiên đã nghe Chúa Giêsu
giảng dạy và đã trở thành môn đệ của Ngài.
Thánh nhân cùng với thánh Phaolô đi truyền giáo ở Antiôkia, nhờ Chúa
Thánh Thần thúc đẩy và tài giảng thuyết, ngài đã đưa được biết bao nhiêu
người trở về với Chúa. Barnaba và Phaolô được Chúa trao cho sứ mạng rao
giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Dân bản xứ và các người ngoại giáo, đón
tiếp các ngài một cách nhiệt tình, và tin theo các ngài. Tuy nhiên cũng
có những người Do Thái có óc thủ cựu, hẹp hòi đã tìm cách gièm pha, chế
giễu, xúi giục những thành phần bất hảo ngược đãi và trục xuất các ngài
(Cv 13,50). Chúa cho các ngài làm nhiều phép lạ: xua trừ ma quỷ, chữa
bệnh, làm cho kẻ chết sống lại để củng cố niềm tin của các tân tòng.
Xin Chúa cho chúng ta cũng biết nhiệt thành công tác trong công việc nhà
Chúa.
I. ĐÔI HÀNG TIỂU SỬ
Banaba “là một người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin’’ (Cv 11,23).
Ngài được sách Công Vụ nhận là Tông Đồ (14,4) cho dù ngài không thuộc
nhóm Mười Hai
Ngài là một người Do Thái thuộc giáo tỉnh Cypern, gốc Lêvi và tên gọi là
Giuse. Chúng ta không biết ngài đã gia nhập Kitô giáo lúc nào. Như Sách
Tông Đồ Công Vụ ghi, ngài có lòng đại độ: “Giuse, người đã được các Tông
Đồ đặt tên là Banaba nghĩa là con của sự an ủi một người Lêvi, người gốc
Kyprô, có một thửa ruộng, ông đã bán đi và đem bạc đặt dưới chân các
Tông Đồ” (Cv 4,36-37)
Ngài là người hướng dẫn Saolô sau khi Saulô trở lại đến gặp các vị Tông
Đồ ở Giêrusalem (Cv 9,26-27). Sau này vào khoảng năm 42, Barnaba đã tìm
đến với Saolô ở Tarsô rồi cùng với Phaolô sang truyền giáo tại Antiôkia.
Trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất này, cả hai đi Kyprô và
mạn nam Tiểu Á. Chính các ngài đã đi Giêrusalem dự Công Nghị Tông Đồ để
đấu tranh cho việc những người dân ngoại, khi gia nhập Kitô giáo, không
phải lệ thuộc Lề Luật cũ. Sau đó xẩy ra một cuộc tranh cãi giữa hai
người. Lý do là vì Phaolô không muốn đem theo Marcô, bà con của Banaba
đi theo mình trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai cho nên
Banaba đã đem Marcô đi với mình đến Kyprô (Cv 15,39).
Theo truyền thuyết, sau này Banaba bị ném đá chết tại Salamít. (Lm
Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
II. CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH
Phaolô và Banaba đều là những tông đồ nhưng cá tính và cách đối xử khác
hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và
mềm dẻo. Bởi thế đôi khi hai ông đụng độ nhau:
Lần thứ nhất là
về vấn đề ăn chung (Ga 2,13). Số là Giáo Hội đã có quyết định rằng lương
dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ Do thái giáo, trong đó có tục lệ phân
biệt những món ăn nào sạch những món ăn nào dơ. Bởi
đó các tông đồ đều hòa đồng với lương dân, ăn chung bàn với họ. Nhưng
một lần kia vì sự có mặt của những người Do thái nên và vì muốn tránh
không muốn gây khó chịu cho họ, nên thánh Banaba và cả thánh Phêrô đã
tránh ngồi chung bàn ăn với những người lương tòng giáo. Lần đó Phaolô
đã nổi giận đứng lên công khai trách hai người nặng
lời. Sách thánh không viết gì về phản ứng ngược lại của hai vị, tức là
hai vị đã nhịn. Chúng ta nên để ý: Lúc đó Phêrô vị lãnh đạo Giáo Hội, và
Banaba người đỡ đầu cho Phaolô. Phaolô chỉ là một người đến sau, một
người cấp dưới. Là một người
đến sau và người cấp dưới vậy mà hôm nay Phaolô dám
công khai chỉ trích hai bậc trưởng thượng của mình trước mặt cả người Do
thái lẫn người lương mới tòng giáo. Vậy mà hai Phêrô và Barnaba vẫn
nhịn. Đây phải nói là một
tấm gương hết sức sống động về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí.
Lần đụng độ thứ hai là
về việc có liên quan đến Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ
nhất, Banaba đã cho Marcô nhập đoàn. Nhưng sau một số gian khổ, Marcô đã
bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô rất giận. Đến khi chuẩn bị chuyến truyền
giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô đi theo, có ý là để cho Marcô đoái
công chuộc tội. Nhưng Phaolô cương quyết không nhận. Phần vì Banaba
thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên nhất định giữ anh này lại. Kết quả là
Banaba và Phaolô đành phải chia tay nhau, mỗi người dẫn một đoàn truyền
giáo riêng đi giảng mỗi người một hướng. Thật không dè rằng chuyện bất
đồng này lại đưa đến kết quả tốt. Đó là việc truyền giáo càng ngày càng
được đẩy mạnh hơn. Và thêm một kết quả nữa cũng hết sức tốt đẹp. Nó đã
chứng minh cho quan điểm của Banaba là hợp lý. Đó là Barnaba đã thực sự
cứu chữa được Marcô, không những đã giúp Marcô trở thành một tông đồ
nhiệt thành mà sau này còn là tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Tóm lại chúng ta thấy mỗi người chúng ta khi sinh ra đã mang sẵn một
loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng
theo cá
tính riêng của mình.
https://dongnuvuonghoabinh.org/hanh-cac-thanh/ngay-1106-thanh-barnaba-tong-do-39015.html
…Thánh Barnaba là một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo
Hội. Ngài đóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch
Phúc Âm cho dân ngoại. Đồng thời, chính ngài là người đã đứng ra đảm bảo
về sự trở lại thực sự của thánh Phaolô trước mặt cộng đoàn Kitô hữu khi
Phaolô mới trở lại đạo…
Mặc dù thánh Barnaba không phải là một người trong nhóm mười hai tông đồ
đầu tiên của Chúa Giêsu, nhưng thánh Luca coi ngài như vị tông đồ, vì
ngài được lãnh nhận nhiệm vụ đặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Thánh nhân là
người gốc Do Thái, sinh tại đảo Síp. Tên của ngài là Giuse, nhưng các
tông đồ đổi thành Barnaba sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông
đồ cai quản. Danh xưng này có nghĩa là “người con có biệt tài khuyên nhủ
hay an ủi”.
Thánh Barnaba là một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội.
Ngài đóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm
cho dân ngoại. Đồng thời, chính ngài là người đã đứng ra đảm bảo về sự
trở lại thực sự của thánh Phaolô trước mặt cộng đoàn Kitô hữu khi Phaolô
mới trở lại đạo. Sau đó, Barnaba được sai đi rao giảng ở Antiôkia để rao
giảng Tin Mừng. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnaba đã xin
Phaolô đến giúp sức cho mình. Cả hai đã xây dựng một Giáo Hội thật phát
triển tại nơi đây. Theo sách Công Vụ Tông Đồ, chính ở Antiôkia mà “lần
đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu”.
Sau một thời gian, Chúa Thánh Thần đã chọn thánh Barnaba và thánh Phaolô
để thực hiện một sứ vụ quan trọng, đó là đem Tin Mừng đến cho dân ngoại.
Do đó, hai ông đã khởi hành chuyến đi truyền giáo đầu tiên ở nước ngoài,
trước hết là đến Síp và sau đó là đến lục địa Tiểu Á. Lúc đầu các ngài
rao giảng cho người Do Thái, nhưng bị chống đối dữ dội nên họ quay sang
rao giảng cho dân ngoại và đã thành công lớn. Tuy nhiên, công cuộc
truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh một vấn đề là người tòng giáo có phải
cắt bì theo luật Do Thái hay không. Thánh Phaolô và Barnaba đã chống đối
tập tục này và lập trường của các ngài đã được Công đồng Giêrusalem chấp
thuận, tức là những người ngoài Do Thái khi rửa tội không buộc phải chịu
cắt bì.
Barnaba và Phaolô dự định tiếp tục công cuộc truyền giáo của mình, nhưng
ngay tối trước khi khởi hành, một bất đồng xảy ra là có nên đem theo một
môn đệ nữa hay không, là ông Máccô, vị thánh sử tương lai. Vì vấn đề này
mà hai tông đồ tách làm đôi. Phaolô đem Silas đi Syria, còn Barnaba đem
Máccô đến đảo Síp. Sau này cả ba người là Phaolô, Barnaba và Máccô đã
làm hòa với nhau.
Tuy không có những dữ kiện rõ ràng, nhưng theo truyền thuyết thì thánh
Barnaba đã được phúc tử đạo tại Síp vào năm 61. Đồng thời, truyền thống
Hội Thánh nhìn nhận ngài là vị sáng lập Hội Thánh tại đảo Síp. Bên cạnh
đó, người ta nói rằng mộ Ngài được tìm thấy năm 448 và trên ngực ngài
còn có một cuốn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Barnaba đã
chép tay.
Thánh Barnaba là mẫu gương về lòng nhiệt thành trong việc rao giảng Tin
Mừng nước Thiên Chúa, và là mẫu gương về một đời sống khiêm nhường, bác
ái và chia sẻ cho tha nhân. Chúng ta hãy cầu xin thánh nhân phù trợ cho
mỗi người chúng ta, để trong đời sống thường ngày chúng ta biết quan tâm
và chia sẻ Tin Mừng tình yêu của Chúa đến cho mọi người.
https://danchuahiepthong.wordpress.com/2019/06/11/thanh-barnaba-tong-do/
Thánh Barnaba nắm giữ một chức vụ nổi bật trong những chương đầu của
sách công vụ tông đồ, không phải cho mình mà nhằm giới thiệu thánh
Phaolô, anh hùng trong cuốn sách. Ngài là một người Do thái được
sinh tại Chypre. Và là một phần tử trong Giáo hội sơ khai ở
Giêrusalem.
Chính ở địa vị này mà khoảng năm 39, tân tòng Saolê được đón nhận
vào cộng đoàn các tông đồ (Cv 9-27). Bốn năm sau, ngài kêu gọi Saolê
tham gia công tác hướng dẫn cộng đoàn Kitô giáo mới được thiết lập ở
Antiôkia (Cv 11,19-26). Thành phố này rất quan trọng, chỉ kém Rôma
và đã trở nên trung tâm Kitô giáo của lương dân. Một lần nữa, cùng
với Saolê, ngài được trao phó cho nhiệm vụ mang tiền cứu trợ gởi về
cho Giáo hội Giêrusalem (Cv 27-30). Nơi đây hai người lại được Gioan
Maccô là bà con của Barnaba (Gl 4,10) nhập bọn. Ba người họp thành
đoàn truyền giáo, lên đường khoảng năm 45 (Cv 13 và 14). Từ đây
Barnaba dần dần ẩn mặt đi. Dầu Chypre là sinh quán của ngài, nhưng
chính Saolê dưới tên mới là Phaolô dẫn dầu cuộc truyền bá Phúc âm.
Phaolô và đoàn tùy tùng lên đường tới lục địa Tiểu Á. Khi cùng
Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba được coi là thần Jupiter và
Phaolô là Hermes.
Đây là chứng cớ hùng hồn về vai trò hỗ tương của hai ông. Ba năm sau
Phaolô trở về và được Công đồng Giêrusalem phê chuẩn về đường lối
ngài theo trong chuyến hành trình (Cv 15,1-35). Năm sau, dự định
hành trình truyền giáo thứ hai có sự tranh chấp về việc kết nạp
Gioan Marcô (Cv 15,35-41). Phaolô chọn các bạn đồng hành khác và
Barnaba trở về Chypre. Việc giới thiệu Phaolô đã được hoàn thành và
tên ngài không còn được nhắc đến trong sách Công vụ nữa. Trong việc
trao đổi thư từ của Phaolô với Giáo hội Côrintô cho thấy khoảng năm
56 thánh Barnaba vẫn còn sống (1Cr 9,5). Sáu năm sau Phaolô xin
Marcô đến gặp mình ở Rôma (2Tm 4). Sự kiện này cho phép chúng ta
nghĩ rằng thánh Barnaba đã qua đời.
Một truyền thống sau này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba
tới Alexandria, Rôma, và Milan. Tại Milan, ngài là Giám mục tiên
khởi. Một truyền thống đáng tin hơn cho biết ngài chết vì ném đá ở
Salamine, sinh quán của ngài.
Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thư Phúc âm thánh Barnaba và
của một tác phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh Barnaba. Nhưng
những tài liệu này không cho biết nhiều hơn những điều đã biết được
từ sách Công vụ các tông đồ. (Cuốn gọi là thơ thánh Barnaba mà nhiều
Giáo phụ chép vào thư mục Thánh kinh, nay người ta biết được là tác
phẩm của một người Do thái theo Kitô giáo ở Alexandria).
Người ta nói rằng mộ ngài được tìm thấy năm 448. Trên ngực ngài còn
có một cuốn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Barnaba đã
chép tay.
Theo Vết Chân Người - Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý
https://giaophanphucuong.org/phung-vu-chu-thanh/thanh-barnaba-tong-do-1732.html
https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-barnaba-tong-do-42850
“Vị thánh này có phúc, vì đáng được kể thêm vào số các Tông Đồ: Người
thật là tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin”( Cv 11, 24 ). Thánh Barnabê
là một trong 72 môn đệ đầu tiên đã nghe Chúa Giêsu giảng dậy và đã trở
thành môn đệ của Ngài
THÁNH
BARNABÊ, MÔN ĐỆ CỦA CHÚA GIÊSU:
Đã có lần, có dịp nghe Chúa Giêsu giảng dậy và đã chứng kiến Chúa Giêsu
làm phép lạ, thánh Barnabê đã trở thành một trong 72 môn đệ đầu tiên của
Chúa Giêsu. Vì Chúa Giêsu đã nói:” Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng
chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được
hoa trái...”( Ga 15, 16 ).Chính Chúa Giêsu đã chọn Barnabê để thánh nhân
làm chứng cho tình yêu của Chúa và giới thiệu Chúa Giêsu cho nhiều
người. Sau biến cố Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ sai Barnabê đi
truyền giáo ở Antiokia, một miền trù phú và thịnh vượng, phồn vinh nhất
lúc bấy giờ. Và như lời Chúa nói:”...hầu tất cả những gì anh em xin cùng
Chúa Cha nhân danhThầy thì Thầy ban cho anh em”( Ga 15, 16 ).
Thánh
Barnabê luôn có Chúa Thánh Thần tràn đầy và nhờ tài giảng thuyết, Ngài
đã đưa được biết bao nhiêu người trở về với Chúa. Thánh nhân đã mời
thánh Phaolô về ở với mình và cùng giảng dậy, loan báo Tin Mừng ở
Antiokia. Sau đó, thánh nhân mang món tiền mà Ngài đã quyên góp được về
Giêrusa lem gặp các vị kỳ mục và các tông đồ khác. Đường lối và ý nhiệm
mầu của Chúa lại khác, Barnabê và Phaolô lại được trao sứ mạng rao giảng
Tin Mừng cho dân ngoại, nên các Ngài lại trẩy đi Séleucie và Chypre. Dân
bản xứ và các người ngoại giáo, đón tiếp các Ngài một cách nhiệt tình,
họ tin theo các Ngài. Tuy nhiên cũng có những người Do Thái có óc thủ
cựu, hẹp hòi đã tìm cách gièm pha, chế diễu và nói nhiều lời ngạo mạn
đối với các Ngài, họ xúi giục những thành phần bất hảo ngược đãi và trục
xuất các Ngài ( Cv 13, 50 ). Chúa cho các Ngài làm nhiều phép lạ: xua
trừ ma quỉ, chữa bệnh, làm cho kẻ chết sống lại để củng cố niềm tin của
các tân tòng.
CHÚA
THƯỞNG CÔNG CHO THÁNH BARNABÊ:
Thánh Barnabê và thánh Marcô tiếp tục rao giảng ở đảo Chypre. Chúa đã
yêu thương cho thánh Barnabê được lãnh triều thiên qua cái chết tử đạo
của Ngài:” Hạt lúa mì rơi xuống đất không thúi đi, thì nó sẽ không sinh
nhiều bông hạt...”. Người Do Thái ở Syria đã xúi giục dân chúng ném đá
và xử tử thánh Barnabê. Đời Hoàng Đế Zénon, vào năm 488, người ta đã tìm
thấy xác của thánh Barnabê tại Salamine thuộc đảo Chypre, Hy Lạp.
Lạy Chúa, Chúa đã truyền phải dành riêng thánh Barnabê là một người đầy
lòng tin và Thánh Thần, để thánh nhân đưa dân ngoại về với Chúa. Xin cho
mọi tín hữu biết dùng lời nói và việc làm để trung thành loan báo Tin
Mừng Đức Kitô như thánh nhân đã can đảm rao truyền( ca nhập lễ, lễ thánh
Barnabê, tông đồ ).
Linh
mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
http://mtgcaimon.net/mtgnews/index.php/suy-niem/hanh-cac-thanh/2023-thanh-barnaba-tong-do.html
Tên của ngài dù không phải là một trong số mười hai Tông đồ được Đức Chúa
Giêsu tuyển chọn, nhưng Thánh Barnaba (Barnabê) được Thánh ký Luca
gọi là tông đồ trong sách Tông đồ Công vụ của ngài. Ngài là Giuse
nhưng các tông đồ đổi thành Barnaba. Danh xưng này có nghĩa là “con
của sự an ủi”.
Dù không phải là một trong số mười hai Tông đồ được Đức Chúa Giêsu
tuyển chọn, nhưng Thánh Barnaba (Barnabê) được Thánh ký Luca gọi là
tông đồ trong sách Tông đồ Công vụ của ngài. Vì như Tông đồ Phaolô,
Barnaba cũng nhận được từ Thiên Chúa một sứ vụ đặc biệt. Thánh nhân
là người gốc Do Thái, sinh tại đảo Cyprô. Tên của ngài là Giuse
nhưng các tông đồ đổi thành Barnaba. Danh xưng này có nghĩa là “con
của sự an ủi”.
|
Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba được coi
là thần Jupiter và Phaolô là Hermes. Đây là chứng cớ
hùng hồn về vai trò hỗ tương của hai ông. |
Ngay khi trở thành Kitô hữu, Thánh Barnaba đã bán tất cả những gì
ngài có và đem tiền dâng cho các Tông đồ. Thánh nhân là người tốt
bụng. Ngài rất nhiệt thành hăng say tin yêu Đức Chúa Giêsu. Barnaba
được sai đến thành Antiôkia để rao giảng Tin mừng. Antiôkia là thành
phố lớn thứ ba trong đế quốc Rôma thời ấy. Tại đây, những người tin
theo Đức Chúa Giêsu lần đầu tiên được gọi là Kitô hữu. Barnaba nhận
thấy mình cần sự giúp đỡ nên liền nghĩ tới Phaolô thành Tarsô. Ngài
tin rằng Phaolô đã thực sự được ơn trở lại. Chính Barnaba đã đứng ra
thuyết phục Thánh Phêrô và cộng đoàn Kitô hữu; và đã xin cho Phaolô
đến làm việc với mình. Barnaba là người khiêm tốn. Ngài không ngại
chia sẻ năng lực và trách nhiệm. Ngài cũng biết Phaolô có một ân
sủng rất đặc biệt và ngài muốn Thánh nhân có cơ hội để trao ban.
Một thời gian sau, Chúa Thánh Linh đã chọn Phaolô và Barnaba để thực
hiện một sứ vụ quan trọng. Sau đó không lâu, hai vị Tông đồ đã lên
đường thực hiện sứ mệnh anh dũng này. Các ngài đã phải chịu nhiều
đau khổ và thường hay gặp nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng giữa những
thử thách cam go, việc rao giảng của các ngài đã thuyết phục được
nhiều người trở về với Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người.
Sau đó, Thánh Barnaba tiếp tục thực hiện một cuộc truyền giáo khác.
Lần này với Thánh Marcô, người bà con với ngài. Họ đi về Cyprô, quê
hương của Barnaba. Qua việc rao giảng của Thánh Barnaba, rất nhiều
người đã trở nên Kitô hữu đến nỗi Barnaba được gọi là Tông đồ của
đảo Cyprô. Theo ý kiến chung, người ta cho rằng vị đại thánh này đã
bị ném đá chết vào năm 61.
Thánh
Barnaba đã nhận một danh xưng biểu hiệu đúng con người của ngài: một
người tốt luôn luôn khuyến khích người khác yêu mến Thiên Chúa.
Chúng ta hãy cầu nguyện với vị thánh này và xin ngài làm cho chúng
ta cũng được trở nên những “người con của sự an ủi” như thánh nhân.
(Theo tinmung.net)
http://www.cgvdt.vn/lich/hanh-cac-thanh/thanh-barnaba_a2943
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II)
1 V 18, 20-39
"Chớ gì dân này nhìn nhận Chúa là
Thiên Chúa và chính Chúa đã hoán cải lòng họ".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Vua Acáp sai người triệu tập toàn thể
con cái Israel và nhóm họp các tiên tri trên núi Carmel.
Bấy giờ Êlia đến cùng toàn dân và
tuyên bố rằng: "Các ngươi đi nước đôi cho đến khi nào? Nếu Chúa là Thiên
Chúa, các ngươi hãy theo Người; nếu Baal là thiên chúa, thì hãy theo nó đi!"
Dân chúng không thưa lại được lời nào. Êlia nói tiếp: "Chỉ còn tôi là tiên
tri duy nhất của Chúa, mà tiên tri của Baal thì có đến bốn trăm năm mươi
người. Hãy cho chúng tôi hai con bò đực; họ hãy chọn lấy một con cho họ, xẻ
ra từng miếng đặt trên củi, nhưng đừng đốt lửa. Phần tôi, tôi làm thịt con
bò kia, xếp trên củi và cũng không châm lửa. Ðoạn các ông hãy kêu cầu danh
các thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh Chúa của tôi. Ðấng nào
đáp lời cho lửa xuống đốt, thì Ðấng ấy là Thiên Chúa". Toàn dân đồng thanh
đáp: "Ðề nghị hay đấy!"
Vậy Êlia nói với các tiên tri của Baal
rằng: "Các ông hãy chọn lấy một con bò và làm thịt trước đi, vì các ông đông
hơn, rồi hãy kêu cầu danh thần của các ông, nhưng đừng châm lửa". Họ liền
bắt con bò người ta trao cho mà làm thịt. Họ kêu cầu danh Baal từ sáng đến
trưa và nguyện rằng: "Lạy thần Baal, xin nghe lời chúng tôi!" Nhưng chẳng có
tiếng đáp, cũng chẳng ai trả lời. Họ nhảy múa chung quanh bàn thờ họ đã dựng
lên. Khi trời đã trưa, Êlia chế diễu họ rằng: "Hãy gào thét to hơn, vì Baal
là một vị thần. Có khi Người đang là tính công chuyện hoặc đang bận việc,
hoặc đi vắng, hay đang ngủ chăng, và sẽ thức dậy". Họ càng kêu lớn tiếng,
lấy gươm giáo rạch mình theo tập tục họ, cho đến khi mình đầy máu me. Khi đã
quá trưa, họ còn đọc thần chú đến giờ dâng lễ vật thường lệ, nhưng không có
tiếng đáp, cũng chẳng có ai trả lời tỏ dấu lưu tâm đến.
Bấy giờ Êlia nói với toàn dân rằng:
"Hãy lại gần tôi". Toàn dân liền đến gần bên ông. Ông dựng lại bàn thờ Chúa
trước kia đã bị phá huỷ. Ông lấy mười hai hòn đá đúng theo số mười hai chi
tộc con cái Giacóp, là kẻ đã được nghe lời Chúa phán như sau: "Ngươi sẽ gọi
là Israel". Ông dùng các hòn đá ấy làm bàn thờ kính danh Chúa. Rồi ông đào
một cái mương, rộng chừng hai đấu hạt giống, chung quanh bàn thờ; ông xếp
củi, xẻ con bò ra từng miếng và đặt trên củi. Ðoạn ông nói: "Hãy múc đầy bốn
hũ nước và đổ trên của lễ toàn thiêu và củi". Và họ làm như thế. Ông còn
dạy: "Hãy làm như vậy một lần thứ hai". Khi người ta đã làm như ông dạy, ông
lại ra lệnh: "Hãy làm như thế một lần thứ ba". Và họ làm lần nữa. Nước chảy
chung quanh bàn thờ, mương đầy nước.
Khi đã đến giờ dâng của lễ toàn thiêu,
tiên tri Êlia tiến ra cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa của Abraham,
Isaac và Israel, xin tỏ ra Chúa là Thiên Chúa của Israel và con là tôi tớ
của Chúa, và chính vì tuân lệnh Chúa truyền mà con đã làm các việc này. Lạy
Chúa, xin nhậm lời con, xin đoái nghe lời con, hầu cho dân này nhìn nhận
Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa hoán cải lòng họ". Bấy giờ lửa Chúa giáng
xuống thiêu đốt của lễ toàn thiêu, củi, đá và cả bụi đất, đồng thời cũng hút
hết nước trong mương. Trông thấy thế, toàn dân kinh hãi sấp mặt xuống đất mà
nói rằng: "Chúa là Thiên Chúa! Chúa là Thiên Chúa!"
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15,
1-2a. 4. 5 và 8. 11
Ðáp: Xin
bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1).
Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa,
vì con tìm nương tựa Chúa, con thưa cùng Chúa: Ngài là chúa tể con. - Ðáp.
2) Thiên hạ tăng thêm nhiều nỗi đau
thương của họ, họ là những kẻ chạy theo các thần tượng ngoại lai. Con sẽ
không dâng lễ quán bằng máu của chúng, cũng không đọc tên chúng trên môi. -
Ðáp.
3) Chúa là phần gia nghiệp và phần
chén của con, chính Người nắm giữ vận mạng của con. Con luôn luôn đặt Chúa ở
trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.
4) Chúa sẽ chỉ cho con đường lối
trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu
Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c
và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của
Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5,
17-19
"Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để
kiện toàn".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri:
Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Thầy bảo thật các con: Cho
dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ
sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều
luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất
trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được
kể là người cao cả trong Nước Trời".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Luật Thánh bất
diệt
Suy Niệm
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư
trong Tuần X Thường Niên, vẫn tiếp tục và theo sát bài
Phúc Âm hôm qua và hôm kia cả
về đoạn 5 lẫn 3 câu
tiếp ngay sau 2 bài Phúc Âm Thứ Hai và Thứ Ba đầu tuần.
Trong bài Phúc Âm này, Chúa Giêsu khẳng định 3 điều rất
quan trọng, thứ tự như sau:
1- Lề
luật cần được Người kiện
toàn hơn là hủy hoại: "Các
con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để
huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn". Trong Đoạn 5
và 6 về Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi này đã làm sáng tỏ lời khẳng định
này của Chúa Giêsu, khi Người thường dùng công thức: lề luật thì dạy cho chung
Dân Do Thái một cách căn bản như thế này... còn Thày thì dạy cho các con
sống trọn lành theo tinh thần của lề luật hơn thế nữa mới xác
đáng và mới hoàn toàn.
2- Lề luật là những gì bất biến
và vĩnh viễn: "Thầy bảo thật các con:
Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ
sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành". Bởi
vì, lề luật từ Thiên Chúa mà có, nên không bao giờ sai lầm, được Ngài ban bố cho
dân Do Thái qua Moisen, để giúp cho dân của ngài sống xứng đáng với Ngài, sống vượt
lên trên các dân tộc ngoại bang không nhận biết Chúa nên họ thờ tà thần và sống
lăng loàn theo tự nhiên.
3- Lề
luật là những gì cần phải tuân giữ và giảng dạy một cách chính xác: "Bởi
vậy, ai hủy bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như
vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta
giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời". Chúa
Giêsu đến là để làm lề luật của Cha Người ban bố cho dân Do Thái được nên trọn
hảo hơn, để nhờ đó họ có thể sống phản ảnh "Cha trên trời
là Đấng trọn lành" (5:48), và cũng nhờ đó ai
càng tỉ mỉ tuân theo lời Người khuyên dạy càng nên giống Cha, tức càng "cao
cả trong Nước Trời".
Cảm Nghiệm
Còn mang mầm mống nguyên tội và xu hướng về tự nhiên, luôn tìm kiếm đường
rộng mà đi hơn là cứ cửa hẹp mà vào (xem Mathêu 7:13-14), nên cho dù con
người có nhiều lúc cầu xin cho được biết đâu là ý Chúa mà theo nhưng tìm mãi
không ra, bởi có những lúc họ thực sự biết được ý của Ngài rồi, như qua cha
linh hướng hay bị lương tâm cắn rứt, lại không dám theo vì những gì Thiên Chúa
muốn bao giờ cũng trái với ý muốn của họ, những gì khiến họ cần phải bỏ
mình và vác thập giá mà theo Ngài (xem Mathêu 16:24), điển hình nhất là
trường hợp của tiên tri Gionna được Thiên Chúa sai đến rao giảng thống hối
cho thành Ninive (xem Gionna đoạn 1).
Lịch sử cứu độ của dân Do Thái cũng cho thấy như vậy. Họ là dân tộc duy nhất
trên trái đất này được Chúa là Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ ban cho
lề luật thánh để họ có thể sống xứng đáng với Ngài là Đấng Thánh và nhờ đó
đáp ứng với Giao Ước Thánh của Ngài như Ngài đã hứa với các tổ phụ Abraham,
Isaac và Giacóp của họ. Thế nhưng, vì sống giữa dân Ai Cập một thời gian quá
dài đến 430 năm, bị
lây nhiễm những xu hướng và thói tục đa thần của dân tộc ngoại bang này, cho
dù đã được giải phóng và đã từ từ thấy được Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất
của cha ông mình, qua những lần Ngài tỏ mình ra cho họ, nhất là trong cuộc
vượt qua vùng đất nô lệ Ai Cập mà về miền Đất Hứa tự do, họ vẫn tiếp tục
sống theo xu hướng đa thần và tà thần, hoàn toàn phản lại Luật Thánh của
Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi họ, trái lại, còn thông cảm và thương
cảm họ hơn bao giờ hết, không tru diệt họ, như Ngài đã từng muốn thực hiện 2
lần trong 40 năm sa mạc của họ, khi họ tôn thờ bò vàng lúc mới thoát khỏi Ai
Cập được khoảng 3 tháng và khi họ muốn cùng nhau trở về Ai Cập khi gần đến Đất Hứa. Trong Bài Đọc I cho
Năm Chẵn hôm nay, Thiên Chúa vẫn trung thành thương yêu dân tộc được Ngài
tuyển chọn cách riêng giữa mọi dân nước trên thế gian này, để chẳng những tỏ
mình ra cho họ mà còn cho chư dân nữa, nên Ngài đã sai Tiên Tri Elia đến với
họ để tiếp tục đánh động họ, giúp họ tỉnh ngộ mà quay về với Ngài là Thiên
Chúa chân thật duy nhất của họ, chứ không phải thứ thần Baal nào đó mà họ
đang bị đám tiên tri phù thủy của thần này gian trá mê hoặc lừa đảo họ.
Thiên Chúa tỏ mình ra qua tiên tri Elia như được Bài Đọc 1 thuật lại đầu
tiên như sau:
"Bấy giờ Êlia đến cùng toàn dân và tuyên bố rằng: 'Các ngươi đi nước đôi
cho đến khi nào? Nếu Chúa là Thiên Chúa, các ngươi hãy theo Người; nếu Baal
là thiên chúa, thì hãy theo nó đi!' Dân chúng không thưa lại được lời nào.
Êlia nói tiếp: 'Chỉ còn tôi là tiên tri duy nhất của Chúa, mà tiên tri của
Baal thì có đến bốn trăm năm mươi người. Hãy cho chúng tôi hai con bò đực;
họ hãy chọn lấy một con cho họ, xẻ ra từng miếng đặt trên củi, nhưng đừng
đốt lửa. Phần tôi, tôi làm thịt con bò kia, xếp trên củi và cũng không châm
lửa. Ðoạn các ông hãy kêu cầu danh các thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu
cầu danh Chúa của tôi. Ðấng nào đáp lời cho lửa xuống đốt, thì Ðấng ấy là
Thiên Chúa'. Toàn dân đồng thanh đáp: 'Ðề nghị hay đấy!'"
Cuối cùng dân của Ngài đã thực sự nhận biết Ngài, như được đoạn cuối của
cùng Bài Đọc 1 này thuật lại. Thậm chí qua phép lạ của tiên tri Elia, Thiên
Chúa cũng muốn cứu cả chính thành phần tiên tri của thần Baal này, bằng cái
chết đền tội của bản thân họ (xem 1 Chư Vương 18:40).
"Khi đã đến giờ dâng của lễ toàn thiêu, tiên tri Êlia tiến ra cầu nguyện
rằng: 'Lạy Chúa là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel, xin tỏ ra Chúa
là Thiên Chúa của Israel và con là tôi tớ của Chúa, và chính vì tuân lệnh
Chúa truyền mà con đã làm các việc này. Lạy Chúa, xin nhậm lời con, xin đoái
nghe lời con, hầu cho dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa
hoán cải lòng họ'. Bấy giờ lửa Chúa giáng xuống thiêu đốt của lễ toàn thiêu,
củi, đá và cả bụi đất, đồng thời cũng hút hết nước trong mương. Trông thấy
thế, toàn dân kinh hãi sấp mặt xuống đất mà nói rằng: 'Chúa là Thiên Chúa!
Chúa là Thiên Chúa!'"
Tuy nhiên, một khi còn sống, con người vẫn còn có thể tiếp tục bất trung,
cho dù có thấy được, vào một lúc nào đó, tác động thần linh của Thiên Chúa
trong cuộc đời của mình, thấy được Ngài thực sự hiện diện thần linh trong
mình, như lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho thấy, nhất là trong thời kỳ
Quan Án trước thời kỳ quân chủ. Bởi thế, họ phải làm sao để luôn ý thức và
mang tâm tình cậy trông gắn bó với Thiên Chúa của Thánh Vịnh gia trong Bài
Đáp Ca hôm nay:
1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa, con thưa
cùng Chúa: Ngài là chúa tể con.
2) Thiên hạ tăng thêm nhiều nỗi đau thương của họ, họ là những kẻ chạy
theo các thần tượng ngoại lai. Con sẽ không dâng lễ quán bằng máu của chúng,
cũng không đọc tên chúng trên môi.
3) Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Người nắm giữ vận
mạng của con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu
con, con sẽ không nao núng.
4) Chúa sẽ chỉ cho con đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước
thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời!
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1
V 18, 41-46
"Êlia cầu nguyện và trời đổ mưa"
(Gc 5, 18).
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Êlia tâu cùng
Acáp rằng: "Xin bệ hạ lên ăn uống, vì tôi nghe có tiếng mưa to". Acáp liền
lên ăn uống. Phần Êlia, ông trèo lên đỉnh núi Carmel, cúi mình xuống đất,
gục mặt vào hai đầu gối. Ðoạn ông nói với người đầy tớ rằng: "Hãy lên đây
nhìn về phía biển". Người đầy tớ leo lên, đưa mắt nhìn, rồi thưa ông: "Không
có gì hết." Êlia lại nói với y: "Cứ xem lại bảy lần". Ðến lần thứ bảy (nó
báo:) "Kìa, có đám mây nhỏ bằng vết chân người, từ biển kéo lên". Êlia liền
bảo: "Hãy lên tâu với Acáp chuẩn bị xe xuống gấp kẻo mắc mưa". Ðang lúc vua
còn loay hoay thì bỗng trời tối om, mây bao phủ, gió thổi lên, trời đổ mưa
như trút. Acáp lên xe đi Giêrahel. Tay Chúa phù hộ Êlia: Ông thắt lưng chạy
trước Acáp cho đến khi tới Giêrahel.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 64,
10abcd. 10e-11. 12-13
Ðáp: Lạy
Chúa, Chúa đáng ca tụng trên núi Sion (c. 2a).
Xướng: 1) Chúa đã viếng thăm ruộng đất
và tưới giội, Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần. Sông ngòi của
Thiên Chúa tràn trề nước, Ngài đã chuẩn bị cho thiên hạ có lúa mì. - Ðáp.
2) Vì Ngài đã chuẩn bị như thế này cho
ruộng đất: Ngài đã tưới giội nước vào những luống cày, và Ngài san bằng mô
cao của ruộng đất, Ngài làm cho đất mềm bởi thấm nước mưa, Ngài chúc phúc
cho mầm cây trong đất. - Ðáp.
3) Chúa đã ban cho năm hồng ân, và lốt
xe ngự giá của Người khơi nguồn phong phú. Ðống đất hoang vu có nước chảy
đầm đìa, và các đồi núi bận xiêm y hoan hỉ. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 29
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu
ai yêu Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng
Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5,
20-26
"Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình,
thì sẽ bị toà án luận phạt".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các
con chẳng được vào Nước Trời đâu.
"Các con đã nghe dạy người xưa rằng:
"Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án". Còn
Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà
án luận phạt. Ai bảo anh em là "ngốc", thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa
anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi
bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy
để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi
hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc
đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao
con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con
sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!"
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
"vạ lửa địa ngục"
Suy Niệm
Trong bài Phúc Âm
cho Thứ Năm Tuần X Thường Niên hôm nay (Mathêu
5:20-26), Chúa
Giêsu bắt đầu cho thấy những gì là căn bản theo lề luật vẫn được
thành phần "luật sĩ và biệt phái"
tỉ mỉ tuân hành một cách "văn tự", thứ tuân hành của họ "chẳng được
vào Nước Trời", và
những gì lề luật cần được Người hoàn trọn bằng một tinh thần trọn lành hơn nơi
từng khoản lề luật được Người tự ý nêu lên cho các
môn đệ của Người thấy.
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại điều luật đầu
tiên được Chúa Giêsu nhắc đến liên
quan đến điều răn Thứ 5 trong Thập Giới, để dạy các môn đệ của mình sống
trọn lành hơn như sau:
"Các con đã nghe dạy người xưa rằng: 'Không được giết người.
Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án'. Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất
cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là
'ngốc', thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là 'khùng', thì sẽ bị vạ lửa
địa ngục".
Ở đây, theo luật cũ thì phạm nhân giết người "sẽ
bị luận phạt nơi toà án", còn đối với Chúa Giêsu thì không
cần phải phạm tội ác giết người, mà chỉ cần "phẫn nộ với anh em mình,
thì sẽ bị toà án luận phạt" rồi. Chưa hết, tội còn nặng hơn
nữa nếu "ai bảo anh em là 'ngốc', thì bị phạt
trước công nghị". Sau hết, tội càng trầm trọng hơn bao giờ
hết với hình phạt tương xứng có thể nói là nặng nhất kèm theo đó là "Ai
rủa anh em là 'khùng', thì sẽ bị vạ lửa địa ngục".
Đến đây, đọc lại đoạn Chúa dạy này,
chúng ta thấy hình như tội giết người có vẻ nhẹ nhất, không
bằng tội nguyền rủa anh em mình là khùng! Hình như Chúa Giêsu muốn ngầm cho các
môn đệ của Người biết rằng, nếu con người ta mang tâm tư phẫn nộ giận dữ
anh chị em mình, có tâm trạng khinh thường anh chị
em mình đến độ dám nguyền rủa anh chị em mình thì kể như họ đã giết anh chị em
họ ngay trong tâm hồn của họ, và nếu có súng trong tay họ có thể giết anh em của
họ bất cứ khi nào họ muốn, nhất là khi họ không cầm được cơn giận.
Bởi thế, ngay sau đó, Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ, nếu các vị
là nạn nhân, chẳng hạn như các vị bị ai hận tức,
khinh bỉ chúng ta hay nguyền rủa chúng ta, thi
hành một việc rất khó làm, hoàn toàn phản khắc với lý lẽ tự nhiên
trần tục, thậm chí bị trần gian coi là nhu nhược và điên khùng, đó là "Nếu
các con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em của các con có điều
gì bất bình với các con, thì các con hãy để của lễ
lại trước bàn thờ, rồi đi làm hoà với người anh em của
các con trước đã, rồi hãy trở lại mà dâng của lễ".
Ở đây, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ thực hành một điều thật là
trái khuấy, ở chỗ nạn nhân phải tự động làm hòa với phạm nhân trước,
chứ không phải phạm nhân theo phép công bằng phải đi xin lỗi nạn nhân. Hành động
trọn lành được Chúa Giêsu dạy đây đã được chính bản thân Người thực hiện, đó là
Vị Thiên Chúa bị loài người xúc phạm qua nguyên tổ của họ ngay từ
ban đầu đã tự động giải hòa với con người phạm nhân tội
lỗi bằng bửu huyết tử giá Con của Ngài (xem Colose 1:20).
Hành động bác ái trọn lành khác thường đến phi thường này có thể
nói còn có giá trị hơn cả việc con người dâng lễ vật lên cho Thiên Chúa nữa. Hay
nói đúng hơn, để xứng đáng dâng lễ vật cho Ngài con người ta còn cần phải yêu
thương trọn lành như Ngài, biết tha thứ cho những ai làm khốn mình. Đó là lý
do, ở phần đầu Thánh Lễ có nghi thức xám hối, một nghi thức để ngay bấy giờ
chúng ta âm thầm tha thứ cho những ai phạm đến chúng ta, như thể chúng ta bỏ của
lễ lại mà về làm hòa vậy.
Cảm Nghiệm
Theo tâm lý tự nhiên, khi lòng mình còn chấp nhất ai, dù họ có thật sự có
lỗi hay do tự mình suy ra, thì chính đương sự chủ thể cảm thấy nặng nề, khó
thở và cuộc đời của họ tự nhiên trở nên cằn cỗi như một mảnh đất bị hạn hán
vậy, cho đến khi có thể tha thứ cho kẻ thù của mình, một tác động họ không
thể nào tự mình có thể vượt qua nếu không có ân sủng từ trời cao như mưa
tuôn đổ xuống trên tâm hồn càng chấp nhất càng hạn hán khô cằn đầy tàn úa và
chết chóc của họ.
Thế nhưng, muốn được ơn Chúa, con người cần đến một vị trung gian có thế
lực, như vị Tiên Tri trong Bài Đọc 1 cho năm chẵn hôm nay:
"Tay Chúa phù hộ Êlia", vị thậm
chí đã có thể thấy trước được cả sự kiện mưa xuống trước khi nó xẩy ra. Thật
vậy, "trong những ngày ấy, Êlia tâu cùng Acáp
rằng: 'Xin bệ hạ lên ăn uống, vì tôi nghe có tiếng mưa to'", nhưng bấy
giờ mưa vẫn chưa rơi, cho đến khi người đầy tớ của vị tiên tri này, canh
chừng bằng việc "nhìn về phía biển" 7 lần theo lời căn dặn của vị
tiên tri ấy, hô lên rằng: "Kìa, có đám mây nhỏ bằng vết chân người, từ
biển kéo lên".
Chúa Kitô, Vị Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (xem 1
Timôthêu 2:5), cũng đã chỉ cho họ biết dấu chỉ của một trận mưa ân sủng mỗi
khi mảnh đất cuộc đời của họ trở nên khô cằn tàn úa chết chóc vì hạn hán gây
ra bởi lòng hận thù ghen ghét của họ với tha nhân, đó là hãy tự động làm hòa
với phạm nhân, tức là hãy tự động tha thứ cho họ, một tác động chẳng khác gì
như họ tự giải thoát bản thân họ khi họ nhốt mình vào ngục tù chấp nhất oán
hận.
Một khi con người biết tự tha thứ cho nhau, như chính họ được Thiên Chúa thứ
tha cho họ, thì họ mới được Ngài "viếng thăm" để rồi nhờ đó ân sủng
của Ngài làm cho họ trở nên tươi tốt tràn đầy sức sống như Bài Đáp Ca hôm
nay cho thấy:
1) Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới giội, Ngài làm cho đất trở nên
phong phú bội phần. Sông ngòi của Thiên Chúa tràn trề nước, Ngài đã chuẩn bị
cho thiên hạ có lúa mì.
2) Vì Ngài đã chuẩn bị như thế này cho ruộng đất: Ngài đã tưới giội nước
vào những luống cày, và Ngài san bằng mô cao của ruộng đất, Ngài làm cho đất
mềm bởi thấm nước mưa, Ngài chúc phúc cho mầm cây trong đất.
3) Chúa đã ban cho năm hồng ân, và lốt xe ngự giá của Người khơi nguồn
phong phú. Ðống đất hoang vu có nước chảy đầm đìa, và các đồi núi bận xiêm y
hoan hỉ.
Quy tắc đời sống của Thánh Antôn là “từ bỏ
mọi sự và theo Ðức Kitô”, đúng như lời ghi trong Phúc Âm. Nhiều lần
Thiên Chúa đã gọi thánh nhân đến các hoạch định mới và ngài đã đáp ứng
một cách nhiệt thành và tận tụy hy sinh để phục vụ Ðức Giêsu Kitô cách
trọn vẹn hơn.
Vị thánh rất nổi tiếng này sinh ở Bồ Ðào Nha, và tên rửa tội là
“Ferdinand.” Ngài được sự giáo dục kỹ lưỡng của các tu sĩ dòng Augustine
và sau đó đã gia nhập Dòng. Khi hai mươi lăm tuổi, cuộc đời ngài chuyển
hướng. Lúc bấy giờ, ngài nghe tin một số tu sĩ dòng Phanxicô bị bách hại
bởi người Moor và được tử đạo ở Morocco – đó là Thánh Bernard và các
bạn. Ferdinand khao khát được chết vì Ðức Kitô nên ngài gia nhập dòng
Phanxicô. Lúc bấy giờ, dòng này mới thành lập và Thánh Phanxicô vẫn còn
sống. Ferdinand lấy tên là “Antôn” và đến Phi Châu để rao giảng cho
người Moor. Nhưng ngay sau đó, ngài lâm bệnh nặng phải trở về Ý và sống
trong một nơi hiu quạnh, chấp nhận công việc rửa chén trong nhà bếp và
dành thời giờ để cầu nguyện, đọc Kinh Thánh.
Thầy Antôn không bao giờ nói về mình, nên không ai trong nhà dòng biết
được sự thông minh và tài giỏi thực sự của ngài. Mãi cho đến khi có buổi
lễ tấn phong, và vì không ai trong dòng kịp chuẩn bị nên Thầy Antôn đã
được chọn để diễn giảng. Những năm tìm kiếm Ðức Kitô trong sự cầu
nguyện, trong Kinh Thánh và phục vụ Chúa trong sự nghèo hèn, khiêm hạ đã
chuẩn bị Thầy Antôn được sẵn sàng để Thần Khí dùng đến khả năng của
thầy. Bài giảng của thầy đã làm mọi người kinh ngạc và từ đó trở đi, cho
đến khi ngài từ trần vào chín năm sau đó, Thầy Antôn đã đi rao giảng
khắp nước Ý. Ngài nổi tiếng đến nỗi dân chúng phải đóng cửa tiệm để đến
nghe ngài giảng.
Ðược công nhận là một người siêng năng cầu nguyện, hiểu biết Kinh Thánh
và thần học, Thầy Antôn là thầy dòng đầu tiên được dạy thần học cho các
thầy khác. Kiến thức uyên thâm của thầy lại được Thiên Chúa dùng để rao
giảng cho những người lạc giáo và hoán cải những kẻ lầm lạc.
Người thời ấy thường tìm đến Thầy Antôn để xin chữa lành hồn xác. Nhiều
phép lạ đã xảy ra qua lời cầu bầu của thánh nhân ngay khi còn sống.
Thầy Antôn từ trần ở Arcella, gần Padua, nước Ý khi ngài ba mươi sáu
tuổi. Chỉ một năm sau, ngài đã được Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô IX phong
Thánh.
Người ta thường vẽ Thánh Antôn bế Hài Nhi Giêsu vì Ðức Giêsu đã hiện ra
với ngài. Thánh Antôn là người hiểu biết thâm sâu, nhất là về Kinh
Thánh, do đó Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã tuyên xưng ngài là “Tiến Sĩ Tin
Mừng”, hoặc Tiến Sĩ Kinh Thánh.
Lời Bàn: Nhiều
khi chúng ta muốn được người đời để ý đến những công việc tốt lành của
chúng ta, nhưng ít ai muốn chú ý. Ðó là lúc chúng ta cầu xin Thánh Antôn
giúp chúng ta vui lòng chấp nhận, và chú tâm đến những gì chúng ta có
thể đem lại cho đời, hơn là nhận được từ người đời.
Lời Trích: Trong
một bài giảng, Thánh Antôn nói: “Các thánh giống như các vì sao. Trong
sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài đã giấu họ nơi kín đáo để đừng chiếu
tỏa trước mặt người khác dù đôi khi họ muốn như vậy. Tuy nhiên, họ phải
sẵn sàng hy sinh đời sống chiêm niệm âm thầm để đổi lấy việc bác ái, một
khi tâm hồn họ nhận ra đó là lời mời của Ðức Kitô”.
https://dongten.net/2019/06/12/hanh-cac-thanh-13-06-thanh-anton-padua/
Người ta thường gọi thánh Antôn Padua là “ông thánh hay làm phép lạ”.
Ngài là linh mục dòng Phanxicô, tiến sĩ Hội Thánh. Có lẽ, bạn đang đọc
những dòng này, đã lần nào đó nhận được ơn lạ ngài ban sau khi khẩn cầu
với Ngài. Tuy ngay lúc sinh thời Ngài đã làm rất nhiều phép lạ, nhưng
Ngài một mực hạ mình khiêm nhu. Chính sự khiêm nhượng cùng với lòng mến
Chúa yêu Ðức Mẹ say mê và thương người tha thiết của Ngài đã làm nên
nhiều phép lạ …
THỜI THƠ ẤU
Antôn sinh vào tháng 8 năm 1195, tại Lisbon, kinh đô nước Bồ Đào Nha.
Cha là ông Matinô, mẹ là bà Têrêsa. Hai ông bà thuộc hàng quý tộc, đầy
lòng mộ đạo và kính mến Đức Mẹ cách riêng. Khi Antôn vừa bập bẹ, mẹ đã
dạy cho cậu kêu cầu Thánh danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria, cùng dạy cho một
kinh kính Đức Mẹ mà Antôn hằng nhớ trọn đời.
Từ tấm bé, Antôn đã tỏ ra hiền lành, không thường chạy chới với trẻ lân
cận. Cậu chỉ ở nhà với mẹ hoặc theo mẹ đi nhà thờ. Khi bà quỳ trước bàn
thờ Đức Mẹ thì cậu cũng chấp tay quỳ gối, chăm chú như người lớn vậy.
Khi vừa đến tuổi khôn lớn, thì Antôn theo ơn Chúa Thánh Thần, đã khấn
giữ mình trinh khiết trọn đời theo gương Đức Mẹ. Vì lòng bác ái nên cậu
rất vui sướng khi được cha mẹ giao tiền, gạo giúp người nghèo.
Antôn được 10 tuổi thì cha mẹ gởi cho học trong nhà cha sở ở gần đó, ở
chung cùng với một số thiếu nhi khác, nhưng Antôn trội hơn bạn bè về học
hành, nết na và đạo đức. Nhất là cậu mến mộ việc phụng vụ, cậu giúp lễ,
xông hương nghiêm trang, sốt sắng như thiên thần vậy. Vì thế, cậu được
thầy thương bạn mến. Ma quỷ thấy vậy thì căm tức, toan hại cậu. Một hôm,
cậu đang cầu nguyện trên bậc đá bàn thờ Đức Mẹ như thường lệ, bỗng quỷ
lấy hình gớm ghiếc nhảy lên vai toan bóp cổ. Muốn kêu Giêsu Maria mà
không kêu được, cậu liền lấy ngón tay vẽ dấu Thánh Giá vào bậc đá. Quỷ
thấy vậy thì rút lui. Lạ lùng là dấu Thánh Giá ăn sâu vào đá, đến nay
vẫn còn. Và khách hành hương hằng đua nhau đến tôn kính.
ANTÔN VÀO DÒNG VÀ LÀM LINH MỤC
Năm 15 tuổi, Antôn tỏ ý muốn dâng mình vào một tu hội, để tận tình phụng
sự Chúa. Cha mẹ, bà con, bạn hữu đều ngăn cản vì cậu là trưởng nam, cần
ở đời để nối dõi tông đường. Kẻ thì khuyên hãy giãn ra một thời gian để
biết rõ Thánh ý Chúa hơn. Kẻ thì chê cười là dại dột, bỏ tiền tài danh
vọng mà theo đường khắc khổ vô danh. Nhưng Antôn coi phú quý vinh hoa
như phân bón, và cậu quyết chí chọn phần là dâng mình phụng thờ Chúa
trọn đời. Và thế là một sớm kia, Antôn trốn nhà đến tu viện Augustin gần
đó, xin vào tu. Bề trên xem danh tính người thì sẵn lòng tiếp nhận. Biết
vậy, Antôn vui sướng dường nào! Chẳng bao lâu thầy đã quen nếp sống nhà
dòng và trở nên khiêm nhường, phục tùng, chăm chỉ chẳng kém gì các thầy
kỳ cựu. Bề trên sai thầy tới Cônimbriga. Tại đây thầy học hành rất thông
giỏi và nổi tiếng nhân đức. Nhưng thầy luôn xưng mình là vô dụng, và chỉ
muốn làm những công việc hèn hạ.
Sau khi khấn dòng, nhiệm vụ của thầy là coi sóc bệnh nhân. Thầy rất yêu
thích nhiệm vụ này vì có dịp hãm mình và tỏ lòng yêu thương anh em. Một
lần, nhân dịp Lễ Chúa Giáng Sinh, vì ngăn trở giúp bệnh nhân nên thầy
không thể dự lễ chung với nhà dòng. Khi nghe chuông báo hiệu dâng Mình
Thánh Chúa, thầy liền quì gối quay về phía nhà thờ. Bỗng nhiên bức tường
ngăn cách giữa nhà thờ và phòng y tế nứt ra, dành chỗ cho thầy chiêm
ngắm Mình Thánh Chúa trên bàn thờ …
Thầy có trí thông minh phi thường, hiểu thấu những lẽ cao siêu: nhớ dai
những điều đã học chỉ một lần. Thầy chăm học lắm. Dù đêm dù ngày, thầy
không rời sách. Tuy nhiên, thầy lấy việc đi đàng nhân đức làm trọng hơn
nữa. Để tập đức khiêm nhường, việc hèn như làm bếp, quét nhà thầy đều
tranh làm hết. Vì lòng bác ái, thầy xin được chăm sóc anh em bệnh tật.
Có lần Chúa cho thầy lấy áo của thầy khoác áo cho bệnh nhân thì người ấy
liền khỏi.
Năm thầy 25 tuổi, nghĩa là gần 10 năm tu trì, thầy đã vâng lời bề trên
mà thụ phong linh mục.
Đang sống trong dòng Augustin, thì xãy ra vài biến cố làm cho thầy Antôn
muốn đổi dòng. Số là tu viên Augustin có thông lệ bố thí tiền gạo cho
người đến xin mỗi tuần một lần vào ngày thứ tư. Một hôm, thầy Antôn thấy
hai tu sĩ Phan Sinh mặc áo vải thô, sắc mặt võ vàng, lưng đeo bị đến ăn
xin thì thầy Antôn động lòng tôn kính, mến các thầy ấy, mà cho là kẻ có
phước, vì đã bắt chước đức khó nghèo Chúa Giêsu cách trọn vẹn. Cũng độ
ấy, có cuộc rước xác 5 Thánh tử đạo, là tu sĩ Phan Sinh từ Bắc Phi về
nước Bồ Đào Nha. Cuộc khải hoàn ấy thật linh đình, long trọng, nhất là
có nhiều kẻ ốm đau bệnh tật nhờ ơn các đấng ấy mà đã lành. Sự kiện này
làm cho thầy Antôn càng trọng, càng mến dòng Phan Sinh và ao ước được
gia nhập dòng ấy để truyền giáo và được phúc tử đạo. Nhưng nghĩ lại, bỏ
dòng Augustin đã đào tạo nên mình thì mang tiếng là vô ơn, nên thầy ra
sức xua đuổi ý tưởng ấy đi. Song càng xua đuổi thì nó càng trở lại mạnh
hơn. Người lo lắng ngày đêm nên xin Chúa soi sáng cho biết Thánh ý Chúa.
Một hôm, trong lúc Người đang quỳ cầu nguyện trước tượng chuộc tội, bỗng
thấy thánh Phanxicô Khó Khăn, gương mặt sáng láng hiện đến bảo rằng:
– Hỡi Antôn, đừng lo lắng sợ hãi nữa. Chúa sai cha đến báo cho con biết
Thánh ý Ngài muốn con vào dòng mà Ngài đã truyền cho cha lập. Cha sẽ làm
cha con và con sẽ làm con cha.
Thánh Phanxicô biến đi rồi, thì thầy Antôn mừng rỡ hết sức và quyết theo
ơn thiên triệu mới. Ngày hôm sau là ngày mùng 1 tháng 4, thầy Antôn từ
tạ bề trên và bạn dòng mà sang tu viện Phan Sinh gần đó; liền được thâu
nhận, cho mặc áo dòng và đổi tên là Antôn, vì trước đó tên Người là
Phêđinăng.
SỰ CHUẨN BỊ CHO MỘT SỨ MẠNG TÔNG ĐỒ
Thời gian đầu tại dòng Phanxicô, người ta chưa biết tiếng nhân đức và sự
thông thái của Antôn, nên thầy được trao cho nhiệm vụ rửa bát đĩa và
quét nhà. Mới vào dòng Phan Sinh được mấy tháng, thầy Antôn đã tình
nguyện đi truyền giáo ở Bắc Phi, hầu thực hiện lý tưởng của mình. Bạn
đồng hành là thầy Philiphê. Nhưng vừa đến nơi thì thầy Antôn ngã bệnh,
nằm liệt bốn tháng tròn, chẳng hoạt động chi được. Khi được loan báo, bề
trên dạy đưa thầy về chữa trị trong một tu viện Bồ Đào Nha. Trên đường
đi gặp bão to gió lớn, nên tàu dạt vào đảo Sicilia nước Ý. Và từ đó,
thầy Antôn không về đến quê hương được nữa. Trên đảo này có dòng Phan
Sinh mới thành lập, còn thiếu thốn nhiều điều, nhất la nước uống. Đã đào
nhiều nơi trong vườn mà không co nước. Thấy vậy, thầy Antôn liền cầu
nguyện một lúc rồi chỉ một địa điểm trong vườn, tức thì gặp được mạch
nước ngọt trong. Giếng ấy nay vẫn còn và người ta gọi là giếng Thánh
Antôn. Cũng còn một quả chuông gọi là chuông Thánh Antôn do Người lưu
lại; hễ gặp phong ba sấm sét thì thỉnh lên để cầu bình yên.
Ở đó dưỡng bệnh được hơn một tháng, thầy Antôn cùng với thầy Philiphê đi
Asidi, cách xa 10 ngày đàng để dự Công đồng toàn dòng, dưới quyền chủ
toạ là đấng sáng lập các bậc đàn anh trong dòng. Nhưng khi bế mạc, bề
trên không cắt cử Người vào công tác nào vì thấy Người còn quá yếu. Đang
khi Người bơ vơ, thì cha Casianô, bề trên dòng tại xứ Phêlixia gặp Người
và hỏi:
– Thầy đã có bài sai chưa?
– Thưa cha, chưa. Thầy Antôn đáp.
– Thầy đã chịu chức linh mục chưa?
– Thưa cha rồi.
– Thầy có muốn đi với tôi chăng?
– Thánh ý Đức Chúa Trời muốn cho con đi đâu thì con đi đó.
– Vậy thì thầy hãy đi với tôi.
Thầy Antôn liền đi theo bề trên Casianô về tu viện xứ Phêlixia. Bề trên
dạy Người rửa bát, quét nhà, dọn phòng các thầy. Người vui mừng lắm. Sau
đó, được bề trên chấp thuận, Người lên hang núi cao mà ăn chay cầu
nguyện trong vòng chín tháng, như các thánh tu rừng xưa. Đó là phương
cách Chúa dùng để chuẩn bi cho Người rao giảng lời Chúa sau này.
NHÀ GIẢNG THUYẾT LỪNG DANH
Trong truyện các vĩ nhân, ta thường thấy rằng: xuyên qua một sự việc bất
ngờ mà thiên hạ nhận ra thiên tài của các vị ấy. Trường hợp của Thánh
Antôn cũng vậy. Năm ấy, Đức Giám Mục thành Phôli truyền chức linh mục
cho nhiều tu sĩ hai dòng Đa Minh và Phan Sinh, các bề trên đều đến dự
lễ, trong số đó có bề trên Casianô mà thầy Antôn tháp tùng.
Trong lễ truyền chức, Đức Giám Mục vốn quen giảng một bài trọng thể.
Nhưng hôm ấy ngài mệt không giảng được nên có lời nhờ các bề trên trong
dòng giảng thay. Các vị đều xin kiếu vì chưa kịp soạn bài. Bấy giờ, bề
trên Casianô gọi thầy Antôn và truyền cho Người phải giảng. Người cũng
xin kiếu, vì từ thuở vào dòng chưa giảng bao giờ. Nhưng vì bề trên cứ
yêu cầu, nên Người vâng lời lên tòa giảng ngay. Thấy Người đứng trên tòa
giảng, các tu sĩ đều ái ngại cho Người. Một kẻ chỉ quen quét nhà, rửa
bát, mà dám lên giảng ư? Nhưng khi Antôn giảng thao thao bất tuyệt về đề
tài: “Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết vì lòng thương chúng ta” thì mọi
người mới ngẩn ra trước tài hùng biện của Người. Người đưa ra những lý
mạnh, lẽ cao; dẫn chứng lời Thánh Kinh, lời giáo phụ một cách mạch lạc,
chính xác như thể là bậc thầy chuyên về giảng thuyết xưa nay vậy. Giọng
Người thì âm vang, lời Người thì sốt sắng thấu tận lòng người nghe. Đức
Giám Mục và toàn thể cử tọa đều cảm động ra nước mắt và nói xưa nay chưa
được nghe đấng nào giảng thấm thía đến như vậy.
Dòng Phan Sinh vui mừng có một nhà hùng biện sẽ làm sáng danh Chúa. Bề
trên Casianô liền ban bài sai cho phép thầy được đi giảng khắp miền lân
cận. Đồng thời người cũng loan báo cho thánh Phanxicô biết nữa. Thánh
phụ mừng lắm, ngước mắt lên trời tạ ơn Chúa: “Chúa đã ban cho chúng con
một người xuất sắc”. Rồi truyền cho thầy Antôn phải dạy thần học cho các
tu sĩ ở dòng. Người vâng lời, đi dạy thần học trong các tu viện Phan
Sinh thuộc nước Ý và nước Pháp rất thành công.
Nhưng Thiên Chúa chọn Người làm đèn sáng thiên hạ, nên chẳng bao lâu,
thánh tổ phụ truyền cho Người giảng tại nước Ý và nước Pháp cho kẻ tội
lỗi, người rối đạo hối cải ăn năn. Sứ vụ tông đồ ấy, Người đã hoàn thành
với vô vàn hiệu quả thiêng liêng, trong vòng 10 năm từ khi Người 25 tuổi
cho đến khi qua đời. Bấy lâu trước, thiên hạ chưa từng thấy đấng nào
giảng sốt sắng và làm nhiều phép lạ cho bằng (có lẽ chỉ có thánh Vinh
Sơn, hai thế kỷ sau mới sánh được với thánh Antôn). Thầy Antôn lừng danh
khắp mọi nơi. Ai cũng háo hức muốn xem thấy mặt, cũng muốn lắng nghe lời
Người. Khi được tin Người đến đâu thì người nông thôn, dù ngày mùa, cũng
bỏ hết công việc; người thành thị, dù đang buôn bán, cũng đóng hết cửa
hàng, để tuông đến nghe thầy giảng, có kẻ đi suốt cả đêm mà đến. Số
thính giã từ một vạn đến ba bốn vạn người. Thầy phải giảng ngoài trời: ở
công viên, giữa chợ hoặc ngoài đồng. Ngoài tài hùng biện tự nhiên, dường
như thầy còn có sự hấp dẫn siêu nhiên nữa. Khi thầy dừng giảng, thì
người ta tưởng như nghe một vị thiên thần nói với mình. Lý lẽ mạnh, cùng
giọng thiết tha của thầy làm cho những lòng chai đá cũng mềm ra. Biết
bao kẻ có tội ăn năn, người rối đạo trở lại, kẻ thù địch làm hòa, người
bất công trả của. Chúa cũng cho thầy làm phép lạ nhãn tiền để khuất phục
kẻ cứng lòng.
Trải qua 15 năm lưu thuyết, khắp các vùng hai nước Pháp và Ý, thầy Antôn
cùng với lời giảng đã làm vô vàn phép lạ đến nỗi người đương thời gọi
thầy là “Ông thánh hay làm phép lạ”. Thiên Chúa đã dùng Antôn làm nhiều
phép lạ để xác nhận những chân lý và mầu nhiệm trong đạo Công Giáo.
Một người giầu có, nhưng sống đời hà tiện, tham lam của cải. Sau khi ông
chết, cha Antôn trưng lời Chúa Kitô đã phán: “của cải ngươi ở đâu, thì
lòng ngươi cũng ở đo?, đồng thời sai người đi mở két vàng của người quá
cố thì thấy một trái tim bằng thịt đang nằm chình ình trong két! Vàng
bạc bạn ở đâu, con tim bạn cũng ở nơi đó!
Một lần cha Antôn giảng về mầu nhiệm Chúa Giêsu ngự thật trong Thánh
Thể. Có người lạc đạo không tin, đến thưa với Ngài:
-Nếu xem thấy phép lạ, tôi mới tin!
Cha Antôn nói với anh:
-Hãy để con lừa của anh nhịn đói 3 ngày, rồi đem nó tới cửa nhà thờ, anh
sẽ thấy phép lạ.
Ðúng ngày hẹn, người kia đem còn lừa đã nhịn đói ba ngày và thúng đồ ăn
đến trước cửa nhà tờ, thấy thúng đồ ăn trước mắt, nó vội vàng chạy tới
ăn lấy ăn để. Nhưng vừa lúc đó, cha Antôn kiệu Mình Thánh Chúa tới cửa
nhà thờ. Lạ lùng thay, con lừa đột nhiên bỏ ăn, đến trước Thánh Thể
Chúa: Nó quì gối, cúi đầu lậy ba lần. Người lạc đạo đã tin, và sau đó
trở lại Công Giáo.
http://memaria.net/eBookThanhAnton_Padua.html
Các Phép Lạ Của Thánh Antôn Padua
Lời giảng nảy lửa của thánh Antôn có phép lạ
Chúa đi kèm, nên làm cho nhiều kẻ bỏ đạo, được ăn năn, người lạc đạo trở
lại đường ngay.
1. Cá về nghe giảng.
Tại thành Điminô, nước Ý, có nhiều kẻ lạc đạo, nhưng không muốn đi nghe
thầy Antôn giảng, sợ kẻo phải trở lại chăng. Một hôm, do ơn Chúa thúc
giục, thầy ra bờ biển gọi các cá đến nghe giảng, cá kéo đến rất nhiều
nhưng lớp lang thứ tự, nhỏ trước lớn sau. Ngóc đầu lên khỏi mặt nước,
chúng đều hướng về thầy Antôn, người liền bảo cá rằng:
“Hỡi loài cá mú! Hãy tạ ơn ngợi khen Thiên Chúa. Vì Ngài đã tạo dựng nên
bay: đã ban biển cả mênh mông cho bay bơi lội, đã khoét hang hóc an toàn
cho bay ẩn mình lúc phong ba bão táp. Đại hồng thuỷ đã tiêu diệt loài
người, loài vật, nhưng Chúa vẫn bảo tồn bay, cho bay được sống, được
sinh sản thêm nhiều và ban lương thực hàng ngày cho bay. Vì thế hỡi loài
cá mú! Bay phải tạ ơn Thiên Chúa chẳng cùng ”.
Khi được tin cá đến nghe thầy Antôn giảng, thì dân thành nô nức kéo ra.
Họ thấy khi thầy Antôn giảng, cá cất đầu, hà hơi, vẫy đuôi tỏ ý vui
sướng, tán thành. Sau khi ban phép lành và cho cá giải tán, thầy Antôn
quay lại bảo kẻ rối đạo rằng:
“Anh xem đó! Cá là loài vô tri mà còn biết nghe lời Thiên Chúa; mà anh
em là loại hữu tri, đã được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Giêsu, mà chẳng
muốn nghe lời Thiên Chúa, chẳng muốn phụng sự kính mến Ngài hay sao?”.
Từ đó về sau, kẻ rối đạo siêng năng đến nghe lời thầy Antôn giảng, và có
nhiều người quy hồi chính đạo.
2. Thuốc độc hại.
Cũng tại thành Điminô, có kẻ rối đạo muốn sát hại thầy Antôn cho bõ
ghét, nó mời thầy đến dùng bữa và nó bỏ thuốc độc vào. Vốn không quen đi
ăn tại nhà ai: nhưng lần này thầy nhận lời và muốn có dịp mà khuyên răn
gia chủ.
Nhưng khi mới ngồi bàn ăn thì Chúa soi sáng cho Người biết mưu sâu chước
độc của nó. Người khiển trách nó rằng: “Anh làm thế không tốt đâu! Hoặc
giả anh nghĩ: tôi chết đi thì không còn có ai giảng đạo nữa chăng?” thấy
mưu sâu mình bị lộ, anh chủ nhà chữa thẹn rằng: “Tôi không dụng tâm giết
thầy nhưng có ý thử xem lời Kinh Thánh nói rằng: “kẻ tin Ta dù có uống
thuốc độc cũng không hại gì” có thật vậy hay là không thôi. Nếu thầy ăn
của độc này mà vô sự thì tôi sẽ tin theo đạo thầy”. Thầy Antôn liền làm
dấu thánh giá trên thực phẩm rồi ăn ngay, mà bằng an vô sự. Kẻ rối đạo
thấy vậy thì trở lại thật.
3. Ngựa đói chê cỏ.
Tại thành Tulu, nước Pháp, thầy Antôn tranh luận với nhóm rối đạo về mầu
nhiệm Chúa Giêsu ngự thật trong Thánh Thể. Sau khi nghe thầy trình bày
những luận cứ vững vàng, thì một người rối đạo nói:
– “Đã hay lời Chúa Giêsu thì rõ ràng lắm, song nếu con mắt tôi không tỏ
tường, thì tôi không tin”.
Thầy Antôn liền hỏi:
– Vậy anh muốn tôi làm phép lạ nào?
– Tôi có một con ngựa. Ngày thứ bốn tôi sẽ
dắt ra đây cùng một bó bỏ non. Còn thầy, thầy sẽ đưa Thánh Thể ra trước
mặt nó. Nếu nó bỏ cỏ không ăn mà quỳ lạy Thánh Thể, thì tôi sẽ tin có
Chúa Giêsu ngự thật trong đó.
Thầy Antôn nhận cuộc, rồi quay về tu viện ăn chay, cầu nguyện ba ngày ba
đêm.
Đến ngày hẹn, từ sáng sớm, dân chúng đã tuôn đến đầy chợ. Ông chủ dắt
ngựa đi trước, đầy tớ đội cỏ theo sau. Đồng thời, thầy Antôn cũng kiệu
Mình Thánh Chúa đến và nói lớn: “Hỡi con vật vô tri, nhân danh Chúa
Giêsu đã dựng nên mi, và đang ngự trước mặt mi, ta truyền cho mi phải
quỳ gối thờ lạy Chúa, để thiên hạ biết rằng vạn vật trên trời, dưới đất
phải thờ lạy Ngài”.
Đang khi thầy nói, thì đầy tớ vâng lời chủ vội đem sọt cỏ đặt ngay trước
mõm ngựa, nhưng nó chẳng thèm để ý tới: chỉ vội vàng quỳ hai chân trước
xuống thờ lạy Chúa; dù tên đầy tớ ra sức ấn cỏ vào mồm, nhưng ngựa vẫn
không thèm ăn, cứ quỳ yên cho đến khi thầy Antôn kiệu Mình Thánh Chúa về
mới đứng lên ăn. Phần người rối đạo nói trên cùng cả dòng họ thì đã trở
lại đạo thật và sống đạo nên gương. Ông lại còn bỏ tiền của xây một đền
thờ tôn kính thánh Phêrô tại thành Tulu, đến nay hãy còn.
Có những sự kiện tỏ ra thầy Antôn được Thiên Chúa thương yêu chừng nào
thì ma quỷ ghen ghét chừng ấy.
4. Chúa Hài đồng hiện ra.
Trong khi lưu thuyết trên nước Pháp; một hôm thầy trọ đêm trong phòng
vắng vẻ của một nhà kia. Bỗng nửa đêm phòng thầy sáng rực. Chủ nhà mon
men tới xem thì thầy Người đang ngất trí cầu nguyện và Chúa Hài đồng
hiện đến ngự trị trên cánh tay Người vẻ đơn sơ, âu yếm để cho Người ẵm
bồng và hôn kính.
Rồi chủ nhà nhẹ nhàng rút lui, tưởng thánh nhân không biết. Chẳng dè,
sáng hôm sau, trước khi ra đi, Người dặn chủ nhà không được tiết lộ việc
ấy ra. Vâng theo lời dặn, ông ấy giữ kỹ điều bí mật. Đến khi thánh nhân
qua đời rồi, ông mới tỏ ra vinh danh của ông thánh, vì Người đã được
Chúa Giêsu yêu mến như vậy. Do tích này mà tượng thánh Antôn thường có
bồng Chúa Hài đồng trên tay.
5. Quỷ quấy phá thánh nhân.
Thầy Antôn làm sáng danh Thiên Chúa và cứu vớt nhiều linh hồn, nên quỷ
giận ghét Người lắm. Chẳng những nó cố sức ngăn cản công việc của Người
mà có toan giết, hãm hại Người nữa.
Một hôm, người vừa ngả mình được một lát, quỷ liền xông vào bóp cổ
Người, chặt đến nỗi, nếu như không được Đức Mẹ cứu kịp thời, thì Người
đã tắt thở. Nhưng Người mau mắn làm dấu Thánh Giá trên mình và đọc thầm
trong trí Kinh Đức Mẹ mà Người vốn thuộc từ bé, thì quỷ buông Người ra
và biến đi.
Một đêm khác, thầy Antôn đang cầu nguyện nơi hang đá kia, bỗng chốc quỷ
lấy hình hung ác hiện ra, giơ tay lên toan đánh chết Người, Người liền
đọc Kinh Đức Mẹ, thì Đức Mẹ hiện ra sáng chói trên đám mây, giữa muôn
vàn thiên thần, quỷ tức thì sợ hãi trốn mất dạng. Về sau, người ta xây
một bàn thờ trong hang ấy để tạ ơn Đức Mẹ, bàn thờ ấy ngày nay vẫn còn
và người ta năng đến kính viếng.
6. Ơn nói tiên tri.
Tại thành Anisi, nước Pháp, có một người đàn ông giàu sang, nhưng bê bối
về đạo vợ chồng. Một hôm, thầy Antôn gặp ông và nói: “Tôi quý ông, vì
tôi biết sau này ông sẽ sửa mình, đi truyền giáo và được phúc tử đạo
nữa”.
Người ấy nghe nói vậy thì cúi đầu cười rồi bỏ đi. Chẳng bao lâu, ông ấy
được ơn hối cải: lại nhiệt thành theo Đức Giám Mục Giáo Phận sang giảng
đạo cho người Hồi giáo tại Đất Thánh được nhiều thành quả và sau cùng
được phúc tử đạo cùng với Đấng Giám Mục ấy .
Cũng tại thành Anisi, có một bà đến xin làm phép thai, thầy Antôn bảo:
“bà hãy vui mừng, con bà sẽ gọi là Philliphê, sẽ tu Dòng Phan Sinh và
nên cao trọng trước mặt Chúa vì phúc tử đạo”.
Mọi việc xảy ra đúng như thầy báo trước. Người con ấy đã làm linh mục
Phan Sinh, sang Đất Thánh lo việc đạo, chẳng may bị người Hồi bắt sống
cùng nhóm bạn đông lắm. Bấy giờ quân Hồi cho các giáo hữu chọn một trong
hai điều này: một là bỏ đạo mình mà theo đạo Hồi, hai là bị xử chém tất
cả. Thầy Philliphê sốt sắng khuyên anh em thà chết hơn là bỏ đạo Đức
Giêsu.
Và mọi người cùng với thầy giữ vững đức tin xưng đạo ra, để lãnh lấy
nhành thiên tuế tử đạo.
Thầy Antôn hằng hiếu thảo với cha mẹ và đền
đáp kẻ làm ơn cho mình.
7. Cứu cha khỏi oan khổ.
Ta không có tài liệu để biết cách Người hiếu thảo thế nào với cha mẹ, mà
Người hằng thương nhớ vô cùng; nhưng nói về cha thì có tích sau đây:
Cha Người là ông Matinô, là quản khố Nhà Nước tại kinh thành Lisbon .
Ông là người công minh, chính trực, không hề tơ hào đến của cải nhà Vua,
nhưng có tính dễ dãi thương người. Ông cho mấy bạn đồng liêu vay tạm của
kho, mà không bắt làm khế tự. Đáng lẽ những người ấy biết ơn ông mới
phải. Nhưng than ôi, đời này biết ơn thì hiếm lắm! Họ đã không trả nợ,
lại cùng nhau tố cáo là phân tán của kho.
Nhà Vua cho mở cuộc điều tra. Ông Matinô khai đúng sự thật, nhưng ban
điều tra không tin, vì khẩu thuyết vô bằng. Nên chẳng những phải bồi
hoàn, mà còn bị tù tội nữa.
Được tin ấy, thầy Antôn cầu xin Chúa thương cứu giúp cha mình cách nào.
Bỗng Thiên Thần đem Người từ nước Ý về nước Bồ Đào Nha trong nháy mắt.
Người vào toà án nơi đang xử cha Người. Người liền nói cho các quan biết
tên những kẻ đã vay của kho, mỗi người là bao nhiêu, rồi cho đòi chúng
đến. Trước uy quyền của thánh nhân, chúng đã thú nhận mọi sự và cha
Người được minh oan.
Nhưng chưa hết, ông Matinô còn gặp một vụ khó khăn lớn hơn thế nữa. Số
là dân thành đánh nhau làm cho một người mất mạng. Để thoát tay thần
công lý, chúng lén chôn xác nạn nhân vào vườn nhà ông Matinô và vu oan
cho ông tội giết người. Tòa luận cho Matinô và một tên đầy tớ của ông
phải án tù. Bấy giờ, thầy Antôn đang ở nước Ý, được Thiên Thần mang ngay
về thành Lisbon, Bồ Đào Nha, chính lúc cha Người bị điệu ra pháp trường.
Người liền bảo đưa quan tài người chết đến, thầy sấp mình cầu nguyện rồi
lấy giọng oai nghiêm bảo kẻ chết rằng: “Nhân danh Chúa Giêsu, ta truyền
cho ngươi sống lại và nói cho mọi người ở đây ai là người giết ngươi”.
Người chết liền sống lại và nói rõ ràng: “Không phải ông Matinô giết
nhưng chính kẻ vu khống đã giết tôi”. Các quan tòa liền thả ông Matinô
và người gia bộc đồng thời lên án tù cho kẻ vu cáo.
8. Ly vỡ lại lành.
Thầy Antôn hay đền đáp cho kẻ làm ơn cho mình. Trên đường từ Pháp về Ý,
Người cùng một bạn đồng hành vào trọ đêm trong nhà của một bà đạo đức và
nghèo khó. Bà chỉ mượn hàng xóm một cái ly cho hai người, thế mà tu sĩ
đồng hành lại đánh rơi vỡ nát. Đã vậy, thùng rượu vang dưới nhà lại quên
khóa vòi lại, chảy tràn lan. Hai tai vạ một trật, bà chịu không nổi liền
đem tâm sự với thầy Antôn.
Người vừa cúi đầu cầu nguyện thì bà thấy các mảnh vỡ đã ráp lại và cái
ly trở lại nguyên lành như trước.
Bà liền nghĩ: “Đấng làm ly vỡ lại lành, ắt cũng có phép làm cho vò rượu
vơi lại đầy như cũ”. Cho nên, bà chạy xuống nhà xem sao, thì quả nhiên
thấy vò rượu đã đầy. Bà liền chạy lên quỳ gối tạ ơn ông thánh.
Thanh Huyền
Https://Conggiaovn.Com/Cac-Phep-La-Cua-Thanh-Anton-Padua/
Mặt trước của mộ Thánh Antôn Padua trong Đền Thờ Thánh Antôn ở Padua Bắc Ý
3 khung chính lưu giữ các thánh tích quí báu nhất của vị linh mục tu sĩ
Antôn Padua Dòng anh em hèn mọn Thánh Phanxicô Assisi,
trong đó, ở khung giữa, còn có hàm của ngài, lưỡi của ngài và thanh quản của
ngài.
Anh chị em trong phái đoàn hành hương TĐCTT ngày 9/11/2021 đang chiêm ngắm
và chụp hình các thánh tích của Thánh Antôn Padua.
(bé tĩnh chụp 2 trong nhiều tấm hình lưu niệm ở đây dịp Hành Hương Đức
Tin - Chứng Tích Phục Sinh Ý quốc và Roma 12 ngày 8-19/11/2021)
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1
V 19, 9a. 11-16
"Hãy ra đứng trên núi trước tôn
nhan Chúa".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, khi Êlia đã lên
núi Horeb của Thiên Chúa, ông trú ẩn trong một cái hang. Có lời Chúa phán
cùng ông rằng: "Hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa". Bỗng Chúa đi qua;
có một cơn gió mạnh xé núi non và nghiền nát đá trước mặt Chúa. Nhưng Chúa
không ở trong gió bão. Sau trận gió bão thì đất động; Chúa cũng không ở
trong cơn động đất. Sau cơn động đất thì có lửa; nhưng Chúa cũng không ở
trong lửa. Sau lửa thì có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe thấy, Êlia liền lấy áo
choàng che mặt lại, đi ra đứng ở cửa hang. Bỗng có tiếng nói với ông: "Hỡi
Êlia, ngươi làm gì ở đây?" Ông thưa: "Lòng nhiệt thành với Chúa các đạo binh
nung nấu con, vì con cái Israel đã phản bội với giao ước của Chúa, phá huỷ
các bàn thờ, dùng gươm giết các tiên tri của Chúa, chỉ còn con sống sót và
họ đang tìm hại mạng sống con". Nhưng Chúa phán cùng ông: "Hãy lên đường trở
về qua lối sa mạc miền Ðamas. Tới nơi, ngươi hãy xức dầu phong Hazael làm
vua Syria, xức dầu phong Giêhu con ông Namsi làm vua Israel, và xức dầu cho
Êlisê, con Saphat người xứ Abel-Mêhula, làm tiên tri thế ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26,
7-8a. 8b-9abc. 13-14
Ðáp: Lạy
Chúa, con tìm kiếm dung nhan Chúa (c. 8b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe tiếng con
kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: "Hãy
tìm ra mắt Ta". - Ðáp.
2) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa,
xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Người trong thịnh nộ.
Chúa là Ðấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con. - Ðáp.
3) Con tin rằng con sẽ được nhìn xem
những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can
trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa! - Ðáp.
Alleluia: Ga 1, 14
và 22b
Alleluia, alleluia! - Ngôi lời đã làm
người và ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ
quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5,
27-32
"Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm
tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Chớ ngoại tình". Phần Thầy,
Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với
người ấy trong lòng rồi. Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc
quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị
ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà
quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào
hoả ngục.
"Có lời dạy rằng: "Ai bỏ vợ mình, hãy
trao cho vợ một giấy ly dị". Phần Thầy, Thầy bảo các con: bất cứ ai bỏ vợ
mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới
người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
"ngươi làm gì ở đây?"
Suy Niệm
Nếu Bài Phúc Âm hôm qua, Bài Giảng về Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Giêsu cho
các môn đệ của Người liên quan đến điều răn thứ 5 là "chớ giết người", thì
bài Phúc Âm hôm nay, lời của Người dạy liên quan đến điều răn thứ 9 là "chớ
muốn vợ chồng người", tức là "Chớ ngoại tình".
Tuy nhiên, hành động "ngoại tình" hay tội "ngoại tình" ở đây, như Chúa Kitô
dạy, không phải chỉ ở chỗ trực tiếp liên hệ xác thịt với người khác phái, mà
còn ở chỗ, cách riêng với nam nhân, ước muốn hoan hưởng thân xác của người
phụ nữ nữa. Chính cái thèm khát dâm dục với bất cứ người phụ nữ nào nơi nam
nhân thì họ đã ngoại tình với người nữ ấy rồi, cho dù người nữ ấy không có
chồng: "Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ
(ở đây Chúa nói trống và nói chung về "người nữ", chứ không phải là
người nữ có chồng) mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy
trong lòng rồi".
Còn trường hợp họ có chồng mà bị chồng bỏ, không phải vì lý do gian dâm là
hành vi hoàn toàn phản nghịch lại với bản chất của hôn nhân vợ chồng nên một
xác thịt với nhau (chứ không phải với bất cứ một ai khác ngoài chồng của
mình hay vợ của mình), thì người chồng bỏ vợ ấy đã tạo cơ hội chẳng những
cho vợ mình ngoại tình mà còn cho cả người nào ăn nằm với nàng nữa:
"bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian
dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội
ngoại tình nữa".
Ở đây Chúa Kitô chỉ nói đến trách nhiệm của người chồng bỏ vợ nếu nàng ăn ở
với người khác, hay nếu người nam khác ăn nằm với nàng, nhưng không phải vì
thế mà Người không bao gồm tội ngoại tình của người chồng, ở chỗ, một khi
không có vợ, người chồng bỏ vợ ấy có thể sẽ đi đến chỗ thèm thuồng dâm dục
với bất cứ người đàn bà nào không phải là vợ của mình, thậm chí vì đã thèm
thuồng người nữ khác ngon hơn vợ của mình nên họ đã bỏ vợ mình, hay họ trực
tiếp liên hệ dâm dục với những người đàn bà mà họ cảm thấy bị thu hút bất
khả chống cưỡng, khi không còn vợ nữa, đến độ họ có thể cưỡng hiếp người ta
khi bị chống cự cho thỏa mãn thú tính lăng loàn của họ.
Cảm Nghiệm
Một trong những lý do chính yếu khiến con người sa ngã phạm tội đó là vì họ
quên mất sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa trong tâm hồn của họ và trong
cuộc đời của họ. Ngài là Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, cho dù những gì sâu
thẳm nhất trong thâm tâm của họ, như ước muốn hoan hưởng xác thịt của người
nữ nào mà họ đang thèm khát. Và cũng chính vì Thiên Chúa biết cả những gì
kín mật nhất và xấu xa của họ như thế mà tác động ước muốn ấy mới xấu xa và
có tội phạm đến Ngài.
Đó là lý do trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thiên Chúa đã kêu gọi tiên tri Elia,
cũng chính là kêu gọi những ai tin vào Ngài, rằng:
"Hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa".
Nghĩa là hãy luôn sống cao thượng hay hướng thượng ("trên núi")
trước tôn nhan Chúa, như Đấng thấu suốt mọi sự, không gì có thể che giấu
được Ngài. Ngài là vị Thiên Chúa
kín nhiệm và sâu thẳm chứ không ồn ào và náo động bề ngoài, đúng như Bài Đọc
1 ám chỉ cho thấy:
"Bỗng Chúa đi qua; có một cơn gió mạnh xé núi non và nghiền nát đá trước
mặt Chúa. Nhưng Chúa không ở trong gió bão. Sau trận gió bão thì đất động;
Chúa cũng không ở trong cơn động đất. Sau cơn động đất thì có lửa; nhưng
Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa thì có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe
thấy, Êlia liền lấy áo choàng che mặt lại, đi ra đứng ở cửa hang. Bỗng có
tiếng nói với ông: 'Hỡi Êlia, ngươi làm gì ở đây?'"
Phải, bất cứ lúc nào trong cuộc đời của mình, nhất là khi sa ngã phạm tội,
con người sẽ được Đấng thấu suốt mọi sự khách quan đặt vấn đề với họ để họ
tự vấn: "Hỡi Êlia, ngươi làm gì ở đây?", hay như xưa kia Ngài đã
hỏi con người sau khi nguyên tổ ăn trái cấm: "Ngươi đang ở đâu?"
(Khởi Nguyên 3:9). Câu hỏi kiểu chất vấn này không phải là chứng cớ cho thấy
Thiên Chúa không biết gì, mà là dấu chứng cho thấy Thiên Chúa tôn trọng tự
do của con người và luôn nhẹ nhàng nhắc nhở cho họ ý thức về trách nhiệm của
họ đối với Ngài là Đấng luôn ở với họ và thấu biết họ hơn chính họ biết họ.
Đúng thế, sau khi Tiên Tri Elia trình bày với Thiên Chúa những gì ông (có
thể) tưởng Ngài không biết, hay dù Ngài có biết ông cũng cứ lập lại theo lời
chất vấn của Ngài, thì ông đã nhận được lệnh của Ngài phải làm gì để giải
quyết vấn đề liên quan đến "Lòng nhiệt thành với Chúa các đạo binh nung
nấu con", thế mà lại bị chính "con cái Israel đã phản bội với giao
ước của Chúa, phá huỷ các bàn thờ, dùng gươm giết các tiên tri của Chúa, chỉ
còn con sống sót và họ đang tìm hại mạng sống con".
Tuy nhiên, nếu con người luôn ý thức được sự hiện diện thần linh của Thiên
Chúa là Đấng Tối Cao, Quan Phòng mọi sự theo Thánh Ý vô cùng khôn ngoan,
thiện hảo và toàn năng của Ngài, không bao giờ bỏ rơi những ai tin tưởng cậy
trông vào Ngài, trong khi họ bị cám dỗ sa ngã phạm tội mất lòng Ngài (như
tội ngoại tình trong tư tưởng ở Bài Phúc Âm), hay khi họ bị thử thách bách
hại vì Ngài, thì họ sẽ có cùng một ý thức và tâm tình của Thánh Vịnh gia
trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con.
Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: "Hãy tìm ra mắt Ta".
2) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin
đừng xua đuổi tôi tớ Người trong thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ con, xin
đừng hất hủi con.
3) Con tin rằng con sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi
nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và
chờ đợi Chúa!
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1
V 19, 19-21
"Êlisê chỗi dậy đi theo Êlia".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Êlia xuống núi
tìm đến cùng Êlisê, con ông Saphat, đang cày với mười hai đôi bò; chính
Êlisê là người dẫn đôi bò thứ mười hai. Êlia tiến đến gần ông và ném áo
choàng mình trên ông. Êlisê bỏ đôi bò đó, chạy lại Êlia và thưa rằng: "Xin
cho tôi về hôn cha mẹ tôi đã, rồi tôi sẽ theo Ngài". Êlia nói với ông: "Cứ
về rồi trở lại, vì ta đã làm gì ngươi đâu?" Êlisê rời Êlia, bắt đôi bò làm
thịt, lấy cày làm củi, nấu thịt bò và đem cho dân chúng ăn. Ðoạn Êlisê chỗi
dậy đi theo làm đồ đệ Êlia.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a
và 5. 7-8. 9-10
Ðáp: Lạy
Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con (c. 5a).
Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa,
vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con; Chúa là
phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con. -
Ðáp.
2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho
con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con
luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không
nao núng. - Ðáp.
3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh
hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa
chẳng bỏ rơi linh hồn con trong âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài
thấy điều hư nát. - Ðáp.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức
Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các
tầng trời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5,
33-37
"Thầy bảo các con: đừng thề chi
cả".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Các con lại còn nghe dạy người xưa rằng: "Ðừng bội thề, nhưng hãy
giữ lời ngươi đã thề với Chúa". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ðừng thề chi
cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì
là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua
cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra
trắng hoặc ra đen được. Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói
không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
"ném chiếc áo choàng"
Suy Niệm
Nếu Bài Phúc Âm Thứ Năm tuần này liên quan đến điều
răn thứ 5 "chớ giết người" và bài Phúc Âm thứ 9 "chớ ngoại tình" thì bài
Phúc Âm hôm nay, có thể nói, liên quan đến điều răn thứ 8 "chớ làm chứng
dối":
"Ðừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là
ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng
lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề,
vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được. Nhưng lời
các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ
mà ra".
Thật ra, nội dung của lời Chúa Giêsu dạy các môn đệ
trong bài Phúc Âm hôm nay, bề ngoài có vẻ liên quan đến giới răn thứ 8 "chớ
làm chứng dối", nhưng về tinh thần liên quan đến tính chất chân thật nơi con
người, được thể hiện qua lòng trung thành của con người với sự thật bất biến
bằng bất cứ giá nào, không thay đổi hay bóp méo hoặc giảm khinh hay thỏa hiệp
sự thật ấy bằng bất cứ cách nào, ở bất cứ khía cạnh nào, vào bất cứ lúc nào,
ở bất cứ nơi đâu: "lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không;
nói thêm thắt là do sự dữ mà ra".
"Ðừng thề chi cả" đó là lời khuyên dậy vô
cùng khôn ngoan của Đấng "là sự thật" (Gioan 14:6), "là ánh
sáng thế gian" (Gioan 8:12), Đấng không bao giờ thề chi hết, cho dù gặp
những trường hợp mà theo quan điểm nhân loại cần phải thề để thêm uy tín và
lấy lòng tin của đối tượng là dân Người nói chung và các môn đệ của Người
nói riêng, nhất là trường hợp các môn đệ bỏ đi sau khi nghe Bài Giảng về
Bánh Sự Sống của Người (xem Gioan 6:60,66).
Bởi lời của Người chính "là thần linh và là sự
sống" (Gioan 6:63) sẽ làm cho những ai tin vào Người nhận biết Người,
nhờ đó chính họ sẽ được lời Người là chân lý giải phóng cho họ: "Nếu quí
vị sống theo giáo huấn của Tôi thì quí vị thực là môn đệ của Tôi, rồi quí vị
sẽ nhận biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng quí vị" (Gioan 8:31-32).
Cảm Nghiệm
Như thế, muốn cho những gì mình nói và làm có một uy
tín đáng tin, không cần phải thề thốt gì hết, không cần phải nhân danh một
cái gì đó cao hơn mình để chứng giám, để tăng thêm uy tín cùng thế lực thu
hút cùng chinh phục lòng người, con người cần phải sống thực với mình, phải
sống với tất cả sự thật và sống trong sự thật, đến độ sự thật được hiện tỏ
nơi con người họ, nơi tư tưởng, lời nói, việc làm và thái độ của họ, khiến
người khác cảm mến và tin theo, nhờ đó những ai tin vào họ cũng được sự thật
giải phóng.
Hành vi cử chỉ có một tác dụng thần linh của con
người sống chân thật như thế, có thể nói, được biểu hiệu nơi cử chỉ Tiên Tri
Elia "ném áo choàng mình trên ông (Êlisê)" là người, trong Bài Đọc
1 hôm qua, được Thiên Chúa chọn thay thế Tiên Tri Elia. Thế rồi, tác dụng từ
tấm "áo choàng" của Tiên Tri Elia đã khiến cho Elisê hưởng ứng và
đáp ứng liền một cách hết sức tích cực, như Bài Đọc 1 đã cho thấy:
"'Xin cho tôi về hôn cha mẹ tôi đã, rồi tôi sẽ
theo Ngài'. Êlia nói với ông: 'Cứ về rồi trở lại, vì ta đã làm gì ngươi
đâu?' Êlisê rời Êlia, bắt đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi, nấu thịt bò và
đem cho dân chúng ăn. Ðoạn Êlisê chỗi dậy đi theo làm đồ đệ Êlia".
Kitô hữu môn đệ của Chúa Kitô, khi lãnh nhận Phép
Rửa, đã được mặc lấy Chúa Kitô là con người mới của họ, nên họ chỉ cần hiệp
nhất nên một với Chúa Kitô là họ có thể làm cho Chúa Kitô tỏ mình ra qua họ,
nơi lời nói, việc làm và phản ứng đầy Kitô tính của họ, không bao giờ có
tính cách phản kitô của họ, nhờ đó, họ trở nên chứng nhân trung thực và sống
động của Chúa Kitô, và nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mà tất cả những gì
xuất phát từ họ đều có một mãnh lực thần linh lôi cuốn và thu hút con người
về với Chúa Kitô.
Thế nhưng, để đạt được mục đích và tác dụng thần
linh tối đa như thế, Kitô hữu cần phải liên lỉ gắn bó với Chúa Kitô, với
Thiên Chúa, như tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay sau đây:
1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng
Chúa: Ngài là Chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con,
chính Ngài nắm giữ vận mạng của con.
2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng
con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con,
vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.
3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con
hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng
bỏ rơi linh hồn con trong âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy
điều hư nát.